Liên kết Một số ngành kinh tế giữa 3 tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai

Tài liệu Liên kết Một số ngành kinh tế giữa 3 tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai: ... Ebook Liên kết Một số ngành kinh tế giữa 3 tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Liên kết Một số ngành kinh tế giữa 3 tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lêi nãi ®Çu Mçi quèc gia, vïng l·nh thæ trªn thÕ giíi nãi chung vµ mçi ®Þa ph­¬ng trong c¶ n­íc nãi riªng ®Òu cã nguån lùc ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi nhÊt ®Þnh. Do nguån lùc cã h¹n nªn viÖc sö dông hiÖu qu¶ nguån lùc ®ång thêi ph¸t huy lîi thÕ so s¸nh lu«n lµ vÊn ®Ò nhËn ®­îc sù quan t©m hµng ®Çu ë mçi quèc gia. NhËn thÊy ®­îc tÇm quan träng ®ã, §¶ng, nhµ n­íc vµ c¸c cÊp chÝnh quyÒn kh«ng ngõng ®æi míi ®­êng lèi, chÝnh s¸ch nh»m ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi cña vïng vµ c¶ n­íc. Trong ®ã, ph¸t triÓn liªn kÕt kinh tế gãp phÇn thóc ®Èy ph©n c«ng lao ®éng x· héi gi÷a c¸c vïng, c¸c doanh nghiÖp trong n­íc vµ quèc tÕ, thóc ®Èy nhanh qu¸ tr×nh tÝch tô, tËp trung, x· héi ho¸ s¶n xuÊt c«ng nghiÖp; huy ®éng cã hiÖu qu¶ nguån lùc cña ®Êt n­íc vµo ph¸t triÓn kinh tÕ, thùc hiÖn thµnh c«ng c«ng cuéc c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ ®Êt n­íc. Liªn kÕt kinh tÕ gi÷a c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng lµ mét bé phËn trong qu¸ tr×nh liªn kÕt kinh tÕ nãi chung. Trong ®ã, c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng sÏ phèi hîp x©y dùng, rµ so¸t, bæ sung quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi vïng. Lµ mét sinh viªn thùc tËp t¹i ban nghiªn cøu ph¸t triÓn vïng- ViÖn chiÕn l­îc ph¸t triÓn- Bé kÕ ho¹ch ®Çu t­ em lùa chän ®Ò tµi " Liªn kÕt mét sè ngµnh kinh tÕ gi÷a ba tØnh trung du miÒn nói phÝa B¾c: Phó Thä; Yªn B¸i; Lµo Cai" lµm ®Ò tµi cho chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp cña m×nh. Chuyªn ®Ò gåm ba ch­¬ng: Ch­¬ng I: Nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn chung vÒ liªn kÕt kinh tÕ gi÷a c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng. Ch­¬ng II: Thùc tr¹ng liªn kÕt kinh tÕ ë ba tØnh: Phó Thä, Yªn B¸i, Lµo Cai. Ch­¬ng III: §Þnh h­íng vµ gi¶i ph¸p thùc hiÖn liªn kÕt kinh tÕ ë ba tØnh trung du miÒn nói phÝa B¾c: Phó Thä, Yªn B¸i, Lµo Cai. Chuyªn ®Ò ®­îc hoµn thµnh víi sù gióp ®ì nhiÖt t×nh cña Ts.NguyÔn TiÕn Dòng vµ cña c¸c c«, chó trong Ban. Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n vµ mong nhËn ®­îc nh÷ng ý kiÕn ®ãng gãp cña thÇy gi¸o. Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG I.VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG. 1. Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan của nền sản xuất hàng hóa có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Những biểu hiện của hoạt động liên kết kinh tế đã ra đời, tồn tại từ lâu trong lịch sử của nền kinh tế thế giới cũng như Việt nam. Ngày nay hoạt động kinh tế tiếp tục phát triển đa dạng và phong phú về nhiều mặt. Liên kết kinh tế được nhận thức một cách khái quát nhất là phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau, để thực hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định, nhằm đem lại những hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia. Đặc điểm cơ bản của quan hệ liên kết kinh tế là: Xuất phát từ mối quan tâm “cùng có lợi ích kinh tế” mà các bên tham gia tự nguyện thiết lập các mối quan hệ phối hợp. Các chủ thể liên kết kinh tế có sự phối hợp lẫn nhau khá chặt chẽ và có trách nhiệm cao trong tổ chức thực hiện các hoạt động phối hợp. Các chủ thể (đối tác) tham gia hoạt động liên kết kinh tế có thể là: doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế- xã hội, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước cấp ngành, cấp quốc gia. Trong hoạt động liên kết kinh tế, có thể thiết lập quan hệ liên kết kinh tế với những nội dung khá phong phú ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, như khâu chuẩn bị các yếu tố cho sản xuất, sản xuất, phục vụ cho sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, tổ chức khai thác thị trường, thúc đẩy qúa trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm... Liên kết kinh tế có thể diễn ra trong một phạm vi không gian hẹp như: liên kết kinh tế giữa các bên trong một khu công nghiệp, một địa phương, vùng kinh tế. Nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng như: toàn quốc gia, giữa các quốc gia với nhau. Và hoạt động liên kết kinh tế giữa các bên có thể thực hiện trong một thời gian ngắn là kết thúc (Liên kết kinh tế theo từng vụ việc cụ thể) và có thể diễn ra một cách thường xuyên, liên tục nhiều năm. Liên kết kinh tế được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập. Đồng thời quan hệ liên kết kinh tế cũng có thể được thực hịên thông qua việc hình thành một loại hình tổ chức mới, làm nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia. Liên doanh là một biểu hiện cụ thể của hoạt động liên kết kinh tế. Để nhận thức rõ bản chất của hoạt động liên kết kinh tế, cần chú ý phân biệt giữa quan hệ liên kết kinh tế với các quan hệ kinh tế nói chung. Mọi quan hệ liên kết kinh tế nói chung dều là những q4uan hệ kinh tế, nhưng ngược lại thì không nhất thiết. Quan hệ kinh tế bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế như hoạt động mua bán, trao đổi, vay mượn, tổ chức sản xuất của các chủ thể kinh tế. Nhưng chỉ những quan hệ kinh tế nào phản ánh sự phối hợp mang tính cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể kinh tế liên quan thì mới được coi là quan hệ liên kết kinh tế. Hoạt động liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế bao gồm những hoạt động kinh tế được pháp luật cho phép, khuyến khích và bảo trợ. Đó là những hoạt động liên kết kinh tế công khai, đúng luật. Đồng thời trong thực tiễn vẫn tồn tại quan hệ kinh tế không được pháp luật cho phép, đó là những hoạt động kinh tế ngầm. 2. Sự cần thiết khách quan phải liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng. Ngày nay, hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế thế giới là một xu thế khách quan do tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song phương giữa hai nước, hình thành các tam giác, tứ giác,tiểu vùng, tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phương thức đa dạng như khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, diễn đàn kinh tế, liên minh kinh tế... Toàn cầu hóa là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, mỗi nước có thể tận dụng tối đa thế và lực của mình để đảm bảo lợi ích dân tộc mình trong quan hệ song phương và đa phương với các nước khác. Vì vậy, trong xu thế này, để khai thác lợi thế so sánh của quốc gia mình để tận dụng, học hỏi kinh nghiệm phát triển thành tựu khoa học công nghệ, tránh tụt hậu so với các nước khác không một quốc gia nào đóng cửa đứng ngài xu thế này mà đều tham gia vào hội nhập kinh tế, liên kết với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức được điều này, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới với tiêu chí “ hòa nhập chứ không hòa tan”. Tương tự như vậy, nếu xét trên phạm vi một nước, thậm chí trên phạm vi một vùng thì xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác giữa các vùng với nhau và giữa các địa phương trong vùng với nhau cũng biểu hiện một cách rõ rệt.Vì vậy, liên kết hay hợp tác phối hợp phát triển giữa các địa phương là một xu hướng tất yếu. Đặt vấn đề theo một khía cạnh khác, lực lượng sản xuất càng phát triển thì phân công lao động theo vùng lãnh thổ càng diễn ra mạnh mẽ, do đó, xuất hiện ngày càng nhiều các ngành chuyên môn hóa. Mỗi một địa phương, một vùng không thể có đủ điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và lao động để phát triển toàn diện các ngành sản xuất chuyên môn hóa theo kiểu khép kín, mà chỉ có thể có lợi thế hơn trong việc phát triển một ngành chuyên môn hóa nào đó.Hơn nữa, trong quá trình phát triển, các địa phương thường phải đối mặt với nhiều vấn đề vượt ra khỏi phạm vi giải quyết của một tỉnh như: ô nhiễm môi trường, đầu tư công cộng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi phải có sự liên kết giữa các địa phương cùng giải quyết. Trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng vậy. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống và xã hội. Các tiến bộ khoa học, công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế, xã hội, quốc phòng...Nghiên cứu vấn đề khoa học cũng như áp dụng thành tựu khoa học mà khép kín trong phạm vi một địa phương, một vùng thì mất nhiều ý nghĩa. Nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, không dễ gì ở một địa phương nào đó lại hội tụ đầy đủ các trường đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật và các viện nghiên cứu khoa học. Do đó, có nơi thì phát triển trình độ khoa học- công nghệ, có nợi thì chưa hay kém phát triển. Để có thể nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và ứng dụng một cách có hiệu quả các tiến bộ của lĩnh vực này đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác giữa các địa phương trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề cao để quản lý và điều hành, vận dụng tốt. Trong lĩnh vực này, việc hợp tác được tiến hành thông qua việc trao đổi mua bán những kết quả nghiên cứu, thành tựu khoa học và công nghệ, hướng dẫn vận hành, sử dụng hay cử những đòan đi thăm quan, học hỏi kinh nghiệm. Qua đó, những địa phương có trình độ khoa học công nghệ kém phát triển có thể tham khảo, học hỏi để nâng cao trình độ từ các địa phương khác có trình độ phát triển cao hơn để tránh tụt hậu xa hơn. Hơn nữa, trong địa bàn một tỉnh hay thành phố không thể có đủ trang bị cơ sở hạ tầng để có thể phục vụ cho quá trình phát triển một cách toàn diện. Vì vậy, giữa các tỉnh phải có sự ràng buộc nhau trong việc sử dụng chung các cơ sở hạ tầng lớn có quy mô toàn vùng như các sân bay, cảng, một số bệnh viện và trường đại học lớn. Ví dụ như trên địa bàn mỗi tỉnh đều có bệnh viện nhưng một số những trường hợp cấp tỉnh không thể giải quyết được phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên, việc này cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các địa phương. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các mối quan hệ liên tỉnh về mặt kinh tế gần như không có. Khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường vấn đề cần đặt ra là Chính phủ phải thực hiện việc phân quyền để đảm bảo bộ máy Chính phủ có thể thực hiện các chức năng đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, đặc biệt là ở các tỉnh. Khi quyền tự chủ về kinh tế của các tỉnh đối với phát triển kinh tế ngày càng tăng thì nhu cầu hợp tác, phối hợp giữa các tỉnh ngày càng trở nên bức thiết. Giải quyết tốt vấn đề liên kết giữa các tỉnh chính là cơ hội để tạo các địa bàn rộng hơn đáp ứng nhu cầu mở rộng không gian kinh tế của cơ chế thị trường. Thêm vào đó, tồn tại trong cơ chế thị trường, các địa phương, mọi thành phần kinh tế muốn phát triển đều phải chịu một áp lực cạnh tranh rất lớn. Trong điều kiện như vậy, sự liên kết, hợp tác sẽ làm tăng quy mô, tận dụng được lợi thế nhờ quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ động hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, liên kết kinh tế giữa các vùng nói chung và giữa các địa phương trong một vùng nói riêng là một xu hướng phát triển khách quan theo yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất, yêu cầu của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Tham gia vào xu thế này, các địa phương không những khai thác được các lợi thế so sánh của mình mà còn tận dụng được những lợi thế so sánh của địa phương khác vào phục vụ cho phát triển kinh tế của địa phương mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vùng và cả nước. 3. Mục đích của việc liên kết kinh tế Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng là rất quan trọng và cần thiết nhằm: Đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước đối với nền kinh tế theo đúng định hướng chiến lược chung của đất nước. Đảm bảo phát triển và thực hiện đúng các quy hoạch đã được phê duyệt Đảm bảo khai thác nguồn lực của từng địa phương, từng vùng không mâu thuẫn với lợi ích của cả nước. Đảm bảo sự phát triển hài hòa, công bằng giữa các địa phương. Vì trong vùng sự phát triển không đồng đều giữa các tỉnh, nguồn lực và yếu tố phát triển kinh tế -xã hội rất khác nhau nên yêu cầu của sự liên kết giữa các tỉnh là có sự giúp đỡ và tạo điều kiện để các tỉnh yếu phát triển. Đảm bảo sự phát triển kinh tế gắn với sự bền vững của môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc và đặc trưng của vùng. 4. Vai trò của liên kết kinh tế giữa các địa phương Liên kết kinh tế giữa các tỉnh là một quá trình phá vỡ sự cô lập giữa các tỉnh với nhau. Sự liên kết này có thể diễn ra giữa các tỉnh trong nội bộ một vùng (nghĩa là chúng không vượt ra ngoài ranh giới của vùng) hay giữa các tỉnh ở trên các vùng khác nhau (nghĩa là về phạm vi hoạt động của nó vượt ra khỏi ranh giới vùng và rất có thể vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia). Việc liên kết có thể mang lại nhiều lợi ích cho việc phát triển. .4.1.Nâng cao hiệu suất đầu tư công cộng Đầu tư công cộng vào các tỉnh có thể được sử dụng một cách tối ưu nếu các tỉnh trong vùng biết sẻ chia cho nhau. Liên kết liên tỉnh giúp tránh được việc đầu tư với chi phí gấp đôi cho các dự án và tạo điều kiện để khai thác lợi thế nhờ quy mô. Nếu biết liên kết liên tỉnh, kế hoạch có thể được xây dựng dựa trên cơ sở nguồn lực và các thị trường liên tỉnh rộng lớn, nâng cao khả năng và hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng. Ví dụ như các cơ sở hạ tầng quy mô lớn như: cảng biển và các sân bay cùng các tuyến đường giao thông liên kết chúng với các tỉnh trong vùng có thể được xây dựng tại một vị trí chiến lược nhất trong vùng, sử dụng triệt để công suất và thu được lợi ích tối đa, hơn là việc xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng manh mún, rải rác ở mỗi tỉnh. Tương tự như vậy, sẽ hợp lý hơn về mặt kinh tế nếu đầu tư vào việc xây dựng các bệnh viện và các trường đại học quy mô lớn, tiêu chuẩn cao của vùng để phục vụ cho nhiều tỉnh một lúc. Liên kết giữa các tỉnh là cơ sở để giải quyết các vấn đề về phát triển vượt qua phạm vi mỗi tỉnh, nhất là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho lợi ích của nhiều ngành, nhiều tỉnh, tìm ra phương án hợp lý nhất có lợi cho các ngành, các địa phương trong vùng. Đánh giá đầu tư công cộng sẽ có ý nghĩa nhiều hơn nếu được phân cấp, bởi vì nhu cầu đầu tư công cộng sẽ được hiểu rõ hơn ở cấp tỉnh do các cán bộ tỉnh chứ không phải trung ương, hàng ngày phải trực tiếp đối diện với các vấn đề của tỉnh. Nếu như đại diện các tỉnh trong vùng cùng nhau phối hợp thực hiện, thì công tác đánh giá và xác lập thứ tự ưu tiên của các dự án đầu tư sẽ được cải thiện hơn. Sau đó, các tỉnh có thể chuyển kết quả đánh giá và xác lập thứ tự ưu tiên lên trung ương để phê duyệt và chi ngân sách. 4.2.Tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển du lịch của các tỉnh. Các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nơi có nhiều nguyên liệu thô, lao động, các nguồn tài nguyên khác. Việc liên kết giữa các tỉnh trong việc cung cấp những yếu tố đầu vào, về mặt chính sách, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các tỉnh trong vùng. Tương tự như vậy, các du khách trong và ngoài nước đều thích trong cùng một chuyến đi có thể đến thăm quan ở những nơi có nhiều điểm thu hút du lịch. Vì vậy, các tỉnh có thể thu hút nhiều khách du lịch hơn nếu cùng liên kết các phương tiện phục vụ du lịch ở tất cả các tỉnh, hợp tác hình thành các tuyến du lịch liên tỉnh. Bằng cách này, các tỉnh có thể cùng góp chung các nguồn tài nguyên có hạn của mình để đẩy mạnh hoạt động du lịch của cả vùng. 4.3.Nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về môi trường Ngày nay, các vấn đề về môi trường đã và đang là mối quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới. Để giải quyết các vấn đề của môi trường thế giới là trách nhiệm không của riêng một hay một vài quốc gia mà đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi quốc gia trên thế giới. Cũng với cách đặt vấn đề như vậy với phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ, để giải quyết vấn đề môi trường đòi hỏi phải có sự hợp tác phối hợp giữa các địa phương. Hơn nữa, ảnh hưởng của việc vi phạm các quy định về môi trường thường không giới hạn trong phạm vi các tỉnh vi phạm. Đôi lúc ảnh hưởng đó lại gây tác động xấu hơn đến các địa phương khác xung quanh. Có thể lấy ví dụ về một con sông chảy qua địa bàn của nhiều tỉnh và phần thượng lưu bị ô nhiễm vì các chất thải công nghiệp nhưng chính các tỉnh ở hạ lưu của con sông sẽ bị ảnh hưởng tác hại nhiểu nhất. Do đó, các tỉnh cần phải có sự liên kết cùng nhau thực hiện công tác giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường. 4.4.Phát triển năng lực điều hành của cán bộ địa phương Nếu các tỉnh trong vùng hay lân cận liên kết chặt chẽ với nhau thì có thể tăng cường khả năng tự chủ của các đơn vị chính quyền địa phương và đẩy mạnh quá trình phân cấp. Liên kết làm cho mỗi tỉnh nhận ra rằng: Tỉnh có thể nâng cao trình độ phát triển nếu các tỉnh lân cận cũng đạt được trình độ phát triển cao hơn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc tỉnh mình mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất tạo thêm công ăn việc làm cho các lao động trong tỉnh. Các cán bộ địa phương cũng nhận thấy rằng: nâng cao trình độ của các tỉnh lân cận không làm giảm đi cơ hội đạt được trình độ phát triển cao của tỉnh mình, mà ngược lại còn giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển. Do đó, các tỉnh có trình độ, năng lực cao trong công tác lập kế hoạch, điều hành chính quyền địa phương, quản lý ngân sách, phát triển và quản lý ngân sách sẽ chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn với các tỉnh yếu kém, giúp các tỉnh đó đạt đến trình độ phát triển cao hơn II.TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 1. Mối quan hệ nội bộ giữa các địa phương trong vùng Mối quan hệ trong nội bộ vùng được thể hiện qua mối liên kết và bổ sung cho nhau. Trong vùng, mỗi tỉnh luôn có những lợi thế và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Khi các tỉnh phối hợp và liên kết với nhau sẽ bổ sung cho nhau về mọi mặt thúc đẩy nhau cùng phát triển.Những tỉnh có thế mạnh về kinh tế và là nơi tập trung khu vực thành thị phát triển cao với các trung tâm thương mại, các ngành công nghiệp mạnh, kỹ thuật cao, cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, đội ngũ lao động được đào tạo tốt sẽ là cực tăng trưởng để thúc đẩy các tỉnh khác cùng phát triển. Tuy nhiên chúng ta cần phải chú ý tới các mối liên kết với các vùng kém phát triển, nơi có thu nhập thấp, thiếu vốn,dư thừa lao động, đất đai và khả năng quản lý còn hạn chế để tạo ra những hiệu ứng phát triển lan truyền đối với những vùng này, giảm bớt sự bất bình đẳng trong phát triển kinh tế/ Liên kết và bổ sung kinh tế cho nhau nó phản ánh mối quan hệ giữa các ngành với nhau(giữa các ngành sản xuất vật chất với nhau, giữa các ngành phi sản xuất vật chất với nhau, và giữa hai ngành này với nhau), mối liên hệ giữa ngành với lãnh thổ, giữa các bộ phận lãnh thổ với nhau. Ngoài ra trong vùng trọng điểm cũng cần chú trọng đến các mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa sản xuất với bảo vệ môi trường, giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đảm bảo cho việc phát triển bền vững nền kinh tế trong vùng. Trong vùng cần phải chú trọng mối liên kết về mặt địa lý và phát triển cơ sở hạ tầng. Vì đây là yếu tố quan trọng trong việc thiết lập một môi trường kinh tế thuận lợi cho việc phát triển các mối quan hệ khác trong vùng. Do vậy, cần thực hiện các công việc như phát triển hệ thống đường giao thông nối liền các trung tâm lớn, xây dựng quy hoạch cụ thể cho các hải cảng, sân bay, tổ chức tốt mạng lưới bưu chính viễn thông, quy hoạch đất đai cho công nghiệp xây dựng giải quyết tốt vấn đề nhà ở, cấp nước cho người lao động/ Đồng thời trong vùng cần phải có sự phối hợp đồng bộ để thực hiện các chính sách, các chủ trương phát triển vùng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Thực tế cho thấy sự phối hợp giữa các ngành với nhau, giữa các địa phương với nhau còn lỏng lẻo và kém hiệu quả. 2. Những yêu cầu cơ bản đối với các địa phương tham gia vào hoạt động liên kết kinh tế. Mỗi địa phương tham gia vào liên kết kinh tế xuất phát từ mục tiêu trực tiếp là đem lại lơi ích kinh tế -xã hội cho chính địa phương mình, trên cơ sở đó địa phương tự nguyện cách thỏa thuận phối hợp.Tham gia liên kết kinh tế chỉ là một trong số nhiều giải pháp để thực hiện mục tiêu tổng quát của mỗi tỉnh. Đó là tồn tại, phát triển tái sản xuất với tốc độ nhanh và đạt hiệu quả kinh tế cao trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển hoạt động liên kết kinh tế, các địa phương phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn phấn đấu.Kết hợp liên kết kinh tế trong tỉnh với liên kết, liên doanh với các địa phương trong vùng khác bằng nhiều hình thức thích hợp để phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước.Tăng cường khả năng cạnh tranh và nhanh chóng hòa nhập của các doanh nghiệp trong tỉnh vào đời sống kinh tế vùng và toàn quốc.Chống khuynh hướng không lành mạnh, quá nhấn mạnh liên kết kinh tế với nước ngoài mà không chú ý thích đáng đến phát triển liên kết kinh tế trong vùng và ngược lai. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể tham gia liên kết kinh tế. Bằng những cơ chế ràng buộc về vật chất, tài chính, luật pháp để đảm bảo cho các bên tham gia có trách nhiệm cao trong các quan hệ thỏa thuận phối hợp thực hiện. 3. Nội dung liên kết Nội dung liên kết giữa các địa phương trong vùng được thể hiện qua sự hợp tác, phối hợp phát triển giữa các đơn vị kinh tế thuộc các ngành đóng trên địa bàn vùng, giữa các địa phương hành chính trong vùng. Cụ thể như sau: Thứ nhất: liên kết kinh tế giữa các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế khác nhau trên phạm vi vùng. Sự liên kết này được thể hiện trong việc hình thành các tổ chức sản xuất trong nội bộ ngành, các hình thức liên kết theo góc độ cung cấp và trao đổi các sản phẩm lẫn nhau giữa các ngành trong vùng theo những mối quan hệ ngược chiều, xuôi chiều, trực tiếp và gián tiếp. Sự liên kết này đảm bảo tính hợp lý trong việc phân công lao động theo ngành ở trên vùng và nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế, mở rộng tính chất hàng hóa trên vùng. Theo quyết định số 145/2004/QD-TTg, 146/2004/QD- TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 05/2003/TT- BKH ngày 22/7/2003 của Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn nội dung, trình tự lập, thẩm định và quản lý các dự án quy hoạch, bao gồm: - Liên kết trong việc phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và ngành sản phẩm chủ yếu. Đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng, bao gồm mạng lưới giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, hệ thống cung cấp điện,cung cấp và sử dụng nguồn nước, xử lý chất thải, cơ sở dạy nghề, đào tạo cao đẳng, đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học, các bệnh viện và hệ thống đô thị, các Bộ ngành plhối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng đồng thời rà soát, bổ sung quy hoạch kết cấu hạ tầng của ngành trên địa bàn vùng và quy hoạch phải thể hiện được bước đi và đề xuất các công trình cần cải tạo, nâng cấp hoặc đầu tư mới trên từng địa phương của vùng Đối với ngành sản phẩm chủ lực phải thể hiện phương hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu của từng ngành kinh tế - kỹ thuật, phương hướng phát triển của từng ngành sản phẩm, cụ thể: quy mô sản xuất, dịch vụ, thứ tự ưu tiên theo từng thời kỳ kế hoạch 5 năm, phù hợp với nhu cầu, khả năng phát triển và cơ chế, chính sách đối với chúng. Liên kết trong huy động vốn đầu tư phát triển: Các Bộ ngành và các địa phương cùng phối hợp trong xúc tiến đầu tư và huy động vốn đầu tư (nhất là vốn FDI, ODA) trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và kế hoạch huy động vốn đầu tư FDI,ODA và có sự phối hợp giữa các địa phương trong các vùng kinh tế.Phối hợp cùng huy động vốn đầu tư tư nhân và các doanh nghiệp vào đầu tư tại các địa phương trong các vung kinh tế trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội của địa phương và vào những lĩnh vực khuyến khích đầu tư với cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư trong Luật đầu tư và luật doanh nghiệp. Liên kết trong đầu tư phát triển: Đối với những công trình dự án có liên quan đến nhiều địa phương thuộc các lĩnh vực chủ yếu như: Xử lý nước thải, chất thải rắn, nhất là chất thải rắn nguy hại; phát triển các hải cảng biển sân bay; Triển khai xây dựng đường giao thông kết nối, đường cao tốc, xây dựng và phát triển trung tâm đào tạo chất lượng cao, hệ thống mạng lưới trường dạy nghề; Phát triển hệ thống trung tâm y tế chất lượng cao phối hợp theo nguyên tắc cùng đầu tư trên cơ sở kế hoạch cụ thể của các Bộ ngành chủ quản, thông qua thỏa thuận, hợp tác và phối hợp giưã các Bộ ngành và địa phương Thứ hai: Liên kết giữa các địa phương hành chính với nhau trong vùng kinh tế: Sự liên kết này nhằm giải quyết hợp lý các vấn đề: phân chia và quy hoạch đất đai, các tiểu vùng chuyên môn hóa, các điểm dân cư, phân bố cụ thể các doanh nghiệp; tạo ra các môi trường đồng bộ và thống nhất về thu hút, sử dụng các yếu tố nguồn lực trong vùng. Sự liên kết này là cơ sở hình thành thế đứng vững chắc của vùng kinh tế, đồng thời tạo cơ hội phát triển các ngành kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn ở phạm vi vùng. Thứ ba: Liên kết giữa ngành và các địa phương hành chính trên vùng và với toàn vùng lãnh thổ. Nội dung liên kết này nhằm phân định rõ chức năng quản lý ngành và chức năng quản lý của chính quyền địa phương và cơ quan quản lý vùng(nếu có), tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo trùng lặp gây khó dễ cho quá trình phát triển. 4. Các hình thức liên kết Việc liên kết giữa các tỉnh nhằm đảm bảo sự thống nhất trong phát triển theo địa phương trên vùng có thể được tiến hành theo nhiều cách thức khác nhau, mỗi cách thức cho một kết quả không giống nhau. Trên thực tế cần sử dụng kết hợp nhiều hình thức. 4.1.Liên kết bằng cách trao đổi thông tin Việc liên kết giữa các địa phương trong vùng ở một mức độ nào đó có thể thực hiện bằng phương thức thường xuyên trao đổi cho nhau các kế hoạch, các chính sách ban hành ở cấp tỉnh, sự thay đổi, bổ sung trong quy hoạch phát triển của các tỉnh, các dữ liệu thống kê, các thông tin có liên quan đến công tác lập kế hoạch và hoạch định chính sách của các tỉnh khác. Phương thức này có thể mang lại một số lợi ích như: các tỉnh có thể cùng nhau xem xét các dự án đầu tư của các tỉnh khác khi lập kế hoạch đầu tư của riêng mình, có thể sử đổi các laọi thuế địa phương cho phù hợp với thuế suất của các tỉnh khác. Tuy vậy lợi ích do phương thức nàymang lại còn hạn chế. Cũng có trường hợp thông tin khi chuyển từ tỉnh này sang tỉnh kia không kịp thời hay bị hiểu nhầm dẫn đến các tỉnh khác hoạch định chính sách bị sai lệch. 4.2.Liên kết tập trung Theo hình thức này, mỗi tỉnh chuẩn bị kế hoạch phương án phát triển sản xuất một cách độc lập với nhau và trình lên chính phủ. Chính phủ thông qua các cơ quan chức năng như Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra kế hoạch của mỗi tỉnh, xác định những điểm mâu thuẫn với nhauvà không thống nhất với định hướng phát triển quốc gia và phản hồi lại cho các tỉnh để thực hiện các bổ sung sửa đổi theo chỉ thị của cả nước. Ưu điểm của hình thức này là: Trung ương có toàn quyền kiểm sóat kế hoạch của các tỉnh, đảm bảo các tỉnh phải tuân thủ theo định hướng phát triển của đất nước. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là công tác liên kết giữa các tỉnh là nhiệm vụ vô cùng nặng nề lại đặt lên vai trung ương vốn đã quá tải, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất giữa các kế hoạch phát triển của các tỉnh. Hơn nữa, trung ương thường cũng không hiểu rõ các vấn đề có liên quan đến sự phát triển của địa phương bằng bản thân các cán bộ địa phương. Do đó, quyết định ở cấp tư đưa ra cớ thể chưa pahỉ là quyết định tối ưu. 4.3.Liên kết thông qua hội đồng liên kết liên tỉnh Theo hình thức này, lãnh đạocác tỉnh cũng như các điều phối viên các cơ quan cấp quốc gia có liên quan đến các tỉnh trong vùng thành lập một hội đồng phối hợp. Hội đồng phối hợp này là nơi các tỉnh có liên quan tiến hành thảo luận thường xuyên các vấn đề phát triển, hợp tác và liên kết phát triển giữa các tỉnh trong vùng. Hôị đồng này thường xuyên họp và thành lập các ủy ban chức năng giải quyết chi tiết các vấn đề khác nhau mà các tỉnh thành viên gặp phải như ủy ban cơ sở hạ tầng, ủy ban các vấn đề xã hội, ủy ban quản lý phát triển.... Lợi ích của hội đồng phát triển vùng chính là thể chế hóa công tác liên kết. Các địa phương bắt đầu xuy nhgĩ cho vùng của họ hơn là chỉ suy nghĩ cho lọi ích riêng của địa phương mình. Hội đồng cũng có thể sẵn sàng hỗc trợ cho các tỉnh thành viên trong việc nâng cao năng lực điều hành trong các lĩnh vực khác nhau. Hội đồng cũng có thể nghiên cứu lại, liên kết, đánh giá và xác định các thứ tự ưu tiên và trình lên trung ương các đề án đầu tư công cộng của mỗi tỉnh thành viên. Điều này giúp đảm bảo tính thống nhất của các dự án và theo đúng định hướng phát triển. Sự tồn tại của hội đồng phát triển vùng cho phép trung ương chuyển giao các kế hoạch, chương trình, dự án quốc gia cho hội đồng vùng để chính quyền cấp tỉnh xem xét. Các tỉnh thành viên có thể cùng nhau thẩm định các dự án này trong khuôn khổ của hội đồng liên kết. Do đó chính phủ không cần phải trực tiếp làm việc với nhiều tỉnh. Như vậy, hội đồng vùng tồn tại như một tổ chức trung gian làm cầu nối liên lạc các tỉnh với trung ương. Quan điểm hình thành hội đồng phát triển vùng là mới ở nước ta, tuy vậy đây là một nhu cầu thiết thực xuất phát từ chính yêu cầu ngày càng cao của sự liên kết phát triển của các địa phương. III. KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG. 1. Kinh nghiệm của Nhật Bản Khi nghiên cứu về quá trình phát triển của Nhật Bản, một cường quốc về kinh tế hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế đều thấy rằng ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước cho đến nay, nước Nhật luôn xác định vai trò quan trọng của nhà nước trong điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế một cách vững chắc, Nhật Bản đã chủ trương phát triển kinh tế vùng và tiến hành đầu tư phân bố các doanh nghiệp trên các vùng lãnh thổ của đất nước. Và để làm được điều đó chính phủ Nhật Bản đã tiến hành theo một cơ chế: Điều cần làm trước tiên là xây dựng mục tiêu dài hạn cho quốc gia, tiếp đó là xác định kế hoạch tổng thể mang tính dài hạn để thực hiện mục tiêu ấy. Tiếp theo là phải có một kế hoạch phát triển vùng mà việc bắt đầu phải làm là phân vùng lãnh thổ. Việc phân vùng lãnh thổ của Nhật luôn luôn xuất phát từ “ phương thức phát triển có trọng điểm” và từ đó hình thành nên các vùng với những đặc trưng, thế mạnh cũng như công nghiệp mới, khu vực ưu tiên khai thác, khu đặc biệt phát triển công nghiệp, khu vực cần phát triển. Trên cơ sở khoanh vùng kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra chính sách để hướng tới việc xác định đúng đắn địa điểm đặt các cơ sở sản xuất thuộc các ngành khác nhau.Việc lựa chọn thường được căn cứ vào các dấu hiệu như: Tài nguyên thiên nhiên, giao thông vận tải, điều kiện đất đai, nước, vấn đề môi trường... Và cuối cùng, chính phủ đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển ._.về tài chính, thuế để giúp các nhà đầu tư phát triển sản xuất trên các vùng đã quy hoạch lựa chọn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chính quyền địa phương, do đó, chính phủ Nhật Bản đã có cơ chế phân cấp và phối hợp các cơ quan chức năng ở các cấp, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp dưới và chính quyền địa phương. Cụ thể tham gia vào quá trình phối hợp này có các cơ quan nhà nước cấp dưới, trung tâm quy hoạch Nhật Bản, trung tâm xúc tiến đưa công nghiệp vào nông thôn, trung tâm thông tin doanh nghiệp, chi nhánh của các Bộ, ngành tại địa phương, các tổ chức chính quyền địa phương như: tỉnh, thành phố, thị xã, huyện...và các cơ quan khác ở địa phương như: trung tâm phát triển khu vực, phòng thương mại và công nghiệp, giao dịch kỹ thuật... Như vậy, ngay từ những ngày đầu phát triển, chính phủ Nhật Bản đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc liên kết phát triển giữa các địa phương trong một vùng và đã hình thành quan điểm phát triển vùng có trọng điểm một cách đúng đắn, đưa nền kinh tế nói riêng và kinh tế cả nước nói chung phát triển phồn thịnh. 2. Kinh nghiệm của Philipines Philipin thực hiện liên kết kinh tế thông qua mô hình hội đồng phát triển vùng. Có thể nói đây là mô hình khá phù hợp và có hiệu quả trong việc liên kết phát triển trên vùng lãnh thổ. Hội đồng vùng ở Philipin được hình thành từ năm 1972 đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường công tác kế hoạch hóa phát triển vùng và đề bạt các mối quan tâm của vùng lên Chính phủ. Hội đồng phát triển vùng được thành lập nhằm phối hợp các cán bộ chính quyền địa phương với cán bộ cấp trung ương(các giám đốc phụ trách vùng của các Bộ và các cơ quan trung ương) nhằm tăng cường sự phối hợp của các địa phương trong tham gia quản lý phát triển ngành. Hội đồng phát triển vùng có trách nhiệm chuyển các mục tiêu phát triển quốc gia thành các mục tiêu phát triển vùng, xây dựng, thông qua và thực hiện chiến lược phát triển vùng của mình. Hội đồng vùng cũng có nhiệm vụ phối hợp tất cả các hoạt động kế hoạch và chương trình của tất cả các cơ quan trung ương, ngành, bộ, các địa phương và ban cấp vùng. Về mô hình tổ chức, hội đồng phát triển vùng ở Philipin bao gồm các ủy ban thường trực: Ủy ban tư vấn, ủy ban ngành, ủy ban liên kết. Ủy ban ngành bao gồm: ban phát triển kinh tế, ban phát triển xã hội, ban cơ sở hạ tầng và công trình công cộng, ban quản lý phát triển. Các ban phụ trách các ngành này sẽ tổng hợp kế hoạch của các cơ quan ngành và địa phương trên vùng. Ngay sau khi các kế hoạch của các ngành của vùng được tổng hợp và thông qua hội đồng phát triển vùng, các cơ quan chính quyền địa phương, các cơ quan vùng của các bộ phối hợp với hội đồng vùng và cơ quan phụ trách vùng của cơl quan phát triển kinh tế quốc gia, soạn thảo các chương trình đầu tư phát triển vùng, danh mục các dự án phát triển vùng nhằm đạt được mục tiêu và chỉ tiêu phát triển quốc gia và vùng. Như vậy, có thể nói mô hình phát triển vùng của Philipin là một mô hình phù hợp và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng phối hợp sự hoạt động của các ngành, các địa phương trong vùng kinh tế, thúc đẩy sự hợp tác phát triển kinh tế giữa các địa phương. 3. Kinh nghiệm của Mỹ Sau cuộc khủng hỏang kinh tế 1929 – 1933, một trong những cuộc khủng hỏang lớn nhất trong lịch sử phát triển nước Mỹ, một thất bại nghiêm trọng của nền kinh tế Mỹ, chính phủ Mỹ đặt ra vấn đề cấp thiết là phảitằng cường sự can thiệt vào kinh tế. Trong đó chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm hơn cả đến vấn đề quản lý ở cấp cơ sở và cấp bang. Công cụ mà chính phủ Mỹ đã lựa chọn để thực hiện mục đích này là thành lập một hội đồng kế hoạch cấp Bang. Năm 1936, ở mỗi bang của Mỹ đều thành lập hội đồng kế hoạch nhà nước để điều tiết sự phát triển vĩ mô kinh tế - xã hội ủa mỗi bang. Hội đồng này có chức năng xây dựng các kế hoạch, xác định các trọng tâm phát triển và từ đó đề xuất, xây dựng chính sách vĩ mô cụ thể để hướng việc khai thác huy động nguồn lực vào trọng tâm phát triển. Hội đồng này nhằm phối hợp và giám sát sự hoạt động của các vùng, các cơ sở kinh tế thuộc các ngành trong phạm vi quản lý của bang.Không sừng lại ở đó, tiếp theo, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất mang tính liên ngành, liên vùng đòi hỏi phải có sự liên kết ở cấp địa phương với các ngành, các vùng, chính phủ Mỹ đã chủ trương hình thành hội đồng. Cho đến nay khắp lãnh thổ Mỹ có hơn 450 hội đồng vùng. Những hội đồng vùng này đảm đương trách nhiệm liên kết các thnàh viên tham gia ở các cấp chính quyền khác nhau nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, xây dựng kế hoạch chung cho cả vùng và chuyển giao dịch vụ phát triển ngành trong các vùng. Các hội đồng vùng này thường xuyên tổ chức các diễn đàn về các vấn đề của vùng, thực hiện kế hoạch hóa vùng, cung cấp thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương, quản lý các chương trình liên bang, bang, và địa phương có liên quan đến vùng thực hiện các hoạt động đào tạo nghiệp vụ.... Với một lãnh thổ rộng lớn như nước Mỹ thì sẽ có rất nhiều các hội đồng vùng trong cả nước và vấn đề đặt ra là phải có một cơ quan thực hiện phối hợp hoạt động của các hội đồng để đảm bảo cho việc phát triển một cách thống nhất và đúng hướng. Và để làm được điều này ở Mỹ đã thành lập hiệp hội các hội đồng vùng bao gồm có đại diện của hội đồng vùng, ngoài ra còn bao gồm đại diện của dân chúng khu vực tư nhân, giới trí thức và các cơ quan quần chúng của vùng. Một trong những chức năng của hiệp hội này là thúc đẩy các quan hệ hợp tác giữa các ngành, các khu vực kinh tế và các địa phương trong vùng qua đó đề xuất các chính sách sử dụng có hiệu quả hơn vốn đầu tư cho phát triển các ngành, cơ sở hạ tầng, môi trường tự nhiên, xã hội. 4. Kinh nghiệm trong nước Nền kinh tế thị trường đã làm cho không gian kinh tế trở nên không có giới hạn, vấn đề liên kết các bộ phận cấu thành trong không gian kinh tế và giải quyết các mối quan hệ hợp tác,liên kết giữa chúng với nhau trở nên thường xuyên hơn, đòi hỏi phải có cơ chế rõ ràng. Nhận thức được xu thế này, trong những năm gần đây Chính phủ đã thông qua các cơ quan chức năng đã triển khai các dự án, các đề tài nghiên cứu phối hợp liên tỉnh, liên ngành trên các vùng kinh tế. Năm 2000, chính phủ đã xây dựng dự thảo một quy chế về “ Phối hợp liên tỉnh ở các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. Bản quy chế này nhằm thể chế hóa sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm trong việc hoạch định kế hoạch địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ kế hoạch và đầu tư đã tiến hành nghiên cứu dự án “ xác định cơ chế phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm”. Hiện nay, vấn đề liên kết kinh tế được đặc biệt quan tâm ngay cả những vùng kinh tế không phải vùng kinh tế trọng điểm.Tại vùng châu thổ sông Mêkông có nhiều ý kiến cho rằng nên xem tam giác kinh tế trọng điểm Cà Mau- Cần Thơ- Kiên Giang là đòn bẩy cho sự phát triển vùng.Vùng này rất gần với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cho phép mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, nguồn nhân lực và tiếp cận công nghệ mới. Để phát triển kinh tế của khu vực tam giác này và để xây dựng tam giác thành đòn bẩy phát triển kinh tế vùng châu thổ sông Mêkông, các tỉnh trong vùng đã nhận thức cần có sự liên kết với nhau và với các tỉnh khác trong cùng khu vực. Trong những năm gần đây, ba tỉnh Cà Mau, Cần Thơ, Kiên Giang đã có sự liên kết với nhau trong lập kế hoạch để thu hút thêm đầu tư nước ngoài bằng cách phối hợp phát triển cơ sở hạ tầng vùng và đào tạo lực lượng lao động. Đối với vấn đề về môi trường cũng đòi hỏi các tỉnh phải phối hợp vơí nhau trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm nước của sông Mêkông đặc biệt là đối với các tỉnh ở hạ lưu con sông. Tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, chính phủ đã yêu cầu ngân hàng ADB thông qua dự án ADB 3289 VIE cung cấp một dự án thí điểm xây dựng cơ chế phối hợp liên tỉnh phù hợp cho bốn tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam.Theo dự án này, các cán bộ chủ chốt của bốn tỉnh và một số cán bộ các bộ ngành đã được tham quan Philipin, khảo sát tìm hiểu nội dung và cơ chế làm việc của hội đồng phát triển vùng cũng như các dự án được thực hiện với sự hỗ trợ của hội đồng vùng. Từ thực tế và kinh nghiệm quốc tế, trên cơ sở điều tra phân tích các điều kiện hiện tại của Việt Nam, dự án tiến hành tổ chức các dự thảo với các tỉnh,các Bộ, hội thảo quốc gia từ đó tổng hợp thành báo cáo về cơ chế phối hợp cho bốn tỉnh miền Trung. Trên cơ sở đó, các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung bước đầu đã có sự phối hợp trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng như các tuyến đường vận tải quốc tế bao gồm các đường cao tốc ASEAN số 7 từ cảng Cửa Lò và số 8 từ Đà Nẵng. Ngành khai thác thủy sản miền Trung có khả năng sẽ đạt được mục tiêu 43% sản lượng đánh bắt quốc gia so với hiện tại là 34% khi các tỉnh có sự phối hợp xây dựng các chương trình nâng cấp các cơ sở chế biến và kỹ năng lao động nhằm đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất quốc tế phát triển bền vững các nguồn lực thủy sản và đẩy mạnh quy mô nuôi trồng thủy sản. Như vậy, trong những năm gần đây ở Việt Nam, chính phủ đã nhận thức rõ tác dụng cấp thiết của việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và công tác liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng này và đã có chủ trương xây dựng một quy chế chính thức cho vấn đề phối hợp liên tỉnh. Thực hiện chủ trương này, các vùng kinh tế trọng điểm bước đầu đã có những bước đi đúng hướng và đạt được những kết quả nhất định. Chương II: VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC - THỰC TRẠNG LIÊN KẾT GIỮA BA TỈNH: PHÚ THỌ, YÊN BÁI, LÀO CAI I. ĐẶC ĐIỂM NỔI TRỘI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG THAM GIA LIÊN KẾT. 1. Vùng trung du miền núi Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Trung du miền núi phía Bắc được chia làm hai phần: vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc. Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là ba tỉnh thuộc vùng Đông Bắc. Đông Bắc là vùng có vị trí quan trọng. Một mặt vùng này nằm liền kề với vùng đồng bằng sông Hồng, một phần lãnh thổ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có những trục giao thông nan quạt quy tụ về thủ đô Hà Nội tạo ra thuận lợi lớn cho vùng trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học- kỹ thuật giữa Đông Bắc với các vùng trong cả nước, nhất là với đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phía Đông của Đông Bắc giáp với 250 km bờ biển, phía Bắc của vùng tiếp giáp với Trung Quốc với hơn 1180 km biên giới, có nhiều cửa khẩu quốc tế như: Hữu Nghị, Móng Cái, Lào Cai... có thể dần dần mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với thị trường rộng lớn, nếu ta có sức cạnh tranh. Đông Bắc là một vùng giàu tài nguyên khoáng sản ở nước ta. Trong đó có những loại có trữ lượng lớn như than chiếm 90%, apatit 100%, đồng 70% cả nước, ngoài ra còn có nhiều đá vôi để sản xuất xi măng, sắt,chì, kẽm, thiếc... Đây là thế mạnh lớn, là cơ sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản góp phần vào sự khởi đầu và triển khai công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng và cả nước. Đông Bắc có địa hình đa dạng cùng với khí hậu phân dị tạo ra thảm thực vật phong phú với những sản phẩm đặc thù có giá trị cao. Tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng Đông Bắc lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc. Khí hậu phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng...cho phép phát triển nhiều loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao như: chè(chè Tuyên Quang, chè Thái Nguyên, chè Tuyết, chè vàng), hồi, quế, Sơn, mận hậu, mơ, hồng, nhiều dược liệu quý... Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là tiềm năng du lịch biển (vịnh Hạ Long, bãi biển Trà Cổ...), du ngoạn các hồ nước lớn trên núi như Núi Cốc, Ba Bể, Cấm Sơn, Thác Bà...), du lịch leo núi và nghỉ dưỡng (Sa Pa, Tam Đảo, Cổng Trời...), tham quan di tích lịch sử (Văn hóa Đông Sơn, Đền Hùng...), du lịch lễ hội (hội Lim, hội Đền Hùng) Quỹ đất lớn, nguồn nước dồi dào thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế. Quỹ đất có khả năng sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp nhìn chung không thuộc loại xấu và có thể được khoảng 5 triệu ha (trong đó nông nghiệp khoảng một triệu ha, lâm nghiệp 4 triệu ha), hiện đã sử dụng 2,7 triệu ha, chiếm 54% so với tiềm năng hàng ngàn ha để phát triển các khu, cụm công nghiệp và hình thành các khu đô thị mới. Nguồn nước tương đối dồi dào, chất lượng tốt. Trên lãnh thổ Đông Bắc có những sông lớn chảy qua là hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, Kỳ Cùng, sông Cầu...ngoài ra còn nhiều sông nhỏ ven biển Quảng Ninh...tạo điều kiện thuận lợi khai thác nguồn nước và phát triển giao thông phục vụ sản xuất và đời sống; ở nhiều khu vực nguồn nước ngầm tương đối khá. Tuy nhiên, nguồn nước ở một số nơi thuộc vùng cao núi đá vôi và khu vực ven biển bị hạn chế. Cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung và vùng Đông Bắc nói riêng không ngừng tăng trưởng về mọi mặt.Cơ cấu kinh tế vùng có sự thay đổi theo hướng công nghiệp hoá, tăng tỷ trọng công nghiệp đồng thời giảm tỷ trọng nông nghiệp một cách đáng kể. Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế tương đối nhanh, vượt mức tăng của những năm qua, nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1995-2000 khoảng 24-25% và giai đoạn 2001-2010 khoảng 20-22%/năm Nhịp độ tăng trưởng GDP vùng Đông Bắc bình quân năm Đơn vị: % Chỉ tiêu 1995 - 2010 1995 - 2000 2001 - 2010 Tổng GDP 11,2 9,9 12 Công nghiệp 14,9 14,6 15,1 Xây dựng 15,6 15,3 15,7 Nông, lâm nghiệp 4 4,2 4 Dịch vụ 12,6 11,7 13,1 Nguồn: Viện chiến lược phát triển 2. Những lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. 2.1.Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của Phú Thọ Vị trí địa lý: Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía Bắc, phía Bắc giáp Tuyên Quang, nam giáp Hòa Bình, đông giáp Vĩnh Phúc và Hà Tây, tây giáp Sơn La và Yên Bái. Ở vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, là trung tâm tiểu vùng Tây – Đông Bắc. Diện tích chiếm 1.2% diện tích cả nước và chiếm 5.4% diện tích vùng trung du miền núi phía Bắc. Dân số chiếm 1,64 dân số cả nước, chiếm 14,3% dân số vùng miền núi phía Bắc. Đó là những yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Với vị trí “ngã ba sông” cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà nội và địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, cầu nối các tỉnh đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi Tây Bắc và Đông Bắc. Phú Thọ chỉ cách Hà nội 80 km tính theo đường ô tô và cách các tỉnh xung quanh từ 100 đến 300 km. Các hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới đi qua Hà nội, Hải Phòng và các tỉnh thành phố khác trong cả nước. Thành phố Việt trì là thủ phủ của tỉnh đồng thời cũng là một trong năm trung tâm lớn của vùng miền núi phía Bắc, có các tuyến trục giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ số 2 chạy từ Hà nội qua Việt trì đi Tuyên Quang – Hà Giang sang Vân Nam Trung Quốc. Đây là tuyến nằm trong hành lang kinh tế Côn Minh- Lào Cai – Hà nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Dự báo đoạn Hà Nôi - Việt Trì sẽ có nhịp độ phát triển nền kinh tế cao và đô thị hóa nhanh nên Phú Thọ cần có sự chuẩn bị tốt các điều kiện về đất đai, lao động để tận dụng cơ hội này. Khi Sơn Tây – Hòa Lạc được xây dựng trở thành chuỗi đô thị có khoảng 30 – 50 vạn dân cũng sẽ mở ra cơ hội mới cho Phú Thọ phát triển nhất là các huyện hữu ngạn sông Hồng như Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Hạ Hòa, có điều kiện phát triển mạnh hơn. Ngoài ra Phú Thọ còn có đường sắt, đường sông chạy qua cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn. Tiềm năng về địa hình: Điểm nổi bật là điạ hình chia cắt tương đối mạnh vì nằm phía cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Căn cứ vào địa hình chia Phú Thọ thành hai tiểu vùng sau: + Tiểu vùng miền núi: Gồm các huyện miền núi Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa một phần cuả huyện Cẩm Khê. Đây là một vùng tương đối khó khăn về giao thông và dân trí còn thấp lại nhiều dân tộc nên việc khai thác tiềm năng nông lâm khóang sản... để phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế + Tiểu vùng trung du đồng bằng: gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Thủy, Tam Nông, Đoan Hùng và phần còn lại của huyện Cẩm Khê. Đây là tiểu vùng có kinh tế xã hội phát triển tiềm năng nông lâm khóang sản được khai thác tương đối triệt để, nơi sản xuất nhiều nông sản hàng hóa xuất khẩu như: chè, đậu tương, lạc... Nơi có nhiều khu, cụm điểm công nghiệp... Nhưng đã xuất hiện hiện tượng đất bị thoái hóa ở một vài nơi, còn dải đất ven sông lại màu mỡ thuận lợi cho phát triển chè, đậu tương, lạc vừng, cây ăn quả, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản... là tiểu vùng thuận lợi về điều kiện giao thông vận tải, có đất đai phù hợp cho phát triển khu công nghiệp và đô thị. Phú Thọ có địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du và đồng bằng ven sông, đã tạo ra nguồn đất đai đa dạng phong phú để phát triển nông lâm nghiệp hàng hóa toàn diện với những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với thị trường trong nước và thế giới. Tuy nhiên do địa hình chia cắt mức độ cao thấp khác nhau nên việc đầu tư khai thác tiềm năng, phát triển sản xuất, phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội phải đầu tư tốn kén nhất là giao thông, thủy lợi, cấp điện, cấp nước. Tài nguyên khoáng sản: Theo kết quả điều tra, khóang sản có 215 mỏ và điểm quặng, trong đó có 20 mỏ lớn, 50 mỏ nhỏ và 143 điểm quặng. Các khóang sản có ý nghĩa nổi trội là: Cao lanh, penpat trữ lượng 30,6 triệu tấn, chất lượng tốt, Pyrit, Quarit, đá xây dựng có ở 55 khu vực, trữ lượng 935 triệu tấn ; cát, sỏi khoảng 100 triệu m3 và nước khoáng nóng. Tổng hợp các loại khoáng sản đặc trưng của Phú Thọ Đơn vị: Triệu tấn, lít STT Tên khoáng sản Đơn vị tính Tổng trữ lượng Trữ lượng công nghiệp Điều kiện khai thác Tổng số Đã khai thác Chưa khai thác 1 Cao lanh triệu tấn 25,6 20,6 1,0 19,6 Thuận lợi 2 Penpat triệu tấn 5,0 4,0 0,5 3,5 Thuận lợi 3 Pyrit triệu tấn 1,0 0,8 0,6 0,2 Thuận lợi 4 Quarrit triệu tấn 10,0 8,0 - 8,0 Thuận lợi 5 Tantalcum triệu tấn 0,1 0,07 - 0,07 Thuận lợi 6 Đá vôi triệu tấn 935,0 900,0 2,0 898,0 Thuận lợi 7 Nước khóang nóng triệu lít 48,0 45,0 2,5 42,5 Thuận lợi Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ năm 2005 Qua số liệu trên cho thấy Phú Thọ không giàu về khóang sản nhưng lại có cao lanh, Penpat, đá vôi nước khoáng nóng có ý nghĩa cả nước sẽ là lợi thế để Phú Thọ phát triển mạnh công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến khoáng sản, công nghiệp giấy, công nghiệp gốm sứ, công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng. Phú Thọ lại không xa các khu công nghiệp lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương nên việc mở rộng liên doanh liên kết với các địa phương trên dể phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khóang sản hiện nay đều phân bố ở khu vực phía Tây của tỉnh (hữu ngạn sông Hồng) đang có hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông nên việc đẩy mạnh khai thác trước mắt sẽ là khó khăn. Tài nguyên du lịch: Với 150 di tích lịch sử văn hóa, nghệ thuật được xếp hạng, trong đó ố những di tích nổi bật như: đền Hùng, Đầm Ao Châu, khu ao Trời – suối Tiên, khu mỏ nước khóang nóng La Phù – Thanh Thủy... Các chiến khu Hiền Lương, Minh Hòa, chiến thắng Sông Lô, Tu Vũ di tích khảo cổ Sơn Vi, gò Mun, rừng quốc gia Xuân Sơn cùng các lễ hội Đền Hùng, Bạch Hạc, Chu Hóa, đánh cá, mở cửa rừng; các di tích nghệ thuật đình Huy Cương, đình Hùng Lô, đền Mẫu Âu Cơ, đền Hiền Quang, đình Bảo Đà, đình Lầu Thượng, đình Đào Xá... với 21 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, nên rất độc đáo và phong phú là tiềm năng và động lực thúc đẩy ngành du lịch phát triển trong những năm tới. 2.2.Lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Yên Bái Vị trí địa lý: Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa thuộc miền núi phía Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang, phía tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 7 huyện và 2 thị xã với 180 xã, phường, thị trấn trong đó có 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn. Thị xã Yên Bái là thị xã tỉnh lỵ trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa tỉnh, năm trên giao điểm các tuyến giao thông chính giữa Đông Bắc và Tây Bắc, giữa Lào Cai và Hà Nội. Tuy nằm sâu trong nội địa, nhưng Yên Bái có vị trí cửa ngõ của miền Tây Bắc, hội đủ hệ thống giao thông bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không Tiềm năng về quỹ đất và khả năng phát triển cây trồng, vật nuôi chủ yếu có giá trị kinh tế cao: Đất nông nghiệp 66.692,4 ha chiếm 9,69% diện tích tự nhiên: đất có rừng là: 258.741,7 ha chiếm 37,59% ; đất chuyên dùng 28.491,6 ha chiếm 4,14% ; đất ở 3.696,8 ha chiếm 0,54%; đất chưa sử dụng 330.669,7 ha chiếm 48,04% diện tích tự nhiên. Tài nguyên khóang sản: Tài nguyên khóang sản của Yên Bái đa dạng nhưng dều thuộc loại mỏ nhỏ thuộc địa phương quản lý không có khả năng khai thác lớn và phù hợp với công nghiệp địa phương. Hiện đã điều tra 153 điểm mỏ khóang được xếp vào 5 nhóm sau: + Nhóm năng lượng: 18 điểm gồm các loại than nâu, than bùn, đá chứa dầu... + Nhóm khóang sản vật liệu xây dựng: 42 điểm gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát sỏt, đặc biệt cacbonat can xi trắng có trữ lượng 14 triệu tấn, chất lượng cao được phân bố rộng rãi trên địa bàn tỉnh. + Nhóm khóang chất công nghiệp: 39 điểm gồm nguyên liệu phân bón, nguyên liệu kỹ thuật, nguyên liệu hóa chất, đặc biệt là đá quý và bán đá quý. + Nhóm khóang sản klim loại: 41 điểm từ kim loại đen (sắt) đến kim laọi màu (đồng,chì, kẽm) và kim laọi quý (vàng..) + Nhóm nước khóang: 13 điểm phân bố ở phía Tây của tỉnh hầu hết là các loại nước khóang chữa bệnh. Cơ sở hạ tầng dịch vụ: + Năng lượng: Trên địa bàn tỉnh có nhà máy thủy điện thác Bà công suất 120 MW, có một trạm biến áp 110/35 KV, dung lượng 40.000 KVA ; 10 trạm 35/10 KV ; 1 trạm 35/6 KV ; 124 trạm 35/0.4 KV.Đường dây tải điện: 90 km đường dây 110 KV, 502 km đường dây 35 KV ; 150 km đường dây 10 KV và 595 km đường dây 0,4 KV ; đã đưa điện lưới đến 9/9 huyện, thị với 110/180 xã, phường. Những xã chưa có điện lưới đã đầu tư xây dựng khoảng trên 10.000 máy thủy điện nhỏ từ 0.3KW – 0.6KW. + Thủy lợi: Toàn tỉnh có 887 công trình thủy lợi lớn, nhỏ bao gồm 13 trạm bơm điện, 154 bể chứa, 720 công trình đập dâng, kênh dẫn nước. Tổng năng lực thiết kế tưới cho 13.130 ha/19.230 ha ruộng nước. + Giao thông vận tải: Yên Bái có nhiều loại hình giao thông: Đường bộ có tổng chiều dài 3.981,46 km trong đó đường quốc lộ có 4 tuyến dài 369,5 km qua 46 xã và 6 huyện, thị; đường tỉnh dài 229,5 km qua 160 xã ; đường giao thông nông thôn dài 3.186,96 km chủ yếu là đường đất. Đường sắt Hải Phòng – Hà Nội – Yên Bái – Lào Cai qua Yên Bái 84 km gồm 10 ga chạy qua 20 xã, phường, thị trấn. Đường thủy gồm 2 tuyến giao thông chủ yếu: tuyến sông Hồng dài 115km và tuyến hồ thác Bà dài 80 km. + Đường hàng không: Sân bay Yên Bái là sân bay quân sự chưa sử dụng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. + Bưu chính viễn thông: Đến nay 100% mạng thông tin nội tỉnh đã được số hóa; 100% huyện, thị có tuyến Viba và tổng đài tự động. Hiện có 104/159 xã có máy điện thoại, bình quân 1,4 máy/100 dân. Tiềm năng du lịch: Yên Bái có phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp, nhiều hang động như Thẩm Lé, Thẩm Khuôi, động Thủy tiên, nhiều sông hồ lớn: hồ Thác Bà, khu du lịch sinh thái Suối Giàng... nhiều di tích lịch sử cách mạng, nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc thiểu số mang đậm nét bản sắc dân tộc riêng. Song do điều kiện kinh tế chạm phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém nên chưa có điều kiện khai thác những tiềm năng này. Trong tương lai tỉnh sẽ đầu tư xây dựng một số điểm có khả năng thu hút khách du lịch để phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tiềm năng về nhân tố con người: Dân số toàn tỉnh 682.171 nước ; mật độ dân số 99 người/1km2 gồm 30 dân tộc là: Kinh, Tày, Thái, Dao, Mường... Ở Yên Bái hiện nay dân cư thành thị chiếm 20%, nông thôn 80%. Dân số tronmg độ tuổi lao động 327.268 người chiếm 48,một% dân số, trong đó khu vực thành thị chiếm 22%, nông thôn chiếm 78%. Trình độ lao động trên đại học, đại học, cao đẳng chiếm 14,7%, tổng số lao động kỹ thuật, trung cấp chiếm 24,8%, trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật chiếm 60,5% tồn số lao động. 2.3.Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của tỉnh Lào Cai Vị trí địa lý: Lào Cai là tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 8.057 km2 phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Thị xã Lào Cai nằm ở khu vực sát biên giới Việt – Trung cách thủ đô Hà Nội trên 300 km và cách thành phố Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam – Trung Quốc khoảng 500 km. Lào Cai nổi lên như một vùng sáng nhờ sự hiện hữu của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia trên biên giới thông qua các hoạt động thương mại, du lịch và dịch vụ. Tiềm năng công nghiệp: Là tỉnh có nhiều tiềm năng khóang sản với kết quả nghiên cứu bước đầu hiện có 32 loại khóang sản, 130 điểm mỏ. Một số mỏ có rữ lượng lớn dễ khai thác, dễ vận chuyển và đang có thị trường quốc tế như Apatit Lào Cai (có trữ lượng hàng tỷ tấn, là một trong bốn khu vực lớn nhất), đồng ở Sinh Quyền – Bát Sát; Sắt ở Quý Sa – Văn Bàn ; Fenspat – Kim Tân, Văn Bàn; Cao Lanh, đôlômit, graphit ở Nậm Thi, các mỏ kim loại hiếm như: vàng, đá quý, chì, kẽm... thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến đa dang các lọai khóang sản ở địa phương. Là tỉnh có diện tích lớn, trữ lượng gỗ rừng, nông, lâm sản phong phú, có vùng cây ăn quả tập trung đa dạng. Chăn nuôi phát triển sẽ đáp ứng cho công nghiệp chế biến phục vụ cho yêu cầu tiêu dùng, xuất khẩu trong nước, quốc tế Tiềm năng nông nghiệp: + Cây công nghiệp: Cây công nghiệp chủ yếu của Lào Cai là cây chè được phát triển thành sản phẩm lớn của tỉnh Lào Cai. Hiện nay cây chè được trồng với diện tích 1.800 ha, dự kiến phát triển 10.000ha, trong đó khuyến khích phát triển kinh doanh chè đặc sản trồng trên núi cao. + Cây ăn quả: Cây ăn quả có ưu thế lớn về thị trường tiêu thụ đảm bảo là các loại cây có khả năng sinh trưởng trên vùng có dạng khí hậu ôn đới. Tổng diện tích cây ăn quả hiện có: 6.500 ha. Dự kiến phát triển thành 15.000ha. Trong đó cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới 6.650 ha, cây ăn quả nhiệt đới là 8.850 ha. Ưu thế sản phẩm của Lào Cai hiện có: mận tam hoa, vải, lê, đào. + Rau, quả, cây cảnh: Sản phẩm rau, củ, quả và cây cảnh Lào Cai có đặc thù riêng trở thành thế mạnh của Lào Cai + Khoai tây giống được sản xuất theo quá trình phục tráng ở vùng cao – nhân giống củ nhỏ, sạch bệnh và cung ứng giống cho châu thổ sông Hồng gieo trồng khoai Tây vụ Đông. Số lượng 5000 đến 6000 tấn hàng năm. + Hoa cây cảnh Lào Cai có ưu thế về giống phong phú, đặc sắc như: hoa lan, đỗ quyên, bất tử, cẩm chướng. Với khí hậu mát mẻ quanh năm sẽ tạo khả năng sản xuất hoa với số lượng lớn, và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ ở các thành phố, thị xã và tham gia xuất khẩu. Dự kiến phát triển với số lượng sản phẩm: 4 triệu cành hoa lan ôn đới, một triệu giỏ hoa lan nhiệt đới, các loại hoa đơn 2 triệu bông và cây sinh thái. Tiềm năng du lịch: Tài nguyên và sản phẩm du lịch Lào Cai (cả tự nhiên và nhăn văn) rất phong phú, đa dạng với nhiều điểm du lịch tập trung ở thị xã Lào Cai, SaPa, Bắc Hà, Bát Xát... Sa Pa: Nằm ở phía Tây BẮc của tỉnh Lào Cai, thị trấn Sa Phản ánh có độ cao trung bình 1500 m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đến đây du khách có thể du ngọan và ngắm nhìn dãy Hòang Liên Sơn hùng vĩ, với đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Đông Dương trong khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, tham quan thác Bạc, Cầu Mây, Bãi Đá cổ, leo núi Hàm Rồng để ngắm đủ loại phong lan. Sa Pa là nơi lý tưởng cho du lịch sinh thái, du lịch thể thao leo núi và du lịch tìm hiểu văn hóa các dân tộc trong làng bản. Sa Pa là nơi du lịch nghỉ mát cách đây hàng trăm năm. Bắc Hà: Bắc Hà là huyện vùng cao biên giới, nằm ở phía Đông Bắc cách thị xã Lào Cai hơn 60 km đường bộ. Cũng giống như ở Sa Pa, Bắc Hà quanh năm mát mẻ và là một vùng mận tam hoa khổng lồ, mỗi độ xuân về hoa nở trắng rừng, nhiều người đã ví Bắc Hà như một “ cao nguyên của sương và hoa mận”. Ở đây có nhiều thắng cảnh đẹp có thể kể đến như: dinh Hoàng A Tưởng được xây dựng cách đây gần một thế kỷ, tuyến du lịch sông Chảy, Hang Tiên, động Tà Lùng Phình... nhưng điểm nổi bật của Bắc Hà là phiên chợ văn hóa vùng cao diễn ra vào chủ nhật hàng tuần, rất đông vui nhộn nhịp và có sức hấp dẫn với khách du lịch từ phương xa tới, du khách được thưởng thức văn hóa ẩm thực rất đặc trưng của vùng cao là rượu Bắc Hà và thắng cố. Động Mường Vi: Động Mường Vi hay còn gọi là động Thủy Tiên là một quần thể hang động lớn (thuộc xã Mường Vi - huyện Bát Xát – cách thị xã Lào Cai hơn 30 km) bao gồm 4 động chính: Nà Rin, động thấp, động gió và động trên.Quần thể hang động Mường Vi không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian, đã và đang thu hút khách tham quan du lịch tới chiêm ngưỡng và tìm hiểu. Qua khảo sát được biết động Mường Vi là một trong những động có quy mô lớn nhất miền Bắc, đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Đền Thượng: Đền Thượng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử từ năm 1997, thuộc phường Lào Cai, thị xã Lào Cai. Đây là nơi thờ vị tướng quân Trần Hưng Đạo. Di tích Đền Thượng ngày nay đã và đang được bảo vệ, tôn tạo, nâng cấp phục vụ bà con ở các nơi trong cả nước và ngoài nước biết và tới thăm. Tiềm năng thương mại: Lào Cai có hệ thống giao thông liên tỉnh tương đối hòan chỉnh, bao gồm cả đường bộ và đươngdf sắt nối với Hà Nội, cảng Hải Phòng, các tỉnh láng giềng và cả với Trung Quốc. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là một lợi thế quan trọng giúp Lào Cai phát triển thương mại và kinh tế dịch vụ khác với vùng Tây nam – Trung Quốc. Đây là khu vực có trên 200 triệu dân, rất nhiều nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa được thực hiện qua cửa khẩu quốc tế. Do vậy, Lào Cai thực là đầu cầu trong “ mối quan hệ kinh tế - văn hóa đối ngoại với Trung Quốc ở cửa ngõ Tây Bắc của Tổ Quốc. Dù khiêm tốn nhưng hiện giá trị kim n._. Hướng hợp tác chủ yếu bao gồm các lĩnh vực: Sản xuất, lắp ráp các loại thiết bị trong đó rất chú ý các loại cọc tiêu, biển báo, hệ thống đèn chiếu sáng công cộng, các loại thi công… Sản xuất lắp ráp các loại phương tiện giao thông nhất là: các loại xe vận tải nhẹ, các xe chuyên dùng(xe chở nông sản, thực phẩm, xe gom- chở rác) và các phương tiện vận tải khác d)Liên kết trong lĩnh vực đào tạo nhân lực phục vụ cho ngành giao thông vận tải của các tỉnh bao gồm: Đào tạo lái xe, điều khiển phương tiện vận tải. Đào tạo lao động cho việc sưả chữa, lắp ráp các thiết bị và phương tiện vận tải khác. Đào tạo cán bộ quản lý và đào tạo lao động thuộc các lĩnh vực giao thông vận tải khác. Khuyến khích và mở rộng hình thức đào tạo tại chỗ, quy mô đào tạo sát với yêu cầu thực tế của cơ sở. 4. Phương hướng liên kết trong thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài - Vùng Đông Bắc có vị trí tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nên đồng thời với việc phát triển liên kết kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng cần đặt ra phương hướng liên kết trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Do đó, các dự án trong danh mục cần chú trọng trong phân bổ theo hướng: - Các dự án có quy mô lớn, hàm lượng kỹ thuật cao tập trung vào các tỉnh, thành phố, khu công nghiệp có điều kiện hạ tầng và nguồn nhân lực khá. Các dự án công nghiệp quy mô nhỏ gắn với sản xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm. - Các dự án khai khoáng, hoá chất, phân bón, vật liệu xây dựng, chế biến cây công nghiệp cần bố trí ở những nơi có vùng nguyên liệu, điều kiện hạ tầng phục vụ sản xuất thuận tiện, vừa bảo đảm cơ cấu vùng, lãnh thổ, vừa có tính khả thi,vừa hấp dẫn nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. - Trong lĩnh vực nông, lâm, sản, hướng tập trung vào các dự án chăn nuôi, trồng trọt gắn với chế biến, đặc biệt phục vụ xuất khẩu. - Các dự án thuộc ngành xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng gồm giao thông vận tải, xây dựng nhà ở, hạ tầng khu công nghiệp cần áp dụng các hình thức như BOT,BT, BOO. - Các dự án về hạ tầng xã hội tập trung vào các lĩnh vực sản xuất thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế, đào tạo công nhân kỹ thuật, trường học quốc tế,nghìên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới. - Các dự án về lĩnh vực du lịch nên tập trung vào các dự án phát triển các hoạt động cụ thể. - Các tỉnh cần phối hợp với nhau trong việc để xuất với Chính Phủ cho mở rộng một số chính sách đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào vùng như: Ưu đãi thuê đất, cho phép mở rộng các hình thức đầu tư. - Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền quảng bá trong nước và quốc tế trên các loại hình thông tin. Do vậy, cần thiết lập một trang Web chung để giới thiệu, tuyên truyền vận động đầu tư. Ngoài ra cần phối hợp với cơ quan chức năng, tổ chức xúc tiến đầu tư- thương mại trong nước và quốc tế, các công tác tư vấn để tổ chức các diễn đàn xúc tiến đầu tư cho vùng. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC TỈNH 1. Giải pháp tổ chức điều hành và cơ chế phối hợp Giải pháp này nhằm đảm bảo sự thống nhất về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong hợp tác phát triển giữa các địa phương trong vùng. Trước hết cần phải lập một ban điều hành chung cho cả vùng gọi là Hội đồng phát triển vùng trung du miền núi phía Bắc. Theo hình thức phối hợp này, lãnh đạo các tỉnh cũng như các điều phối viên các cơ quan cấp quốc gia có liên quan đến phát triển các tỉnh lân cận thành lập một hội đồng phối hợp. Hội đồng phối hợp này là nơi các tỉnh có liên quan tiến hành thảo luận thường xuyên về các vấn đề phát triển. Hội đồng này thường xuyên họp và thành lập các ủy ban chức năng giải quyết chi tiết các vấn đề khác nhau mà các tỉnh thành viên gặp phải. Lợi ích của việc thành lập hội đồng phát triển vùng chính là việc thể chế hóa công tác phối hợp. Hội đồng phối hợp có thể sẵn sàng hỗ trợ các tỉnh thành viên trong việc nâng cao năng lực điều hành ở các lĩnh vực khác nhau. Hội đồng vùng cũng có thể nghiên cứu lại, phối hợp, đánh giá và xác định các thứ tự ưu tiên và trình lên trung ương các đề án đầu tư công cộng của mỗi tỉnh thành viên. Điều này giúp đảm bảo tính thống nhất của các dự án và theo đúng định hướng phát triển vùng và quốc gia. Hội đồng vùng có thể thực hiện công tác tổng hợp các kế hoạch phát triển các tỉnh thành viên và của các cơ quan phụ trách ngành hoạt động trong phạm vi các tỉnh thành kế hoạch phát triển của vùng. lãnh đạo các tỉnh thành viên và các cơ quan ban ngành có liên quan tham gia một cách tích cực vào quá trình hợp nhất này, do đó đảm bảo được tinh thần làm chủ và trách nhiệm thực hiện các kế hoạch phát triển vùng. Ngoài ra, để đảm bảo cho hợp tác phát triển diễn ra một cách thuận lợi cần thiết phải lập quỹ phát triển vùng và không ai khác là hội đồng vùng phải đứng ra quản lý. Quỹ này một phần là do ngân sách nhà nước cấp, một phần là do các địa phương trong vùng đóng góp, tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước. Thành lập quỹ phát triển vùng nhằm: Xây dựng hạ tầng kỹ thuật một số điểm, cụm, khu công nghiệp tại một số địa phương trong vùng Lập quỹ khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến nông sản thực phẩm (Chế biến các laọi thịt, các lọai rau, củ, quả...) Hỗ trợ các doanh nghiệp trong vùng xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, đào tạo, đổi mới thiết bị... Sử dụng vào mục đích chung khác. Sự ra đời của hội đồng vùng dường như có thể tạo thêm một cấp trung gian trong cơ cấu chính phủ. Tuy vậy, đây là sự ra đời cần thiết, bảo đảm cho các cơ chế kết hợp phát triển theo ngành và theo vùng lãnh thổ có cơ sở được thực hiện ổn định và triển khai có hiệu quả sự hợp tác phát triển giữa các địa phương trong vùng. Tiếp theo cần xây dựng và ban hành cơ chế điều hành, cơ chế phối hợp chung (trên cơ sở tuân theo và cụ thể hóa các chủ trương, định hướng, các chính sách của Đảng và nhà nước) đối với từng lĩnh vực cụ thể như: du lịch, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng.... Trên cơ sở nghị quyết 15/NQTW của Bộ chính trị về nhiệm vụ phát triển các địa phương và ban hành cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trung ương với địa phương và giữa các cơ quan trung ương với các vùng theo các nội dung cơ bản sau: Phối hợp trong xây dựng các quy hoạch, các chương trình và các kế hoạch phát triển ngành. Đảm bảo phối hợp với quy hoạch chung của toàn vùng và của quốc gia. Phối hợp trong việc cung cấp thông tin, xúc tiến mở rộng thị trường. Nhất là định kỳ cung cấp thông tin liên quan đến chủ trương phát triển ngành, các thông tin về biến dạng của thị trường, sự thay đổi về hệ thống thuế, các chính sách khác của các nước nhập khẩu... Trên cơ sở các cơ chế điều hành, cơ chế phối hợp chung các địa phương cần có kế hoạch giao cho các sở, ban, ngành, các doanh nghiệp của các bên tổ chức thực hiện. Trong thời gian tới cần xây dựng và đưa nội dung hợp tác vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của mỗi ngành, mỗi cấp. Các ngành các cấp chủ động quan hệ phối hợp xây dựng nội dung,chương trình, kế hoạch và dự án hợp tác cụ thể trình ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phê duyệt và đưa vào thực thi. Trong giao thông vận tải ưu tiên phối hợp đầu tư cải tạo, nâng cấp hòan thiện hệ thống giao thông giữa các tỉnh, thành phố để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả công trình đầu tư (chú ý giao thông vùng giáp ranh và giao thông liên tỉnh). Phối hợp tăng cường vận tải hành khách liên tỉnh bằng đường bộ và đầu tư xây dựng hệ thống bến xe. Trong hợp tác phát triển thương mại, ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai đẩy nhanh tiến độ xây dựng các chợ đầu mối, hỗ trợ, tạo điều kiện xây dựng các trung tâm thương mại các văn phòng đại diện của các tỉnh nhằm giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm. Trong công nghiệp ưu tiên phối hợp xây dựng các cơ sở chế biến nông lâm sản và xây dựng vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trong vùng như nhà máy chè... Trong hợp tác phát triển du lịch, ưu tiên đẩy mạnh hợp tác phát triển các tour du lịch như: tour du lịch hướng về cội nguồn giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Thiết lập một chương trình quảng bá chung trên các phương tiện thông tin đại chúng về các dự án đầu tư, các chương trình phát triển du lịch, các tuyến, điểm, và các tour du lịch.... Đây là nội dung quan trọng vì nó đảm bảo cho sự thực hiện quy hoạch phát triển chung của toàn vùng, đồng thời thực hiện sự can thiệp chung của nhà nước đối với toàn vùng (nhất là chính sách đầu tư đối với các dịa bàn cần khuyến khích). 2.Lập, hoàn thiện, bổ sung các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, chúng ta đã và đang triển khai xây dựng hệ thống quy hoạch tổng thể kinh tế -xã hội, quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm và 6 vùng kinh tế lớn trong đó có vùng trung du miền núi phía Bắc.Tuy nhiên, các quy hoạch tổng thể kinh tế -xã hội nói chung và các quy hoạch vùng, quy hoạch phát triển địa phương nói riêng thường được xây dựng trong một khoảng thời gian nhất định(thông thường là khoảng 5 hay 10 năm). Trong khoảng thời gian ấy, có thể có những thay đổi về mặt cơ chế chính sách hay những biến động của nền kinh tế làm cho một số vấn đề trong quy hoạch sẽ không còn phù hợp và làm nảy sinh những vấn đề mới chưa được đề cập tới. Trong trường hợp như vậy, các ngành, các địa phương cần phải có sự điều chỉnh hợp lý, bổ sung và hòan thiện một cách khẩn trương, trong đó, cần phải tính đến quy hoạch hợp tác phát triển với các tỉnh trong vùng để bố trí một không gian thỏa đáng cho hoạt động này, tránh tình trạng mâu thuẫn trong các bản quy hoạch phát triển. Khi nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch cần phải lấy ý kiến rộng rãi của các Bộ, ngành, địa phương về những vấn đề có liên quan như: đánh giá tiềm năng của từng ngành, từng tỉnh trong phạm vi vùng; xác định lợi ích chung, lợi ích trước mắt và lâu dài; tạo điều kiện phát triển hài hòa giữa các ngành, các địa phương trong vùng, tận dụng lợi thế để nâng cao hiệu quả kinh tế, phối hợp sử dụng các nguồn lực, sử dụng cơ sở hạ tầng chung, liên doanh, liên kết trong sản xuất. Đứng trên góc độ tăng cường cơ chế phối hợp, kết hợp trong quá trình lập các quy hoạch phát triển tổng thể, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng nhằm tạo ra bộ phông thống nhất điều tiết sự kết hợp phát triển theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Theo khía cạnh trên, công tác quy hoạch cần tập trung hòan thiện vào các vấn đề lớn sau: Về mặt trình tự trong hệ thống các quy hoạch: quy hoạch phát triển ngành (kể cả các ngành sản phẩm) phải được đi trước một bước so với quy hoạch phát triển địa phương (Các tỉnh, thành phố) và vùng. - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của các địa phương hay vùng trung du miền núi phía Bắc phải do chính quyền địa phương hay cơ quan quản lý vùng (hội đồng phát triển vùng) chủ trì những phải được xây dựng với sự tham gia của các ngành hữu quan có nhiều đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn và các địa phương, các vùng lân cận có mối liên kinh tế. Quy hoạch vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc phải đưa ra được các phương án phân bố không gian phát triển các ngành, các cơ sở các trung tâm, khu công nghiệp... và phải đưa ra được các chính sách phù hợp. Trong quy hoạch vùng phải chỉ rõ được các mối liên kết theo ngành theo địa phương trên vùng, chỉ rõ trách nhiệm của nhà nước, của các ngành trung ương, của các địa phương trong quá trình thực hiện. Việc xây dựng các quy hoạch phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể trên địa bàn vùng và cả nước, đồng thời phải tính đến sự tác động của các yếu tố ngoại lực. - Trên cơ sở quy hoạch ngành cần xác định cụ thể những chương trình, dự án ưu tiên đầu tư cho mỗi giai đoạn (Nhất là các dự án về lĩnh vực giao thông vận tải, du lịch). Việc xác định dự án ưu tiên phải xuất phát từ yêu cầu kết hợp hài hòa lợi ích Hiện nay, chúng ta đã có kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia, kế hoạch phát triển ngành và kế hoạch cuả các địa phương trong vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc và kế hoạch của các địa phương trong vùng trung du miền núi phiá Bắc đang được triển khai. Đến nay, các kế hoạch phát triển ngành và địa phương đã có cơ hội gắn kết bổ sung và đảm bảo sự thống nhất nhất định dựa trên cơ sở chiến lược và kế hoạch 5 năm của quốc gia. Tuy vậy hiện nay, chúng ta vẫn chưa có một kế hoạch nào được xây dựng cho cấp vùng, điều này gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển vùng, chưa tổng hợp dcc nguồn lực của toàn vùng và khó khăn cho việc điều phối nguồn lực cụ thể trong các địa phương, các ngành ở trên các vùng kinh tế của Việt nam nói chung và vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc nói riêng. Lập kế hoạch theo vùng là hình thức lập kế hoạch mới nhất của kinh tế thị trường và xuất phát từ nhu cầu giao lưu mở rộng không gian kinh tế của các ngành ngày càng lớn. Vì vậy, lập kế hoạch cho vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các lĩnh vực, đặc biệt đối với các hoạt động phát triển mà ở đó sự kết nối giữa các ngành có ý nghĩa quan trọng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để lập kế hoạch phát triển vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước trong phối hợp phát triển ngành và lãnh thổ. Muốn vậy phải xác định quy trình hợp lý thực hiện sự kết nối kế hoạch vùng với kế hoạch ngành, kế hoạch địa phương và kế hoạch quốc gia. Kế hoạch ngành Kế hoạch địa phương (tỉnh) Kế hoạch vùng Kế hoạch quốc gia Sơ đồ kết nối kế hoạch vùng với kế hoạch địa phương và kế hoạch quốc gia Theo sơ đồ này trước tiên lập kế hoạch tổng thể quốc gia để xác định các mục tiêu lớn của quốc gia và các chiến lược lớn để đạt được mục tiêu trong thời kỳ kế hoạch. Trong quá trình xây dựng kế hoạch quốc gia,các ý kiến của các ngành và các địa phương phải được tính đến. Tiếp theo, lập kế hoạch của các địa phương và của các ngành trên địa bàn vùng. Kế hoạch của các địa phương và các ngành cụ thể hóa kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân, có đề cập đến hoạt động cụ thể của ngành (đối với kế hoạch ngành), và địa phương (đối với các tỉnh, thành phố). Cuối cùng, lập kế hoạch phát triển vùng. Kế hoạch phát triển vùng trung du miền núi phía Bắc cụ thể hóa kế hoạch phát triển tổng hợp quốc gia và tổng hợp kế hoạch của các địa phương, các ngành trong địa bàn vùng. Như vậy, việc lập lên được kế hoạch phát triển vùng trung du miền núi phía Bắc sẽ hình thành lên các chỉ tiêu về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, quy mô và tiềm năng phát triển các yếu tố nguồn lực trên vùng, làm khung định hướng chung cho sự hợp tác, liên kết của các tỉnh thành phố khác trong vùng và lân cận. Vấn đề đặt ra tiếp theo là phải có một cơ quan đảm trách xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch phát triển vùng. Vì vậy cần thiết phải thành lập một cơ quan quản lý và điều hành chung cho cả vùng, cơ quan này sẽ có chức năng lập kế hoạch, triển khai, theo dõi và phối hợp các ngành, các địa phương nhằm thực hiện mục tiêu tổng thể phát triển vùng. Để đảm đương được trách nhiệm nặng nề này, cơ quan quản lý vùng phải đại diện được cho cả các ngành, các địa phương trong vùng và có khả năng phối hợp ngành, các địa phương theo khuôn khổ chung của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Cơ quan này có thể gọi là hội đồng phát triển vùng trung du miền núi phía Bắc (nội dung cụ thể về cơ quan này sẽ được làm rõ ở giải pháp thứ hai). Sau khi đã có kế hoạch phát triển vùng, hội đồng phát triển vùng sẽ phối hợp các chính quyền địa phương trong tỉnh, các bộ ngành có các doanh nghiệp đóng trên địa bàn cùng soạn thảo các chương trình đầu tư, danh mục các dự án đầu tư phát triển vùng. Các dự án cụ thể có quy mô nhỏ sẽ là cơ sở để phân bổ ngân sách của chính quyền địa phương, còn các dự án liên vùng có quy mô lớn hơn được đưa vào chương trình đầu tư trung hạn và xét thứ tự ưu tiên vào danh mục chương trình và các dự án vùng cần được tài trợ từ chính phủ. 3.Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả liên kết kinh tế - Xây dựng, hoàn thiện, điều chỉnh chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia, các ngành công nghiệp, từng địa phương.theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược của từng ngành, vùng là cơ sở , mục tiêu căn cứ để thiết lập các quan hệ liên kết kinh tế và bảo đảm hiệu quả cao của hoạt động liên kết kinh tế và bảo đảm hiệu quả cao của hoạt động liên kết kinh tế. Nếu chúng ta chưa thực hiện được công việc cụ thể chiến lược, quy hoạch tổng thể của ngành, vùng thì hoạt động liên kết kinh tế của các doanh nghiệp, của các địa phương trong vùng chỉ có thể giải quyết được những mục tiêu, nhiệm vụ cục bộ tạm thời thiếu sự ổn định và phát triển lâu dài. - Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp kinh tế một cách kịp thời, đồng bộ tạo môi trường, hành lang pháp lý khuyến khích các doanh nghiệp ở các địa phương phát triển liên kết kinh tế đúng hướng, đúng luật. Trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện luật nói chung và luật kinh tế trực tiếp thuộc Quốc hội và các cơ quan giúp việc cho Quốc hội. Đồng thời là trách nhiệm của các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế đóng góp ý kiến phát hiện những điều luật lạc hậu, mâu thuẫn, không đủ điều kiện thực hiện để Quốc hội sửa đổi kịp thời. - Hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích giữa các chủ thể tham gia liên kết kinh tế và với nhà nước, người lao động. Vận dụng quán triệt đúng nguyên tắc cùng có lợi, tự nguyện công bằng và bình đẳng trong quan hệ phân chia lợi ích của hoạt động liên kết kinh tế. Đó là phải bảo đảm được lợi ích thoả đáng cho cá nhân người lao động, các chủ doanh nghiệp tham gia liên kết và lợi ích xã hội mà nhà nước là người đại diện. Việc hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích giữa các chủ thể tham gia liên kết kinh tế có liên quan đến sửa đổi cải cách hệ thống thuế của quốc gia hiện nay. Chính sách thúê đối với sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động liên kết kinh tế của các doanh nghiệp phải nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư tích cực vào khâu sản xuất, liên kết tạo nhiều hàng hoá cho xuất khẩu làm cho quy mô sản xuất hàng hoá tăng nhanh nhờ đó mà tăng lượng thu cho ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế. 4. Hình thành những tổ chức kinh tế mang tính liên vùng Mục đích của việc thành lập các tổ chức kinh tế này nhằm tăng quy mô, khả năng cạnh tranh và chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế.Bởi vì, kinh doanh lớn cho phép tập trung được nguồn vốn lớn khan hiếm tạo khả năng đẩu tư vào những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhất là những ngành công nghệ hiện đại.Các tổ chức kinh tế này được hình thành dựa trên các mối quan hệ dọc và ngang, nhờ đó các doanh nghiệp có thể giảm bớt rủi ro và những bất chắc do thị trường không ổn định, những thay đổi do cơ cấu gây ra. Nhờ liên kết dọc các tổ chức kinh tế này không bị phụ thuộc vào các nhà cung ứng nguyên vật liệu độc quyền, hoặc có thể nhận được nguyên vật liệu cần thiết một cách đều đặn, với khối lượng theo yêu cầu. Hơn nữa, một trong những lợi thế của việc thành lập các tổ chức kinh tế mang tính liên vùng là các doanh nghiệp thành viên có thể dễ dàng trao đổi thông tin và nguồn nhân lực khan hiếm với nhau hơn, vì thế có thể tạo điều kiện cung cấp các nguồn vốn và có cơ hội kinh doanh mới. Phải coi đây là tổ chức đa hình thức sở hữu, được thiết lập trên cơ sở tự nguyện- xuất phát từ mục tiêu và lợi ích kinh tế của các bên, tránh sự gò ép, thực thi theo phong trào. Nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đã chỉ ró: “ thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế”. Về hình thức tổ chức: Theo nguyên tắc trên, hướng hình thành các tổ chức kinh tế sau: Tổng công ty 91, hiệp hội ngành hàng, mô hình công ty mẹ - công ty con. Trong đó rất chú trọng đến các mô hình: Hiệp hội ngành hàng và công ty me – công ty con. Các hình thức này có thể bao gồm đa ngành hoặc chuyên ngành, có thể bao gồm nhiều công đoạn sản xuất từ khâu sản xuất tạo nguyên liêu, gia công chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Các tổ chức kinh tế mang tính liên vùng này có thể bao gồm các dạng sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Cụ thể như sau: Đối với hình thức tổng công ty 91: Tổng công ty 91 được thành lập với bảy doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1000 tỷ đồng, có thể hoạt động đa ngành song nhất thiết phải có một ngành chủ đạo. Tổng công ty được thành lập trên cơs sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, đào tạo nghiên cứu, tiếp thị nhằm tăng cường khả năng kinh doanh, của các doanh nghiệp thành viên. Cho đến nay đã có 17 tổng công ty 91 được thành lập trong đó có rất nhiều tổng công ty đóng trên địa bàn của vùng trọng điểm Bắc Bộ nhất là Hà Nội như: Tổng công ty than, tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Bưu chính viễn thông... Trong thời gian tới, vùng cần có hướng tăng cường hoạt động của các công ty này nhằm tăng cường hợp tác, phát triển năng lực kinh doanh cho các dvị thành viên, cần nghiên cứu tìm hướng liên danh, liên kết, sáp nhập thêm đơn vị vào các tổng công ty có sẵn nhằm củng cố thêm loại hình kinh doanh này trong một số lĩnh vực có tiềm năng như dệt may, giầy dự án, Bưu chính viễn thông, du lịch, công nghiệp chế biến.... Đối với hình thức hiệp hội ngành hàng: Đây là hình thức các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cùng một lĩnh vực hoặc có mối quan hệ với nhau theo ngành dọc hoặc ngành ngang họp lại với nhau thành lập một hiệp hội ngành hàng. Tổ chức này nhằm tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp cùng ngành và góp tiếng nói chung khi tham gia hòa nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp trong hiệp hội này bầu ra một ban đại diện. Ban này có nhiệm vụ phối hợp sự hoạt động của các doanh nghiệp thành viên, cung cấp các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, các biến độngtrong sản xuất kinh doanh, cung cấp và phổ biến cho các doanh nghiệp thành viên về luật kinh doanh quốc tế, bảo vệ lợi ích về quyền và nhãn hiệu thương mại, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của ngành... Đối với các doanh nghiệp trong vùng trung du miền núi phía Bắc cần nhanh chóng khoa học với nhau thành lập các hiệp hội ngành hàng về may mặc, du lịch, chế biến thủy hải sản... là những mặt hàng vùng có lợi thế phát triển để tăng cường khả năng cạnh tranh, tạo dựng một chố đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Đối với hình thức công ty mẹ - công ty con: Đây là hình thức mới được lựa chọn thí điểm xây dựng các tập đòan kinh tế nước ta hiện nay, Công ty mẹ - công ty con là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được thực hiện bởi sự liên kết kinh doanh của nhiều pháp nhân kinh doanh (doanh nghiệp độc lập) hoạt động trong nhiều lĩnh vực và địa bàn khác nhau, nhằm tạo thế mạnh chung trong hoạt động với hiệu quả cao. Công ty mẹ là một công ty nắm giữ cổ phần kiểm sóat (cũng có thể là cổ phần thiểu số trong một hoặc nhiều công ty công ty con), công ty con là một công ty (có thể là công ty cổ phần hoặc công ty liên doanh) mà một công ty khác (công ty mẹ) sở hữu một phần hay toàn bộ. Trong thời gian tới vùng trung du miền núi phía Bắc cũng như cả nước càn hình thành một số mô hình công ty mẹ - công ty con theo một trong hai phương thức sau: Thứ nhất dựa vào một số Tổng công ty 91 có quy mô tương đối lớn, có trình độ quản lý cao, được trang bị thiết bị khá, lại có sự lao động liên kết với nhìeu đối tá trong và ngòai nước: Thành lập tập đòan kinh tế từ những doanh nghiệp, công ty hiện có và sẽ có, kể cả những thành phần kinh tế khác. Như vậy trong thời gian tới vùng có thể thí điểm thành lập loại hình công ty này trên một số lĩnh vực như: dệt may, du lịch, công nghiệp chế biến, da giầy, than, bưu chính viễn thông, điện lực, thủy sản.... Kết luận Trong thời kỳ kế hoạch tập trung, liên kết kinh tế chủ yếu trong khâu sản xuất thì trong cơ chế thị trường, mục tiêu, phạm vi, hình thức liên kết kinh tế được mở rộng, phong phú, đa dạng hơn như liên kết kinh tế quốc tế, liên kết giữa các vùng, các địa phương, liên kết giữa các ngành, các doanh nghiệp.... Trong đó, liên kết giữa các địa phương trong vùng kinh tế là một trong những nội dung trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm xây dựng các vùng kinh tế phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cùng với chủ trương của Đảng và nhà nước về vấn đề phát triển liên kết kinh tế giữa các vùng, vùng trung du miền núi phía Bắc đã và đang thực hiện liên kết kinh tế giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai trên nhiều lĩnh vực như: lĩnh vực sản xuất, cơ sở hạ tầng, giao thông dịch vụ... Tuy quá trình liên kết còn nhiều hạn chế do điều kiện phát triển kinh tế của các địa phương chưa cao so với cả nước nhưng Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai phần nào đã đạt được những kết quả nhất định trong việc phát huy những lợi thế so sánh của địa phương mình. Trong tương lai, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai cần phải tăng cường hơn nữa mối quan hệ liên kết phát triển kinh tế mở rộng trên nhiều lĩnh vực, cùng phối hợp trên một quy hoạch tổng thể về việc liên kết nàu nhằm thể chế hóa mối quan hệ, tìm ra được phương hướng hợp tác hiệu quả nhất, huy động được mọi tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh của mỗi địa phương vào liên kết phát triển. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Tiến Dũng - Giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển và các cô, các chú trong Ban nghiên cứu phát triển vùng - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC Trang Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINHTẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 1 I.VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 1 1. Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế. 1 2. Sự cần thiết khách quan phải liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng. 2 3. Mục đích của việc liên kết kinh tế 5 4. Vai trò của liên kết kinh tế giữa các địa phương 6 4.1.Nâng cao hiệu suất đầu tư công cộng . 6 4.2Tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển du lịch của các tỉnh 7 4.3Nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về môi trường 8 4.4.Phát triển năng lực điều hành của cán bộ các địa phương 9 II.TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 9 1. Mối quan hệ nội bộ giữa các địa phương trong vùng 9 2. Những yêu cầu cơ bản đối với các địa phương tham gia vào hoạt động liên kết kinh tế. 10 3. Nội dung liên kết. 11 4. Các hình thức liên kết. 13 4.1. Liên kết bằng cách trao đổi thông tin 13 4.2. Liên kết tập trung............................................................. 14 4.3 Liên kết thông qua hội đồng liên kết liên tỉnh 14 III. KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG. 15 1.Kinh nghiệm của Nhật Bản 15 2. Kinh nghiệm của Philipines 16 3. Kinh nghiệm của Mỹ 17 4. Kinh nghiệm trong nước 19 Chương II: VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC – THỰC TRẠNG LIÊN KẾT GIỮA BA TỈNH: PHÚ THỌ, YÊN BÁI, LÀO CAI. 21 I. ĐẶC ĐIỂM NỔI TRỘI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG THAM GIA LIÊN KẾT. 21 1.Vùng trung du miền núi 21 2. Những lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai 23 2.1. Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của Phú Thọ 23 2.2 Lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Yên Bái 27 2.3.Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của tỉnh Lào Cai 29 II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA BA TỈNH PHÚ THỌ,YÊN BÁI, LÀO CAI 32 1.Những thuận lợi và khó khăn trong việc liên kết kinh tế giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. 32 1.1. Những thuận lợi. 32 1.2. Những khó khăn 34 2. Phân tích thực trạng liên kết kinh tế 35 2.1. Liên kết phát triển sản xuất 35 2.2. Liên kết trong ngành dịch vụ 38 2.3. Liên kết phát triển cơ sở hạ tầng 39 III. ĐÁNH GIÁ CHUNG 40 1.Những tồn tại trong quá trình liên kết 40 2. Nguyên nhân chủ yếu 42 3. Những vấn đề đặt ra 44 Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN LIÊN KẾTKINH TẾ GIỮA BA TỈNH PHÚ THỌ, YÊN BÁI, LÀO CAI 45 I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO 45 1. Tư tưởng chỉ đạo. 45 2. Quan điểm liên kết phát triển. 46 3. Nguyên tắc liên kết phát triển 48 4. Mục tiêu liên kết phát triển. 49 II. PHƯƠNG HƯỚNG LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIỮA BA TỈNH:PHÚ THỌ - YÊN BÁI – LÀO CAI 50 1. Phương hướng liên kết trong công nghiệp 50 1.1.Lĩnh vực công nghiệp dệt may 50 1.2.Công nghiệp hóa chất 51 1.3 Lĩnh vực công nghiệp chế biến rau quả 51 1.4.Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng 53 2. Phương hướng liên kết phát triển du lịch và dịch vụ. 53 3. Phương hướng liên kết trong lĩnh vực phát triển giao thông vận tải 55 4. Phương hướng liên kết trong thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài 57 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC TỈNH 58 1.Giải pháp tổ chức điều hành và cơ chế phối hợp. 58 2.Lập, hoàn thiện, bổ sung các quy hoạch, kế hoạch phát triển….. 63 3. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả liên kết kinh tế……………………………………… 67 4. Hình thành những tổ chức mang tính chất liên vùng………… 71 Kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Giáo trình: - Kế hoạch hóa lãnh thổ - Kinh tế công nghiệp - Kinh tế quốc tế 2- Tạp chí : - Kinh tế và phát triển:số chuyên đề tháng 11/2001,101/2004, 56/2005 3- Ban nghiên cứu phát triển vùng: - Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Yên Bái năm 2005 - Rà sóat, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ 2/2005. 4- Bộ kế hoạch và đầu tư : - Đề án xác định cơ chế phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế, đặc biệt vùng kinh tế trọng điểm. 5- PGS – TS Lê Thông: - Địa lý kinh tế - xã hội Việt nam. NXB Giáo dục 2001 6- Hòang Thụy Giang - Nguyễn Mạnh Hùng: - Một số vấn đề về liên kết tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay. NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2002 7- Bùi Thị Hải Yến: Tuyến điểm du lịch Việt nam – NXB Giáo dục 2003 8- Website: http:\\www.mpi.gov.vn http:\\www.Phutho.gov.vn http:\\www.Laocai.gov.vn http:\\www.Yenbai.gov.vn http:\\www.Vietnamtourist.com ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0008.doc
Tài liệu liên quan