Lạm phát ở VN. Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1/ Định nghĩa và phân loại lạm phát 1.1/ Định nghĩa Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hêt các loại hàng hoá tăng lên đồng loạt. Đặc trưng của lạm phát: - Hiện tượng tăng giá quá mức của lương tiền trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị mất giá. - Mức giá cả chung tăng lên. Để tính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá. Chỉ số giá thường được sử dụng là chỉ số giá t

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát ở VN. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu dùng (CPI). Ngoài ra, người ta còn sử dụng những chỉ số giá khác như: chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số giảm lạm phát GNP. 1.2/ Phân loại Dựa vào tỷ lệ tăng giá, các nhà kinh tế phân lạm phát ra làm ba mức độ khác nhau: - Lạm phát vừa phải: khi giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức một con số hàng năm (dưới 10% một năm). - Lạm phát cao: khi giá cả hàng hoá tăng ở hai con số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). - Siêu lạm phát: khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên. 2/ Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Qua nghiên cứu, có các quan điểm như sau: 2.1/ Lạm phát do cầu kéo Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng mức cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng là do: - Tổng khối lượng tiền lưu hàng tăng: do thiếu hụt ngân sách, vay mượn nước ngoài. - Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng: do hệ thống chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị xói mòn, từ đó gây tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá. 2.2/ Lạm phát do chi phí đẩy Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, đó là lạm phát do chi phí đẩy. Chi phí tăng lên vì: - Tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. - Các cuộc khủng hoảng về nhiên nguyên vật liệu cơ bản như: dầu mỏ, sắt thép. 2.3/ Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt mức toàn dụng (nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã khai thác tối ưu), mức cung hàng hoá và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hoá. Do đó khiến cho khối lượng hàng hoá không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường làm cho giá cả tăng lên. Khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ đầy đủ để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 2.4/ Lý thuyết ca tụng lạm phát của J.M.Keynes J.M.Keynes đã có công vạch rõ tác động của việc in thêm tiền vào kinh tế: Khi nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng, nếu nhà nước mạnh dạn phát hành thêm tiền để gia tăng đầu tư thì sẽ thu được kết quả tích cực: - Chống được khủng hoảng kinh tế - Giảm thiểu được tình trạng thất nghiệp Trường hợp này, lạm phát được nhà nước chủ động sử dụng như là một công cụ để kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế đã toàn dụng, nếu nhà nước vẫn tiếp tục in thêm tiền đưa vào nền kinh tế, khối hàng hoá và dịch vụ không gia tăng của khối cung tiền. Khi đó, lạm phát không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngoài những nguyên nhân trên còn có nhiều nguyên nhân khác dẫn tới lạm phát như: các chính sách nhà nước, chiến tranh, thiên tai,… 3/ Tác động của lạm phát Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tuỳ theo mức độ của nó. Nếu là lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể. nếu là lạm phát cao thương gây những tác hại nặng nề cho nền kinh tế và đời sống. Tuy nhiên, nếu lạm phát đó được dự báo, tiên đoán trước thì không gây gánh nặng lớn kinh tế vì người ta có thể có những giải pháp để đối phó. Nếu lạm phát không dự đoán trước dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế. Một số tác động của lạm phát: 3.1/ Tác động phân phối lại thu nhập và của cải Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả các loại tài sản nói chung đều tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công an lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại. 3.2/ Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm Như đã nói ở trên, trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân. Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến. Theo “Lý thuyết trao đổi về lạm phát” của nhà kinh tế học A.W.Phillips thì một nước có thể mua môt mức để thất nghiệp thấp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn. 3.3/ Các tác động khác Trong lĩnh vực lưu thông, kho vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hoá thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động của nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của những khoản công phí. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định. TTTT CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 1/ Thực trạng lạm phát ở nước ta Lạm phát hiện nay ở Việt Nam là một hiện tượng có nguyên nhân tiền tệ, bắt nguồn từ phản ứng thiếu đồng bộ của hai chính sách vĩ mô là tăng trưởng tiền tệ - tín dụng và ổn định tỷ giá, dẫn đến hậu quả làm thặng dư cung tiền. Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê, tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn 9.34% so với cùng kỳ năm trước, và khoảng 8,12% so với đầu năm. Qua diễn biến kinh tế và một số động thái chính sách của Việt Nam hiện nay, có đối chiếu trên những khía cạnh tương tự với một số nước trong khu vực, đi đến kết luận rằng tình trạng lạm phát hiện nay ở Việt Nam là hậu quả tổng hợp của một số hiện tượng kinh tế đặc thù đi liền với sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa một số chính sách vĩ mô trong thời gian qua. Hiện tượng kinh tế đặc thù được lưu ý ở đây là sự tăng trưởng mạnh mẽ của kiều hối (bao gồm một phần rất lớn và ngày càng tăng tiền gửi của người đi xuất khẩu lao động), kết hợp với sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Một sự kết hợp nữa là trong năm 2006, quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của thị trường chứng khoán đã đạt những bước phát triển lớn, khiến Việt Nam trở thành một địa điểm hấp dẫn và dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy mạnh vào nước ta. Theo ước lượng không chính thức, có khoảng hơn 5 tỷ USD kiều hối đã được gửi về, và khoảng 1 đến 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp đã được chuyển vào trong nước trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007. Các chính sách kết hợp không đồng bộ, bao gồm hai chính sách lớn sau: (1) chính sách tăng trưởng cung tiền và tín dụng theo đà của các năm trước (2) chính sách neo tỷ giá ổn định theo đồng USD thông qua can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại hối. Một đặc điểm vĩ mô quan trọng bậc nhất của Việt Nam gần đây có lẽ là sự gia tăng nhanh chóng của dòng tiền gửi về từ nước ngoài, trong đó một phần rất lớn từ người đi lao động, tạm gọi tất cả các khoản tiền gửi kiểu này là kiều hối. Xét trên phương diện quy mô to lớn tương đối của dòng kiều hối, thì Việt Nam chỉ đứng sau Philippines là nước trong khu vực đã có truyền thống xuất khẩu lao động từ lâu, và có những đặc điểm kinh tế khá tương đồng. Do đó, sau đây chúng ta sẽ sử dụng trường hợp Philippines để đối chiếu với tình trạng ở Việt Nam. Một số chỉ tiêu vĩ mô của Philippines, 2002-2006 2002 2003 2004 2005 2006 Kiều hối (%GDP) 12.8 12.9 13.3 13.8 13.2 Thâm hụt thương mại (%GDP) -7.2 -7.4 -6.6 -5.9 -7.7 Cân đối tài khoản vãng lai (%GDP) -0.4 0.4 1.8 2.0 2.8 Cân đối tài khoản vốn (%GDP) 1.4 0.9 -1.8 1.6 -0.4 Thay đổi dự trữ ngoại tệ (%GDP) -2.1 -1.3 -0.6 -3.2 -3.2 Tỷ giá danh nghĩa (trung bình kỳ) 51.6 54.2 56.0 55.1 49.8 REER (trung bình kỳ) 96.2 89.1 86.2 92.3 101.4 Tăng trưởng GDP (%) 4.4 4.9 6.2 5.0 5.5 Tăng CPI (%) (cuối năm) 2.5 3.9 8.6 6.7 4.3 Nguồn: IMF (2007) Một số chỉ tiêu vĩ mô của Việt Nam, 2002-2006 2002 2003 2004 2005 2006 Kiều hối (%GDP) 5.1 5.2 5.1 6.0 5.6 Thâm hụt thương mại (%GDP) -3.0 -6.4 -5.0 -1.6 -0.6 Cân đối tài khoản vãng lai (%GDP) -1.9 -4.8 -3.4 0.4 0.3 Cân đối tài khoản vốn (%GDP) 3.3 10.1 5.4 3.6 4.5 Thay đổi dự trữ ngoại tệ (%GDP)* -1.3 -5.3 -1.9 -4.0 -4.7 Tỷ giá danh nghĩa (trung bình kỳ) 15.244 15.475 15.704 15.816 15.957 REER (trung bình kỳ, 1990 =100) 94.9 86.3 87.3 98.6 102.9 Tăng trưởng GDP (%) 7.1 7.3 7.8 8.4 7.5 Tăng CPI (%) (cuối năm) 4.0 2.9 9.7 8.8 7.5 Nguồn: IMF (2006b), *: Dấu (-) nghĩa là thay đổi tăng Từ hai bảng trên, chúng ta có thể nhận thấy Philippines hàng năm nhận một lượng kiều hối nhiều hơn Việt Nam rất nhiều kể cả tương đối (so với GDP) lẫn tuyệt đối (vì GDP của Philippines lớn hơn của Việt Nam khoảng 1.5 lần). Tuy nhiên, xét trên mối tương quan với GDP, thâm hụt thương mại của Philippines tương đối trầm trọng, cộng với các khoản trả lãi vay nước ngoài tương đối lớn, nên có thể nói dòng kiều hối chủ yếu được dùng để tài trợ cho khoản thâm hụt này trong tài khoản vãng lai. Kết quả là bất chấp lượng kiều hối khổng lồ chuyển về mỗi năm, cán cân vãng lai chỉ thặng dư khoảng từ 2% đến dưới 3% GDP. Bên cạnh đó, thặng dư cán cân tư bản của Philippines tương đối thấp, và có khuynh hướng dao động quanh mức zero. Kết quả là sức ép mua lại ngoại hối của cơ quan tiền tệ ở Philippines, trong trường hợp nước này muốn can thiệp để ổn định tỷ giá, chỉ bắt đầu xuất hiện từ năm 2005, với mức tăng dự trữ ngoại hối thêm hơn 3% GDP mỗi năm. Trong khi đó, ở Việt Nam, tuy tỷ trọng kiều hối không lớn như ở Philippines, nhưng thâm hụt thương mại chưa nghiêm trọng như ở nước này, nên cán cân vãng lai được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, và kể từ năm 2005 có khuynh hướng thặng dư (nhưng còn ở mức thấp hơn nhiều so với Philippines). Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng của Việt Nam là cán cân tư bản luôn có thặng dư rất đáng kể, đã dẫn tới khả năng dư thừa ngoại hối thậm chí lớn hơn ở Philippines. Để giữ tỷ giá neo tương đối ổn định vào đồng USD, cơ quan tiền tệ Việt Nam đã liên tục mua lượng ngoại hối thặng dư trên thị trường. Kết quả là dự trữ ngoại tệ mỗi năm đã tăng lên rất mạnh, chẳng hạn như năm 2005 tăng thêm 4% GDP, còn năm 2006 gần 5% GDP. Như vậy, có thể nói một đặc điểm quan trọng của Việt Nam gần đây là sự tăng trưởng nhanh chóng của cả hai dòng tiền từ bên ngoài là kiều hối và đầu tư nước ngoài. Các con số cập nhật gần đây (chưa chính thức) cho thấy trong nửa cuối năm 2006 và quý I năm 2007, dòng tiền này còn được bồi đắp thêm nhờ dòng vốn đầu tư gián tiếp, hướng tới thị trường chứng khoán Việt Nam và chuẩn bị cho các khoản mua cổ phần từ các doanh nghiệp nhà nước chuẩn bị được cổ phần hoá. Kết quả là, để giữ cho đồng Việt Nam không lên giá quá nhanh, cơ quan tiền tệ Việt Nam đã mua vào (theo các tuyên bố trên báo chí) khoảng hơn 7 tỷ USD (14% GDP). Chính sách này đã làm tăng nhanh lượng cung tiền trong nền kinh tế. Điều này được coi là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng lạm phát hiện nay. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là: Vì sao, ở một số nền kinh tế khác, cụ thể là Trung Quốc, cơ quan tiền tệ cũng phải đối mặt với lượng thặng dự ngoại tệ hằng năm rất lớn (chủ yếu từ thặng dư thương mại), trong khi vẫn giữ vững quyết tâm can thiệp để neo đồng nội tệ ổn định vào USD, lại không xuất hiện tình trạng lạm phát cao như ở Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét chính sách tiền tệ gần đây của Trung Quốc và đối chiếu nó với tình hình Việt Nam. 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng trưởng M2 (%) 14.4 16.8 19.6 14.6 17.6 -- Tăng trưởng tín dụng (%) 6.4 30.7 19.6 10.9 13.6 -- Tăng trưởng tiền dự trữ (%) 9.2 13.3 17.1 11.4 9.3 -- Tăng trưởng dự trữ ngoại hối (%) -- 35.3 39.7 49.0 33.4 26.6 Dự trữ ngoại hối/GDP (%) 16.5 20.3 25.1 32.0 36.6 -- Tỷ giá danh nghĩa 8.28 8.28 8.28 8.28 8.07 -- REER 104.8 101.9 94.5 91.9 91.9 -- Mức tăng CPI 0.7 -0.8 1.2 3.9 1.8 1.5 Tăngtrưởng tiền tệ và tín dụng ở Trung Quốc, 2001-2006 Nguồn: IMF (2006). Thay đổi cuối kỳ. Riêng REER và CPI là trung bình kỳ Bảng trên cho thấy mức tăng CPI ở Trung Quốc trong những năm vừa qua ở mức rất “lý tưởng”, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn hầu như ở mức hai con số. Cần lưu ý ngay rằng, nước này cũng phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến “chi phí đẩy,” như là giá cả các mặt hàng thiết yếu và năng lượng trên thế giới tăng không khác gì, thậm chí có thể lớn hơn, so với Việt Nam. Tăng trưởng tiền tệ và tín dụng ở Việt Nam, 2001-2006 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng trưởng M2 (%) 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 38.6 Tăng trưởng tín dụng (%) 21.4 22.2 28.4 41.6 31.7 21.4 Tăng trưởng tiền dự trữ (%) 16.7 12.4 27.4 16.1 23.7 30.9 Tăng trưởng dự trữ ngoại hối (%) -- 14.4 58.4 15.1 31.7 32.8 Dự trữ ngoại hối/GDP (%) 10.1 10.6 14.4 14.8 16.8 19.1 Tỷ giá danh nghĩa 15070 15368 15608 15739 15875 15957 REER 100.4 94.9 86.3 87.3 98.6 102.9 Nguồn: IMF (2006b). Thay đổi cuối kỳ. Riêng REER là trung bình kỳ Thực tiễn cho thấy kết quả cuối cùng là Trung Quốc đã không trải qua lạm phát cao, trong khi Việt Nam luôn phải gánh chịu lạm phát cao (trên 6%) liên tiếp kể từ năm 2004. Thêm vào đó, tăng trưởng ở Trung Quốc vẫn được giữ ở mức cao hơn Việt Nam, thặng dư thương mại lớn (dự trữ ngoại hối đã tăng ngoạn mục từ mức 16.5% năm 2001 lên 36.6% GDP vào năm 2005), và giá trị đồng nội tệ ổn định (tỷ giá danh nghĩa chỉ giảm khoảng 2.5% trong giai đoạn 2001-2005). Như vậy, có cơ sở để nhận định rằng Việt Nam đã thực hiện chính sách can thiệp tăng dự trữ ngoại tệ nhưng không đồng thời thắt chặt tiền tệ, nên đã dẫn tới lạm phát cao. Trong khi đó, Trung Quốc đã thực hiện thắt chặt tiền tệ rất có chủ ý để kết hợp hài hoà với chính sách giữ ổn định đồng Nhân dân tệ, và đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nói tóm lại, trường hợp Trung Quốc cho thấy bài học đáng giá rằng kiểm soát tăng trưởng tiền tệ và tín dụng vẫn là phương tiện căn bản, quan trọng và hữu hiệu hàng đầu giúp kiểm soát lạm phát. Một bài học nữa có thể rút ra, là sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách vĩ mô có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể trong trường hợp này, khi cơ quan tiền tệ đã xác định có kế hoạch mua vào một lượng ngoại tệ lớn, thì nó cũng đồng thời phải tiến hành kế hoạch thắt chặt cung tiền một cách đồng bộ. 2/ Kinh nghiệm chống lạm phát Giải pháp chống lạm phát của một số nước trên thế giới: Trong năm 2007, do chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là sự tăng giá liên tục với mức độ lớn của các loại hàng hóa như dầu mỏ, lương thực, dầu thực vật, đã dẫn đến tình trạng lạm phát với mức độ khác nhau ở các nước trên thế giới. Để ứng phó với tình trạng này, giảm bớt gánh nặng cho nền kinh tế, chính phủ các nước cũng đã thực thi hàng loạt các biện pháp để kiềm chế lạm phát. PNga: Sử dụng tổng hợp các biện pháp để kiềm chế lạm phát: Năm 2007, tỉ lệ lạm phát ở Nga là 8,7%. Để kiểm soát giá cả, đặc biệt là giá lương thực tăng vọt, ngay từ năm 2007, Chính phủ Nga đã đưa ra hàng loạt các biện pháp: - Nâng cao tỉ lệ lãi suất gửi ngân hàng, kiểm soát việc lưu thông lượng tiền lớn quá lớn, tăng thêm dự trữ vàng. - Tung ra thị trường 1,5 triệu tấn lương thực dự trữ nhằm giảm bớt áp lực tăng giá lương thực. - Tăng cường điều tiết xuất nhập khẩu, nâng thuế xuất khẩu lúa và hạt mạch từ 0% lên 10 và 30%, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng như sữa, rau quả, dầu ăn từ 15% xuống 5%, đồng thời xóa bỏ những hạn chế việc nhập khẩu thịt hộp đến từ Trung Quốc, Mỹ và Brazil. - Trực tiếp can thiệp về giá cả, thông qua việc chính phủ thỏa hiệp giá cả hàng hóa với các hãng sản xuất, kinh doanh hàng hóa lớn trong nước đồng thời hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp liên quan. - Tấn công các hành vi vi phạm giá cả, sử dụng biện pháp trừng phạt kinh tế và xử lý hành chính với các doanh nghiệp vi phạm việc nâng giá. - Nâng cao mức lương hưu cơ bản và tuyên bố vào nửa cuối năm 2008 tiếp tục tăng lương để giải quyết khó khăn trong sinh hoạt của người hưu trí. Hiện nay, các biện pháp trên của Chính phủ Nga đã có hiệu quả bước đầu và tháng 1/2008, xu hướng lạm phát giá cả lương thực, thực phẩm của Nga thấp hơn cùng kỳ năm ngoái. PHàn Quốc: tích cực thực hiện các biện pháp giảm áp lực lạm phát: Mức độ lạm phát hàng hoá của Hàn Quốc năm 2007 là 2,5%, phá kỷ lục kể từ 5 năm trở lại đây. Vào đầu năm 2008, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách ổn định giá cả hàng hóa thời gian ngắn, trong đó có các biện pháp sau: - Thành lập tổ công tác về chính sách liên ngành đối với sự ổn định giá cả với sự tham gia của 14 cơ quan trung ương như Bộ Tài chính kinh tế, Bộ Tài nguyên, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm, Cơ quan y tế thực phẩm... Ủy ban trao đổi thương mại bình đẳng. Nhiệm vụ là theo dõi, kiểm soát những sản phẩm tăng giá quá nhanh, thành lập “nhóm điều tra hiện trường” điều tra, theo dõi về việc sản xuất, lưu thông hàng hóa liên quan đến dân sinh. Chính quyền địa phương cũng thành lập cơ quan chỉ đạo và Ủy ban đối sách về giá cả để theo dõi xu hướng lên xuống của giá cả và đề ra chính sách tương ứng. - Tăng cường điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính phủ và cơ quan tài chính sẽ điều chỉnh phù hợp chính sách tiền tệ, kiểm soát thị trường ngoại hối. - Miễn giảm thuế, tăng cường trợ cấp cho những gia đình có thu nhập thấp, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp thông qua các quỹ hỗ trợ tài chính cho giáo dục, hỗ trợ phúc lợi,  miễn giảm thuế. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tạo thêm các cơ hội việc làm cho những người  nghèo trong xã hội, sử dụng ngân sách chính phủ giúp giảm bớt áp lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi bán phá giá không chính đáng, trọng điểm là những hành động lũng đoạn giá cả, tăng cường giám sát các hành vi tăng giá cao các sản phẩm hàng hóa như dầu mỏ, lương thực, phòng ngừa những giao dịch không minh bạch thông qua lợi dụng thị trường và địa vị chính trị. PNhật bản: đẩy mạnh kiểm soát việc lưu thông hàng hóa cần thiết cho cuộc sống để ổn định giá cả: Nhật Bản luôn là một trong những quốc gia trên thế giới ổn định nhất về giá cả các loại hàng bán lẻ và cách làm dẫn đến sự thành công đó là: - Coi trọng tính ổn định trong việc cung cấp các sản phẩm cần thiết cho cuộc sống. - Chính phủ kiểm soát khâu lưu thông và đưa ra mức giá của hàng hóa, kiểm soát, điều tiết hiệu quả việc sản xuất và khâu thị trường. Hiện nay ở một số nơi đã xây dựng các trung tâm cung cấp sản phẩm hàng bán lẻ quy mô lớn để tiện cho chính phủ trong việc kịp thời, nắm bắt tình hình, tạo cơ sở  nhanh chóng ổn định giá cả. - Xây dựng, kiện toàn hệ thống mạng thông tin, kịp thời công khai các thông tin về thị trường để phòng ngừa lạm phát và các hành động cạnh tranh không lành mạnh. PThái Lan: kết hợp kiểm soát đồng bộ để giá cả không tăng nhanh: Để kiểm soát sự tăng giá hàng hóa quá nhanh, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện đồng bộ hai biện pháp. - Coi lương thực, rượu, sữa, bình ắc-quy, bốn loại hàng hoá thuộc vào những mặt hàng bắt buộc chịu sự quản lý về sản xuất, kinh doanh, bất cứ hành vi tăng giá những mặt hàng này đều phải được sự cho phép của Bộ Thương mại. Kế hoạch "lá cờ xanh” – Blue Flag do Chính phủ Thái Lan đề ra yêu cầu các hãng cung ứng hàng hóa phải đưa ra thị trường các loại thực phẩm và đồ đi kèm với sự tiện lợi về dịch vụ giao hàng và giá phải rẻ hơn những cửa hàng thông thường. - Chính phủ đẩy mạnh hoạt động tấn công các hành vi vi phạm giá bán của hàng hóa và bất cứ ai đầu cơ tích trữ, căn cứ vào luật pháp để phạt tiền rất cao, nếu nghiêm trọng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp: thực hiện “giá chuẩn” tránh sự biến động bất thường của giá cả: P Pháp: Để duy trì sự ổn định cơ bản của giá cả các loại hàng hóa, Chính phủ Pháp đã xây dựng hệ thống giá cả lấy “giá chuẩn” làm trung tâm, có sự hỗ trợ tài chính và trợ giá ở các mức độ khác nhau. Mục đích của việc này nhằm tránh cho giá cả thị trường lên xuống không có trật tự, Chính phủ luôn kiểm soát và điều tiết được mức giá. Để thực hiện mức “giá chuẩn”, chính phủ Pháp đã phối hợp đồng bộ và hiệu quả với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, các hãng phân phối, kinh doanh hàng hoá, các cơ quan thông tin về giá cả và cả các chính sách vĩ mô điều tiết kinh tế. 3/ Biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam và hiệu quả đạt được 3.1/ Biện pháp Từ giữa năm ngoái các chuyên gia đã cảnh báo mạnh mẽ về nguy cơ lạm phát, về những hậu quả khôn lường mà lạm phát có thể gây ra cho tất cả mọi người dân, nhất là những người nghèo, phải chịu; về mối hiểm nguy, về những nguyên nhân chính của lạm phát, về những cách hành xử không phù hợp của chính quyền v.v. Những cảnh báo đôi khi rất khó nghe, tuy nghiêm túc đó, đã làm cho không ít người bực mình. May thay Nhà nước đã có những thay đổi theo đúng hướng, Ngân hàng Nhà nước đã vào cuộc với một loạt biện pháp cứng rắn: nâng dự trữ bắt buộc, thắt chặt cho vay chứng khoán, cảnh báo về cho vay bất động sản, tăng lãi suất tái cấp vốn, tăng lãi suất cơ bản, đến buộc các ngân hàng thương mại mua tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước phát hành. Bản thân việc can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước là việc làm cần thiết, chứng tỏ Nhà nước đã thay đổi nhận thức của mình và là hành động đúng hướng: Giảm tổng lượng cung tiền. - Tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc, bắt buộc mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (chứ không phải trái phiếu của Bộ Tài chính) là các công cụ chính sách tiền tệ hữu hiệu để giảm lượng cung tiền. - Giám sát chặt chẽ cơn khát đầu tư của các tập đoàn kinh tế nhà nước, không để cho các tập đoàn này liên kết với nhau tham gia quá mức vào các lĩnh vực tài chính ngân hàng, vào kinh doanh bất động sản, những lĩnh vực có vẻ dễ ăn "xổi" nhưng đầy rủi ro, thắt chặt chi tiêu ngân sách, tăng cường hiệu quả đầu tư là cách làm khôn ngoan để chống lạm phát mà vẫn có thể có tăng trưởng bền vững. Như thế các biện pháp của ngân hàng nhà nước là đúng hướng, là đáng hoan nghênh, nhưng còn nhiều việc nữa, nhất là bớt chi tiêu ngân sách, chi tiêu và đầu tư một cách có hiệu quả mà nhà nước phải làm và có thể làm để chống lạm phát và để có tăng trưởng bền vững. Đối với NH Nhà nước có năm nhóm giải pháp. - Một là thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng và chủ động; sử dụng linh hoạt các công cụ trên theo nguyên tắc thị trường để khắc phục ba tồn tại lớn của năm trước. - Hai là tiếp tục mua ngoại tệ dự trữ trên cơ sở nguồn tiền cung ứng đã được duyệt, đồng thời hút tiền về bằng nhiều công cụ phù hợp với từng thời điểm. - Ba là chính sách tỉ giá phải giữ ổn định giá trị VND nhưng cũng tính toán thuận lợi cho xuất khẩu. - Bốn là không để lãi suất âm. - Cuối cùng là củng cố, lành mạnh hóa hệ thống tổ chức tín dụng và các định chế tài chính; kiểm soát cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Theo văn bản 319/TTg-KTTH (ngày 3/3) có 16 biện pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát năm 2008: - Cải thiện môi trường đầu tư để huy động đủ vốn đáp ứng cho yêu cầu tăng trưởng; đồng thời, phải đặc biệt quan tâm nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư, nhất là lĩnh vực đầu tư công; xem xét lại những công trình, dự án đọng vốn quá lâu, thiết kế ban đầu không còn phù hợp nữa hoặc công trình đầu tư kém hiệu quả; đình hoãn hoặc dãn những công trình chưa thật cần thiết. - Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các chính sách, nhất là giữa chính sách tài chính-tiền tệ với chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. - Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt; điều hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hạn chế bội chi ngân sách, đi đôi với triển khai thực hiện tốt chính sách tiền lương, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu... bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau để đạt hiệu quả cao nhất. - Về tiền tệ, tín dụng, NHNN công bố và thực hiện việc hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để bảo đảm khả năng thanh toán; đồng thời, xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc, tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố, bảo đảm phù hợp với tình hình diễn biến tiền tệ và khả năng chịu đựng của các tổ chức tín dụng. - Thực hiện chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường; điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, sử dụng có hiệu quả các công cụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất… - Thực hiện chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc tại các ngân hàng thương mại hiện nay về NHNN để bảo đảm tạo điều kiện thực hiện tốt việc điều hành chính sách tiền tệ. - Tiếp tục thực hiện mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư, tính toán xem xét thứ tự ưu tiên việc mua ngoại tệ cho các đối tượng. - Nghiên cứu triển khai phát hành Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi về, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư ra nước ngoài. - Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đô la Mỹ và ngoại tệ mạnh khác theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động ± 2%. - Điều hành hoạt động tín dụng ngân hàng ở mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30% nhưng phải đáp ứng được yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Chống đầu cơ bất động sản qua kiểm soát tín dụng và thuế - Không để thị trường Chứng khoán đi xuống 3.2/ Hiệu quả đạt được Những giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra không tránh khỏi có những tác động phụ và gặp phải những phản ứng, những ý kiến không đồng thuận; hơn nữa trong một thời gian còn ngắn, một số giải pháp mới đề ra lộ trình, nhưng chưa đến thời điểm thực hiện, song bước đầu đã có những kết quả tích cực. Kết quả dễ thấy nhất là lãi suất tiết kiệm đã được nâng lên. Lãi suất tiết kiệm trong một thời gian khá dài bị "thực âm" làm cho người có tiền nếu gửi tiết kiệm thì bị thiệt hại; hoặc không muốn gửi vào ngân hàng mà chạy lòng vòng và chôn vào vàng, bất động sản, tiêu xài, không đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh nhằm tăng trưởng kinh tế thì đất nước bị thiệt hại; đó là chưa nói nó tạo ra sức ép lên lạm phát. Việc nâng lãi suất tiết kiệm của các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần đã hé lộ ra ba điểm: quản trị doanh nghiệp, phòng ngừa rủi ro của không ít ngân hàng còn yếu kém; tính thanh khoản của một số ngân hàng không cao. Nếu có biện pháp tạo sức ép đối với các ngân hàng thương mại, thì các ngân hàng buộc phải nâng lãi suất huy động lên, khi lãi suất huy động tăng lên thì người dân sẽ gửi mạnh tiền vào ngân hàng, tiền trong lưu thông sẽ được hút vào, vừa làm cho người gửi tiền không bị thiệt thòi, vừa không tạo áp lực lạm phát. Kết quả rõ nhất là đã có tác động làm giảm độ nóng trên thị trường bất động sản. Thị trường bất động sản sau khi ấm, nóng vào đầu và giữa năm 2007, từ cuối năm 2007, đầu năm 2008 đã bước vào cơn sốt giá lần thứ ba, với tốc độ tăng tính bằng lần, đã và đang có xu hướng lan rộng từ các đô thị lớn, từ các thành phố ra các thị xã, các thị trấn, thị tứ trên cả nước. Cơn sốt bất động sản đã hút vào đây hàng trăm nghìn tỉ đồng của các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, riêng TP.HCM đã thu hút gần 35 nghìn tỉ đồng; đó là chưa kể có hàng trăm nghìn tỉ đồng vốn tự có của các doanh nghiệp, cá nhân được rút từ tiết kiệm, thị trường chứng khoán hoặc không đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh mà đã được chôn vào bất động sản, làm cho giá bất động sản thành “bong bóng”, đồng thời làm cho nhu cầu thực sự của người dân, nhất là những người có thu nhập thấp càng trở nên xa vời. Mặc dù chưa có các biện pháp khác (xác định hạn mức sử dụng để tính thuế thu nhập, thuế lũy tiến...), nhưng chỉ với việc hạn chế nguồn vốn từ ngân hàng thương mại đổ vào đây (thông qua một số biện pháp gián tiếp) đã hạ sốt giá trên thị trường này. Tuy giá chưa trở về mức trước khi sốt, nhưng đã bớt và chặn bớt được cơn sốt lan truyền ra cả nước. Đến 31.12.2007, dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán là 13.149 tỉ đồng, chiếm 1,49% tổng dư nợ của 43 tổ chức tín dụng cho vay đầu tư chứng khoán (ước tính bằng 1,37% tổng dư nợ toàn hệ thống tổ chức tín dụng); hiện chỉ còn 2 công ty tài chính có dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán vượt 3%. Việc giảm cho vay đầu tư chứng khoán tuy còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đó là chủ trương đúng đắn và việc thực hiện như thế là nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, cần có sự điều chỉnh tỷ lệ cho phù hợp với các loại ngân hàng có quy mô tín dụng khác nhau; các ngân hàng thương mại phải có cơ chế tự giám sát để bảo toàn cho mình và cho toàn hệ thống. Giải pháp mới là phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ, mà còn cho phép các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có uy tín, có nhu cầu ngoại tệ chính đáng được phép phát hành để huy động ngoại tệ trôi nổi trong nền kinh tế và cả lượng ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang được coi là "thừa". Đây là giải pháp có tác dụng kép: vừa hút được USD về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông tạo sức ép lạm phát, vừa ổn định được tỷ giá. Trung Quốc cũng đã áp dụng giải pháp này và đã đạt kết quả tích cực: vừa tăng mạnh dự trữ (hiện đã lên đến 1.530 tỉ USD, lớn nhất thế giới, vượt xa nước đứng thứ hai là Nhật Bản), vừa khống chế tốc độ tăng giá. Vấn đề đặt ra là cần có mức lãi suất trái phiếu phải đủ sức hấp dẫn và sử dụng có hiệu quả số USD huy động được từ trái phiếu. Gần đây quyết định của ngân hàng về các biện pháp chống lạm phát đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi của các chuyên gia trong và ngoài nước, mà phần lớn tỏ ra không đồng tình về các quyết định có tính cách hành chính hơn là tuân theo các qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27415.doc
Tài liệu liên quan