Ký kết hợp đồng kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc sống chúng ta, những giao dịch giữa các bên để thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu... đều liên quan đến việc thiết lập quan hệ hợp đồng - một thoả thuận ràng buộc về mặt pháp lý. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, những điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hoá cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp đồng. Hợp đồng chính là hình thức của mối quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh doanh trong xã hội. Ở nước t

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ký kết hợp đồng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a, kể từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần sở hữu phát triển bình đẳng có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải dựa vào các quan hệ hợp đồng kinh tế. Nói một cách khác, hợp đồng kinh tế là phương thức để thực hiện các quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ hợp pháp và tất yếu của tất cả các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước ta luôn luôn chú ý đến việc điều chỉnh pháp lý các hoạt động kinh tế của các đơn vị kinh tế, trong đó việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế là một nội dung hết sức quan trọng. Trước sự vận hành của nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ của một Nhà nước pháp quyền thì việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là cần thiết và hợp lý. Vì lẽ đó, ngày 25/09/1989 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra đời đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Nó thể chế hoá tư tưởng về đổi mới cơ chế kinh tế của Đảng. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là công cụ pháp lý, là bộ phận của cơ chế quản lý kinh tế và là yếu tố không thể thiếu được của nền kinh tế hiện nay. Với ý nghĩa hết sức quan trọng đó hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường. Thông qua việc ký kết các hợp đồng kinh tế, các chủ thể kinh doanh có căn cứ vững chắc để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình phù hợp với nhu cầu của thị trường. Kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được nếu người sản xuất ký được hợp đồng mua nguyên vật liệu để sản xuất và ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cụ thể hoá, chi tiết hoá kế hoạch sản xuất kinh doanh của người kinh doanh thành số lượng và chất lượng cụ thể. Mua, bán cái gì, giá cả ra sao, vào thời gian nào để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người kinh doanh quyết định và thoả thuận với khách hàng. Có thể nói nắm vững pháp luật về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc, điều kiện trình tự đàm phán, ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để tránh những rủi ro khi ký kết hợp đồng, đồng thời cũng là cơ sở cho các hoạt động kinh doanh khác vận hành tốt. Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế mới, đóng vai trò là công cụ chủ yếu của Nhà nước quản lý có hiệu quả các quá trình kinh tế. Song, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành từ năm 1989, đó là thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, bởi vậy, không thể tránh khỏi những quy định bất cập với sự vận động không ngừng của các quá trình kinh tế. Nhiều vấn đề đã và đang gây nhiều tranh cãi và không thống nhất, nảy sinh nhiều vướng mắc trong vấn đề xác định luật áp dụng và thực tiễn giải quyết các tranh chấp. Có thể nói, sự hoàn thiện của pháp luật về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc, điều kiện trình tự trong đàm phán, ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để tránh những rủi ro khi ký hợp đồng kinh tế.Và vì vậy, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này ngày càng trở nên bức xúc. Những lý do cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế đã nêu ở trên, cũng là lý do mà em lựa chọn vấn đề “Ký kết hợp đồng kinh tế” để làm đề tài Luận văn tốt nghiệp. Bằng những kiến thức và sự hiểu biết còn hữu hiệu, chắc rằng Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót đáng kể, vì vậy em rất momg được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn. Với đề tài này, luận văn được bố cục như sau : Lời mở đầu. Chương 1 : Cơ sở lý luận về hợp đồng kinh tế Chương 2 : Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế. Kết luận Tài liệu tham khảo. MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 2 Chương 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng kinh tế 5 1.1. Những vấn đề cơ bản về chế độ pháp lý của hợp đồng kinh tế 5 1.1.1. Sự ra đời của chế định hợp đồng và hợp đồng kinh tế 5 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng kinh tế 10 1.1.3 Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13 1.2. Ký kết hợp đồng kinh tế 16 1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế 16 1.2.2. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế 18 1.2.3. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế 20 1.2.4. Cách thức ký kết hợp đồng kinh tế 22 1.2.5. Những điều khoản thoả thuận khi ký kết thể hiện trong nội dung của hợp đồng 23 1.2.6. Hợp đồng vô hiệu 31 Chương 2 : Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế. 34 2.1. Thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế 34 2.2. Kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế 55 Kết luận 66 Tài liệu tham khảo 68 CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG KINH TẾ. Sự ra đời của chế định hợp đồng và hợp đồng kinh tế. a- Sự ra đời chế định hợp đồng . Phân công lao động xã hội phản ánh sự phát triển cao của nền sản xuất , đòi hỏi tất yêú phải có sự trao đổi sản phẩm - một khâu quan trong trong quá trình tái sản xuất xã hội. Về vấn đề trao đổi sản phẩm hàng hoá, C.Mác đã viết:² Tự chúng, hàng hoá không thể đi tới thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó quan hệ với nhau như những hàng hoá thì những người giữ hàng hoá phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó... mối quan hệ ý chí đó, mà hình thức của nó bản giao kèo dù có được củng cố thêm bằng pháp luật hay không cũng vậy - là một mối quan hệ ý chí, phản ánh mối quan hệ kinh tế. Như vậy, ở đây mối quan hệ giữa ²những người giữ hàng hoá” là nội dung mà hình thức của nó là “bản giao kèo” được thiết lập trên cơ sở tự do ý chí giữa các chủ thể trong quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá. Khi được pháp luật tác động đến quan hệ kinh tế trên trở thành quan hệ pháp luật và “bản giao kèo” trở thành hình thức pháp lý của nó. Về tên gọi, trên thực tế “bản giao kèo” còn được gọi là hợp đồng hay khế ước. Trao đổi sản phẩm hàng hoá dẫn tới sự ra đời của hợp đồng. Hợp đồng là hình thức của mối quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh doanh trong xã hội. Có thể nói, trong tất cả các sắc thái của luật pháp hầu như không có luật nào có ý nghĩa toàn diện và có ảnh hưởng rộng khắp trong đời sống của chúng ta như luật hợp đồng. Mỗi hoạt động cá nhân hay kinh doanh đều liên quan đến hợp đồng và do đó luật hợp đồng ảnh hưởng đến hầu hết những hoạt động bình thường của chúng ta. Thí dụ, mua quà sinh nhật, thuê một căn hộ, trả học phí học thêm, làm việc tại một cơ sở, ngay cả việc đổ đầy bình xăng cũng là kết quả của hợp đồng . Do đó, có thể thấy rằng hiểu đúng và có cách nhìn cơ bản nhất về bản chất của hợp đồng là điều hết sức quan trọng. Trong khoa học pháp lý, hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận giữa hai bên hoặc nhiều bên về một ván đề nhất định trong sinh hoạt xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó. Để đạt được sự thoả thuận, các bên trong quan hệ hợp đồng phải bày tỏ ý chí của mình cho bên kia biết. ý chí của các bên khi đã thống nhất thành sự thoả thuận sẽ được biểu hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định như lời nói, giấy tờ .v.v... Gọi là hình thức của hợp đồng. Trong xã hội có Nhà nước và Pháp luật, ý chí của các bên phải phù hợp và ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy định của pháp luật. Do đó việc ký kết hợp đồng đã làm phát sinh một quan hệ pháp luật. Các bên trong quan hệ hợp đồng gọi là chủ thể của hợp đồng tuỳ thuộc vào loại hợp đồng, chủ thể có thể là cá nhân (thể nhân) hoặc tổ chức. Bên có nghĩa vụ thực hiện hành vi phát sinh từ hợp đồng gọi là bên có nghĩa vụ (còn là người thụ trái), bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện một hành vi gọi là bên có quyền (còn gọi là trái chủ) Việc các chủ thể có trong quan hệ hợp đồng bày tỏ ý chí và thoả thuận về một vấn đề nhất định làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với nhau gọi là ký kết hợp đồng . Việc ký kết hợp đồng được tiến hành theo 1 trình tự gồm 2 giai đoạn : giai đoạn đề nghị lập hợp đồng và giai đoạn tiếp nhận đề nghị. Bên đề nghị phải tỏ rõ ý chí lập hợp đồng bằng cách đề xuất với lên kia những nội dung chủ yếu của hợp đồng để bên được đề nghề xem xét, cân nhắc xem có thoả thuận ký kết hợp đồng hay không. Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những vấn đề nhất thiết phải có đối với một loại hợp đồng định. Nếu bên được đề nghị tỏ rõ sự đồng ý hoàn toàn về những vấn đề của bên đề nghị thì gọi là chấp nhận để nghị và hợp đồng được coi là đã ký kết, quyền và nghĩa vụ được thừa nhận là đã phát sinh. Trường hợp pháp luật có quy định là hợp đồng phải tuân theo một hình thức và thủ tục nhất định (ví dụ là văn bản viết và phải có xác nhận của công chứng Nhà nước) thì hợp đồng được coi là đã ký kết khi những quy định đó được tuân thủ Các chủ thể của hợp đồng phải tuân thủ những điều kiện nhất định do pháp luật quy định, thì hợp đồng mới có giá trị pháp lý quyền và nghĩa vụ mới phát sinh. Đó là những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, bao gồm: - Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi - Các chủ thể phải hoàn toàn tự nguyện - Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp - Hình thức của hợp đồng không trái với quy định của pháp luật vi phạm các điều khoản nói trên, hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý và có thể bị coi là vô hiệu (có thể vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu từng phân). Hợp đồng vô hiệu sẽ dẫn đến hậu quả nhất định đối với một hoặc cả 2 bên trong quan hệ hợp đồng đó. Khi ký kết hợp đồng, mỗi chủ thể đều nhằm vài những mục đích nhất định. Mục đích đó chỉ có thể đạt được do việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Pháp luật đề ra các nguyên tắc thực hiệu hợp đồng, quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, đặt ra các hình thức trách nhiệm áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng. Trong pháp luật nước ta đang quy định gồm nhiều loại hợp đồng tồn tại thuộc các lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau như : hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng lao động ... b. Sự ra đời của chế định hợp đồng kinh tế Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nền kinh tế nước ta còn bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, tập thể còn có kinh tế cá thể trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư doanh chưa được cải tạo. Hoạt động kinh tế của các cơ quan Xí nghiệp Nhà nước của các đơn vị kinh tế tập thể tiến hành song song với hoạt động kinh tế của tư nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh tế đi theo hướng có lợi cho việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo Nghị định này là bản Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Bản Điều lệ này bao gồm những quy định điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế như các đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh, tư doanh, người Việt Nam hay ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam. Theo Điều lệ này, hợp đồng kinh doanh được thiết lập bằng cách hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện cam kết với nhau thực hiện một một số nhiệm vụ nhất định, trong một thời gian nhất định, nhằm phát triển kinh doanh công thương nghiệp, góp phần thực hiện kế họach Nhà nước. Hợp đồng kinh doanh được xây dựng trên nguyên tác các bên tự nguyện, cùng có lợi và có lợi ích cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều lệ còn quy định nếu trong quan hệ hợp đồng có 1 bên là tư doanh, hợp đồng phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công thương tỉnh hoặc Uỷ ban hành chính huyện) thì mới có giá trị về mặt pháp lý... Việc thực hiện Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh, trong một chừng mực nhất định, đã sử dụng được khả năng của các thành phần kinh tế quốc dân theo hướng thống nhất của kế hoạch Nhà nước, góp phần cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới... Đến năm 1960, ở miền Bắc, chúng ta đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965. Các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi về cơ cấu chủ thể và về tính chất. Công tác kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế đòi hỏi phải có những quy định mới về điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế. Vì vậy, Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế được Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960, đồng thời Nhà nước cũng quyết định thành lập Hội đồng trọng tài kinh tế để thực hiện chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế (Nghị định 20/TTg ngày 14/1/1960). Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế đã quy định rõ các bên tham gia quan hệ hợp đồng là các đơn vụ kinh tế cơ sở, các tổ chức xã hội chủ nghĩa, việc ký kết hợp đồng là nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, khi hợp đồng kinh tế bị vi phạm, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Hội đồng trọng tài kinh tế... Trong quá trình thực hiện bản Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định các điều lệ về từng chủng loại hợp đồng chính trị ở nước ta. Hợp đồng kinh tế đã thực sự trở thành công cụ điều chỉnh và củng cố các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế: “xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách quản lý thủ công phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Ngày 10/3/1975, Nhà nước ta đã ban hành bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế (ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ). Điều lệ này đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề như: Vai trò của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc ký kết, các nội dung ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế... những quy định này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải tiến quản lý kinh tế, góp phần đưa các quan hệ hợp đồng kinh tế trở thành nề nếp, ở giai đoạn này với sự phát triển cao độ của cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hợp đồng kinh tế đã trở thành một công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nước để quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là hợp đồng kinh tế được coi là một công cụ hữu hiện trong xây dựng, thực hiện và đánh dấu việc hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch Nói một cách khác, Nhà nước ta đã đặt một cái dấu bằng giữa hợp đồng kinh tế và kế hoạch. Ký kết hợp đồng kinh tế là xây dựng kế hoạch, thực hiện hợp đồng kinh tế là thực hiện kế hoạch vi phạm hợp đồng kinh tế là vi phạm hợp đồng kế hoạch... Do đó, việc ký kết hợp đồng kinh tế được Nghị định 54/CP quy định là một nghĩa vụ, là kỷ luật Nhà nước. Nhà nước quy định tỷ mỉ, chặt chẽ gần như toàn bộ nội dung của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là ở chỗ, trong quan hệ hợp đồng kinh tế có sự thống nhất của 2 yếu tố: yếu tố trao đổi tài sản (quan hệ ngang) và yếu tố tổ chức kế hoạch (quan hệ quản lý). Nhưng phải nói rằng, do Nhà nước ta đã nhấn mạnh quá mức yếu tố tổ chức - kế hoạch trong quan hệ hợp đồng kinh tế nên đã làm cho hợp đồng bị biến dạng và đã trở thành công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp xác định rõ phạm vi quản lý Nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh, xác lập và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở, bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý trong các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế, không phân biệt thành phần kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới. Bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành Pháp lện hợp đồng kinh tế ở nước ta, nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng, trả lại giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với tư cách là sự thống nhất ý chí của các bên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới hiện nay. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng kinh tế a. Khái niệm hợp đồng kinh tế Trong khoa học pháp lý, khái niệm hợp đồng kinh tế được hiểu theo 2 nghĩa: Theo nghĩa khách quan: Hợp đồng kinh tế là tổng hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế (còn gọi là chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế hay pháp luật về hợp đồng kinh tế ) . Là một chế định đặc thù của pháp luật về kinh doanh, chế độ hợp đồng kinh tế quy định: Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế, điều kiện chủ thể hợp đồng kinh tế, thủ tục và trình tự ký kết hợp đồng kinh tế, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc và nội dung thực hiện hợp đồng kinh tế, các điều kiện và giải quyết hậu quả cho việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ hợp đồng kinh tế, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế.v.v .. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khi cơ cấu kinh tế thay đổi thì các quan hệ kinh tế thay đổi theo. Vì vậy, chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nước ta luôn luôn đặt trước những yêu cầu thay đổi và đã thay đổi phù hợp với những bước phát triển của các quan hệ kinh tế Theo nghĩa chủ quan: “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình” (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 Như vậy, thực chất hợp đồng kinh tế là mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể ký kết, đó là mối quan hệ ý chí được lập một cách tự nguyện, bình đẳng thông qua hình thức bằng văn bản. Nhưng khác hẳn với hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế có những đặc điểm riêng sau đây: b. Đặc điểm hợp đồng kinh tế - Về nội dung: Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh. Đó là nội dung thực hiện các công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác do các chủ thể tiến hành trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình tái sản xuất, từ khi đầu tư vốn đến khi tiêu thụ sản phẩm hoặc hoàn thành dịch vụ nhằm sinh lợi hợp pháp. Kinh doanh là chức năng, nhiệm vụ, là mục tiêu của các đơn vị kinh tế. Vì vậy, mục đích là kinh doanh luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng mà các chủ thể kinh doanh ký kết, nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. Khác với hợp đồng kinh tế, nội dung của hợp đồng dân sự lại chủ yếu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của các chủ thể ký kết. - Về chủ thể hợp đồng, theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải ký kết trong phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, các tổ chức và cá nhân nước ngoài ở Việt Nam cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp nhân. Trên thực tế hiện nay và xu hướng trong nền kinh tế thị trường chủ thể chủ yếu của hợp đồng kinh tế là các doanh nghiệp. Đối với hợp đồng dân sự, mọi pháp nhân và cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều có thể là chủ thể của hợp đồng ,. - Về hình thức, hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản. Đó là bản hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản có chữ ký của các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận như công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận... Ký kết hợp đồng kinh tế bằng văn bản là một quy định bắt buộc mà các chủ thể của hợp đồng phải tuân theo. Văn bản này là sự ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận với nhau, là cơ sở pháp lý để các bên tiến hành thực hiện các điều đã cam kết, để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của mối quan hệ kinh tế và giải quyết các tranh chấp, xử lý các vi phạm nếu hợp đồng dân sự phải ký kết bằng văn bản hoặc thoả thuận miệng tuỳ theo nội dung của từng quan hệ hợp đồng và ý chí của các bên ký kết. Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ảnh mối quan hệ giữa kế hoạch với thị trường. Hợp đồng kinh tế được ký kết dựa trên định hướng kế hoạch của Nhà nước, nhằm các việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế mà việc ký kết và thực hiện nó phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế quản lý theo phương pháp kế hoạch hoá tập trung thì tính kế hoạch là đặc tính số một của hợp đồng kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đã có những thay đổi lớn trong công tác kế hoạch hóa, nhưng tính kế hoạch của hợp đồng kinh tế vẫn tồn tại: “Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch, vừa là công cụ pháp lý bảo đảm việc thực hiện kế hoạch”. Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp đồng kinh tế và các loại hợp đồng khác như hợp đồng dân sự, hợp đồng ngoại thương, hợp đồng lao động.v.v... Hợp đồng kinh tế có thể phân loại theo 2 cách . Dựa vào tính chất của hợp đồng kinh tế, có thể chia hợp đồng kinh tế thành hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh và hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh. Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là hợp đồng kinh tế được ký căn cứ vào chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nước giao. Ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là kỷ luật của Nhà nước, là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao chỉ tiêu Pháp lệnh. Trong nền kinh tế thị trường, số lượng hợp đồng kinh tế thuộc loại này rất hạn chế . Hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh là loại hợp đồng được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch của các chủ thể. Các chế độ ký kết, thực hiện hợp đồng của loại hợp đồng này được nghiên cứu trong các mục tiếp theo của chương này. Căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế, trong hợp đồng có thể chia hợp đồng kinh tế thành các loại sau đây : - Hợp đồng mua bán hàng hoá - Hợp đồng vận chuyển - Hợp đồng xây dựng cơ bản - Hợp đồng gia công - Hợp đồng dịch vụ - Hợp đồng nghiên cứu khoa học, triển khai kỹ thuật - Các loại hợp đồng khác. 1.1.3. Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế a. Hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung Cuối năm 1959, do kết quả của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân, kết cấu thành phần kinh tế của nước ta có sự thay đổi căn bản. Hoạt động kinh doanh trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào hai loại thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể. Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung vào hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể . Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nhằm một mục tiêu chung là thực hiện kế hoạch Nhà nước. Chế độ hợp đồng kinh doanh với các quy định về chủ thể, nguyên tắc và mục đích như trên không những phù hợp với cơ chế quản lý mới là mà còn cản trở sự vận hành của cơ chế đó. Trong điều kiện đó, Chính phủ đã ban hành bản “ Điều lệ tạm thời về chế độ hoạt động kinh tế “(kèm theo Nghị định số 4/TTg ngày 4/1/1960 của Thủ tướng Chính phủ) thay thế Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh doanh năm 1956 nhằm mục đích “ tăng cường quan hệ kinh tế và trách nhiệm giữa các Xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước (kể cả quân đội) trong việc thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước và những nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế “ (Điều 1). Theo điều lệ này, cơ sở để ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, các bên chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao; Hợp đồng kinh tế chỉ được điều chỉnh hoặc huỷ bỏ khi Nhà nước điều chỉnh hoặc huỷ bỏ chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Điều lệ hợp đồng kinh tế quy định việc ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế. Những quy định trên đây cho thấy thực chất của hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này là một hình thức pháp lý để các đơn vị kinh tế cụ thể hoá chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước nhằm thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đó, còn tính chất “ hợp đồng”, tính chất tự nguyện thể hiện ý chí thì rất ít được quan tâm đến. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này đã trở thành công cụ quan trọng để điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao. Vào những năm đầu của thập kỷ bảy mươi, hoà theo xu thế cải cách kinh tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương tiến hành cải tiến một bước cơ chế quản lý kinh tế theo phương hướng của Hội nghị lần thứ 19 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã vạch ra là “Xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Trước yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, Chính phủ đã ban hành “Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế” (kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ) thay thế điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế năm 1960. Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế quy định mục đích của hợp đồng kinh tế không phải chỉ để thực hiện kế hoạch mà còn là công cụ pháp lý để “giúp đỡ các bên chuẩn bị kế hoạch, xây dựng kế hoạch một cách vững chắc“ (Điều 1) chủ thể của hợp đồng kinh tế là các Xí nghiệp quốc doanh các tổ chức từ hợp doanh, các cơ quan Nhà nước, đơn vị quân đội, tổ chức, xã hội , hợp tác xã, các tổ sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công. Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế không chỉ là chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước mà còn là số kiểm tra, phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch, các bên có thể ký kết các hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu kế hoạch với điều kiện không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh. Mặt khác, ký kết hợp đồng kinh tế vẫn là một kỷ luật của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế, trong mọi hoạt động kinh tế có liên quan với nhau đều bắt buộc phải ký kết hợp đồng kinh tế . Những quy định chủ yếu về hợp đồng kinh tế theo Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế trên đây cho thấy chế độ hợp đồng kinh tế trong thời kỳ này đã có những đổi mới nhất định mà thể hiện rõ nhất là yếu tố tài sản trong hợp đồng rõ nét hơn, yếu tố tổ chức - kế hoạch có giảm bớt. Tháng 11/1986, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam xác định nội dung đường lối đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - theo hướng xoá bỏ tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã đòi hỏi phải rà soát lại tất cả cảc chính sách, chế độ quản lý kinh tế trong đó có chế độ hợp đồng kinh tế. Trong điều kiện đó, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 thay thế Nghị định 54/CP về chế độ hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra đời là một bước phát triển mới của pháp luật về hợp đồng kinh tế của Nhà nước ta, thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng trong quản lý kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cùng với Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990, Quyết định số 18-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã tạo thành hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh pháp luật, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế quản lý kinh tế mới. b. Hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Với tính chất là một chế định pháp luật, chế độ hợp đồng có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nền kinh tế quốc dân, là công cụ pháp lý quan trọng của Nhà nước trong xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hợp đồng kinh tế góp phần quan trọng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, củng cố chế độ hạch toán kinh tế, làm cho lợi ích của các đơn vị kinh tế phù hợp với lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân, gắn liền công tác quản lý của Nhà nước với sự tự chịu trách nhiệm của các đơn vị kinh tế, tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên ký kết, giúp đỡ các bên của Nhà nước và của đơn vị mình với hiệu quả kinh tế cao nhất. Với tính chất là một loại quan hệ kinh tế trong kinh doanh, hợp đồng kinh tế có vai trò quan trọng không thể thiếu được đối với các chủ thể kinh doanh. - Hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mỗi đơn vị kinh tế, là cầu nối giữa kế hoạch sản xuất kinh doanh với quan hệ thị trường. Thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể kinh doanh xác định được căn cứ để xây dựng kế hoạch của mình. Kế hoạch ấy chỉ trở thành phương pháp hiện thực khi nó được bảo đảm bằng những cam kết hợp đồng. Ngược lại, hợp đồng kinh tế cụ thể hoá, chi tiết hoá nội dung kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, các._. chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nước thành những quyền và nghĩa vụ cụ thể đó chính là việc thực hiện từng phần kế hoạch . Mặt khác, hợp đồng kinh tế với nội dung là quan hệ hàng hoá tiền tệ, luôn luôn phản ánh mối quan hệ thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. - Hợp đồng kinh tế góp phần quan trọng vào việc củng cố hạch toán kinh tế . Hạch toán kinh tế là phương pháp kinh doanh dựa trên cơ sở tiền tệ làm thước đo những hao phí và kết quả hoạt động kinh tế bởi vì trong quan hệ đó tiền tệ phản ánh giá trị của hàng hoá, tức là lượng lao động đã kết tinh trong hàng hoá và được thể hiện thông qua giá cả của hàng hoá đó. Thông qua giá cả của hàng hoá mà đánh giá được kết quả của lao động, tính toán được những chi phí bỏ ra và kết quả thu về trong hoạt động kinh tế. Xuất phát từ lợi ích kinh tế, các đơn vị kinh tế tiến hành xác lập với nhau những quan hệ hợp đồng kinh tế mà nội dung của nó chính là các quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm cơ sở cho hạch toán kinh tế. Thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, các tổ chức kinh tế thực hiện quyền chủ động sản xuất kinh doanh của mình. Quyền chủ động đó biểu hiện sự độc lập về tài sản và nghiệp vụ của chúng, một trong những nguyên tắc quan trọng và là điều kiện để hạch toán kinh tế. Thông qua chế độ trách nhiệm vật chất, hợp đồng kinh tế cũng có nguyên tắc khuyến khích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất trong hạch toán kinh tế. Việc áp dụng các hình thức trách nhiệm vật chất bao gồm phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại làm giảm lợi ích hạch toán của bên vi phạm hợp đồng, đồng thời khôi phục lợi ích hạch toán cho bên bị vi phạm. Việc áp dụng các hình thức thưởng, phạt trong quan hệ hợp đồng sẽ nâng cao được tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế trong sản xuất kinh doanh đồng thời bảo đảm tuân thủ pháp luật về quản lý kinh tế của Nhà nước. Tóm lại, nghiên cứu vai trò của hợp đồng kinh tế, chúng ta thể khẳng định rằng hợp đồng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới kế hoạch hoá, đảm bảo quyền từ chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế củng cố chế độ hạch toán kinh tế, tăng cường, quản lý kinh tế, quản lý thị trường... xuất phát từ thực tế đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đã khẳng định: “Cần tăng cường chế độ hợp đồng kinh tế và bảo đảm hiệu lực của nó bằng chế độ trọng tài kinh tế Nhà nước”. 1.2. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ . 1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế . Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Tính bắt buộc này được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. “Hợp đồng kinh tế được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật”. a- Nguyên tắc tự nguyện : Theo nguyên tắc này, một hợp đồng kinh tế được hình thành, phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí ), không thể do sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt tới mục đích nhất định. Các bên có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm ký kết và các nội dung ký kết. Mọi sự tác động làm tính tự nguyện của các bên trong quá trình ký kết như bị cưỡng bức, lừa đảo, nhầm lẫn ... đều làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong ký kết hợp đồng kinh tế của các chủ thể kinh doanh được Nhà nước đảm bảo. Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế, quyền này phải gắn liền với những các điều kiện nhất định, đó là : - Không được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật. - Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các thành phần kinh tế thuộc độc quyền của Nhà nước thì không được lợi dụng quyền ký kết hợp đồng kinh tế để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng, ép buộc, cửa quyền, hoặc vì không đạt được những đòi hỏi bất bình đẳng đó nên đã từ chối ký kết hợp đồng kinh tế thuộc ngành nghề độc quyền của mình. - Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của các đơn vị kinh tế còn được thể hiện qua việc quy định các đơn vị kinh tế có quyền từ chối mọi sự áp đặt của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc tự nguyện trong ký kết hợp đồng kinh tế đánh dấu bước đổi mới căn bản trong chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nước ta, được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 . Cũng cần lưu ý rằng, trước đây cũng như hiện nay, việc ký kết các hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh là nghĩa vụ bắt buộc của các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao chỉ tiêu Pháp lệnh, là kỷ luật Nhà nước. Đối với việc ký kết loại hợp đồng này, tính tự nguyện của các chủ thể bị hạn chế đáng kể do có sự ràng buộc bởi tính kỷ luật của các chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh . b. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi: Nội dung của nguyên tắc này là khi ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải đảm bảo trong nội dung của hợp đồng có sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của mỗi bên. Tính bình đẳng này không phụ thuộc và quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của chủ thể. Bất kể các đơn vị kinh tế thuộc thành phàn kinh tế nào, do cấp nào quản lý, khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cũng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Không thể có một hợp đồng kinh tế nào chỉ mang lại lợi ích cho một bên hoặc một bên chỉ có quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ. Một hợp đồng kinh tế được ký kết mà vi phạm nguyên tắc bình đẳng thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế đó. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, cơ cấu chủ thể của hợp đồng kinh tế rất đa dạng, nguyên tắc này càng có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích sự phát triển và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. c. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp được một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh về tài sản. Quy định việc ký kết hợp đồng “không trái pháp luật” đòi hỏi nội dung, hình thức chủ thể của hợp đồng kinh tế đó phải phù hợp, tuân theo các quy định của pháp luật, không được lợi dụng việc ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng kinh tế và việc bảo về trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Một hợp đồng kinh tế chỉ có thể được thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó không trái pháp luật và các bên có khả năng thực hiện đẩy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong giai đoạn hiện nay nguyên tắc này càng cần được coi trọng. 1.2.2. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế được quy định tại Điều 10 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Theo quy định này, hợp đồng kinh tế được ký kết trên các căn cứ sau: a. Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực kinh tế, kỹ thuật hiện hành. Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng kế hoạch và là cộng cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế hoạch của mỗi đơn vị kinh tế được xây dựng căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước, do đó việc ký kết các hợp đồng kinh tế cũng phải căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước. Ngoài ra, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung của hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng các chủ thể cũng phải căn cứ vào các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành đối với từng loại sản phẩm, ngành nghề. b. Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng. Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, luôn luôn gắn liền với sự vận động của thị trường của quan hệ cung cầu. Vì vậy, trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị trường bao gồm các khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu cần đáp ứng về hàng hoá dịch vụ của mình và của bạn hàng. Căn cứ này nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh tế được ký kết có khả năng thực hiện trên thực tế, đồng thời đảm bảo cho sản xuất kinh doanh vừa mang lại hiệu quả cao cho các đơn vị kinh tế, vừa thoả mãn nhu cầu xã hội, đảm bảo gắn kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế với quan hệ thị trường. c. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động của các chủ thể ký kết. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế là những khả năng thực tế về tiền vốn, vật tư, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà đơn vị đó được tiến hành hoạt động. Việc ký kết hợp đồng kinh tế không thể bỏ qua được căn cứ này bởi vì nó đảm bảo khả năng thực tế của việc thực hiện hợp đồng, đồng thời bảo đảm tính cân đối giữa khả năng và nhu cầu, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa giá trị và hiện vật . Mặt khác, các đơn vị kinh tế hoạt động đúng ngành nghề cần đảm bảo các cân đối ngành kinh tế và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước . d. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản của các bên cùng ký kết hợp đồng Đây là một căn cứ rất quan trọng để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng kinh tế về mặt nội dung cũng như tính chất hợp pháp của mỗi quan hệ và khả năng đáp ứng về hàng hoá, khả năng thanh toán của mỗi bên. Căn cứ này nhằm đảm bảo cho mỗi hợp đồng kinh tế có đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực hiện trên thực tế. Tóm lại, khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, các đơn vị kinh tế phải căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đầy đủ điều kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho xã hội. 1.2.3. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế. Chủ thể hợp đồng kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế hoàn toàn bình đẳng, tự nguyện thoả thuận để xác lập và thực hiện những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây : a- Pháp nhân với pháp nhân b- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là đơn vị có tư cách pháp nhân, còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh . Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ các điều kiện sau đây : - Có tài khoản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó. - Tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, có thể trở thành nguyên đơn, bị đơn trước toà án. - Tồn tại độc lập và được pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập. - Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là người đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng thủ tục pháp luật quy định và đã được cấp giấy phép kinh doanh (giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ) Ngoài ra, theo quy định tại Điều 42, Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, những người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam khi ký kết hợp đồng với một pháp nhân Việt Nam cũng được áp dụng các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Về chủ thể của hợp đồng kinh tế, trong khoa học pháp lý hiện có quan điểm cho rằng, hợp đồng kinh tế là những hợp đồng có mục đích kinh doanh. Vì vậy, nó phải được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh - chủ yếu là giữa các doanh nghiệp với nhau. Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế , mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng chỉ cần cử một đại diện để ký vào hợp đồng kinh tế. Nếu là pháp nhân thì người ký hợp đồng phải là người được bổ nhiệm hoặc đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký hợp đồng phải là người đứng tên trang giấy phép kinh doanh (đã đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và được cấp giấy phép kinh doanh). Trong tất cả các trường hợp, hợp đồng kinh tế không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào bản hợp đồng kinh tế, đây là điểm khác biệt so với quy định trong Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975. Trong trường hợp một bên là người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng (nếu có nhiều người cùng làm thì người ký vào bản hợp đồng kinh tế phải do những người cùng làm cử bằng văn bản có chữ ký của tất cả những người đó, văn bản này phải kèm theo hợp đồng kinh tế ). Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ngư dân cá thể thì đại diện ký hợp đồng kinh tế phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu là cá nhân nước ngoài ở Việt Nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế . Đại diện ký kết hợp đồng kinh tế như trên cũng chính là đại diện đương nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế và trong tố tụng trước cơ quan tài phán. Tuy nhiên, người đại diện đương nhiên của các chủ thể hợp đồng kinh tế có thể uỷ quyền cho người khác hay mình ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Việc uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thường xuyên nhưng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Việc uỷ quyền thường xuyên có thể áp dụng trong trường hợp người đại diện đương nhiên uỷ quyền cho cấp phó của mình (hoặc do người đứng đầu chi nhánh trực thuộc, có tư cách pháp nhân không đầy đủ) theo kỳ hạn cần uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải ghi rõ họ tên, chức vụ của người uỷ quyền, người được uỷ quyền, số chứng minh thư của người được uỷ quyền; tính chất và nội dung uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền và phải có chữ ký xác nhận của cả hai người này. Người được uỷ quyền chỉ được phép hành động trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người khác. Trong phạm vi uỷ quyền, người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về hành vi của người được uỷ quyền như hành vi chính của mình. Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp cho các đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế lại vừa ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc ²chịu trách nhiệm cá nhân². 1.2.4. Cách thức ký kết hợp đồng kinh tế. Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp lý, các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh tế như sau: - Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký trực tiếp là cách ký đơn giản. Hợp đồng kinh tế được hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào bản hợp đồng - Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký gián tiếp là cách ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch ( công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ) chứa đựng nội dung cần giao dịch. Việc ký kết hợp đồng kinh tế bằng phương pháp ký gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định, thông thường trình tự này ít nhất cũng gồm hai bước: Bước một: Một bên lập dự thảo ( đề nghị ) hợp đồng trong đó đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch ( tên hàng hoặc công việc, số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, thời hạn thanh toán... và gửi cho bên kia ). Bước hai: Bên nhận được đề nghị hợp đồng tiến hành trả lời cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận, những đề nghị bổ sung ... Trong trường hợp ký kết theo cách ký gián tiếp, hợp đồng kinh tế được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng Dù ký kết bằng phương pháp ký trực tiếp hay gián tiếp, những hợp đồng kinh tế được hình thành đều có hiệu lực pháp lý như nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết. Để cho hợp đồng kinh tế có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau: Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật; Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng; Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ trở thành vô hiệu. Mỗi cách ký kết đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh. Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phương pháp ký kết để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế. 1.2.5. Những điều kiện thoả thuận khi ký kết thể hiện trong nội dung của hợp đồng: Nội dung của hợp đồng kinh tế xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau quyết định tính hiện thực và hiệu lực pháp lý của hợp đồng kinh tế. Vì vậy, yêu cầu nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản quy định phải cụ thể rõ ràng, phải khẳng định ý chí của các bên ký kết hợp đồng. Có thể nói, nội dung của hợp đồng kinh tế là toàn bộ sự thoả thuận của các bên được thể hiện bẳng những điều khoản cụ thể trong hợp đồng kinh tế. Như vậy, điều khoản của hợp đồng đã trở thành linh hồn, là bộ phận cấu tạo nên một bản hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên dưới giác độ khoa học pháp lý, các loại điều khoản của hợp đồng có thể được phân thành những nhóm khác nhau, và mỗi loại điều khoản có những ý nghĩa pháp lý nhất định không giống nhau. Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì nội dung của hợp đồng kinh tế bao gồm những điều khoản cụ thể sau: a. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế. - Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên. - Họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh. b. Điều khoản đối tượng của hợp đồng: Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì...? công việc gì...? Đối tượng của hợp đồng được tính bằng khối lượng, số lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận. c. Điều khoản chất lượng Tức là sự quy định thể hiện những đặc điểm, tính cách... của đối tượng hợp đồng. Các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy cách, cách tính, tính đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn... của sản phẩm. Hàng hoá hoặc những yêu cầu kỹ thuật của công việc giao dịch giữa các bên. d. Điều khoản giá cả: Các bên có thể thoả thuận xác định đơn giá, hoặc giá trị của toàn bộ công việc thoả thuận những nguyên tắc xác định rõ giá cả.... đ. Điều khoản bảo hành: e. Điều khoản nghiệm thu, giao nhận: Các bên được thoả thuận đặt ra các điều kiện dể giao nhận sản phẩm hàng hoá, điều kiện để nghiệm thu đối tượng của hợp đồng. g. Điều khoản phương thức thanh toán: Các bên được quyền lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, nhưng không trái với những quy định của pháp luật hiện hành. h. Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế: Các bên được thoả thuận trong khung phạt do pháp luật quy định đối với hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, đối với từng chủng loại hợp đồng kinh tế. i. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng: k. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng: Các bên có thể thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng như: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy định của pháp luật. l. Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể hiện sự thoả thuận về các vấn đề khác, không trái quy định của pháp luật. Đề cập đến nội dung hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng do không nắm vững các quy định pháp luật nên các bên thườngmắc sai lầm khi thoả thuận các điều khoản. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để một hợp đồng hợp pháp thì ngoài các điều kiện chủ thể, hình thức hợp đồng còn phải đảm bảo yếu tố nội dung hợp đồng. Hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản cơ bản thì mới đảm bảo tính hiệu lực. Về phương diện khoa pháp lý, căn cứ vào tính chất vai trò của các điều khoản, nội dung của hợp đồng kinh tế được xác định thành ba loại với các điều khoản sau: Thứ nhất: điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản, quan trọng nhất của một hợp đồng bắt buộc phải có trong bất cứ hợp đồng kinh tế nào, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị Pháp lý, theo Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế các Điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm: - Ngày, tháng năm ký hợp đồng, tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên, họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh. - Điều khoản đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận . - Điều khoản chất lượng. - Điều khoản giá cả. Ngoài ra hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về viềc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh. Do đó nội dung của hợp đồng kinh tế trước hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Những điều khoản mà các bên đã thoả thuận đó là phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của ác bên tham gia thoả thuận. Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên đã ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau. Nói như vậy không có nghĩa là các bên thoả thuận như thế nào được, các bên có quyền thoả thuận nhưng những thoả thuận đó không được trái với pháp luật thì mới có hiệu lực và được pháp luật bảo vệ. Do đó yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản của hợp đồng phải rõ ràng cụ thể. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp vào nội dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân theo những quy định bắt buộc về chất lượng sản phẩm để đảm bảo an toàncho người tiêu dùng. Như vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ là những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận nhưng theo dquy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ thực hiện. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng không chỉ phát sinh từ những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể phát sinh từ những quy định pháp luật. Trong Luật của một số nước (Anh, Mỹ, Đức...) hiện nay, nguyên tắc tự do hợp đồng cũng bị hạn chế. Pháp luật hợp đồng các nước này đã có những thay đổi căn bản. Người ta cho rằng luật hợp đồng tư sản truyền thống, nguyên tắc “bất khả xâm phạm” hợp đồng đã lỗi thời vì nó không bảo vệ được bên yếu hơn về kinh tế trong quan hệ hợp đồng và như thế là vi phạm nguyên tắc bình đẳng. Chẳng hạn trong quan hệ hợp đồng giữa người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Người sản xuất kinh doanh thường quy định nội dung các hợp đồng “chuẩn” do đó người tiêu dùng không có điều kiện tham gia thoả thuận nữa. (kiểu hợp đồng sử dụng điện, điện thoại ở Việt Nam hiện nay). Do vậy luật hợp đồng không chỉ hạn chế quyền của người sản xuất kinh doanh trong việc quy định nội dung các hợp đồng chuẩn mà còn nghiêm cấm đưa vào hợp đồng những điều khoản vi phạm trắng trợn đến lợi ích của những người tham gia vào quá trình giao lưu kinh tế. đối với bên mạnh hơn về kinh tế, pháo luật đưa ra một loạt nghĩa vụ bổ xung, trong đó nghĩa vụ phải thông báo cho bạn hàng đầy đủ các đặc tính căn bản về các mặt hàng dịch vụ, phải đảm bảo tính an toàn khi sử dụng chúng. Người tiêu dùng được hưởng các biện pháp tố tụng nhằm đảm vệ quyền của mình một cách dơn giản, tiện lợi và ít tốn kém hơn. Bên có tiềm lực kinh tế mạnh không được lợi dung nguyên tắc tự do hợp đồng để chèn ép bên yếu về kinh tế. Trong nhiều văn bản pháp lý còn cho phép toà án được quyền tuyên bố về hiệu những quy định của hợp đồng, mà theo toà án những quy định này là vô lý trái lương tâm hoặc không công bẳng. Tuy nhiên trong quan hệ hợp đồng giữa các nhà doanh nghiệp hợp đồng được thoả thuận trực tiếp nguyên tắc tự do hợp đồng vẫn còn được tôn trọng một cách đáng kể. Thứ hai: điều khoản thường lệ, là những điều khoản đã được pháp luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những quy định đó. Nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với những điều đã quy đinh đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thi những thoả thuận đó không có giá trị. Những quy định của pháp luật sẽ trở thành nội dung của hợp đồng kinh tế thay vào những điều khoản các bên đã thoả thuận trái đó. Do đó, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ: điều khoản về bối thường thiệt hại, về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, điều khoản về bảo hành. Trong hợp đồng có thể các bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành nhưng bên bán vẫn có nghĩa vụ phải bảo hành nếu có quy định của Nhà nước về bảo hành sản phẩm đó. Bên bán không thể viện cớ là trong hợp đồng hai bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành để trốn trách nhiệm bảo hành. Qua đây chúng ta càng thấy rõ hơn nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ bao gồm những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận, nhưng theo quy định của Pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thường lệ của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của hợp đồng kinh tế không phụ thuộc vào các điều khoản thường lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai bên không thoả thuận về những điều khoản thường lệ thì hợp đồng kinh tế vẫn cứ hình thành và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Thứ ba: điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật quy định các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận. Nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Còn nếu các bên không thoả thuận thì các bên không phải thực hiện. Ví dụ: điều khoản thưởngvật chất, điều khoảm áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng trogn khung phạt mà pháp luật đã quy định. Theo pháp luật về hợp đồng kinh tế của nước ta hiện nay thì những thoả thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng (cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh tài sản, thoả thuận về tiền thưởng do thực hiện tốt hợp đồng) là những điều khoản tuy nghi. Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau. Về điều khoản thưởng do thực hiện tốt hợp đồng cần phải xem xét them. Khái niệm, “thực hiện tốt hợp đồng” theo chúng tôi là một khái niệm không có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiên tốt hợp đồng? Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực các bên phải thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện đúng hợp đồng là bình thường. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thường, chẳng có lý do gì để thưởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm vật chất (phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại nếu có). Trong hợp đồng kinh tế, hàng hoá được trao đổi ngang giá, do đó điều khoản thưởng phạt tronh hợp đồng kinh tế là vô lý, trái với quy luật kinh tế. Bởi vì giá cả trong hợp đồng đã chịu sự tác động khách quan của quy luật giá trị và quy luật cung cầu của thị trường. Nếu cộng thêm khoản tiền thưởng nó sẽ phá vỡ quy luật trao đổi hàng hoá trên cơ sở ngang giá. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ doanh nghiệp tư nhân với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, nếu họ thoả thuận thưởng cho nhau thì đó là việc của họ. Điều vô lý đó không ảnh hưởng đến lợi ích của ai nên pháp luật cũng không can thiệp. Nhưng trong quan hệ hợp đồng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau hoặc giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác thì không nên có điều khoản tuỳ nghi này. Vì sự “tuỳ nghi” đó có thể dẫn đến sự “tuỳ tiện” làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước. Nói tóm lại các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả thuận đó không phải trái pháp luật. Pháp luật chỉ quy định những điều khoản tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng. Những điều khoản tối thiểu đó là những điều khỏan chủ yếu của hợp đồng. Pháp luật của các nước khác nhau quy định điều khoản chủ yếu với tuỳ từng loại hợp đồng cụ thể có sự khác nhau. Chẳng hạn đối với hợp đồng mua bán thì luật của Pháp, Bỉ coi điều khoản chủ yếu là đối tượng mua bán và giá cả. Điều đó có nghĩa là hợp đồng được coi là hình thành từ thời điểm các bên đã thoả thuận xong về đối tượng và giá cả. Hệ thống pháp luật Anh, Mỹ thì không coi điều khoản giá cả là điều khoản chủ yếu, tức là các bên không bắt buộc phải thoả thuận về giá cả. Nếu trong hợp đồng không quy định giá hàng thì các bên sẽ định giá trên cơ sở quy tắc đã thình thành giữa các bên trong quan hệ kinh doanh. Nếu bằng phương pháp đó vẫn chưa xác định được giá hàng thì bên mua phải thanh toán theo giá thích hợp. Việc xác định “giá thích hợp” phụ thuộc vào thực trạng của từng trường hợp cụ thể (Điều 8 Luật bán hàng Anh 1979- Sale Good ACT 1979) Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ thừa nhận rằng hợp đồng bán hàng được hình thành hợp đồng là các bên chỉ cần thoả thuận về số lượng hàng hoá được bán. Những khía cạnh khác của đối tượng như chất lượng mặt hàng cũng như các điều khoản về thời hạn, thủ tục bán hàng, giá hàng... được coi như các bên mặc nhiên chấp nhận và đưa vào hợp đồng phù hợp với quy tắc đã được thừa nhận trong lĩnh vực buôn bán mặt hàng tương tự. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, các khía cạnh để trên đó các quy định chi tiết của các luật ._.đầy đủ... hai bên điện đi điện lại, tranh chấp kéo dài không giải quyết được đình ninh rằng mình sẽ thắng kiện, người bán đưa vụ tranh chấp ra trọng tài kinh tế. Tuy nhiên phán quyết Trọng tài lại trái ngược với phỏng đoán của bên bán. Trọng tài phán căn cứ hợp đồng hai bên đã ký kết và căn cứ vào việc thực hiện hợp đồng, hai bên mua và bán đã chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm của mình khá đầy đủ. Trên các điều khoản của hợp đồng đã chứng tỏ hợp đồng được soạn thảo một cách rất chặt chẽ.Tiếc thay trong hợp đồng có một điều khoản đã vi phạm vào điều cấm của pháp luật, đó là điều khoản thanh toán. theo Hiến pháp của nước Mỹ thì không có một cơ quan quyền lực nào được điều chỉnh hàm lượng vàng của đồng USD ngoài Quốc hội Mỹ. Nhân danh pháp luật đại diện cho cả 2 bên, Toà tuyên bố : “ Điều khoản thanh toán của hợp đồng do hai bên ký kết là vô hiệu, bên mua đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán của mình. Các chi phí về đi lại của 2 bên để hầu kiện và chi phí để tổ chức phiên toà do bên bán chịu. Ví dụ trên cho thấy, những thận trọng trước khi ký hợp đồng bao giờ cũng là điều hết sức cần thiết nhằm trách những thiệt hại đáng xảy ra. Với ví dụ trên để khắc phục, chỉ còn quy định một chế định trong hợp đồng phải đảm bảo mua được số lượng vàng nguyên chất 999,9% (hoặc USD) tại thời điểm ký kết hợp đồng . Trong hợp đồng cần quy đổi tổng giá trị hợp đồng theo đồng tiền thanh toán sang vàng hoặc đô la Mỹ. - Thứ sáu : Tại khoản 1, điểm c, Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định cụm từ “ hành vi lừa đảo” dùng không chính xác khi nói đến sự vô hiệu của hợp đồng, nên thay bằng thuật ngữ “hành vi lừa dối”. “Lừa dối“ là một trong những điều kiện làm cho hợp đồng trở nên vô hiệu vì nó phải đi yếu tố tự nguyện, yếu tố thoả thuận giữa các bên. Tuy nhiên việc xác định thế nếu là “ hành vi lừa dối” không phải là vấn đề đơn giản nhất là trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. Vậy “ Lừa dối” là gì ? Tại sao nó làm cho hợp đồng vô hiệu. Trong giáo trình Luật hình sự Đại học Luật Hà Nội, “lừa dối” được định nghĩa như sau : “Lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thực”. Trong giáo trình Luật dân sự Đại học Luật - Hà Nội ở trang 219 có định nghĩa về lừa dối như sau : Lừa dối là việc một bên cố ý làm cho bên kia tưởng tượng, hình dung sai về các điều khoản của hợp đồng mà giao kết hợp đồng một cách có lợi cho mình. Trong Bộ luật dân sự thì “lừa dối” được định nghĩa như sau: “Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia tưởng tượng, hình dung sai về các điều khoản của hợp đồng mà giao kết hợp đồng một cách có lợi cho mình” . Để có thể xem xét một hành vi lừa dối trong hợp đồng hay không thì ở nhiều nước người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây : - Có sự giới thiệu - Sự sai lệch trong sự giới thiệu đó - Nội dung của sự giới thiệu - Người giới thiệu biết về sự sai lệch hoặc bỏ qua sự thật. - Người nghe tin vào sự giới thiệu - Người nghe có truyền tin vào sự giới thiệu như vậy - Có thiệt hại xảy ra do vì trên vào sự giới thiệu đó. - Thứ bảy : Khái niệm “thu nhập bất hợp pháp“ là gì chưa được làm rõ. - Thứ tám : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối (có thể vô hiệu) trong lúc đó sự phân biết này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mà loại hợp đồng vô hiệu khách quan và công bằng hơn. Những trường hợp nêu trên, cần phải nắm vững pháp luật một cách sâu sắc, toàn diện để cân nhắc trước khi ký kết hợp đồng cũng là một yếu hết sức quan trọng,đòi hỏi phải có những phương hướng hoàn thiện để khôi phục những vấn đề trên. 2.2. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 đã đề cập đến khác niệm hợp đồng kinh tế, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Pháp luật hợp đồng kinh tế. Song các vấn đề này lại gây ra nhiều tranh cãi và không thống nhất, làm nảy sinh ra nhiều vướng mắc trong vấn đề xác định Luật áp dụng và thực tiễn giải quyết các tranh chấp.Do đó, nhằm hoàn thiện Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải sửa đổi và bổ sung các quy định về vấn đề này. 2.2.1. Về khái niệm hợp đồng kinh tế. Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định : “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản,tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình “ . Khái niệm này mang tính liệt kê, không bao hàm hết các lĩnh vực cần điều chỉnh, không phản ánh rõ các đặc trưng chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Thật vậy, xung quanh vấn đề phạm vi điều chỉnh của hợp đồng kinh tế hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau như - Có quan điểm cho rằng một hợp đồng chỉ cần thoả mãn Điều1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện quy định tại các Điều 1, Điều 2, Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Nếu thiếu một trong ba điều kiện thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng kinh tế và không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Các điều kiện đó là . + Các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có mục đích kinh doanh. + Các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh. + Hình thức của hợp đồng phải bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch, công văn giấy tờ, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ... Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng như thực tiễn kinh doanh đã tạo ra nhiều ngoại lệ như những trường hợp sau: - Trường hợp thứ nhất : Khi hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân trong hoạt động kinh doanh thì hợp đồng đó có phải là hợp đồng kinh tế hay không? Ví dụ : Một doanh nghiệp tư nhân ký kết hợp đồng với một doanh nghiệp tư nhân, hay cá nhân kinh doanh bằng văn bản mà nội dung phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các bên ký kết. Nếu căn cứ theo Điều 2 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì đây không phải là hợp đồng kinh tế, bởi doanh nghiệp tư nhân và cá nhân kinh doanh đều là những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Hơn nữa Điều 1 - Luật thương mại còn quy định thương - một loại chủ thể kinh doanh cũng không có tư cách pháp nhân. Như vậy, việc quy định bắt buộc một bên phải có tư cách pháp nhân trong quan hệ hợp đồng kinh tế là không phù hợp với thực tiễn, bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, rất nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời. Mặt khác, bên cạnh những chủ thể kinh doanh truyền thống có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã... còn có những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân, người kinh doanh dưới vốn pháp định, hộ kinh tế gia đình... Tất cả các chủ thể kinh doanh này phải hoàn toàn bình đẳng với nhau trong các quan hệ pháp luật. Nên trong pháp luật hợp đồng kinh tế, cần sửa đổi không nên quy định cứng nhắc một bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân, mà chỉ nên quy định : “Hợp đồng kinh tế là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh “. - Trường hợp thứ hai : Hợp đồng kinh tế phải có mục đích kinh doanh và hướng đến lợi nhuận. Trong đó lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các bên tham gia hợp đồng kinh tế, nhưng mục tiêu này có đặt ra cho tất cả bên tham gia quan hệ hợp đồng hay không ? hay chỉ cần một chủ thể có mục đích lợi nhuận là đủ ? trong thực tiễn rất nhiều quan hệ hợp đồng mà chỉ có một bên chủ thể tham gia vì mục tiêu lợi nhuận. Ví dụ : Trường Đại học Luật ký kết với một Công ty xây dựng về việc xây dựng cơ sở vật chất cho trường. Trường Luật - đơn vị hành chính sự nghiệp, tham gia quan hệ hợp đồng không phải vì mục tiêu lợi nhuận, mà vì mục tiêu giáo dục. Công ty xây dựng - đơn vị kinh doanh dịch vụ, hoạt động vì mục tiêu kinh doanh. Do vậy, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định rõ ràng hơn về mục đích kinh doanh và mục tiêu lợi nhuận của các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế. - Trường hợp thứ ba : Một hợp đồng được ký kết giữa các tổ chức có tư cách pháp nhân trong hoạt động kinh doanh, mà không được thể hiện bằng văn bản là hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự ? Nếu là hợp đồng dân sự, đương nhiên sẽ phải chịu điều chỉnh của Pháp luật dân sự, hơn nữa nếu hợp đồng này phát sinh tranh chấp thì đương nhiên do Toà án dân sự giải quyết. Như vậy, việc dùng Pháp luật dân sự, điều chỉnh những quan hệ mang tính chất kinh doanh hiện có phù hợp và đạt hiệu quả cao hay không?. Hơn nữa, trong cơ chế thị trường hết sức năng động, quyết định cứng nhắc về hình thức hợp đồng sẽ không phù hợp, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ thông tin học đã và đang là phương tiện để các bên giao kết hợp đồng thương mại. Việc pháp luật hợp đồng kinh tế quy định hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản , thì một số hợp đồng kinh tế được quy định là phải ký bằng văn bản. Hợp đồng kinh tế có thể ký bằng văn bản hợp đồng: hợp đồng mẫu, thư điện tử, fax truyền tin hoặc bằng tài liệu giao dịch, mà các bên tham gia quan hệ hợp đồng tự chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản. Pháp luật hợp đồng kinh tế nên để các bên tham gia quan hệ hợp đồng lựa chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản những hợp đồng này thường có giá trị lớn mang tính chất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với các bên, có ý nghĩa đối với Nhà nước, như hợp đồng nhận thầu trong xây dựng cơ bản. Từ những phân tích ở trên, pháp luật hợp đồng kinh tế cần đưa ra khái niệm về hợp đồng kinh tế như sau : “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể kinh doanh về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ kinh tế, mà trong đó một hoặc các bên nhằm mục đích kinh doanh “. 2.2.2. Kiến nghị sửa đổi,bổ sung các quy định thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế được quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày25/09/1989, song các quy định đó còn sơ sài và đặc biệt hiện tại nó không còn phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự. Thật vậy, Điều 11 -Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã quan tâm đến yếu tố thoả thuận của hợp đồng song chưa thật đầy đủ. Nếu căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự về vấn đề này tại các Điều 396, Điều 397và điều 399 thì thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế nảy sinh hai vấn đề cần xem xét, đó là : a. Vấn đề thứ nhất : Thời hạn trả lời đề nghị có điều kiện bắt buộc phải ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng hay không ? Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng không ghi thời hạn trả lời thì bên đề nghị có ràng buộc bởi đề nghị của mình hay không ?Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định bổ sung về vấn đề này : “ Thời hạn trảlà giao kết hợp đồng cần được thể hiện trong đó đề nghị giao kết hợp đồng, để tránh cho việc bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chờ đợi bên được đề nghị mà có thẻ bỏ lỡ thời cơ kinh doanh, trong đó thời hạn thanh lý phải do người đề nghị ký hợp đồng án định”. b. Vấn đề thứ hai: Đó là khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời thì không được mời bên thứ ba giao kết hợp đồng trong thời hạn chỉ trả lời và phải chịu trách nhiệm và là đề nghị của mình (Điều 396 - Bộ luật dân sự) Với quy định này các nhà làm luật nhằm hạn chế việc “mua tranh bán cướp” hạn chế vi phạm nghĩa vụ của bên đưa ra đề nghị. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa quy định về vấn đề này. Song pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định bổ sung về vấn đề này, đồng thời cũng cần làm rõ thêm rằng: Bên đề nghị chỉ không được mời bên thứ ba giao kết hợp đồng với nội dung đã được đưa ra trong hợp đồng đối với bên được đề nghị, còn với nội dung khác không thể hạn chế. Từ phân tích trên, thì pháp luật hợp đồng kinh tế phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Cụ thể cần quy định về những vấn đề sau : + Khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp đồng kinh tế ,mà trong văn bản đề nghị có ghi rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì bên đề nghị không được mời bên thứ ba giao kết (với nội dung hợp đồng đã đưa ra) trong thời hạn chỉ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. + Khi bên đề nghị chấp nhận chỉ có hiệu lực thực hiện trong thời gian đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. + Khi các bên trực tiếp đề nghị giao kết hợp đồng kinh tế với nhau thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hay không chấp nhận trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì thời điểm trả lời là gửi đi theo dấu bưu điện. Ở trên là việc đề nghị giao kết hợp đồng, còn việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng kinh tế như thế nào thì Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa quy định. Do vậy để hoàn thiện hơn Pháp luật hợp đồng kinh tế cần qui định thêm về vấn đề này sao cho phù hợp cấp các quy định của Bộ luật dân sự. Một vấn đề nữa cần đặt ra, đó là việc Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ quy định rõ thời gian có hiệu lực của hợp đồng khí nó được ký kết trực tiếp.(Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ). Còn việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi nó được ký kết bằng phương pháp gián tiếp thì lại không đơn giản, mà trong thực tế nó rất phức tạp. Thật vậy,để biết khi nào hợp đồng được hình thành là vấn đề khó trong những trường hợp các bên chỉ thương lượng với nhau bằng thư tín hay tài liệu giao dịch . Việc xác định thời điểm hình thành hợp đồng là vô cùng quan trọng. Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qụy định: Hợp đồng kinh tế có hiệu lực từ khi bên được đê nghị chấp nhận đề nghị giao kết hay từ khi bên đề nghị nhận lại bản hợp đồng đã được chấp nhận, dẫn đến giữa hai thời điểm này có khoảng cách nhất định ảnh hưởng đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo khoản 3- Điều 404 - Bộ luật dân sự quy định : “Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp hợp đồng có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác“. Tại khoản 1 - Điều 403 - Bộ luật Dân sự quy định : “Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hoặc các bên đã thoả thuận xong nội dung chủ yếu của hợp đồng”. Như vậy với cách thức ký kết hợp đồng thông qua phương pháp gián tiếp Pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm khi bên đề nghị giao kết nhận được bản hợp đồng đã được chấp nhận. 2.2.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về đại diện và uỷ quyển trong quan hệ hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 đã quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền. Tuy nhiên, các quy định này chưa chặt chẽ,tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp làm cho các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế dễ trốn tránh trách nhiệm của mình. Do vậy, để khắc phục những thiếu sót của Điều 9- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 5 - Nghị định 17/HĐBT, pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế bao gồm: trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn nhưng tiêu cực có thể xảy ra. Mặt khác,cũng cần quy định trách nhiệm của người uỷ quyền cũng như của người được uỷ quyền khí ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp hành vi của họ có thể gây thiệt hại cho Nhà nước. Về vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế như người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế phải làm hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự. Theo quy định tại Điều 585, Điều 586 - Bộ luật dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận của các bên, theo đó bên được uỷquyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Hợp đồng uỷ quyền phải được lập thành văn bản, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác hợp đồng uỷ quyền phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Theo đó, trong hợp đồng uỷ quyền này sẽ ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng uỷ quyền, cũng như trường hợp hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. 2.2.4. Bổ sung các quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế . Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế có quy định vấn đề hiệu lực hợp đồng kinh tế, nhưng chưa được trình bày một cách rõ ràng, chỉ mới được gián tiếp thể hiện dưới hình thức các quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Nhằm làm cho các quy định của pháp luật được rõ ràng dễ vận dụng và thực hiện trong cuộc sống . Pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định hiệu lực của hợp đồng kinh tế nên được áp dụng, theo các quy định. + Hợp đồng kinh tế giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng kinh tế có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật quy định khác. + Hợp đồng kinh tế chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Vậy thế nào là một hợp đồng kinh tế được giao kết hợp pháp? theo đó, cần thiết phải nêu rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Bởi vì một hợp đồng được coi là giao kết hợp pháp khi nó tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Mặt khác, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế được suy ra từ các quy định hợp đồng kinh tế vô hiệu là không chính xác. Vì nơi làm và ngoại diện của hai vấn đề này (hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng vô hiệu) trên thực tế không trùng hoàn toàn. Thật vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như sau: - Hợp đồng có nội dung phù hợp với pháp luật, đạo đức và trật tự công cộng. - Người ký kết hợp đồng có đủ năng lực chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế. - Ý chí của các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. - Hình thức của hợp đồng phù hợp với những quy định của pháp luật. Một hợp đồng thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực pháp lý. Việc quy định các điều kiện để hợp đồng kinh tế có hiệu lực sẽ làm cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế trong quá trình ký kết ít mắc sai phạm hơn, đồng thời cũng giúp cho cả các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn trong quá trình phán xử. 2.2.5. Kiến nghị bổ sung các căn cứ để xác định hợp đồng vô hiệu. Một hợp đồng được ký kết nếu không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực được pháp luật quy định thì nó sẽ bị vô hiệu trong hai trường hợp sau : + Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ . + Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. a.Các căn cứ để hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ theo pháp luật . Các căn cứ để xác định một hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ quy định khoản 1 - Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . + Thứ nhất : Điểm c - Khoản 1 - Điều 8 quy định : Người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền “ Hợp đồng kinh tế sẽ vô hiệu toàn bộ. Đây là quy định khá hợp lý, song trên thực tế có trường hợp văn bản uỷ quyền của Giám đốc cho phó Giám đốc đó được phê chuẩn sau khi đã ký hợp đồng thì văn bản đó có hợp lệ không ? lúc nào được coi là hợp lệ “. Do đó, pháp luật kinh tế cần phải phân biệt sự xác lập uỷ quyền trước và sau khi phát sinh tranh chấp .Theo đó, sự phê chuẩn uỷ quyền thực hiện trước khi phát sinh tranh chấp đối với hợp đồng thì sự uỷ quyền đó là hợp lệ, khi đó văn bản phê chuẩn được coi là văn bản bổ sung kèm theo văn bản hợp đồng kinh tế đã ký. Nếu sự phê chuẩn thực hiện sau khi phát sinh tranh chấp, đã khởi kiện thì sự phê chuẩn không được thừa nhận, bởi vì như thế chỉ là cách thức hợp pháp hoá để trốn tránh trách nhiệm. + Thứ hai : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định hành vi “lừa đảo” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế là chưa xác đáng. Thật vậy, muốn xác định hành vi “lừa dối” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải có kết luận của cơ quan có thẩm quyền (Toà án, Viện kiểm sát...), nên chưa có kết luận của cơ quan này mà đã kết luận. Hợp đồng kinh tế vô hiệu do người ký có hành vi “lừa đảo“ và đưa ra xử lý là chưa đảm bảo cơ sở pháp lý. Để hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định hành vi “lừa dối” thay cho hành vi “lừa đảo” thì hợp lý hơn. Bởi vì các hợp đồng kinh tế được thực hiện dưới tác động của sự lừa dối thay cho hành vi “ lừa đảo “ thì hợp lý hơn. Bởi vì các hiệp kinh tế được thực hiện dưới tác động của “sự lừa dối” đã đủ để hợp đồng đó vô hiệu, không nhất thiết phải nâng lên thành hành vi “lừa đảo”. Bên cạnh hành vi “lừa dối“ có thể bổ sung thêm các hành vi “lừa đảo” . Đồng thời bổ sung thêm các hành vi cưỡng ép, đe dọa của người ký hợp đồng kinh tế cũng làm cho hợp đồng đó vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu dưới tác động của sự “đe doạ”. “Đe doạ” là hành vi trái pháp luật được thực hiện nhằm làm cho một bên trong hợp đồng không có cơ hội, không khả năng thể hiện ý chí của mình một cách tự nguyện sẽ làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu. Trong giáo trình Luật dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội ở trang 219 có định nghĩa đe doạ như sau : Đe doạ là sự tác động của một bên đối với bên kia cho bên kia họ sợ phải giao kết hợp đồng có lợi cho bên “đe doạ”. Trong Bộ luật dân sự được định nghĩa ở Điều 142 như là hành vi cố ý của 1 bên nhằm làm cho bên kia sợ hãi mà thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh các tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm của bản thân mình hoặc giới hạn. Đe doạ là yếu tố làm cho sự thoả thuận của các bên không phù hợp với ý chí và nguyện vọng thực của người tham gia giao dịch dân sự hay không. Hành vi cưỡng ép - theo luật Anh - Mỹ – “Cưỡng ép” tức là dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực của một bên làm cho bên kia phải ký hợp đồng. Hành vi “cưỡng ép” rất đa dạng ví dụ: Tống tù, khởi kiện, làm lộ bí mật riêng tư, hay đình công chẳng hạn làm cho bên kia sợ hãi phải ký hợp đồng. Mục đích cuối cùng của bên cưỡng ép là để có một hợp đồng thường là có lợi cho mình, có hại cho bên kia buộc phải ký . Hậu quả sẽ làm hợp đồng vô hiệu hay hợp đồng có thể bị vô hiệu. b- Cần bổ sung thêm một số căn cứ làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu. Hợp đồng kinh tế vô hiệu khi mà vi phạm về mặt hình thức hoặc thiếu một trong những điều khoản chủ yếuđược quy định tại Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Quy định này chỉ phù hợp với các quy định về hợp đồng kinh tế có hiệu lực khi thoả mãn các điều kiện đã nêu ở (mục 2.2,4, chương này ). Song nếu căn cứ vào các Điều 138 và Điều 141 - Bộ luật dân sự thì còn tồn tại một số trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu như là : + Hợp đồng kinh tế vô hiệu do “giả tạo” trong đó hợp đồng được xác lập nhằm che đậy một hợp đồng khác mà các bên thực sự mong muốn thực hiện thay hợp đồng kinh tế ( Điều 138 - Bộ luật dân sự ) + Hợp đồng kinh tế vô hiệu do “nhầm lẫn” là hợp đồng được ký kết nhưng có sự nhầm lần của các bên tham gia về điều khoản chủ yếu của hợp đồng như đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả... dẫn đến hợp đồng vô hiệu. “Thế nào là nhẫm lẫn” : + Giáo trình Luật dân sự của Đại học luật Hà Nội định nghĩa nhầm lẫn là sự hình dung sai về đối tượng hay về một điều khoản của hợp đồng.Chẳng hạn hai bên ký kết hợp đồng mua bán gạch chịu lửa song khi ký hợp đồng lại nhầm sang gạch xây dựng thông thường do mỗi bên có sự hiểu khác nhau về các thông số kỹ thuật của gạch chịu lửa. + Nhầm lẫn là việc các bên nghĩ rằng mình đang thoả thuận về một điều kiện cụ thể song mỗi bên lại có nhận thức khác nhau về điều kiện đó. Chẳng hạn A và B ký hợp đồng mua bán gạch nói trên là ví dụ. Ở một số nước “nhầm lẫn” được định nghĩa là niềm tin không phù hợp với thực tế, suy ra cái nghĩ trong đầu không phù hợp với cái thực tế. Nhầm lẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân. Theo Pháp luật Việt Nam, đáng chú ý nhất là các nguyên nhân sau: - Do sự khác nhau về ngôn ngữ : Nghĩa là, trong giao dịch, việc hiểu đúng, chính xác ý chí của nhau là hết sức cần thiết, là điều kiện quan trọng cho việc xác lập, thực hiện tốt các hợp đồng. Vì vậy, việc sử dụng tiếng phổ thông đàm phán, soạn thảo hợp đồng là hết sức quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cùng hiều, dễ hiểu trách được tình trạng hiểu lầm, dẫn tới việc thực hiện hợp đồng sai, gây thiệt hại cho cả 2 bên. Việc dùng tiếng phổ thông trong quan hệ với người ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch thuật ra tiếng nước ngoài, giúp cho người nước ngoài hiểu đúng đắn ý chí của chúng ta để việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả cao, thiết thực góp phần củng cố mối quan hệ kinh tế giữa các bên nói riêng và quan hệ ngoại giao nước ngoài nói chung. - Do diễn đạt sai : Nghĩa là khi ký kết (soạn thảo) hợp đồng phải chọn những từ ngữ, viết những câu văn sao cho chỉ được hiểu một nghĩa, tránh dùng những từ hoặc viết những câu có thể hiểu hai, ba nghĩa . Ví dụ: Bên B phải thanh toán cho bên A bằng ngoại tệ. Ý đồ của bên A là muốn được thanh toán bằng đô la Mỹ (USD) như mọi trường hợp làm ăn thiện chí khác, nhưng bên B lại thanh toán đồng Rúp của Nga bằng ngoại tệ nên khả năng giao dịch rất yếu và giá trị không ổn định, kém hiệu lực rất nhiều so với đồng đô la Mỹ (USD). - Do sự khác nhau về tiêu chí, nhất là tiêu chí kỹ thuật để xác định phẩm chất hàng hoá, dịch vụ. Do sự bất cần của những người tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở này, cần bổ sung thêm một số trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu để góp phần hoàn thiện hơn Pháp luật hợp đồng kinh tế . Kết luận Hợp đồng kinh tế là một chế định đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là một loại hợp đồng xuất hiện trong điều kiện một nền kinh tế có kế hoạch dựa trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất . Trong cơ chế tập trung thống nhất, hợp đồng kinh tế có những vai trò và chức năng cực kỳ “vĩ đại”, hợp đồng kinh tế được coi là công cụ cơ bản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện kế hoạch của Nhà nước, đảm bảo chế độ hạch toán kinh tế, là cơ sở công tác tín dụng và thanh toán. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, Bộ luật dân sự và gần đây nhất là Luật Thương mại ngày10/5/1997 đã ra đời có nhiều luật gia cho rằng, Pháp luật hợp đồng kinh tế đã “hết đất” tồn tại. Nhưng theo tôi, khái niệm hợp đồng kinh tế vẫn cần thiết được duy trì: + Về mặt học thuật, hiện nay chưa có khái niệm nào, kể cả khái niệm hợp đồng thương maị có thể thay thế được khái niệm hợp đồng kinh tế vì nó có nội hàm riêng của nó. Thương mại là mua bán hàng hoá nên các hoạt động kinh doanh như: Vận tải, Ngân hàng, du lịch, xây dựng, hàng không, hàng hải bảo hiểm, mua bán cổ phiếu thì không được coi là có tính chất thương mại. Các dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá theo luật Thương Mại gồm: Đại diện thương mại, mô giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, gia công thương mại, đấu giá hàng hoá, dịch vụ giao nhận kho vận, dịch vụ giám định hàng hoá, quảng các thương mại, hội trợ, triển lãm thương mại. Như vậy khái niệm thương mại có nội hàm rất hẹp. Thương mại là một lĩnh vực của hoạt động kinh tế, hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng kinh tế . + Việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế bên cạnh khái niệm hợp đồng dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc điều chỉnh chúng một cách tốt hơn. Như vậy, việc duy trì pháp luật hợp đồng kinh tế là rất cần thiết Pháp lênh hợp đồng kinh tế năm 1989 là một bước phát triển mới của pháp luật về hợp đồng kinh tế ở nước ta, thể chế hoá được tư tưởng đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Pháp lệnh này đã quy định rõ ràng về hình thức, nội dung, cách thức ký kết và thực hiện cũng như các nguyên tắc của hợp đồng kinh tế . Sau hơn 10 năm ra đời và phát triển, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế mới, đóng vai trò là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý có hiệu quả các quá trình kinh tế, đồng thời là phương tiện hữu hiệu giúp các nhà kinh doanh củng cố và phát triển các doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, khi mà cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá chưa định hành, tri thức của chúng ta về nền kinh tế thị trường còn thiếu, bởi vậy nhiều quy định của Pháp lệnh đến nay đã bộc lộ những điểm yếu kém, nhiều quy định không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu một cách nghiêm túc nhằm hoàn thiện Pháp luật về hợp đồng kinh tế. Luận văn đã thực hiện nghiên cứu tổng quát về khái niệm đặc điểm của hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc ký kết, cách thức ký kết, cũng như các nội dung cần thoả thuận trong hợp đồng khi ký kết ... một số vấn đề khác có liên quan đến việc ký kết hợp đồng kinh tế. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, Luận văn có đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế. Hy vọng rằng, cùng với các quy định cơ bản có tính nguyên tắc của Bộ luật dân sự, các quy định của Luật Thương mại, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế mới sẽ tạo thành hệ thống pháp luật về hợp đồng, là chỗ dựa tin cậy của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện các giao dịch kinh tế TÀI LIỆU THAM KHẢO Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế. ThS. Nguyễn Thị Khế - NXB Đồng Nai. Những nội dung cơ bản của Luật kinh tế, Luật sư Nguyễn Thái Luật gia Nguyên Trung, An Minh - NXB Thống kê. Hợp đồng kinh tế, thuộc tổ Luật học Uỷ ban khoa học xã hội - NXB khoa học. Bàn về hợp đồng kinh tế. Dương Đăng Huê. Những lỗi thường gặp trong ký kết hợp đồng dân sự, kinh tế ngoại thương. Luật gia Nguyễn Thích Thảo, Lê Nguyễn Thành Nam - NXB Thống kê Giáo trình Luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 1966. Giáo trình Luật Hình sự - Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân, năm 1966. Thông tin chuyên đề - Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ tư pháp - tháng 10 năm1999. Tạp chí Luật học Đại học Luật Hà Nội, các số năm 1999. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật - Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, các số 1998, 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0004.doc
Tài liệu liên quan