Kinh tế vận tải biển - Chuyên đề Tổng quan về ngành vận tải biển

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM BÁO CÁO THỰC TẬP CƠ SỞ NGÀNH KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN CHUYÊN ĐỀ: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH VẬN TẢI BIỂN NGHUYỄN THỊ THÚY LINH – 68480 – KTB57ĐH – N01 HẢI PHÒNG - 2018 ™ Lời mở đầu ˜ Vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, vận tải phát triển sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay vận tải đóng vai trò rất quan trọng, nhất là vận tải biển. Vận tải liên kết các nền kinh tế, rú

docx69 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế vận tải biển - Chuyên đề Tổng quan về ngành vận tải biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t ngắn khoảng cách về không gian địa lý, nhằm giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, thúc đẩy thương mại phát triển , làm lợi cho cả người sản xuất và tiêu dùng. Với 3.200 km bờ biển, 90 cảng biển được phân bố đều trên cả ba miền, Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi cho việc phát triển vận tải biển. Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của thương mại quốc tế, ngành vận tải biển Việt Nam đang có những cơ hội to lớn, đặc biệt từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vận tải biển là một trong những loại hình vận tải được nhiều người quan tâm hiện nay, nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế đều đặn khoảng 8%/năm là tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu khoảng từ 20% đến 25%/năm. Giao thương hàng hóa tăng trưởng nhanh chóng, và trong đó chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển (khoảng 80% tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển) là những tiền đề quan trọng trong phát triển ngành vận tải biển của Việt Nam. Kinh tế vận tải biển là một trong những thế mạnh của Việt Nam, và được coi là đòn bẩy quan trọng trong quá trình hội nhập. Cho đến nay, kinh tế vận tải biển đã mang lại nhữngthành tựu đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương. Có thể nói, kinh tế vận tải biển làmột trong những phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, góp phần tíchlũy vốn cho nền kinh tế đồng thời giải quyết được các vấn đề mang tính xã hội như tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Ngành Kinh tế vận tải biển trang bị cho sinh viên khả năng vận dụng các kiến thức, kỹ năng và lý thuyết để quản lý nhà nước về vận tải biển, quản lý các doanh nghiệp vận tải biển và các doanh nghiệp cảng, có khả năng định hướng phát triển doanh nghiệp trong từng thời điểm – giai đoạn thích hợp. Trong thời gian thực tập cơ sở ngành Kinh tế vận tải biển với sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô, em có cơ hội được tìm hiểu rõ hơn về tổng quan vận tải biển và cảng Transvina. Trong bài báo cáo thực tập này, em xin làm báo cáo với chuyên đề: “Tổng quan về ngành vận tải biển”. Nội dung chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Tổng quan về vận tải biển Phần II: Tổng quan về chức năng, nhiệm vụ của công ty vận tải biển, cảng biển Phần III: Giới thiệu về cảng TRANSVINA Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô cùng ban lãnh đạo cảng Transvina đã giúp em hoàn thành báo cáo thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn! Mục lục Phần I: Tổng quan về vận tải biển 1.1. Khái niệm về ngành vận tải biển Vận tải biển là một trong những ngành công nghiệp dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại hàng hóa trên phạm vi toàn cầu. Phát triển vận tải biển cho mỗi quốc gia, trong từng khu vực và trên toàn thế giới là một trong những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế thế giới. Vận tải biển là một phương thức ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỉ thứ V trước công nguyên con người đã biết lợi dụng các biển, các đại dương làm tuyến giao thông hàng hải để giao lưu giữa các vùng miền, các quốc gia với nhau trên thế giới. Cho đến nay Vận tải biển được phát triển mạnh và đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống vận tải quốc tế. Vận tải biển là một trong những ngành kinh tế mang tầm toàn cầu rõ rệt nhất từ trước kia đến ngày nay hơn hẳn các ngành vận tải khác. Thương mại đường biển là một phần quan trọng của kinh tế thế giới. Tầm quan trọng về mặt chiến lược của vận tải biển ngày càng rõ nét, khi kinh doanh có xu hướng trở nên toàn cầu hóa hơn và các nước ngày càng phát triển hơn. Một số quốc gia không có biển như Thụy Sĩ, Lào,cũng đã mạnh dạn đầu tư vào vận tải biển vừa để kinh doanh vận tải vừa để đảm bảo an ninh về vận tải cho chính các quốc gia đó. Sự phát triển của vận tải biển có mối quan hệ hữu cơ với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và nền kinh tế thế giới. 1.2. Vai trò của vận tải biển trong thương mại quốc tế Vận tải biển là yếu tố không tách rời thương mại quốc tế Trong thương mại quốc tế và vận tải nói chung, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vận tải phát triển được trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ngược lại vận tải phát triển sẽ làm giảm giá thành chuyên chở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, tự do hóa thương mại, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tiễn trong thương mại cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa có vai trò quan trọng liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vận tải vì hợp đồng mua bán hàng hóa là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa người bán với người mua còn hợp đồng vận tải biển điều chỉnh mối quan hệ giữa người thuê chở hoặc người chuyên chở là người bán với người mua phụ thuộc vào hợp đồng mua bán. Trong buôn bán quốc tế, vận tải đường biển giữ vai trò quan trọng khi chuyên chở những lô hàng có khối lượng mua bán lớn, tuyến đường chuyên chở dài. Bất cứ sự biến động nào của thị trường vận tải biển cũng ảnh hưởng đến buôn bán quốc tế. Vận tải đường biển đã mở ra thị trường buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới một cách dễ dàng, thuận tiện. Điều kiện mua bán hàng hóa vận tải bằng đường biển rất đa dạng, luật lệ tập quán hàng hải rất phức tạp. Do đó mối quan hệ giữa buôn bán quốc tế với vận tải biển quốc tế cũng phức tạp hơn so với các phương thức vận tải khác như: Hàng không, đường sắt, đường bộ, đường thủy Vận tải đường biển thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển Khối lượng hàng hóa lưu thông trao đổi giữa các nước phụ thuộc vào nhiều điều kiện như: Tiềm năng kinh tế của các nước, sự chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế, tình hình chính trị, điều kiện và khả năng vận tải giữa các nước đó. Chi phí là điều cần được quan tâm hàng đầu khi vận chuyển song song với thời gian. Hình thức vận tải đường biển có ưu điểm là giúp tiết kiệm chi phí vận chuyển nên được đông đảo doanh nghiệp và công ty sử dụng. Chi phí vận tải càng rẻ, chuyên chở hàng hóa càng thuân lợi thì dung lượng tiêu thụ trên thị trường thế giới càng lớn. Trong buôn bán quốc tế, chi phí vận tải chiếm một khối lượng khá lớn trong giá cả hàng hóa. Theo số liệu thống kê của UNCTAD, chi phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15% giá FOB hoặc 8-9% giá CIF của hàng hóa được buôn bán quốc tế. Do tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động trong ngành vận tải mà giá cước trung bình trong vận tải quốc tế có xu hướng giảm xuống. Vận tải đường biển có đặc điểm cước phí rẻ vì vậy vận tải đường biển góp phần làm tăng khối lượng luân chuyển hàng hóa trong buôn bán quốc tế, nói khác đi nó thúc đẩy buôn bán phát triển. Vận tải biển phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hóa và cơ cấu thị trường. Trước đây khi vận tải đường biển chưa phát triển, công cụ vận tải thô sơ, sức chở của vận tải nhỏ, chi phí vận tải lại coa nên đã hạn chế việc mở rộng mua bán nhiều mặt hàng. Đặc biệt là mặt hàng nguyên, nhiên liệu. Việc buôn bán giữa các nước thời kỳ đó tập trung vào các mặt hàng thành phẩm. Sự ra đời của công cụ bận tải chuyên dùng có trọng tải lớn, đặc biệt là sự phát triển của vận tải đường biển, mạng lưới các tuyến đường phát triển đã cho phép hạ giá thành vận tải, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng chủng loại mặt hàng trong buôn bán quốc tế. Trong bản thân nhóm hàng lỏng cũng có sự thay đổi về cơ cấu: tăng tỷ trọng dầu thô, giảm tỷ trọng mặt hàng sản phẩm dầu mỏ và xuất hiện nhiều mặt hàng lỏng trong buôn bán quốc tế như: hơi đốt ở thể lỏng, rượu, bia, nước ngọt,.. buôn bán các nhóm mặt hàng khô cũng đa dạng và phong phú hơn gồm hàng thành phẩm có bao bì, hàng khô có khối lượng lớn như: quặng sắt, than đá, ngũ cốc, các loại khoáng sản khác,vận tải đường biển phát triển đã làm thay đổi cơ cấu hàng hóa trên thị trường thế giới. Trước đây khi vận tải đường biển còn chưa phát triển, hàng hóa chỉ có thể bán cho các nước phát triển ở thị trường gần ví dụ như : Việt Nam bán hàng cho các nước lân cận như Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Ngày nay vận tải đường biển đã phát triển, hàng hóa có thể được buôn bán ở bất kì thị trường nào trên thế giới. Vì vậy, vận tải biển góp phần thay đổi thị trường hàng hóa. Những nước xuất khẩu có khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình ở những thị trường xa xôi. Ngược lại nước nhập khẩu có điều kiện lựa chọn thị trường cung cấp hàng hóa rộng rãi hơn. Sự mở rộng thị trường và thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế được thể hiện ở cự ly chuyên chở trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên. Năm 1980 cự ly chuyên chở trung bình trong vận tải biển quốc tế là 3.610 hải lý, năm 1985 là 3.967 và năm 1990 là 4.285 hải lý. Vận tải biển góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Vận tải biển có thể góp phần cải thiện tích cực đến cán cân thanh toán quốc tế của mỗi quốc gia nhờ vào chức năng kinh doanh của vận tải biển. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm vận tải đường biển. Xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi ngoại tệ về vận tải đường biển và các dịch vụ khác liên quan đến vận tải đường biển là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Phát triển đội tàu buôn quốc gia có tác dụng tăng thêm nguồn thu ngoại tệ bằng cách hạn chế nhập khẩu sản phẩm vận tải từ các nước khác, do đó vận tải đường biển đã ảnh hưởng tích cực đến cán cân thanh toán quốc tế. 1.3. Ý nghĩa của vận tải biển Vận tải biển là một ngành rất quan trọng trong hệ thống vận tải của một quốc gia, mục tiêu chủ yếu của ngành vận tải biển là đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa bằng đường biển giữa các khu vực trong nước và quốc tế đồng thời tham gia vào thị trường thuê tàu trên thế giới. Doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất trong khối doanh nghiệp vận tải biển là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải hay chính là doanh nghiệp cho thuê tàu. Có hai loại tổ chức vận tải biển: Vận tải định tuyến và vận tải tàu chuyến. Vận tải định tuyến là hình thức cung cấp dịch vụ vận chuyển thường xuyên trên các tuyến cố định, giữa các cảng cố định theo một lịch trình chạy tàu đã được lập và công bố trước. Hình thức vận tải tàu chợ xuất hiện trên thế giới vào đầu thế kỉ 17. Vận tải tàu chợ là hình thức phát triển cao và tổ chức hoàn thiện hơn. Tổ chức tàu chợ đầu tiên được thành lập vào tháng 8 năm 1875 hoạt động trên tuyến giữa Vương quốc Anh và Calcutta của Ấn Độ. Tổ chức này đồng ý phải chạy theo một lịch trình cố định cho dù tàu có đầy hàng hay không. Người khai thác tàu sẽ chở tàu theo các vòng lặp giữa các chuyến đi trên cùng một tuyến cố định. Một con tàu sẽ chuyên chở nhiều loại hàng cho nhiều chủ hàng trong cùng một chuyến đi. Đây là phương thức vận tải mà các hàng hoá liên quan được chuyên chở phải mang đến tàu. Dịch vụ vận tải tàu định tuyến cần có đủ số lượng các tàu nhằm duy trì lịch vận hành đã định sẵn và quảng bá từ trước. Dịch vụ này cần có sự kết nối giữa các tuyến gom hàng với tuyến chính chạy giữa các cảng trung chuyển quốc tế. Giá cước trong vận tải tàu chợ tương đối ổn định do chủ tàu hoặc hiệp hội đưa ra, cước này thường cao hơn so với tàu chuyến, thông thường bao gồm cả chi phí xếp dỡ. Đội tàu hoạt động vận tải định tuyến bao gồm tàu container chuyên dụng container xếp dỡ kiểu LO-LO đang chiếm tỉ lệ lớn, tàu hàng tổng hợp tốc độ nhanh, vừa chở hàng container lớn, vừa chở hàng rời và hàng bao kiện khác. Ngoài ra còn có tàu bách hoá, tàu RO-RO, tàu chở sà lan và tàu chở hàng đông lạnh. Tất cả đội tàu vận tải định tuyến đều có vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển hàng hoá hiện nay. Ngoài tàu chợ, còn một loại hình dịch vụ vận tải khác chính là tàu chuyến. Vận tải tàu chuyến là hình thức cung cấp dịch vụ vận chuyển không thường xuyên, không theo tuyến cố định, không có lịch trình công bố từ trước mà theo yêu cầu của người thuê tàu trên cơ sở các hợp đồng thuê tàu chuyến. Hình thức khai thác tàu chuyến là một trong những hình thức khai thác phổ biến nhất hiện nay đối với hầu hết các nước có đội tàu buôn vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Hình thức này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển có đội tàu còn nhỏ bé, hệ thống cảng chưa phát triển, nguồn hàng không ổn định. Số lượng hàng hoá, các loại hàng, thời gian khởi hành, thời gian đến, số lượng cảng ghé qua không cố định mà luôn thay đổi phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu cụ thể của từng chuyến đi. Vận tải tàu chuyến là kiểu khai thác mà người vận tải phải đưa tàu đến những nơi hàng hoá cần đến, một tàu thường chở một loại hàng, trong một chuyến thường chỉ phục vụ cho một chủ hàng theo các hợp đồng từ cảng đến cảng. Trên thị trường hiện nay có một số loại tàu chuyến tiêu biểu như tàu chở hàng rời khô khối lượng lớn, tàu hàng bách hoá, tàu hàng tổng hợp, tàu kết hợp, tài chở dầu, tàu chở ga hoá lỏng, tàu chở hoá chất lỏng. 1.4. Các dịch vụ vận tải biển. Dịch vụ là một hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. 1.4.1. Dịch vụ kinh doanh khai thác tàu Trong mỗi quốc gia có biển hay không có biển, người ta đều có thể xây dựng đội tàu vận tải biển thuộc các loại hình sở hữu khác nhau để tiến hành vận chuyển hàng hóa, hành khách cho quốc gia mình hay đi chở thuê cho các nước khác với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Hình thức sở hữu tàu, hình thức tổ chức công ty và phương thức kinh doanh tàu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau. Sự khác nhau này là do hệ thống pháp luật và điều kiện địa lý, tự nhiên của quốc gia đó quyết định. Tuy có sự khác nhau nhưng vì kinh doanh khai thác tài vận tải biển mang tính quốc tế cao nên có những đặc điểm chung, sản xuất kinh doanh khai thác tàu mang tính toàn cầu, phạm vi sản xuất rộng, quá trình sản xuất kinh doanh liên quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia riêng rã và chịu sự chi phối của các công ước quốc tế, liên quan đến thương mại, đến biển và kinh doanh vận tải biển. Trong kinh doanh khai thác tàu vận tải biển, nếu phân chia theo đối tượng vận tải biển thì các tàu vận tải biển chia thành 3 loại: Tàu hàng, tàu khách, tàu vừa chở hàng vừa chở khách. Cách thức tổ chức khai thác các loại tàu mặc dù có những điểm chung nhưng cũng có không ít những điểm khác nhau. Căn cứ vào cách thức tổ chức chuyến đi (hình thức tổ chức chạy tàu) của các tàu vận tải biển mà người ta chia hoạt động của đội tàu thành hai loại đó là: Vận tải tài định tuyến (tàu chợ) và vận tải tàu chuyến. Đặc trưng cơ bản trong ngành vận tải biển hiện nay là ngoài những tuyến vận tải thường xuyên, được tổ chức theo hình thức khai thác tàu chợ do có lượng hàng hóa không lớn vẫn xuất hiện trên thị trường vận tải, nên hình thức vận tải tàu chuyến rất phù hợp với những nước đang phát triển, kém phát triển, đội tàu nhỏ bé và hệ thống cảng chưa phát triển. Ưu điểm của hình thức khai thác tàu chuyến là linh hoạt, thích hợp với vận chuyển hàng hóa không thường xuyên và hàng hóa xuất nhập khẩu, tận dụng được hết trọng tải của tàu lúc chở hàng trong từng chuyến đi có hàng. Nếu tổ chức tìm hàng tốt thì hình thức khai thác tàu chuyến là hình thức khai thác có hiệu quả không kém gì so với hình thức khai thác tàu chợ. Vận tải tàu chợ là hình thức phát triển cao hơn và hoàn thiện hơn của hình thức vận tải tàu chuyến. Đặc trưng quan trọng của hình thức tàu chợ là: tàu hoạt động cố định, chuyên tuyến giữa các cảng xác định: theo lịch vận hành được công bố từ trước. Do xu hướng container hóa trong vận tải, hiện nay trong lĩnh vực kinh doanh khai thác tàu, vận tải biển đã và đang hình thành các công ty đa quốc gia, với các chức năng kinh doanh tổng hợp – vận chuyển container, xếp dỡ container và dịch vụ hàng hải phục vụ cho việc vận chuyển container. Chức năng kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách chỉ là một mắt xích trong dây chuyền công ty này. Các công ty đa quốc gia có thể liên kết lại với nhau thành hiệp hội để độc quyền và cạnh tranh với các công ty khác. Tính chất cạnh tranh trong lĩnh vực khai thác tàu biển diễn ra trên quy mô toàn cầu và ngày càng quyết liệt. Hiệp hội tàu chợ hình thành nhằm mục đích cải thiện tình trạng kinh tế của từng thành viên trong hội và hạn chế hoặc loại trừ sự cạnh tranh giữa các thành viên cùng tham gia vận chuyển trên cùng tuyến tài chợ thông qua việc thỏa thuận bằng cước tàu chợ trên tuyến. Hiện nay đa số các quốc gia miễn trừ cho ngành vận tải biển khỏi việc áp dụng luật chống độc quyền. 1.4.2. Dịch vụ kinh doanh khai thác cảng Nhiệm vụ chính của cảng là xếp dỡ hàng hóa. Hiện nay các lĩnh vực kinh doanh khai thác của cảng cũng được mở rộng, ngoài việc xếp dỡ hàng hóa, cảng còn thực hiện các công việc khác như: Thay mặt chủ tàu, chủ hàng làm nhiều hoạt động khác liên quan đến hàng như phân phối và giám sát việc vận chuyển hàng hóa đến tận người tiêu dùng cuối cùng và trở thành trung tâm hậu cần. 1.4.3. Kinh doanh dịch vụ hàng hải. Quá trình vận chuyển hàng hóa bằng đường biển từ nơi gửi tới nơi nhận, ngoài quá trình vận chuyển, xếp dỡ còn có quá trình phục vụ cho cả hai quá trình đó. Một trong những dạng phục vụ chủ yếu là quá trình đại lý và môi giới hàng hải. Người đại lý là người đại diện thường trực của chủ tàu tại một cảng hay một khu vực đại lý nhất định. Trên cơ sở hợp đồng, người đại lý nhân danh chủ tàu tiến hành các hoạt động liên quan đến việc kinh doanh hàng hải, bao gồm các việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến hoạt động của tàu tại cảng như: ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng bốc xếp hàng hóa, hợp đồng cho thuê tàu, hợp đồng cho thuê thuyền viên, ký phát vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển hàng hóa tương đương. Thu chi các khoản tiền liên quan đến hoạt động khai thác tàu, giải quyết tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hoặc về tai nạn hàng hải, Dịch vụ đại lý tàu biển: Là hoạt động thay mặt chủ tàu nước ngoài thực hiện các dịch vụ đối với tàu và hàng tại Việt Nam. Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa và vận chuyển đường biển: Là hoạt động kinh doanh thay mặt khách hàng đếm số lượng hàng hóa thực tế khi giao hoặc nhận với tàu, các phương tiện vận tải khác, khi xuất hoặc nhập kho, bãi cảng, khi xếp dỡ hàng hóa trong container. Dịch vụ giao nhận hàng hóa vận chuyển bằng đường biển là hoạt động kinh doanh thay mặt khách hàng tổ chức thiết kế bố trí thu xếp các thủ tục giấy tờ, chứng từ liên quan đến việc giao nhận, lưu kho, lưu bãi, thu gom và ký phát hàng hóa. Dịch vụ môi giới hàng hải là hoạt động kinh doanh môi giới cho khách hàng các việc liên quan đến hàng hóa và phương tiện vận tải biển, mua bán tàu, bảo hiểm hàng hải, lai dắt, thuê thuyền viên Dịch vụ cung ứng tàu biển: Là hoạt động kinh doanh cung ứng cho tàu về lương thực, thực phẩm cũng như các dịch vụ với thuyền viên Dịch vụ sửa chữa nhỏ tàu biển: Là hoạt động kinh doanh thực hiện cạo hà, gõ gỉ, sơn, bảo dưỡng, sửa các thiết bị động lực, thông tin, đường nước, ống hơi, hàn vá những hạng mục từ mớn nước trở lên và các sửa chữa nhỏ khác. 1.5. Đội tàu biển Tàu biển là phương tiện chuyên chở hàng hóa và hành khách bằng đường biển. Thương mại hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng phát triển, đồng nghĩa với việc vận chuyển hàng hóa ngoại thương cũng phát triển theo. Từ những lợi ích và vai trò trên của vận tải đường biển, chúng ta có thể thấy rằng tàu biển có vai trò rất quan trọng trong vận tải đường biển. Đội tàu biển mạnh góp phần củng cố và tăng cường sự độc lập, tự chủ về chính trị và kinh tế của mỗi nước. Đội tàu trực tiếp tạo ra sản phẩm và đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân. Vì vậy, đầu tư vào đội tàu biển là một chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của các nước giáp biển. 1.5.1. Đội tàu vận tải biển thế giới Các xu thế phát triển chủ yếu của đội tàu biển thế giới và khu vực Container hóa là xu thế nổi bật trong ngành hàng hải. Tăng kích thước các tàu và sử dụng các tàu có tính kinh tế Đội tàu vận tải biển thế giới đang có xu hương tăng trọng tải tàu biển với mục đích tăng khối lượng thực chở, giảm chi phí chuyến đi Tổng trọng tải đội tàu thế giới giai đoạn 2006 – 2016 Xuất hiện các công ty vận tải biển khổng lồ do liên doanh, liên kết toàn cầu Hình thành các trung tâm xếp dỡ cho tàu container Liên kết các phương thức vận tải – vận tải đa phương thức Đội tàu vận tải biển thế giới đang có xu hương tăng trọng tải tàu biển với mục đích tăng khối lượng thực chở, giảm chi phí chuyến đi. 1.5.2. Đội tàu vận tải biển Việt Nam a) Quy mô đội tàu Vinalines giai đoạn 2006 – 2016 TT Năm Số lượng (chiếc) Trọng tải (DWT) Trọng tải bình quân (DWT) Mức tăng trọng tải (%/năm) 1 2006 108 1.252.665 11.599 2 2007 134 2.055.395 15.339 64,08 3 2008 145 2.507.425 17.293 21,99 4 2009 149 2.695.356 18.090 7,49 5 2010 148 2.959.159 19.994 9,79 6 2011 133 2.774.695 20.862 -6,23 7 2012 125 2.522.962 20.184 -9,07 8 2013 119 2.374.063 19.950 -5,90 9 2014 111 2.277.147 20.515 -4,08 10 2015 100 2.128.711 21.287 -6,52 11 2016 86 1.935.853 22.510 -9,06 b) Tuổi bình quân đội tàu Vinalines ĐVT: tuổi Thực tế thấy rằng tuổi tàu trung bình của đội tàu biển Việt nam đang được trẻ hóa nhanh, đạt tới 13 tuổi, đuổi gần kịp với tuổi bình quân của đội tàu thế giới là 11,8 tuổi. Tuy nhiên, tàu trên 20 tuổi của Việt Nam còn quá nhiều (chiếm trên 35%), như vậy đương nhiên đội tàu sẽ không phù hợp với các hình thức vận tải hiện đại ngày nay. c) Tải trọng bình quân đội tàu Vinalines ĐVT: DWT Nhìn chung đội tàu biển Việt Nam đều là các tàu có trọng tải vừa và nhỏ, xuất phát từ điều kiện độ sâu của luồng ra vào các cảng Việt Nam. Hầu hết các tàu hàng khô tổng hợp của đội tàu biển Việt Nam vận chuyển hàng xuất nhập khẩu có cỡ trọng tải từ 6.000-12.500 DWT. Trong xu thế phát triển chung về trọng tải, đội tàu biển Việt Nam đã bắt đầu chuyển hướng đầu tư sang các tàu trên 10.000 DWT, tập trung chủ yếu ở Vinalines. Riêng tàu hàng rời có thể lên đến 40.000 DWT, tàu chở dầu thô có thể lên tới 90.000 DWT trong giai đoạn 2007-2010.Phần II:  Tổng quan về chức năng, nhiệm vụ của công ty vận tải biển, cảng biển 2.1. Các loại hình doanh nghiệp phổ biến 2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do nhà nước quản lý. Hình thức tổ chức của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới các hình thức sau: Công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên. 2.1.2. Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Người này chính là chủ sở hữu duy nhất, cũng là người đại diện theo pháp luật và quyết định mọi việc liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm doanh nghiệp tư nhân Chủ doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và đầu tư: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp mà tất cả tài sản thuộc về một chủ sở hữu duy nhất; người chủ này là một cá nhân, một con người cụ thể. Cá nhân này vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Giới hạn trách nhiệm: chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. Trong trường hợp phá sản nếu vốn doanh nghiệp không trả được hết thì doanh nghiệp mang tài sản sở hữu cá nhân ra trả tiếp. Cách thức huy động vốn của doanh nghiệp: do chủ doanh nghiệp tự đăng ký bằng tài sản của cá nhân mình; doanh nghiệp tư nhân không được huy động vốn trên sàn chứng khoán; cũng có nghĩa là không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào. Tư cách pháp lý: Chủ doanh nghiệp tư nhân có tư cách thể nhân có nghĩa là không phân biệt giữa tư cách của doanh nghiệp và tư cách chủ doanh nghiệp, người chịu trách nhiệm cuối cùng vẫn là ông chủ tư nhân cho dù ông có thuê giám đốc ngoài. doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Chuyển quyền sở hữu: có quyền bán doanh nghiệp nhưng kể cả sau khi bán thì chủ doanh nghiệpvẫn phải có trách nhiệm với khoản nợ của doanh nghiệp trừ khi có thỏa thuận khác với người mua. Ưu điểm Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu duy nhất nên các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều do người chủ sở hữu này hoàn toàn quyết định. Chính vì mọi quyền lực tập trung vào người chủ sở hữu nên mô hình doanh nghiệp tư nhân được tổ chức rất đơn giản. Chủ doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc mua bán, chuyển nhượng, giải thể doanh nghiệp mà không phải xin ý kiến của bất cứ ai khác. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ Doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho công ty ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình công ty khác. Vì không có sự phân biệt giữa tài sản của doanh nghiệp với tài sản của cá nhân (chủ doanh nghiệp) nên doanh nghiệp tư nhân rất dễ để vay mượn tiền từ phía ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Nhược điểm Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ Doanh nghiệp tư nhân cao. Khi gặp rủi ro thì các chủ doanh nghiệp tư nhân này phải tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp chứ không chỉ giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào. Chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kể cả khi thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp. 2.1.3. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau là cổ phần và được phát hành ra ngoài thị trường nhằm huy động vốn tham gia đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Người sở hữu cổ phần được gọi là các cổ đông. Đặc điểm công ty cổ phần Phải có số lượng cổ đông tối thiểu là 3 thành viên và không hạn chế số lượng ( cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức) Vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần. Mua cổ phần là hình thức chính để góp vốn vào công ty cổ phần. Cổ đông là người nắm giữ cổ phần và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Cổ đông có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho cổ đông hoặc các nhân, tổ chức khác một cách tự do. Doanh nghiệp cổ phần có thể phát hành chứng khoán theo quy định pháp luật. Ưu điểm Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty. Khả năng huy động vốn cao, từ ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thông qua hình thức phát hành cổ phiếu ra thị trường. Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần. Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lý và sở hữu. Nhược điểm Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần khá phức tạp do số lượng các cổ đông lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích. Theo quy định thì vị trí Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp cổ phần không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp khác. Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty phải công khai và báo cáo với các cổ đông. Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán. 2.1.4. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Công ty TNHH là loại hình công ty mà thành viên công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên công ty TNHH không vượt quá năm mươi. Đặc điểm công ty trách nhiệm hữu hạn Thành viên công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Phần vốn góp của thành viên công ty TNHH chỉ được chuyển nhượng theo các quy định chặt chẽ quy định tại Luật Doanh nghiệp. Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần. Công ty TNHH có hai loại hình: + Công ty TNHH một thành viên: Là loại hình công ty TNHH  do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. + Công ty TNHH hai thành viên trở lên: Là loại hình công ty TNHH mà thành viên công ty có từ hai người trở lên, số lượng thành viên không quá năm mươi. Ưu điểm Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty TNHh chỉ trách nhiệm về các hoạt động của công ty TNHH trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn. Số lượng thành viên công ty TNHH không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty TNHH không quá phức tạp. Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty TNHH. Nhược điểm Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty TNHH trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng bởi tâm lý rủi ro khi hợp tác so với các loại hình công ty khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh. Việc huy động vốn của công ty TNHH bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu. 2.1.5. Công ty hợp danh Đây là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân trong đó có các cá nhân và thương nhân cùng hoạt động lĩnh vực thương mại dưới một hãng và cùng nhau chịu mọi trách nhiệm về các khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh phải có ít nhất là 2 thành viên hợp danh trở lên và có thể có hoặc không có các thành viên góp vốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxkinh_te_van_tai_bien_chuyen_de_tong_quan_ve_nganh_van_tai_bi.docx
Tài liệu liên quan