Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng, xu thế của quá trình hội nhập

LỜI MỞ ĐẦU Ở các nước có thị trường Bảo hiểm- ngân hàng phát triển mạnh trên thế giới như Đức, Pháp, Tây Ban Nha…hoạt Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu ngày nay có sự đóng góp không nhỏ của thị trường tài chính tín dụng nói chung, đặc biệt là sự đóng góp ngày càng to lớn của 2 ngành tài chính- dịch vụ Ngân hàng, Bảo hiểm nói riêng. Theo xu hướng vân động chung của thế giới, sự giao thoa giữa các ngành tài chính dịch vụ ngày càng trở nên phổ biến. Điển hình phải kể tới là sự x

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng, xu thế của quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích lại gần nhau hơn của hệ thống ngân hàng-bảo hiểm. - đó là sự liên kết trong hoạt động kinh doanh giữa hai lĩnh vực theo hướng tạo ra sự thuận tiện nhất cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ. động liên kết đã trở nên rất phổ biến. Nó được coi là kênh phân phối sản phẩm hàng đầu của các doanh nghiệp bảo hiểm và đóng góp chủ yếu vào doanh thu phí của thị trường. Ở những thị trường Bảo hiểm còn chưa phát triển mạnh như Việt Nam hiện nay. Hoạt động liên kết còn khá mới mẻ, chưa được thị trường áp dụng rộng rãi và mức đóng góp vào thị trường còn hạn chế. Tuy nhiên, trước xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, khi thị trường bảo hiểm đang đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt nó đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải có sự thay đổi trong chiến lược Marketing, đặc biệt là chiến lược kênh phân phối phù hợp hiệu quả. Từ thành công của các nước trên thế giới, có thể khẳng định: Bán bảo hiểm qua ngân hàng sẽ là một trong những kênh phân phối hiệu quả, thúc đẩy bán hàng và doanh thu phí bảo hiểm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng mà Chính phủ Việt Nam đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước. Xuất phát từ thực tế này và qua quá trình học tập, tìm hiểu về ngân hàng- bảo hiểm, em đã quyết định chọn đề tài “Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng, xu thế của quá trình hội nhập” cho đề án môn học của mình. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình tìm hiểu, song do đây là một đề tài khá mới, thời gian và trình độ còn hạn chế nên đề án không thể tránh khỏi những điểm còn khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của cô để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Thị Hải Đường đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Linh PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN I. LIÊN KẾT BẢO HIỂM - NGÂN HÀNG LÀ XU HƯỚNG TẤT YẾU 1. Sự cần thiết phải liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là một xu hướng tất yếu vì: Do nhu cầu về dịch vụ tài chính một cửa và sự thay đổi nhu cầu của khách hàng. Chẳng hạn, khách hàng có thể mua bảo hiểm ngay tại Ngân hàng hoặc có thể sử dụng hợp đồng bảo hiểm để vay vốn ngân hàng, hoặc có thể nộp phí cho các hợp đồng bảo hiểm thông qua hệ thống Ngân hàng: Thẻ ATM, thẻ tín dụng … Do nhu cầu đầu tư của khách hàng chuyển từ sản phẩm tiết kiệm đơn giản sang sản phẩm phức tạp Do tác động của cạnh tranh làm giảm biên lợi tức của Ngân hàng cũng như của Doanh nghiệp Bảo hiểm, điều này đòi hỏi Ngân hàng và các Doanh nghiệp Bảo hiểm phải đa dạng hoá các kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm để tạo thêm lợi nhuận, năng suất để tạo ưu thế cạnh tranh đặc biệt là các công ty gia nhập sau. Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng sẽ giúp thực hiện được điều này. Do yêu cầu tiết kiệm chi phí hoạt động Chính sách tự do hóa hoạt động tài chính và xu hướng phi trung gian hóa dẫn tới sự giao thoa giữa Bảo hiểm và Ngân hàng 2. Các khái niệm liên quan 2.1 Khái niệm Bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mặc dù đã rất cố gắng để đề phòng nhưng con người vẫn luôn gặp phải những rủi ro bất ngờ.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các rủi ro nhưng bất kể do nguyên nhân nào những rủi ro này thường dẫn đến những tổn thất không thể lường trước được.Đó có thể là những thiệt hại về giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, ngưng trệ sản xuất và kinh doanh, đó có thể liên quan đến sức khỏe tính mạng của con người…và làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội nói chung. Để khắc phục hậu quả, từ xa xưa đến nay người ta đã sử dụng nhiều bịên pháp như : tự tích luỹ, đi vay, hình thành các quỹ tương hỗ…và dần dần xuất hiện một hình thức mới đó là bảo hiểm. Như vậy, xuất phát từ mục đích hình thành một loại quỹ tài chính tập trung nhằm hỗ trợ cho những người không may gặp một loại rủi ro tương tự nhau mà bảo hiểm ra đời. Nhưng cho đến nay, người ta chưa xác định được chính xác thời điểm bảo hiểm ra đời cũng như đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác về bảo hiểm. Tuỳ theo từng khía cạnh và theo từng quan điểm người ta đưa ra các khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm sau đây được cho là mang tính chung nhất của bảo hiểm : “ Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia phải nộp một khoản phí nhất định cho chính anh ta hay cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp một khoản phí để hình thành nên quỹ dự trũ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm 2.2 Khái niệm Ngân hàng Ngân hàng là loại tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ , dịch vụ ngân hàng.căn cứ tính chất , mục tiêu hoạt động có các loại : + Ngân hàng thương mại + Ngân hàng đầu tư , phát triển + Ngân hàng chính sách + Ngân hàng hợp tác 2.3 Khái niệm Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng Từ khi ra đời cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau về liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng: Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là sự phân phối các sản phẩm của Bảo hiểm qua hệ thống Ngân hàng, đây là khái niêm được sử dụng khi liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng ra đời, và nó đã và đang là đặc điểm chính của liên kết này. Mặc dù vậy nó không phải là đặc trưng duy nhất. Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là một chiến lược được các công ty Bảo hiểm và các Ngân hàng sử dụng nhằm nâng cao hoạt động của mình trong thị trường tài chính theo cách thức hợp nhất dịch vụ ở mức độ nào đó. Theo cách hiểu này nó mang nghĩa theo một bên, tức là nó ra đời chỉ do ý chí chủ quan của một tổ chức là Công ty Bảo hiểm hoặc Ngân hàng mà thôi, chưa bao hàm được sự hợp tác. Liên kết Bảo hiểm Ngân hàng là việc cung cấp sản phẩm Bảo hiểm và Ngân hàng thông qua hoặc cùng cơ sở khách hàng( Munich Re ). Từ các khái niệm trên, liên kết Bảo hiểm Ngân hàng có thể hiểu một cách đơn giản nhất theo hai khía cạnh chủ yếu là: sự phân phối các sản phẩm Bảo hiểm của các Ngân hàng và sự phân phối các dịch vụ tài chính ngân hàng của các công ty Bảo hiểm. 3. Tác dụng liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng Bảo hiểm Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng ra đời như một yếu tố tất yếu khi mà thị trường phát triển. Và tác dụng của nó mang lại lợi ích cho cả Công ty Bảo hiểm, Ngân hàng và khách hàng. Cụ thể là: Tạo ra nguồn khách hàng mới , cơ hội cho các sản phẩm mới và tiết kiệm được chi phí nhờ quy mô lớn , chia sẻ nguồn dữ liệu về khách hàng.Mở rộng được mạng lưới khai thác, thực hiện đa dạng hoá kênh phân phối sản phẩm, làm cho hiệu quả khai thác ngày càng cao hơn. Có thể thấy, những khách hàng của ngân hàng là những khách hàng tiềm năng lớn đối với các Công ty bảo hiểm vì họ thường có thu nhập trung bình khá trở lên và ít nhiều có thói quen sử dụng dịch vụ tài chính. Còn khách hàng của các công ty Bảo hiểm là thường là các cá nhân , tổ chức , doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, có nguồn vốn nhàn rỗi hoặc đang hoạt động trên thị trường tài chính và đối mặt với nhưng rủi ro vì vậy nhu cầu của họ về các dịch vụ tài chinh là rất lớn, đặc biệt là nhu cầu về vốn. Vì vậy đây cũng là nguồn khách tiềm năng lớn của Ngân hàng. Có thêm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của mình, tăng khả năng duy trì khách hàng và thu hút hơn nhiều khách hàng mới sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng doanh thu từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng mua bảo hiểm. Tăng thu nhập không phải từ lãi thông qua việc thu phí các dịch vụ ngân hàng (phí chuyển khoản, ATM, thẻ tín dụng…), cho thuê mặt bằng giao dịch, hoa hồng từ bán bảo hiểm… Khách hàng được sử dụng các dịch vụ tài chính “trọn gói” với chi phí thấp hơn và thuận tiện hơn. Khách hàng có thể quản lý rủi ro tốt hơn và hoạch định tài sản hiệu quả hơn. Đồng thời, khách hàng có thể được hưởng các dịch vụ gia tăng khác. Bên cạnh đó, khi mua bảo hiểm tại ngân hàng, khách hàng có thể có thêm niềm tin vì có thêm một người nữa để “bảo lãnh uy tín” cho Công ty bảo hiểm. Khách hàng cũng có thể được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi thuế của Nhà nước. Sự liên kết giữa Bảo hiểm và Ngân hàng sẽ tạo ra một liên minh tài chính vững mạnh, năng động tạo thành kênh huy đông vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Một trong những đặc thù riêng của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm là “ sự đảo ngược chu kỳ sản xuất kinh doanh ’’. Việc tiêu thụ sản phẩm dựa theo quy trình : Phí Bảo hiểm – tiền bán sản phẩm Bảo hiểm được thu trước, còn cam kết bồi thường , trả tiền bảo hiểm – giá trị sử dụng của sản phẩm chỉ được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định nào đó.Như vậy từ phí bảo hiểm , các DNBH có trong tay một quỹ tài chính rất lớn. Nhưng quỹ này sẽ không được sử dụng dể bồi thường , chi trả hết ngay , nên DNBH có thể sử dụng lượng “ tiền nhàn rỗi “ này để đầu tư. Những DNBH trở thành những khách hàng lớn của Ngân hàng.Sự tham gia của DNBH trong lĩnh vực huy động vốn cũng tạo ra một sức ép không nhỏ cho các Ngân hàng. Hơn thế nữa , cùng với quá trình phát triển của mình , các Ngân hàng cũng ngày càng nhận thức được những rủi ro mà mình có thể gặp phải vì thế họ cũng trở thành những khách hàng quen thuộc của các DNBH. Chính những lí do trên đã làm cho mối liên kết giữa Bảo hiểm và Ngân hàng ngày càng chở nên chặt chẽ 4.Các mô hình liên kết 4.1 Mô hình Công ty Bảo hiển trong Ngân hàng: Là mô hình các Công ty Bảo hiểm được thành lập bởi các Ngân hàng mà Ngân hàng này trước đó đã tham gia phân phối sản phẩm bảo hiểm cho một hoặc một số công ty Bảo hiểm khác trên thị trường. Sau khi thành lập thì nó hoạt động như một công ty Bảo hiểm thông thường, hạch toán độc lập với Ngân hàng mẹ. 4.2 Mô hình Ngân hàng trong các Công ty Bảo hiểm : Các Công ty Bảo hiểm lớn, tiềm lực tài chính mạnh hoạt động trong một phạm vi rộng, có nhiều chi nhánh, mạng lưới rộng khắp thương có xu hướng thành lập các Ngân hàng trực thuộc, và ngân hàng sẽ là một trong những công ty thành viên của Công ty Bảo hiểm. Hoạt động của các Ngân hàg này như một Ngân hàng thương mại thông thường, nhưng trước hết tập trung phục vụ nhu cầu tín dụng, các dịch vụ thanh toán … cho bản thân Tập đoàn Bảo hiểm, sau đó mới hướng đến khách hàng ngoài hệ thống. 4.3 Mô hình Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác thành lập các công ty liên doanh: Công ty liên doanh là nơi mà cả hai bên Ngân hàng và Bảo hiểm đều phải góp vốn và chia sẻ trách nhiêm quản lý. Bên nào chiếm nhiều ưu thế hơn sẽ chịu trách nhiệm điều hành liên doanh. 4.4 Mô hình Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên kết: Mô hình này tập trung và thiết kế các sản phẩm, cải thiện, mở rộng các kênh phân phối sản phẩm Bảo hiểm. Bancassurance là việc ngân hàng và Công ty bảo hiểm hợp tác với nhau để phát triển và phân phối một cách hiệu quả các sản phẩm ngân hàng và bảo hiểm thông qua việc cung cấp các sản phẩm cho cùng một cơ sở khách hàng. II. MỤC ĐÍCH CÁC SẢN PHẨM LIÊN KẾT NGÂN HÀNG – BẢO HIỂM Giúp cho công ty Bảo hiểm tiết kiệm được rất nhiều chi phí như: thiết lập văn phòng, khâu thanh toán, khâu đào tạo… Do có thể sử dụng hệ thống cung cấp dịch vụ của Ngân hàng, và đội ngũ nhân viên của Ngân hàng thương có trình độ cao, am hiểu về tài chính. Tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường trong việc sử dụng uy tín và thương hiệu của ngân hàng, vì trên thực tế hệ thống ngân hàng thường có uy tín rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Bán các sản phẩm ngân hàng cho khách hàng tham gia bảo hiểm, qua đó giúp giảm thiểu rủi ro phát sinh từ việc giao dịch bằng tiền mặt, giải quyết tốt bài toán thu phí, thanh toán quyền lợi bảo hiểm bằng tiền mặt. Đối với các nước mà người dân có thói quen sử dụng tiền mặt cao như ở Việt Nam, điều này rất có ý nghĩa. Thực tế cho thấy, các Công ty bảo hiểm chịu rủi ro lớn trong việc quản lý tiền mặt trong quá trình thu phí, giải quyết quyền lợi bảo hiểm (mất cắp, tiền giả, nhầm lẫn…) và giải quyết bài toán rất lớn về tổ chức lực lượng thu phí bảo hiểm. Rõ ràng, liên kết Bảo hiểm - Ngân hàng giúp giảm bớt sự lệ thuộc của Công ty bảo hiểm vào hệ thống đại lý và môi giới. III. LIÊN KẾT NGÂN HÀNG – BẢO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI 1. Liên kết bảo hiểm ngân hàng trên thế giới 1.1 Sự ra đời của liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng trên Thế giới Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng lần đầu tiên xuất hiện chính thức ở Pháp vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, nó ra đời như là một kết quả tất yếu của hàng loạt sự thay đổi các yếu tố kinh tế - xã hội. Lúc này nền kinh tế của các nước phát triển có sự thay đổi rất lớn, đặc biệt là sự thay đổi thường xuyên của lãi suất, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế phương tây bị khủng hoảng. Từ sự biến động lãi suất đó, các sản phẩm bảo hiểm truyền thống có các yếu tố tính phí cố định không còn phù hợp ở cả dưới góc độ khách hàng và công ty Bảo hiểm. Xét về phía Công ty Bảo hiểm, khi lãi suất đầu tư luôn biến động để đảm bảo thu được lợi nhuận và chi trả cho khách hàng thì các Công ty Bảo hiểm phải sử dụng lãi suất kỹ thuật để tính phí hết sức thận trọng, vì thế phí bảo hiểm luôn có xu hướng tăng lên. Nếu công ty Bảo hiểm sử dung lãi suất kỹ thuật để tính phí cao thì họ sẽ chiu thiệt khi lãi suất giảm xuông quá thấp. Xét từ phía khách hàng, lãi suất biến động cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng mua các sản phẩm Bảo hiểm của họ, vì họ không còn ưa thích các sản phẩm truyền thống với lãi suất cố định, họ muốn nhận được nhiều hơn khi lãi suất tăng, và họ quan tâm nhiều hơn đến yếu tố đầu tư của sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ, một yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất Ngân hàng. Công ty Bảo hiểm trực thuộc Ngân hàng lần đầu tiên được thành lập tại Pháp và giữa những năm 1980 với việc kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Đến đầu năm 1990, thế giới chứng kiến sự xâm nhập chính thức của các công ty này vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ cũng ở thị trường Pháp. Ở Pháp, với chỉ khoảng 5 năm chính thức hoạt động nhưng đến năm 1990 các công ty Bảo hiểm trực thuộc Ngân hàng đã chiếm 39% thị phần phí thu, đến năm 2000 tỷ trọng này là 61%, số lượng Công ty Bảo hiểm trực thuộc Ngân hàng không ngừng tăng lên theo thời gian. Với mô hình công ty bảo hiểm thành lập ngân hàng thì trên thế giới có thể kể tên một số Ngân hàng như: tại Nhật Bản có Ngân hàng Ashasi trực thuộc Công ty Bảo hiểm nhân thọ Daido, ở Hàn Quốc có Công ty Bảo hiểm nhân thọ TongYang Life với Ngân hàng trực thuộc Kookmin… Tất cả các Ngân hàng này đều đạt doanh thu phí Bảo hiểm rất cao. Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác thành lập công ty liên doanh, tại châu Á mô hình này chiếm 17% trong số các loại mô hình kiên kết Ngân hàng - Bảo hiểm. Tại khu vực châu Mỹ La Tinh, đây lại là hình thức đầu tiên khi xuất hiện liên kết Ngân hàng và Bảo hiểm. một liên doanh sẽ được hình thành bởi một Ngân hàng địa phương và một công ty Bảo hiểm nước ngoài, phát triển và hình thành theo mô hình công ty cổ phần. Và hầu như là các Ngân hàng chiếm quyền điều khiển liên doanh. Hình thức đầu tiên trong liên kết giữa Ngân hàng và Bảo hiểm là Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm và dịch vụ liên kết. Mô hình này, tại thị trường châu Á chiếm 69% tổng các hình thức liên kết. 1.2 Thị trường bảo hiểm nhân thọ Châu Âu: + Thị trường bảo hiểm nhân thọ Đức: Đức là thị trường bảo hiểm lớn, đứng hàng thứ tư trên thế giới và các nhà bảo hiểm nhân thọ Đức có vẻ chuộng kênh phân phối “Bán bảo hiểm qua ngân hàng” Kênh phân phối Tỷ trọng (%) Kênh truyền thống 72 Kênh ngân hàng 23 Kênh trực tiếp 05 Bảng số liệu năm 2002 + Thị trường bảo hiểm nhân thọ Pháp: Pháp là thị trường bảo hiểm lớn, đứng hàng thứ năm trên thế giới (sau Đức) và các nhà bảo hiểm nhân thọ Pháp phát triển kênh phân phối “Bán bảo hiểm qua ngân hàng” rất tốt (năm 1990 tỷ trọng chiếm 39% thì năm 2000 đã là 60%). Kênh phân phối Tỷ trọng (%) Kênh truyền thống 34 Kênh ngân hàng 60 Kênh trực tiếp 06 Bảng số liệu năm 2001 + Thị trường bảo hiểm nhân thọ Ý: Thành công vượt bậc của các nhà bảo hiểm Ý trong việc phát triển kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng” là đưa tỷ trọng doanh thu kênh phân phối này từ 3% (năm 1990) lên 70% (năm 2002). Kênh phân phối Tỷ trọng (%) Kênh truyền thống 30 Kênh ngân hàng 70 Kênh trực tiếp 0 Bảng số liệu năm 2002 1.2 Thị trường bảo hiểm nhân thọ Châu Á: Trong những năm gần đây hầu hết các nhà bảo hiểm châu Á đều nổ lực phát triển kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng”. Tuy kết quả đạt được không bằng các nhà bảo hiểm châu Âu, nhưng nhìn chung rất khả quan (Nhật Bản - một ví dụ điển hình), là một trong những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng phí bảo hiểm nhân thọ ở châu Á sau đợt khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường bảo hiểm. Tỷ trọng đơn bảo hiểm được cung cấp bởi kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng” ở một số quốc gia châu Á chiếm khoảng 5% - 10%. Riêng Hàn Quốc sau 2 tháng đẩy mạnh phát triển kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng”, số đơn bảo hiểm nhân thọ được bán ra đã tăng gấp 3 lần so mức bình quân những tháng trước đó. Hiện nay, liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng đang rất phát triển trên thế giới và đặc biệt là ở Pháp, tỷ lệ phí thu qua các liên kết Ngân hàng - Bảo hiểm ở Pháp là 70% tổng phí thu, tỷ lệ này ở Hongkong là 45% và ở Singapore là 18%... 2. Kinh nghiệm đối với Việt Nam Năm 2008 chứng kiến sự thay đổi trong quá trình liên kết Bảo hiểm - Ngân hàng. Tuy vậy Thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng một cách chính quy, chuyên nghiệp. Qua kinh nghiệm triển khai của các nước trên thế giới có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam : Đa số khách hàng là người dân Việt Nam đều chưa có thói quen mua bán trao đổi hàng hoá, nhất là hàng hoá, dịch vụ vô hình (chẳng hạn sản phẩm bảo hiểm) qua điện thoại và qua mạng internet. Chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng không liên quan đến tiền mặt như rút tiền hoặc thanh toán bằng thẻ tín dụng cá nhân, mở tài khoản cá nhân. Ngoài ra, tại Việt Nam, trong các tầng lớp dân cư cũng chưa hình thành nên thông lệ vay tiền ngân hàng để mua trả góp nhà hoặc ôtô. Trong nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ đa số khách hàng là cá nhân, khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chưa quan tâm đến yếu tố rủi ro, lại tập trung vào yếu tố tiết kiệm (lãi suất) trong bảo hiểm nhân thọ. Hiện tại, Nhà nước Việt Nam chưa có nhiều chính sách ưu đãi cho các công ty bảo hiểm nên các công ty bảo hiểm khó cạnh tranh với ngân hàng về lãi suất. Điều này có nghĩa là, cùng một số tiền đóng cho công ty bảo hiểm hoặc gửi ngân hàng thì lãi suất tiền gửi của ngân hàng bao giờ cũng cao hơn lãi suất đầu tư của công ty bảo hiểm. Vì thế các sản phẩm bảo hiểm liên kết mang tính chất nhân thọ khó có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm Ngân hàng. Để giải quyết vấn đề này cần có sự can thiệp của Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho các công ty Bảo hiểm, đồng thời các công ty bảo hiểm cũng cần tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như làm tốt công tác tuyên truyền, quảng bá cho các sản phẩm của mình Một số ngân hàng chưa tin tưởng vào sự thành công liên kết bảo hiểm qua ngân hàng nên “kiên quyết” bảo mật cơ sở dữ liệu khách hàng của mình khiến công ty bảo hiểm không thể sử dụng khi bán bảo hiểm qua ngân hàng. Đây là một rào cản lớn cho quá trình liên kết mà muốn thực hiện thành công doanh nghiệp Bảo hiểm phải vượt qua. Sau khi triển khai liên kết , cần phải thiết kế được những sản phẩm đơn giản mang lại hiệu quả cao.Ngoài ra một trong những đặc trưng của liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là tạo ra một kênh phân phối mới, để phát triển bền vững phải giải quyết được các mâu thuẫn giữa kênh bán hàng mới này với những kênh bán hàng cũ, chẳng hạn như kênh bán hàng qua đại lý. Bán bảo hiểm qua ngân hàng thực hiện dưới hình thức như ngân hàng điện tử (e-banking), gửi thư trực tiếp (direct mail), điện thoại (telemarketing), tin nhắn điện thoại di động (mobile sale)… Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các chi phí bưu chính viễn thông còn cao, như cước phí điện thoại di động. Đây cũng là một khó khăn làm chậm tiến trình phát triển của Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng tại Việt Nam. PHẦN HAI : THỰC TRANG LIÊN KẾT BẢO HIỂM - NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ ĐẶC BIỆT LÀ NGÂN HÀNG ,BẢO HIỂM 1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội + Về dân số và nhu cầu đào tạo: Hiện nay dân số Việt Nam là 85 triệu người- đứng hàng thứ 13 trên thế giới, với mức tăng hàng năm khoảng 1 triệu người. Điểm đáng chú ý, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với 52 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm hơn 60% tổng dân số; tuổi thọ trung bình không ngừng được cải thiện (từ 50 tuổi trong những năm 1960 tăng lên 65,2 tuổi năm 1995 và 71,3 tuổi vào năm 2005). Với dân số trẻ cùng với truyền thống hiếu học cộng với yêu cầu rất lớn về nguồn nhân lực có trình độ cao sau khi Việt Nam hội nhập vào kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu đào tạo của Việt Nam ngày càng cao, đặc biệt là nhu cầu đào tạo chất lượng cao cả ở trong và ngoài nước kéo theo yêu cầu tài chính cho đào tạo ngày càng lớn. + Về kinh tế: Từ khi thực hiện chính sách “đổi mới”, nền kinh tế Việt Nam đã có sự tiến bộ vượt bậc và theo dự đoán Việt Nam tiếp tục đạt được tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong thời gian tới (dự báo trên 7%/năm); đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới năm 2010 GDP/người sẽ đạt 1.000 USD, và hơn thế nữa, người Việt Nam có truyền thống tiết kiệm và có mức tiết kiệm/thu nhập vào hàng cao nhất thế giới. Đáng chú ý, sự phát triển kinh tế đã làm cho tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo, tạo ra nhu cầu cao về bảo hiểm nhân thọ. Xin nhắc lại, tỷ trọng người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ hiện nay ở Việt Nam mới chỉ chiếm 4,5% dân số (trong khi ở Nhật Bản tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ là 90%, Singapore 50%, và ngay tại Indonesia tỷ lệ này cũng trên 10%) và số tiền tiết kiệm được người dân dùng mua bảo hiểm nhân thọ mới chiếm 3,45% tổng số tiền tiết kiệm trong khu vực dân cư. Nhu cầu hoạch định kế hoạch tài chính và độc lập tài chính ngày càng cao hơn. Theo đà phát triển kinh tế - xã hội và sự hình thành gia đình hạt nhân (bố mẹ và con), làm cho nhu cầu hoạch định tài chính và nhu cầu độc lập tài chính ngày càng cao, nhằm tạo lập một cuộc sống ổn định, tự chủ và có mức hưởng thụ cao. Chẳng hạn, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” của người Việt Nam đến nay đã có nhiều thay đổi, đặc biệt ở các thành phố lớn. Các cá nhân đã quan tâm nhiều hơn đến nguồn tài chính khi nghỉ hưu, hết sức lao động để có thể sống độc lập về tài chính, không phải lệ thuộc hoặc dựa vào con cái, người thân + Về hệ thống an sinh xã hội Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế của Việt Nam chưa hoàn thiện. Theo một nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế, đến nay mới chỉ có khoảng 11% dân số Việt Nam, chủ yếu thuộc khu vực kinh tế nhà nước và công chức được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của nhà nước. Đáng chú ý, thu nhập từ tiền lương bảo hiểm xã hội ngày càng không đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng cao và sự tăng giá tiêu dùng. Thực trạng trên tạo cơ sở cho sự phát triển của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí. Trên thực tế, ở Việt Nam đã hình thành một số quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện, như bảo hiểm hưu trí của nông dân Tương tự bảo hiểm xã hội, hệ thống bảo hiểm y tế cũng trong tình trạng bất cập. Cụ thể, đến nay chỉ có khoảng gần 20% dân số được bảo vệ bởi bảo hiểm y tế, trong đó chủ yếu là người nghèo và học sinh (với chính sách hỗ trợ của Nhà nước). Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm y tế còn khá hẹp, còn có sự phân biệt trong điều trị giữa bệnh nhân hưởng bảo hiểm y tế và bệnh nhân dịch vụ. Tuy nhiên trên thực tế, phần lớn bệnh nhân có bảo hiểm y tế và thuộc tầng lớp trung lưu trở lên khi khám chữa bệnh đều không sử dụng quyền lợi từ bảo hiểm y tế để được tiếp cận chất lượng dịch vụ y tế cao hơn. Thực trạng này cũng là cơ sở cho sự ra đời của các sản phẩm bảo hiểm y tế, đặc biệt cho tầng lớp có thu nhập từ trung bình trở lên + Sự phát triển của thị trường tài chính một mặt cho phép nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời tạo là cơ sở cho sự ra đời của các sản phẩm bảo hiểm gắn với đầu tư, tích hợp sản phẩm bảo hiểm nhân thọ với các sản phẩm bảo hiểm tài chính khác (chẳng hạn, có thể kết hợp sản phẩm bảo hiểm với các sản phẩm tín dụng ngân hàng…). Bên cạnh đó, sự lên xuống của thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy nhu cầu uỷ thác đầu tư cho nhà đầu tư chuyên nghiệp (chẳng hạn, các quỹ đầu tư) ngày càng cấp thiết, tạo tiền đề cho sự phát triển của sản phẩm liên kết đơn vị (unit Linked) + Về quản lý nhà nước : sự ủng hộ của Nhà nước Việt Nam mạnh mẽ đối với sự phát triển của thị trường thông qua việc tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành cũng như thực thi chính sách hội nhập nhằm tiếp thu công nghệ kinh doanh, công nghệ quản lý tiên tiến cho sự phát triển của ngành Từ những phân tích ở trên một lần nữa có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới cơ hội phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam là rất lớn tuy nhiên cũng đi cùng là những thách thức không nhỏ. Để thành công, doanh nghiệp cần có chiến lược sản phẩm, phân phối và công nghệ phù hợp. 2 Cam kết của Việt Nam 2.1 Một số cam kết của Việt Nam khi ra nhập WTO  + Doanh nghiệp Bảo hiểm tại nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho các Doanh nghiệp Bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới Bảo hiểm, tư vấn, tín toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam. + Cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn ĐTNN kể từ khi gia nhập và không bị hạn chế về số lượng chi nhánh trong nước, phạm vi cung cấp dịch vụ và bỏ quy định tái bảo hiểm 20% cho Công ty Tái bảo hiêm Việt nam (Vinare). + Doanh nghiệp Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 sẽ được kinh doanh loại hình bảo hiểm bắt buộc tại Việt Nam như bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ trên đường thủy nội địa, tới đây là bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế… Cho phép thành lập chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài sau 5 năm đối với dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Theo cam kết trên có thể hiểu Doanh nghiệp Bảo hiểm liên doanh và Bảo hiểm nhân thọ không bị hạn chế đối xử quốc gia ( Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam làm gì thì họ được làm cái đó ). 2.2 Tác động của cam kết đối với hoạt động của thị trường Theo đánh giá sơ bộ việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước thể hiện qua các điểm như:   Môt là, việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hoá và khiến thị trường sôi động hơn. Sự tham gia của công ty có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thức tỉnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước; đồng thời,  phá vỡ thế độc quyền bằng việc gia tăng nhanh chóng số lượng nhà cung cấp dịch vụ, đẩy thị trường bảo hiểm tiến gần hơn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh; kích thích việc mở rộng danh mục sản phẩm, giúp ngành bảo hiểm thực hiện tốt hơn chức năng huy động vốn và bảo vệ các đối tượng trong nền kinh tế trước rủi ro. Hai là , mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước. Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện tiếp thu ở một mức độ nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty bảo hiểm trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin  nhằm tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.   Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:   + Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở mọi nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường.   + Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm.  Do đó, nếu các công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.   + Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng ; khả năng giải quyết tranh chấp ; thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống   + Về khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý Nhà nước, các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiên hành về cơ bản đã khá hoàn chỉnh, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để  triển khai thực hiện một số các cam kết còn lại và đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:   Để thực hiện các cam kết, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các qui định mang tính bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng, các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc;  hoàn thiện các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể.   + Bổ sung, sửa đổi một số qui định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn p._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6023.doc
Tài liệu liên quan