Lạm phát - Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

mục lục Lời nói đầu 1 Phần I: Tìm hiểu vài nét về lạm phát 4 I. Khái niệm lạm phát 4 II. Các loại lạm phát 5 1. Lạm phát vừa phải 5 2. Lạm phát phi mã 5 3. Siêu lạm phát 6 III. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát 6 1. Lạm phát từ phía cầu 6 2. Lạm phát từ phía cung 6 IV. Hậu quả của lạm phát 7 V. Một số biện pháp chống lạm phát 8 Phần II: Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 9 I. Bản chất của thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay 9 1. Phải chăng nền kinh

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát - Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế nước ta đang giải phát 9 2.Chỉ số giá tiêu dùng - phương tiện đánh giá lạm phát ở Việt Nam 11 II. ảnh hưởng của giá cả giảm và phương án khắc phục 13 1. ảnh hưởng của giá cả giảm 13 2. Nguyên nhân của giá cả giảm 14 3. Một số phương án khắc phục 16 Kết luận 23 Tài liệu tham khảo 24 Lời nói đầu Như chúng ta đã biết: kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư là bốn mục tiêu kinh tế của mọi quốc gia. Bốn mục tiêu trên đều là những mục tiêu cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau giống như bốn đỉnh của một tứ giác: tứ giác kinh tế. Trong bốn mục tiêu đó thì kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp là những mục tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Đối với nước ta thì tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là quan trọng nhất, bởi vì nhiều số liệu cho thấy do xuất phát điểm của nước ta thấp lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, do đó nước ta vẫn là nước có nền kinh tế kém phát triển, GDP đầu người mặc dù đã tăng nhưng vẫn còn là một trong vài chục nước có GDP đầu người thấp nhất thế giới. Vì vậy, để rút ngắn khoảng cách thì nền kinh tế nước ta phải tăng trưởng cao, nếu không có một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì không những nước ta không rút ngắn được khoảng cách mà còn đứng trước một nguy cơ lớn nhất trong bốn nguy cơ là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nuớc trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, khi đã tụt hậu xa hơn về kinh tế thì các nguy cơ chệch hướng, diễn biến hoà bình và tệ quan liêu tham nhũng cũng sẽ lớn lên theo vì bốn nguy cơ có tác động quan hệ chặt chẽ và có tác động chi phối lẫn nhau, mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao tạo tiền đề cho sự cân bằng cung cầu và do đó có điều kiện để kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho tích luỹ từ nội bộ kinh tế nâng cao, mức sống góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, đồng thời tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu tích luỹ đầu tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán. Nếu như nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát thấp lại là mục tiêu quan trọng thứ hai lạm phát không những tác động trực tiếp đến tiêu dùng và đời sống của người tiêu dùng mà còn tác động lớn đến người sản xuất, kinh doanh, đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phần lớn các nhà kinh tế đều cho rằng ổn định lạm phát ở mức thấp nhất là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với cán cân thanh toán là quan hệ thuận chiều, thì quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là quan hệ khó nhận biết, lúc thuận, lúc nghịch. Trong một thời gian dài việc kiềm chế lạm phát được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Chính phủ. Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên từ năm 1999 trở đi chúng ta lại phải đối phó với một thách thức mới: lạm phát ở mức rất thấp điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút. Như vậy, cả lạm phát quá cao và quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, tuy nhiên nếu ta kiểm soát được lạm phát thì nó lại có tác dụng tích cực, thúc đẩy nền kinh tế là một điều hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia muốn làm được điều này chúng ta phải hiểu rõ: lạm phát là gì? Nó để lại những hậu quả gì? Nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát? Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay ra sao?...và đây cũng chính là nội dung của đề án này. Do trình độ và thời gian có hạn cho nên bài viết này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo để những bài viết sau của em đạt được kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô Lã Thị Lâm đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này. phần I. tìm hiểu vài nét về lạm phát. I. Khái niệm lạm phát. Lạm phát là vấn đề không còn xa lạ đối với một nền kinh tế. Lạm phát được ví như là căn bệnh kinh niên mà hầu hết các nền kinh tế đều gặp phải nhưng để đưa ra một khái niệm về lạm phát là một điều rất khó bởi vì khi trả lời câu hỏi lạm phát là gì? thì đã có rất nhiều quan điểm khác nhau: Theo Samoelson: “ Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung”. Theo FriedMan: “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ.” Theo Mác: “Lạm phát là sự tràn đầy các kênh, luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa”. Theo Keynes: “ Chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết nhân công và năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hóa tăng lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm phát.” Trên đây chỉ là một số quan điểm trong rất nhiều những quan điểm về lạm phát. Như vậy, khi tìm hiểu về khái niệm lạm phát chúng ta có thể chia ra thành hai trường phái đó là: trường phái những người phản đối thuyết “ số lượng tiền tệ” và trường phái những người ủng hộ hệ thuyết “ số lượng tiền tệ”. Theo trường phái những người phản đối thuyết “số lượng tiền tệ” cho rằng lạm phát là bởi khối lượng tiền giấy ứ đầy kênh, qúa nhiều so với nhu cầu của lưu chuyển hàng hoá; tiền giấy mất giá so với hàng hoá tiền tệ.(vàng), kết quả là nâng cao giá cả hàng hoá. Trong thời gian lạm phát, giá cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng so với mức tăng tiền lương danh nghĩa, vì vậy vừa dẫn đến hạ thấp thu nhập , thực tế của người lao động, vừa làm sâu sắc thêm sự phát triển không đều và không cân đối của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này nghiên cứu lạm phát dựa trên ba vấn đề cơ bản: Thứ nhất: phân tích mối quan hệ tỉ lệ về số lượng và giá trị giữa tiền giấy với tiền vàng lưu thông trong nền kinh tế quốc dân. Thứ hai: trong mối quan hệ giữa khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông với tổng giá cả hàng hoá lưu thông thì điểm xuất phát là tổng giá cả hàng hoá. Nghĩa là giá cả hàng hoá quyết định khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông chứ không phải là ngược lại. Thứ ba: yêu cầu của quy luật lưu thông là khối lượng tiền thực tế lưu thông phải cân bằng với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu khối lượng tiền thực tế lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông thì sẽ xuất hiện lạm phát. Theo trường phái những người ủng hộ thuyết “ số lượng tiền tệ” thì cho rằng việc tăng giá cả hàng hoá nói chung trong một nền kinh tế mà nó phải chịu đựng qua một khoảng thời gian. Hoặc lạm phát là hiện tượng mức giá nói chung tăng lên do nhu cầu vượt quá khả năng cung ứng dẫn đến việc gia tăng lượng tiền cung ứng. Quan điểm này nghiên cứu lạm phát dựa trên cơ sở cho rằng: Thứ nhất: tiền quy ước có giá trị cao hơn với tư cách là phương tiện trao đổi so với bất kỳ cách sử dụng nào khác. Bởi vì giá trị của tiền vượt xa chi phí sản xuất ra nó và giá trị của tiền được đánh giá theo sức mua của nó. Thứ hai: tiền không có giá trị bên trong (thực thể), chỉ có giá trị trong lĩnh vực lưu thông và lượng giá trị phụ thuộc vào số lượng tiền tệ trong lưu thông theo quan hệ tỉ lệ nghịch. Nghĩa là số lượng tiền trong lưu thông càng lớn thì giá trị một đơn vị tiền tệ càng nhỏ và làm cho giá cả tăng lên. Thứ ba: trong mối quan hệ giữa số lượng tiền cần thiết trong lưu thông với giá cả hàng hoá và dịch vụ lưu thông thì giá cả hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào số lượng tiền. Do vậy, khi số lượng tiền trong lưu thông tăng lên sẽ làm cho giá cả chung tăng lên. Những điều kiện trên cho thấy các trường phái kinh tế khác nhau đều thống nhất ở điểm cho rằng: mức giá chung của hàng hoá và dịch vụ tăng lên là biểu hiện của lạm phát. Tuy vậy, họ lại có quan điểm khác nhau căn bản về vấn đề này, đó là: Sự phân biệt về mức giá tăng lên do lạm phát và không phải do lạm phát gây ra. Cơ sở nghiên cứu lạm phát cũng được giải thích không giống nhau. II. Các loại lạm phát Lạm phát vừa phải. Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động nguy hiểm đối với nền kinh tế mà trái lại nó còn có tác dụng kích thích sản xuất thúc đẩy các hoạt động đầu tư. Lạm phát phi mã. Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát bột phát là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Siêu lạm phát. Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã. Chẳng hạn, như tại Việt Nam năm 1988 tỉ lệ lạm phát ở nước ta là 308% đứng thứ 3 sau Brazil (934%) và Peru (1.722%). Trong tình trạng đó, cuộc sống nói chung trở nên đắt đỏ hơn, thu nhập thực tế giảm sút mạnh mẽ, “thuế lạm phát” là một sắc thuế vô hình, thuế phi chính thức đánh vào những ai đang cầm giữ tiền. Đặc biệt là tình trạng trật tự kinh tế bị rối loạn, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến. III. nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Lạm phát từ phía cầu (lạm phát do cầu kéo). Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá. Như vậy bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Lạm phát từ phía cung (lạm phát do chi phí đẩy). Ngay cả khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên thực tế đã xảy ra lạm phát ở nhiều nước, cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ”. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng, dầu, điện...) là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: thiên tai, chiến tranh, sự biến động chính trị, kinh tế... đã gây ra các cuộc lạm phát đình trệ trầm trọng trên quy mô thế giới. Lạm phát do tiền tệ. Do Nhà nước phát hành quá nhiều tiền vào lưu thông để bù đắp thâm hụt ngân sách, làm cho lượng cung tiền tệ tăng lên. Khi đó dân chúng nắm giữ nhiều tiền thì họ sẵn sàng trả mức giá cao hơn cho cùng một đơn vị hàng hoá làm cho giá cả tăng lên dẫn đến lạm phát. IV. Hậu quả của lạm phát. Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân,tập đoàn và các giai tầng trong xã hội, đặc biệt với những người có mức thu nhập cố định như công nhân viên chức, cán bộ hưu trí...Có thể nói lạm phát là một thứ thuế vô hình đánh vào thu nhập ổn định của họ. Trong khi đó, giới doanh nghiệp dù là nhà sản xuất hay doanh nhân đều có cơ hội kiếm được nhiều lợi nhuận nhờ sự gia tăng giá cả mạnh đối với các mặt hàng tồn kho. Giá cả tăng đời sống kinh tế trở nên khó khăn hơn. Do số lượng tiền tệ gia tăng qúa nhiều trong khi khối lượng hàng hoá sản xuất ra không tăng kịp hoặc thậm chí giảm sút khiến sức mua đồng tiền giảm sút nghiêm trọng và giá cả gia tăng cao làm cho đời sồng người dân ngày càng khó khăn hơn. Vì giá cả gia tăng quá cao nên cần phải có một khối lượng tiền thật lớn mới mua được một món hàng có giá trị không cao lắm. Ví dụ như trong cuộc siêu lạm phát xảy ra ở Đức sau thế chiến I, với tỉ lệ lạm phát đôi khi vượt 1000% một tháng. Cuối kỳ siêu lạm phát vào năm 1923 mức giá đã tăng lên30 tỉ lần mức đúng 2 năm trước đó. Số lượng tiền cần thiết để mua dù một món đồ tầm thường nhất cũng tốn rất nhiều: có một câu chuyện xảy ra vào gần cuối một cuộc lạm phát là một xe cút kít tiền mặt chỉ đủ mua một ổ bánh mỳ. Do giá cả tăng nhanh nên tình trạng đầu cơ tích trữ lan tràn. Hàng hoá khan hiếm khiến người mua phải chấp nhận mua bằng mọi giá. Trái với trật tự bình thường “trên thị trường khách hàng là Thượng đế”, trong tình trạng lạm phát thì “nhà sản xuất trở thành vua trên thị trường”. Do giá cả luôn thay đổi vừa bất trắc, vừa bất ổn nên không ai nghĩ đến chuyện đầu tư lâu dài, phần lớn các nhà hoạt động kinh tế chỉ tập trung vào mục tiêu có tính từng đợt, từng thương vụ thu hồi vốn nhanh. Như vậy lạm phát đã gây ảnh hưởng đến trật tự kinh tế. Lạm phát gây ra những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế. Có những doanh nghiệp, ngành nghề có thể phất lên và trái lại cũng có những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Lạm phát đã gây ra những khó khăn về tài chính. Khi xảy ra lạm phát thì những món nợ phát sinh trước kỳ lạm phát đã trở nên thuận lợi cho con nợ và bất lợi cho chủ nợ. Hoạt động tín dụng rất khó khăn vì không ai muốn bỏ tiền ra cho vay sau đó thu về một mớ đồng tiền mất giá. Do đồng tiền mất giá nên không thể thực hiện tốt chức năng đo lường giá trị khiến cho dân chúng có khuynh hướng dùng công cụ khác để đo lường trong trao đổi, tính toán và định giá trị hàng hoá. V. một số biện pháp chống lạm phát. - Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách nâng cao tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lãi suất tái chiết suất, hạn chế tín dụng cung cấp cho các ngân hàng trung gian. Huy động tiền gửi từ công chúng bằng cách nâng cao lãi suất tiết kiệm, phát hành trái khoán công trái. Đưa dự trữ vàng và ngoại tệ ra bán để thu hút bớt tiền thừa trong lưu thông. - Thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, đó là: Hạn chế chi tiêu ngân sách Nhà nước, kiểm soát và chống thất thoát trong chi tiêu ngân sách, chống tham nhũng. Tăng thu ngân sách bằng cách chống thất thu thuế, vay nợ của dân chúng nhằm rút ngắn cách biệt giữa chi và thu dần dần tiến đến cân bằng thu chi ngân sách. Cần kết hợp vừa nhập khẩu hàng hoá để sớm đưa vào thị trường các mặt hàng đang thiếu và lên giá, nhằm chặn đứng nhanh chóng và hữu hiệu cơn sốt giá cả vì khan hiếm hàng hoá, làm cho giá cả sớm đi vào ổn định, vừa phải chú ý đến việc gia tăng sản xuất trong nước nhằm gia tăng một cách vững chắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ để tạo cơ sở vững chắc cho việc chống lạm phát. phần hai- nhìn nhận lạm phát ở việt nam trong giai đoạn hiện nay. I. Bản chất của thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay. Phải chăng nền kinh tế nước ta đang giảm phát? Hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu đó là tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp có mối quan hệ phi tuyến, ta có thể thấy mối quan hệ đó ở nước ta trong 15 năm đổi mới qua bảng sau: Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 GDP(%) 2.33 3.64 5.98 4.69 5.10 5.96 8.65 8.07 Tỉ lệ LP (%) 774.7 223.1 393.3 34.7 67.1 67.5 17.5 5.2 Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 6 tháng đầu 2001 GDP(%) 8.84 9.54 9.34 8.8 5.8 4.8 6.7 7.2 Tỉ lệ LP (%) 14.4 12.7 4.5 5.6 9.2 0.1 -0.6 -0.72 Nhìn vào bảng trên ta thấy: vào cuối thập niên 80 nước ta phải đối đầu với nạn siêu lạm phát, đặc biệt là vào năm 1986 lạm phát ở nước ta lúc đó đạt mức kỉ lục 774.7%. Đứng trước nạn lạm phát đó vào cuối những năm 1980 cùng với những chủ trương cải cách kinh tế đồng thời sớm nhận thức được nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam là do phát hành tiền quá nhiêù trong lưu thông nhằm giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước, cho nên các giải pháp chống lạm phát, ổn định tiền tệ được chọn là nhằm thắt chặt tiền tệ, phấn đấu cân bằng ngân sách. Thành tích đáng ghi nhận của công cuộc chống lạm phát ở nước ta được đánh dấu bằng thời điểm vào năm 1992 chúng ta đã chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách mà thay bằng tăng cường vay vốn trong và ngoài nước. Sau khi khắc phục được lạm phát nền kinh tế nước ta đã bắt đầu tăng trưởng và tăng trưởng với tốc độ cao. Như vậy, từ những số liệu trên ta cũng có thể nhận thấy rằng với một mức lạm phát vừa phải nó đã có tác dụng tích cực thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng. Nhưng khi đạt được tốc độ tăng trưởng kỷ lục 9.5% năm 1995, nền kinh tế nước ta lại có dấu hiệu đi xuống, chỉ số lạm phát liên tục giảm và chỉ số này giảm chỉ còn 0.1% năm 1999 và -0.6% năm 2000, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nó chỉ đạt 4.8% năm 1999 và 6.7% năm 2000. Sang đến năm 2001 chỉ số lạm phát vẫn tiếp tục giảm mạnh: chỉ số lạm phát 6 tháng đầu năm 2001 so với tháng 12 năm 2000 là 99.28% (tức là giảm 0.72%). Đây là một hiện tượng chưa từng có ở nước ta từ trước đến giờ, chưa khi nào chỉ số lạm phát ở nước ta lại thấp như vậy trong thời gian gần đây. Vậy phải chăng nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng giảm phát? Nhưng không phải vậy, bởi vì hiện tượng giảm phát xảy ra khi hai đặc trưng cơ bản của nó cũng xảy ra, đó là: Các mặt hàng giảm giá liên tục. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. * Xét ở đặc trưng thứ nhất: Mặc dù con số thống kê cho thấy năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001 chỉ số giá tiêu dùng CPI là -0.6% và -0.72%. Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm cho CPI giảm là do chỉ số giá nhóm hàng lương thực và thực phẩm liên tục giảm, trong đó chỉ số giá nhóm hàng lương thực giảm mạnh nhất (giảm 5.7% trong 6 tháng đầu năm 2001) mà quyền số để tính CPI trong những năm này và cho đến 6 tháng đầu năm 2001 của nhóm hàng lương thực thực phẩm vẫn là 22.44%, như vậy nó chiếm một tỉ trọng lớn trong các hàng hoá tiêu dùng, do đó có thể khẳng định rằng chỉ số giá tiêu dùng giảm không đồng nghĩa với tất cả các mặt hàng đều giảm giá. Giá lương thực giảm mạnh không những trực tiếp kếo CPI giảm xuống mà nó còn gián tiếp tác động làm cho sức mua và giá cả đối với hàng hoá dịch vụ khác giảm theo. Bởi vì nước ta là một nước nông nghiệp, gần 76% dân số của cả nước đều làm nghề nông, lương thực chính là sản phẩm hàng hoá chủ yếu, là nguồn thu nhập chính của nông dân. Việc giá nông sản giảm đã làm cho nông dân bị thiệt hại rất lớn, khoảng 2500 tỉ đồng trong năm 2000, còn 6 tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đạt khoảng1.5 tỉ USD, chưa bằng một nửa so với kế hoạch 3.2 tỉ USD. Cả năm 2001 tính riêng mặt hàng gạo, sự thua thiệt của nông dân lên tới 8000 tỉ đồng, nếu tính tất cả hàng nông sản (cà phê, hạt điều, tiêu, chè...) con số này lên tới 15000 tỉ đồng. Do đó giá lương thực nói riêng và giá nông sản nói chung giảm đồng nghĩa với thu nhập của người nông dân giảm, làm cho sức mua của 3/4 dân số ở khu vực nông thôn giảm cho dù sản xuất nông nghiệp vẫn tăng trên 4%. Đối lập với sự giảm giá ở nhóm mặt hàng lương thực- thực phẩm và một số nhóm mặt hàng khác thì giá nhiều mặt hàng công nghệ phẩm trong 6 tháng đầu năm 2001 đã tăng lên khá cao so với cùng kỳ năm 2000 như: giá nhóm dược phẩm y tế đã tăng 1.7%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2.9%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2.4%... điều này đã gây nên sự bất hợp lý trong quan hệ tỉ giá giữa lương thực- thực phẩm và dịch vụ. * Xét ở đặc trưng thứ 2: năm 2000 tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6.7% (kế hoạch tăng từ 5.5- 6%), trong 6 tháng đầu năm 2001 GDP cả nước tăng 7.2%. Như vậy, xét toàn bộ 2 đặc trưng trên có thể kết luận rằng: Nền kinh tế nước ta không ở trong tình trạng giảm phát mà chỉ là hiện tượng giảm giá đối với một số nhóm mặt hàng nhất định. 2. Chỉ số giá tiêu dùng- phương tiện đánh giá lạm phát ở Việt Nam Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số của từng tỉnh thành phố được tính theo công thức Laspayre với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra hộ gia đình đa mục tiêu do tổng cục thống kê tiến hành năm 1995. Danh mục mặt hàng đại diện thu thập giá gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I (trong mỗi nhóm đều bao gồm hàng hoá và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng), 34 nhóm cấp II và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả phần dịch vụ (xem bảng*).Ví dụ trong nhóm tiêu dùng cấp I: lương thực- thực phẩm có 4 nhóm tiêu dùng cấp II là nhóm lương thực, nhóm thực phẩm, nhóm chất đốt dùng cho nấu ăn và nhóm ăn uống ngoài gia đình. Từng nhóm tiêu dùng cấp II lại được chia thành nhiều nhóm tiêu dùng cấp III như nhóm lương thực được chia tiếp thành 3 nhóm: thóc gạo, lương thực khác và lương thực chế biến. Khi tính chỉ số giá, giá tiêu dùng bình quân năm 1995 được dùng làm giá kỳ gốc cố định. Hàng tháng, tổng cục thống kê sẽ công bố chỉ số CPI với 4 gốc so sánh: kỳ gốc (năm 1995); tháng trước, tháng 12 năm trước. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ được công bố riêng, không bao gồm trong chỉ số giá tiêu dùng. Để tính CPI, hàng tháng các tỉnh tiến hành thu thập giá tiêu dùng trên địa bản tỉnh trong 3 ngày (25 tháng trước, ngày 5 và 15 tháng báo cáo). Về nguyên tắc giá tiêu dùng được thu thập từ các chợ đại diện là những chợ bán lẻ có khối lượng hàng hoá lớn, phong phú có đầy đủ các mặt hàng lưu thông trong phạm vi khu vực mà chợ đó đại diện. Số lượng mặt hàng điều tra của các tỉnh có thể khác nhau, khoảng từ 250 đến 300 mặt hàng, riêng thành phố Hồ Chí Minh điều tra tới 340 mặt hàng. Biểu * Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng Nhóm hàng hóa dịch vụ Mã số Quyền số (%) Chỉ số chung Lương thực thực phẩm Lương thực Thực phẩm Chất đốt dùng cho nấu ăn ăn uống ngoài gia đình Đồ uống và thuốc lá May mặc, mũ nón, giày dép Nhà ở và vật liệu xây dựng Thiết bị và đồ dùng gia đình Dược phẩm, y tế Phương tiện đi lại, bưu điện Giáo dục Văn hoá, thể thao, giải trí Đồ dùng và dịch vụ khác 0 01 02 03 04 1 2 3 4 5 6 7 8 9 100.00 60.86 22.44 29.93 3.83 4.66 4.09 6.63 2.90 4.60 3.53 7.23 2.50 3.79 3.86 Theo như biểu (*) có 10 nhóm hàng hoá và dịch vụ cấp 1 tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng, các mức quyền số này đã được tổng cục thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu hộ gia đình trong năm 1995 ở Việt Nam. Trong đó, quyền số cố định của nhóm hàng cấp I lương thực thực phẩm lên tới gần 61% trong khi quyền số cố định của 9 nhóm hàng cấp I còn lại chỉ ở mức một con số, thấp hơn rất nhiều. Như vậy xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ nửa cuối những năm 1990 đến nay chủ yếu chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả lương thực, thực phẩm. Qua phân tích ở trên ta thấy cách xác định tỉ lệ lạm phát thực tế ở Việt Nam hiện nay còn khá nhiều điều chưa hợp lý, vì so với thời điểm 1995 đến nay đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã có nhiều thay đổi đáng kể, và mức quyền số của nhóm hàng lương thực- thực phẩm sẽ không còn phù hợp nữa. Mặc dù hiện nay ở nước ta cũng đã đưa ra một số giải pháp đánh giá lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng mới được tính theo công thức Laspoyre với kỳ gốc cố định là giá tiêu dùng bình quân cả năm 2000 tính trên danh mục hàng hoá, dịch vụ mới và quyền số mới. Trong đó danh mục hàng hoá và dịch vụ mới bao gồm 400 loại phổ biến tiêu dùng hiện nay (tăng 100 mặt hàng so với danh mục cũ), quyền số mới cũng thay đổi so với quyền số cũ, cụ thể là cơ cấu chi tiêu cho lương thực- thực phẩm giảm từ 60.86% xuống còn 47.66%. Riêng cơ cấu chi tiêu cho lương thực giảm từ 22.44% xuống còn 13.08%, điều đó có nghĩa là từ nay sự tăng, giảm giá lương thực nói riêng và giá cả lương thực thực phẩm nói chung sẽ không ảnh hưởng nhiều đến sự tăng, giảm của giá tiêu dùng như cách tính trước đây nữa. Tuy nhiên tính đến 6 tháng đầu năm 2001 thì cách tính mới này vẫn chưa được áp dụng. II.ảnh hưởng của giá cả giảm và phương án khắc phục ảnh hưởng của giá cả giảm. a/ Mặt tích cực. Đối với người tiêu dùng: giá thấp, người tiêu dùng sẽ được lợi, giá càng giảm có nghĩa là tiền lương, thu nhập thực tế của người lao động tăng (vẫn đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng lương nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động), đời sống được cải thiện, góp phần ổn định chính trị xã hội. Đối với sản xuất: giá thấp sẽ là một áp lực thường xuyên buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải nhanh chóng thực hiện các biện pháp quản lý hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng với thị trường. Ngoài ra, giá cả giảm một cách có kế hoạch còn làm cho hàng hoá trong nước ngày một rẻ hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng trong nước so với thị trường thế giới, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán. b/ Mặt tiêu cực Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đang gặp khó khăn chưa kịp chuyển đổi với yêu cầu của thị trường, nếu mà giá cả thấp sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả tới bờ vực phá sản, làm cho tỉ lệ thất nghiệp tăng lên. Khi giá tiêu dùng giảm làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm, điều này được thể hiện: người có vốn sẽ không mở rộng đầu tư mà họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi đúp (lãi ngân hàng và lãi do đồng tiền lên giá). Ngược lại, người không có vốn lại không muốn vay ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh vì giá cả hàng tiêu dùng giảm, mức độ rủi ro lớn. Do giá có xu hướng giảm đã tác động người tiêu dùng chờ khi giá giảm tới mức thấp I sẽ mua, số tiền dư thừa đó gửi vào tiết kiệm có hiệu quả hơn. Do vậy đã ảnh hưởng tới việc tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, theo số liệu báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà nước, tổng phương tiện thanh toán đến 31/12/1999 tăng 39.3%, 31/12/2000 tăng 26.5%. Như vậy, tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại. Về phương diện lí luận thì mức tăng trưởng cung tiền phải ngang bằng với mức tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại, điều đó có nghĩa là lượng tiền cung ứng ra nếu không làm tăng lạm phát thì nó phải tham gia vào quá trình trao đổi làm tăng sản lượng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế không còn tăng được nữa thì việc cung ứng thêm tiền chỉ dẫn đến sự tăng giá mà thôi. Nhưng thực tế thì mức tăng trưởng cung tiền đã vượt xa mức tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ lạm phát cộng lại. Như vậy, ở nước ta đã và đang xảy ra “qúa trình tích luỹ thầm lặng” của các chủ thể kinh tế. Quá trình này đã hút tiền vào các “kho chứa” đưa nền kinh tế vào tình trạng phát triển cầm chừng. Khi mà vốn được tích luỹ lại không đưa vào quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng thì sẽ làm giảm tổng cầu gây suy thoái kinh tế. Tình trạng này kéo dài làm cho các nguồn lực không được sử dụng hết, ảnh hưởng đến thu nhập và công ăn việc làm của toàn quốc gia. Một lượng lớn tiền tệ được đưa vào cất trữ tạo nên nguy cơ tiềm ẩn gây ra một cú sốc lạm phát trong tương lai. Khi các chủ thể kinh tế đang nắm giữ nhiều tài sản dạng tiền, lúc đó tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông, cân đối tiền hàng vẫn được xác lập, lạm phát không xảy ra, nhưng khi nền kinh tế xuất hiện các dấu hiệu lạm phát, lượng tiền lớn trong cất trữ được đẩy vào lưu thông để săn lùng hàng hoá làm giảm giá cả tăng vọt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Nguyên nhân của giá cả giảm Một là: tình hình diễn biến của kinh tế thế giới đang rất phức tạp, chứa đựng những yếu tố tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta. Mức tăng trưởng của kinh tế thế giới năm 2001 dự đoán không chỉ kém năm trước mà còn thấp hơn năm 1998 là năm chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở nhiều nước châu á và thế giới. Sự suy giảm kinh tế của các nước khu vực cùng với các biện pháp hạ lãi suất, giảm giá đồng tiền, tăng hàng rào bảo hộ được áp dụng ở nhiều quốc gia để ứng phó với tình thế khiến cho thị trường tiêu thụ hàng hoá và thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta thêm khó khăn, sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại bị bất lợi thêm về tỉ giá và bị thua thiệt do sự giảm giá trên thị trường thế giới nhất là giá nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc cần được tháo gỡ ngay trong 6 tháng cuối năm 2001. Hai là: sức mua của dân cư còn hạn chế ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Hiện nay, ở nhiều địa phương, cơ sở, tập thể, cá nhân có nhu cầu lớn về hàng hoá nhưng không có khả năng thanh toán. Thu nhập của nông dân vùng nông thôn, miền núi đạt thấp, đồng vốn co hẹp, nên sức mua rất thấp. Mặc dù chính phủ có các giải pháp nhằm kích cầu và đầu tư song các biện pháp đó đi vào thực tiễn còn chậm, hiệu quả chưa cao. Ba là: tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại chậm được khắc phục nên hàng nước ngoài tràn vào, giá rẻ làm ảnh hưởng đến sản xuất hàng hoá trong nước. Mặc dù chính phủ, các bộ ngành địa phương có nhiều biện pháp ngăn chặn, song tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới, nhất là đường bộ và đường biển vẫn chưa giảm mà có chiều hướng gia tăng. Hàng ngoại tràn vào trốn thuế nên giá trị làm ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng hoá không bán được ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất và vòng quay đồng vốn. Bốn là: các chính sách tiền tệ và quản lý điều hành nền kinh tế còn hạn chế. Ngân hàng đã nhiều lần hạ lãi suất cho vay song tình trạng đọng vốn ở các ngân hàng thương mại vẫn còn lớn. Việc cho vay đến hộ sản xuất kinh doanh còn nhiều phiền hà, chậm trễ, khiến cho nhiều hộ chưa phấn khởi đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất. Năm là: việc thực hiện bước đầu của luật thuế mới (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế đầu tư nước ngoài...) đã từng bước đi vào thực tiễn cuộc sống, song vấn đề quản lý thực hiện làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, ảnh hưởng đến nguồn thu thuế và ngân sách. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế cho phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế. Hoàn thiện đơn giản các sắc thuế để áp dụng một hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Một số phương án khắc phục. Mặt bằng giá của nước ta hiện nay về cơ bản sự giảm sút nó có những vấn đề cung cầu như đã phân tích; song cũng phải thấy rằng dù còn “nhỏ bé” liều lượng phản ảnh còn ít chưa thật rõ nét nhưng sự giảm sút giá cả vừa qua đã xuất hiện những dấu hiệu của nền kinh tế đưa lại, hay nói cách khác là giá thâp đã bước đầu phản ánh những chuyển biến tích cực về chất của nền kinh tế. Đó là việc năng suất lao động trong các nghành kinh tế tăng lên làm cho chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Cụ thể, trong ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29614.doc
Tài liệu liên quan