Lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục

MỞ ĐẦU Ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển nền kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là bài toán khó đối với tất cả các quốc gia. Việt Nam đã gia nhập WTO nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Thời gian qua thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng quy luật k

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ, ... Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sẽ làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Năm 2008 vừa qua đã chứng minh điều đó. Lạm phát như là một hiện tượng của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động. Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, ở nước ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trọng nền kinh tế xã hội. Và đặc biệt là thời gian gần đây, từ cuối năm 2007, nhất là năm 2008 lạm phát đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta một cách sâu sắc. Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát, em tìm hiểu và viết đề tài : “ Lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục”. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm và phân loại lạm phát: 1.1. Khái niệm về lạm phát: Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả". Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các quy luật về hàng hoá không được tôn trọng, nhất là các quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Trong bộ “ Tư bản” nổi tiếng của mình C.Mác viết: “ Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình”. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: “ Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = ∑ ip.d Ip: chỉ số giá cả của từng nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng 1.2. Phân loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/1 năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…. Có thể nói lạm phát vừa phải tạo nên tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với cả tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm ở mức phi mã. Lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra. Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng: Lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong một thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó thường phức tạp và trầm trọng hơn. Các nhà kinh tế học đã chia lạm phát thành 03 loại. Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%/năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%/năm; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%/năm. 2. Nguyên nhân gây ra lạm phát: 2.1. Lạm phát theo thuyết tiền tệ: Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá…có nhiều nguyên nhân như: thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng cao. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng cũng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng dẫn theo các mặt hàng thiết yếu cũng tăng. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách: - Theo lý thuyết tiền tệ: lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Kêyns: lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy: lạm phát sinh ra do tăng về chi phí sản xuất (chi phí đẩy). Trên thực tế, lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong hằng đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn luôn giảm sức cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng 2 cách: * Ngân hàng Trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). * Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về trung và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2- 3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn tới lạm phát nghiêm trọng Ví dụ: Năm 1966 – 1967 Chính phủ Mỹ đã sử dụng tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên một tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 2.2. Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát do cầu kéo): Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm. Nếu cầu về hàng hoá vượt mức cung xong sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cẩu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ. Sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. 2.3. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát “đình trệ”. Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong giai đoạn 1972 -1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra, sự suy sụp của giá dầu năm 1980 cũng làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi về chính trị, an ninh quốc phòng…. Song yếu tố trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. 2.4. Lạm phát dự kiến: Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vùa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trượng hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người có thể dự kiến được trước nên gọi là lạm phát dự kiến. 2.5. Các nguyên nhân khác: Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ tiền nhiều càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất gía càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây lên lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách vay tiền của nhân dân thông qua hình thức bán tín phiếu, trái phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nếu thâm hụt ngân sách tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc và lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. 3. Những tác động của lạm phát: Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. * Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với lĩnh vực sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh- sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có tiền nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá của đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải bằng tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm….Các ngành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 1. Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam: Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được biểu hiện giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. Thời kỳ 1938 – 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vở vét của cải của nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống Phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhân, bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939-1945 bình quân cao hơn 25 lần. Thời kỳ 1946 – 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp. Thời kỳ 1955 – 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở Miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Mặc dù được Chính phủ Mỹ đổ tiền của vào với khối lượng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp nổi chi phí. Thời kỳ Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đã lạm phát lên gấp 5 lần với hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở Miền Nam năm 1975. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. Thời kỳ 1965 – 1975: Ở miền Bắc Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc). Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu kinh nghiệm trong thời bình nên duy trù quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chỉ tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng mấy năm gần đây, mức độ lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 2. Nhận dạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Thực tế hiện nay ở Việt Nam, lạm phát đang là vấn đề trọng tâm của các chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô. Năm 2007 vừa qua, mặc dù với mức tăng trưởng kinh tế GDP 8,5% đã đạt mức tăng kỷ lục kể từ năm 1992 đến nay vì chỉ số giá tiêu dùng CPI (lạm phát) cũng đã lên đến hai con số, với mức 12,63%. Từ đầu năm 2008 đến nay, “ cơn bão giá” vẫn tiếp tục tăng mạnh ở hầu hết các mặt hàng từ các hàng hoá chiến lược cho CNH, HĐH đất nước như xăng dầu, vật liệu xây dựng, các hàng hoá có giá trị lớn và vàng. Cho đến các nhu cầu yếu phẩm đời thường cho người dân như thịt cá, rau củ. Vượt qua mọi dự đoán chỉ số CPI tháng 2/2008 vừa qua đã có mức tăng kỷ lục 3,56% so với tháng 1. Đây là mức tăng cao nhất kể từ khi Việt Nam hội nhập vào WTO. Như vậy, nếu tính chung cả 2 tháng đầu năm 2008 thì mức tăng của CPI đã lên tới 6,02% so với tháng 2/2007 khiến cho chỉ số CPI của nước ta đã lên tới 14,89% so với cùng kỳ năm ngoái, và 6 tháng đầu năm 2008 là 18,44%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 2008 dừng chân ở mức 22,97%. Sau đợt tăng mạnh trong ba tháng đầu năm (trong đó “nóng” nhất là tháng năm tăng tới 3,91%), đến tháng sáu chỉ số CPI đã tăng chậm lại do các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ. Đến tháng 10-2008, CPI quay ngược, tăng âm liền trong ba tháng, kéo chỉ số CPI cả năm xuống - trái với các dự báo đầu năm cho rằng CPI 2008 có thể lên đến 25-30%. Chính phủ đã có nhận định kịp thời: “ Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt qua nguồn thu và việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những yếu tố đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát. Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm tới chính sách tài chính tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của Chính phủ, của các cấp, các ngành vì sự phát triển và ổn định. Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực Châu Á vì GDP của Việt Nam là 70 tỷ USD chỉ tương đương với 1% GDP của khu vực này trừ Nhật Bản. Vì vậy, Chính phủ đã đưa ra tám giải pháp đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát, trong đó quan trọng nhất là đình hoãn các công trình chưa thật cần thiết, cắt giảm 10% chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước, thắt chặt chính sách tiền tệ… Kết quả, trên 3.100 công trình dự án với khoảng 37.000 tỉ đồng được đình hoãn, giãn tiến độ 2.700 tỉ đồng chi thường xuyên của các cơ quan đơn vị được cắt giảm. Tháng 12-2008, Chính phủ đưa ra năm nhóm giải pháp chống suy giảm kinh tế, đồng thời dự tính chi 1 tỉ USD kích cầu, hỗ trợ doanh nghiệp, làm sống động nền kinh tế. Bên cạnh gói giải pháp này sẽ có một loạt biện pháp khác như giảm, giãn nộp thuế, tổng trị giá gói giải pháp có thể lên tới trên 6 tỉ USD. Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm một tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30- 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp. Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trượng rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả trong sản xuất kinh doanh đã dẫn đến vòng tròn luẩn quẩn. Hiệu quả giảm dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, và lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh giảm sút và cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo và lạc hậu. Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt phải sinh ra một đế chế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động tập trung nguồn vốn….Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều tác động tiêu cực. Nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng.Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác sự ảnh hưởng của nó dã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần làm tăng lạm phát. Lạm phát của một nền kinh tế đóng phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vận của Mỹ. Nguyên nhân nữa dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và một số nước XHCN là một cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn đáng kể cho nền sản xuất kinh doanh. Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát ở Việt Nam có cơ cấu tổ chức của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được do sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Lạm phát ở một nước chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách…. Những khoản này làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và thúc đẩy gia tăng lạm phát. Việt Nam là một nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch hoạ do đó ngân sách cũng phải trang trải. 3. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam: Lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát càng trở nên phức tạp. *Lạm phát tiền tệ: Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát. Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau: Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai ... Trong đó có nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường. Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Công ty bảo hiểm, ... liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V. Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này rất quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên đã khiến cho công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân hàng, phi ngân hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi nhuận, tới vốn. Do vậy vòng quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý V càng khó khăn phức tạp hơn. Khi có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải pháp tăng vòng quay đồng tiền (V) lại tăng lượng cung tiền mặt vào lưu thông, làm cho lượng tiền mặt có trong lưu thông (T) thường xuyên tăng lên. Lượng tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện toạ chi ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V) thực tế đã tăng lên. Điều này khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa tiền (D) và hàng, làm lạm phát gia tăng đột biến. Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên. Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư nước ngoài … Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn. Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có. * Lạm phát cầu kéo: Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2006, 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ ...). Chính vì chúng đặt mục tiêu đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP cao: 8,5 – 9% trong năm 2008 nên đã dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn. Và thực tế đã chứng minh lạm phát năm 2008 đạt con số 22,97%. * Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép …, sắp tới là ngành điện. Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng nóng như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó.Thứ nhất, nguyên nhân lạm phat từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh đóng cửa….thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời nhu câu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu chi ngân sách….thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ….Đó là nguyên nhân sâu xa đưa đến nền kinh tế lâm vào lạm phát. Thứ hai, do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân chúng vào cách điều hành của nhà nước làm cho đồng tiền Việt Nam mất giá. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32290.doc