Lợi ích của Việt Nam trong việc hội nhập ASEAN

lời mở đầu Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á gọi tắt là asean được thành lập ngày 07 - 8 - 1967 trong cuộc gặp lịch sử tại Bangkok. Khi mới ra đời, mục tiêu đầu tiên của các nước asean thật khiêm tốn: khuyến khích hợp tác kinh tế, văn hoá và xã hội giữa các nước thành viên. Tuy nhiên ba thập kỷ qua đã chứng minh tác động của tổ chức thật là to lớn. Sau một chặng đường dài và đầy cam go, vào cuối thế kỷ XX ý tưởng ấp ủ từ lâu về một asean bao gồm tất cả 10 quốc g

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1813 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi ích của Việt Nam trong việc hội nhập ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia đông nam á, của đông nam á, do đông nam á và vì đông nam á đã trở thành hiện thực. Trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau hợp tác vì hoà bình, ổn định và phát triển góp phần vào sự nghiệp hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới, với việc kết nạp việt nam vào hiệp hội năm 1995, Lào và Myanmar năm 1997, Campuchia ngày 30 - 4 - 1999 tại hà nội đã làm cho asean thực sự trở thành diễn đàn của các quốc gia đông nam á mà tại đây sự gia tăng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước thành viên đã thành hình và đạt được kết quả trong một cách thức có khả năng nhất để vượt qua những trở ngại phía trước. Để có được những thành công trên ta đã thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, tháng 7 năm 1995 ta đã chính thức gia nhập asean, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử đông nam á. Với sự chủ động trong công tác hội nhập khu vực, ta đã tận dụng phát huy các lợi thế đối với ta trong các hợp tác asean, góp phần triển khai tốt chính sách khu vực nâng cao đáng kể uy tín và vị thế quốc tế của việt nam. Xuất phát từ vấn đề trên em quyết định chọn đề tài: “Lợi ích của việt nam trong việc gia nhập asean”. Trong tiểu luận này em sẽ tập trung phân tích về lợi ích của việt nam khi gia nhập asean trên hai lĩnh vực chủ yếu là chính trị và đối thoại về an ninh, với các nội dung cơ bản sau: I. Bối cảnh quốc tế trước khi việt nam gia nhập asean. II. Khái quát lịch sử phát triển của asean và quan hệ Việt Nam - asean. III. Các lợi ích của Việt Nam khi gia nhập asean trên hai lĩnh vực. Mặc dù đã tìm tòi, học hỏi và phát huy hêt khả năng của mình để trình bầy một cách trọn vẹn, đầy đủ nhưng do thời gian kinh nghiệm còn ít nên khong tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy để tiểu luận của em được đầy đủ hơn. I. Bối cảnh quốc tế trước khi việt nam gia nhập asean 1. Tình hình asean asean được thành lập với mục tiêu được đề ra trong tuyên bố Bangkok năm 1967 là tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá - xã hội giữa các nước thành viên. Hợp tác chính trị không được nêu ra nhưng tuyên bố đã đề cập đến một số nhân tố liên quan đến chính trị - an ninh khu vực. Tuyên bố Bangkok nêu rõ: “Các nước đông nam á có trách nhiệm chính trong việc tăng cường ổn định kinh tế và xã hội của khu vực và bảo đảm sự phát triển của đất nước một cách hoà bình và tiến bộ”, và rằng các nước này quyết tâm bảo đảm sự ổn định và an ninh của mình không có sự can thiệp từ bên ngoài dưới bất cứ hình thức hoặc biểu hiện nào nhằm gìn giữ bản sắc dân tộc của mình phù hợp với những ý tưởng và nguyện vọng của nhân dân mình, khẳng định rằng sự tồn tại của tất cả các căn cứ nước ngoài là tạm thời và chỉ được duy trì với sự tán thành công khai của các nước hữu quan và không được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để lật đổ nền độc lập dân tộc và tự do của các quốc gia trong khu vực hoặc làm phương hại đến các quá trình phát triển trong trật từ của các quốc gia này. Xét bối cảnh ra đời, có thể nói asean là một tổ chức được lập ra để tăng cường hợp tác khu vực, bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế của mỗi thành viên cũng như của hiệp hội. trong thập kỷ đầu tồn tại, hợp tác asean hầu như không có gì đáng kể, thậm chí không có hội nghị cấp cao nào và cũng không có ban thư ký của hiệp hội. Tuyên bố về khu vực hoà bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) năm 1971 là hành động hợp tác chính tri quan trọng đầu tiên của asean. 2. Tình hình Việt Nam: Việt Nam trở thành quan sát viên của tổ chức asean ( 7-1992 ) thể hiện sự cố gắng không mệt mỏi, với tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” của các bên, nhằm xây dựng một đông nam á hoà bình, hữu nghị, hợp tác để phát triển. Sau khi Việt Nam đã ký hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của asean, thì nhận thức của các nước trong asean về việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của asean cũng biểu hiện ở những khía cạnh khác nhau, tuỳ theo lợi ích của mỗi quốc gia, Inđônêxia và Malaixia cho rằng, Việt Nam nói riêng và các nước đông dương nói chung, tham gia asean sẽ có tác dụng chủ yếu trên lĩnh vực hoà bình, an ninh khu vực. Theo các nước này, Việt Nam là một nước lớn thứ hai ở khu vực, là nước láng giềng của Trung Quốc, có tiềm lực quốc phòng mạnh, đã từng chiến thắng nhiều nước đến xâm lược... Nếu trở thành thành viên của asean sẽ có lợi ích về an ninh khu vực và Việt Nam sẽ là “nước đệm” giữa các nước trong khu vực với các nước ngoài khu vực. Trong khi đó Thái Lan và Xingapo xem Việt Nam là cơ hội tốt để buôn bán kinh doanh, đầu tư ... Khi trở thành thành viên đầy đủ của asean. 3. Tính tất yếu của Việt Nam khi gia nhập asean Năm 1987, Jusuf wanandi đã viết: “Thời điểm này cũng đáng lưu ý về vai trò của asean-một lực lượng tạo thế ổn định trong lĩnh vực kinh tế và chính trị của khu vực cũng như toàn cầu. Ngày nay, asean đang cung cấp một mô hình về sự hợp tác giữa các quốc gia gần gũi nhau về địa lý.” Quan hệ ASEAN - Nhật Bản: Tình hình và triển vọng. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, trang 8. Ngoại trưởng Xingapo là S . Gêyacuma phát biểu: “Việt Nam gia nhập asean sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng một đông nam á hoà bình, ổn định, hợp tác và phồn vinh”. Vì vậy Việt nam gia nhập asean là một tất yếu và phù hợp với xu thế vận động của thế giới. Gia nhập asean, một mặt Việt Nam có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hợp tác toàn diện với các quốc gia ở khu vực đông nam á nói chung, asean nói riêng, góp phần xây dựng và phát triển tổ quốc Việt Nam. Cùng với những thắng lợi trong đường lối đối ngoại ở khu vực khác trên thế giới, việc Việt Nam gia nhập asean chứng minh đường lối đa dạng hoá,đa phương hoá, muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển là hoàn toàn đúng đắn. Mặt khác, Việt Nam gia nhập ASEAN không chỉ bảo vệ được độc lập chủ quyền và an ninh của đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, mà còn góp phần vào bảo vệ hoà bình, độc lập và phát triển ở khu vực Đông Nam á và trên thế giới. Ngày 28 - 7-1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất nước Brunei Darussalam tươi đẹp, trong tiếng quốc ca hùng tráng, cờ Tổ quốc của Việt Nam đã tung bay phấp phới cùng cờ của 6 nước thành viên asean khác, mở ra một trang sử mới của khu vực: Việt nam chính thức là thành viên thứ 7 của asean. Sự kiện này là một dấu son trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa đất nước tiến lên phía trước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đồng thời, điều đó đã biến thành hiện thực ước mơ cháy bỏng của những người sáng lập ra asean và nhân dân trong khu vực về một hiệp hội bao gồm tất cả mười nước trong khu vực, một asean của đông nam á, do đông nam á, vì đông nam á, trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau hợp tác vì hoà bình ổn định, phát triển và phồn vinh, góp phần vào sự nghiệp hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới. II. Khái quát lịch sử phát triển của asean và quan hệ Việt Nam - asean 1. Lịch sử phát triển của asean Ngày 8 - 8 - 1967 tại Bangkok (Thailand) Bộ trưởng Ngoại giao các nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan đã ký bản Tuyên bố asean (Tuyên bố Bangkok) chính thức thành lập hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (gọi tắt là asean). Tháng 1 - 1984 asean kết nạp thêm Brunei Tháng 7 - 1995 asean kết nạp thêm Việt Nam Tháng 7 - 1997 asean kết nạp thêm Lào và Myanmar Tháng 9 - 1999 asean kết nạp thêm Campuchia Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển từ lúc asean 5 đến nay đã là asean 10 và điều đó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng: “asean đã đạt được mục tiêu ban đầu về mặt chính trị, đây là thành công lớn nhất, quan trọng nhất trong hơn 30 năm tồn tại và phát triển của Hiệp hội.” 2. Quan hệ Việt Nam - asean Sau khi Việt Nam gửi đơn xin gia nhập asean ngày 17 - 10 - 1994 và 9 tháng sau Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ của asean (ngày 28 - 7 - 1995) đã đánh dấu sự chuyển biến trong quan hệ hai bên. Việc Việt Nam gia nhập asean là một sự phát triển quan trọng ở khu vực. Nó đã chấm dứt hơn nửa thế kỷ Đông Nam á bị chia ra làm hai trận tuyến đối địch nhau, mở ra một thời kỳ mới trong khu vực, thời kỳ các bên tăng cường hợp tác cùng phát triển vì lợi ích riêng của mỗi bên và lợi ích chung của toàn khu vực. Việt Nam tham gia asean là kết quả của việc thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn: ‘Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" Tạp chí “Nghiên cứu Đông Nam á” số 2/1995, trang 20 . Và chủ trương đa phương hoá quan hệ đối ngoại hội nhập với khu vực và thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi do Đại hội Đảng lần thứ VI và VII đề ra. Cùng với việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký kết hiệp định hợp tác với liên minh Châu Âu (EU), việc trở thành thành viên đầy đủ của asean đã báo hiệu một thời kỳ mới của Việt Nam, thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới, chấm dứt những năm tháng bị bao vây cô lập với bên ngoài. Với việc gia nhập asean, Việt Nam không chỉ mở cửa mà thực sự đã bước ra thế giới. Mặt khác, việc asean kết nạp Việt Nam làm thành viên đầy đủ của tổ chức này thể hiện sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế nói chung và các nước trong khu vực nói riêng đối với những thành tựu to lớn đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Việt Nam tham gia asean mang lại lợi ích không phải chỉ cho riêng Việt Nam mà còn cho cả khu vực. Là một quốc gia đông dân thứ hai và nằm ở vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của asean, nhất là xét trong bối cảnh Việt Nam và asean đã từng có một thời kỳ đối đầu về chính trị, đã góp phần tích cực vào việc củng cố và tăng cường hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Nhân tố này càng đặc biệt quan trọng đối với nước ta vì sau nhiều năm chiến tranh giành độc lập dân tộc lúc này hơn lúc nào hết, Việt nam cần hoà bình và ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Kết nạp Việt Nam vào asean là bước mở đầu quan trọng mang tính quyết định và rất ý nghĩa cho quá trình tiến tới asean 10 - xu thế mở rộng asean bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam á, không phân biệt thể chế chính trị tôn giáo, văn hoá, phấn đấu vì hoà bình ổn định phát triển và phồn vinh trong khu vực và trên thế giới. Với trên 70 triệu dân và đang có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam tham gia asean góp phần làm cho tổ chức này lớn mạnh thêm về lực lượng và thị trường, cũng như có tiếng nói trọng lượng hơn trên các diễn đàn quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài nhân tố hoà bình và ổn định gia nhập asean còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và là bước đi quan trọng có ý nghĩa quyết định đầu tiên trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới. Hoà nhập vào khu vực là khuynh hướng không thể đảo ngược: Đó chính là một trong những phương cách hiệu quả giúp nước ta hiện thực hoá tầm nhìn do Đại hội lần thứ VIII đề ra là biến nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. từ khi là thành viên chính thức của asean sự hội nhập của Việt nam vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ asean cũng được thúc đẩy nhanh chóng .Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam cũng đã gia nhập phòng thương mại và công nghiệp asean, Viêt nam cũng đã trở thành viên thứ 6 của tổ chức liên quốc hội (AIPO), Việt nam còn tích cực tham gia các diễn đàn quan trọng của asean và những diễn đàn đa phương do asean nêu sáng kiến như : Hội nghị cấp cao asean lần thứ 5 (tháng 12/1995) và hội nghị cấp cao á - âu lần thứ nhất (tháng 3/1996) tham gia khu vực mậu dịch tự do asean (AFTA)... Ngoài ra Việt nam còn đảm nhiệm tốt chức năng điều phối viên trong quan hệ đối thoại của asean với các nước Newdilan, Liên bang Nga và Nhật Bản. Năm năm qua bằng những nỗ lực to lớn của tất cả các cấp, địa phương, bộ, ngành, Việt Nam đã dần chủ động tham gia đầy đủ tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động hợp tác thuộc các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, chuyên ngành và quan hệ đối ngoại của asean. Sự tham gia của Việt Nam đã được dư luận trong và ngoài asean đánh giá cao, vai trò, vị thế của đất nước được nâng lên những tầm cao mới. Đỉnh cao những đóng góp của Việt Nam đối với asean là việc đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị cấp cao 6 vào tháng 12 năm 1998 ở Hà Nội với việc thông qua chương trình hành động Hà Nội, một văn kiện được các nước asean coi là nền tảng, trọng tâm của các hoạt động trong và ngoài asean cho đến 2004. Năm năm là một thời gian ngắn ngủi trên con đường phát triển của dân tộc ta, nhưng trong những tháng năm đó, ta đã đạt được nhiều thành tựu: góp phần củng cố môi trường hoà bình, an ninh thuận lợi hơn cho sự phát triển, bổ sung cho quan hệ song phương bằng quan hệ đa phương thân hữu trong asean, tham gia có hiệu quả vào quá trình liên kết kinh tế khu vực thông qua việc thực hiện AFTA. Như vậy, việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của asean và tham gia tích cực vào các cơ cấu hợp tác của asean đã tạo cho quan hệ Việt Nam -asean có bước phát triển mới, Việt Nam đã hợp tác với asean trên mọi lĩnh vực: an ninh chính trị, kinh tế thương mại, văn hoá giáo dục III. Các lợi ích của Việt nam khi gia nhập asean trên hai lĩnh vực 1. Lĩnh vực chính trị Hợp tác chính trị được đánh giá là mặt hợp tác thành công hơn cả của asean trong những thập kỷ qua. Và chính ở lĩnh vực này vai trò của tổ chức đối với các nước thành viên được thể hiện rõ rệt nhất. Điều được thừa nhận rộng rãi về vai trò của asean đối với các nước thành viên trong 30 năm đầu tiên của asean là việc xử lý ổn thoả các mối bất đồng, tranh chấp giữa các nước thành viên không để dẫn đến xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp họ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng một khu vực Đông Nam á thống nhất, vững mạnh trước các sức ép từ bên ngoài. Xét thời điểm thành lập asean và quá trình thành lập tổ chức có thể thấy vấn đề hợp tác chính trị và an ninh (cả về mặt đối nội và đối ngoại) đều rất quan trọng đối với tổ chức. Bên cạnh đó việc hiểu biết về nhau hơn nữa và giảm bớt nghi kỵ giữa các nước thành viên asean là điều rất cần thiết cho sự hợp tác giữa họ với nhau. Ngoài viêc trao đổi ý kiến và thảo luận để hiểu nhau hơn, thăm dò khả năng và thúc đẩy hợp tác... ASEAN đã xử lý có hiệu quả tranh chấp giữa các nước thành viên, nổi bật là cuộc tranh chấp giữa Malaixia và Philippin về Xaba bùng nổ lại vào năm 1968. Hoạt động hoà giải tuy không giải quyết được triệt để tranh chấp nhưng lại làm dịu tình hình căng thẳng giữa hai nước Malaixia và Philippin đã nối lại quan hệ Ngoại giao với cam kết không dùng vũ lực. Kể từ giữa những năm 1970 trở đi ASEAN bắt đầu tỏ rõ sự cố kết chính trị và ngoại giao của mình với bước đi đầu tiên là Tuyên bố về khu vực Đông Nam á hoà bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) năm 1971. Tuy nhiên, khía cạnh hợp tác chính trị trong ASEAN lần đầu tiên được chính thức đề cập là tại hội nghị cấp cao Bali năm 1976. Tại hội nghị này, các nước ASEAN đã thông qua Hiệp ước Bali và Hiệp ước Hoà giải ASEAN, đưa ra chương trình hành động trong lĩnh vực hợp tác an ninh chính trị với mục tiêu củng cố sự đoàn kết và thống nhất về chính trị theo nguyên tắc nhất trí Xem ASEAN: An Overview, tài liệu đã dẫn, trang 52 - 61 . Từ năm 1979, sự hợp tác ASEAN chủ yếu tập trung vào việc đấu tranh với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Việc ASEAN dùng sức mạnh tập thể kiên trì đấu tranh về vấn đề Campuchia đã phần nào góp phần củng cố nội bộ ASEAN và làm tăng sự chú ý của quốc tế đến tổ chức này. Nhưng mặt khác đa số các nước hội viên ASEAN cũng nhận thấy rằng nếu tiếp tục kéo dài đối đầu sẽ bất lợi cho sự đoàn kết trong nội bộ các nước ASEAN và tình hình chung của khu vực.Hai nhóm nước ở Đông Nam á bị chia rẽ sẽ bất lợi cho sự nghiệp hoà bình và ổn định lâu dài của khu vực ASEAN không tán thành đường lối của một vài nước lớn muốn kéo dài đối đầu để làm cho Việt Nam chảy máu đến kiệt sức .Do đó Malaixia và nhất là Inđônêxia đã có những hoạt động tiếp xúc riêng với Việt Nam để tìm kiếm giảipháp . Từ 1982, khi Việt Nam thực hiện rút quân từng bước khỏi Campuchia ASEAN đã hợp tác và khuyến khích tiến trình đó .Chỉ đến giai đoạn cuối, 5 nước uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an liên hợp quốc mới đóng vai trò quyết định đưa đến việc ký Hiệp định Pari về Campuchia (10-1991) Phát huy kết quả giải quyết vấn đề Campuchia bằng thương lượng, ASEAN đã tích cực thúc đảy quá trình hoà giải giữa ASEAN và các nước Đông Dương, và tổ chức bàn bạc về việc xây dựng một trật tự mới có lợi cho sự nghiệp hoà bình và ổn định ở Đông Nam á. Cũng từ giữa những năm 1980, ASEAN đưa ra dự thảo về khu vực phi hạt nhân ở Đông Nam á , dự định sẽ thực hiện khi có điều kiện thuận lợi, kết hợp với ZOPFAN tiến hành đối thoại với các nước bạn hàng chủ chốt của mình như Mỹ, Nhật, Liên minh Châu Âu... về các vấn đề quốc tế và khu vực. Có thể thấy rằng thành công trong lĩnh vực hợp tác về chính trị của các nước ASEAN được thể hiện ở hai điểm chính. Thứ nhất, ASEAN đã thành công trong việc tạo dựng một cơ cấu quan hệ ổn định giữa các nước thành viên để xử lý và kiềm chế các mâu thuẫn. Mặc dù chưa giải quyết hoàn toàn được các tranh chấp song phương, nhưng từ năm1967 đến nay đã không có cuộc chiến tranh hay xung đột vũ trang nào nổ ra giữa các nưóc thành viên. Điều này góp phần tạo ra môi trường khu vực an ninh để phục vụ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Thứ hai, ASEAN đã thành công trong việc nâng cao uy tín quốc tế của mình, nhất là ở khu vực Đông Nam á thể hiện qua những cố gắng trong vấn đề Campuchia và tổ chức các hôị nghị sau hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN (PMC) hàng năm với các bạn hàng như Mỹ, Canada, Nhật Bản, ôxtrâylia, Niudilân, Liên minh Châu Âu, Hàn Quốc và từ tháng 7 - 1996 thêm Trung Quốc và Nga. Tuy nhiên, sự kết thúc chiến tranh lạnh vào cuối những năm 1980 và đầu 1990 đã không chỉ đem lại cơ hội cho ASEAN mà còn đặt các nước này trước các thách thức to lớn về nhiều mặt, cả về nội trị, kinh tế và môi trường an ninh bên ngoài. Việc kết nạp Việt Nam vào làm thành viên thứ bảy của ASEAN cũng đã đặt ra cho ASEAN nhiều vấn đề lần đầu tiên trong ASEAN tồn tại các thành viên thuộc các thể chế chinhs trị khác nhau. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn tương đối thấp so với các nước thành viên khác, điều này có thể ảnh hưởng tới tiến trình hợp tác Việt Nam-ASEAN. Có những băn khoăn lo ngại về khả năng Việt Nam hoàn thành các nghĩa vụ thành viên, đóng góp cũng như tham gia đầy đủ vào các hoạt động của ASEAN. Sau hơn 5 năm là thành viên, với những nỗ lực mạnh mẽ của chính mình, được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã xoá tan mọi lo ngại nói trên. Việt Nam đã hoà nhập nhanh chóng vào các hoạt động của Hiệp hội và là một thành viên tích cực cuả tổ chức này cho đến nay ta đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thành viên, tham gia tích cực các cuộc họp của ASEAN trên tất cả các lĩnh vực đã đăng cai một số cuộc họp cuả ASEAN ở Việt Nam, đã đảm nhiệm tốt chức trách chủ tịch, một số uỷ ban, tiểu ban ASEAN. Một số ngành của Việt Nam ban đầu đã có những sáng kiến, dự án hợp tác đề xuất với ASEAN, góp phần làm phong phú thêm hoạt động của Hiệp hội. Đặc biệt do sự phân công của ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt chức năng điều phối trong quan hệ đối thoại của ASEAN với Niudilân, Liên bang Nga và hiện nay là Nhật Bản. Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các sinh hoạt chính trị của Hiệp hội tham dự hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VIII (tháng 12-1995 tại Bangkok). Các Hội nghị cấp cao không chính thức của ASEAN, các cuộc họp SOM (cấp thứ trưởng ngoại giao), các cuộc họp với các bên đối thoại của ASEAN. Tại các cuộc họp Việt Nam đã tham gia tích cực vào quá trình thảo luận, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển và làm phong phú thêm nội dung hợp tác của ASEAN. Góp phần vào việc bảo về hoà bình ổn định ở khu vực, củng cố và thúc đẩy xu thế hợp tác cùng phát triển không phân biệt chế độ chính trị, xã hội đang phổ biến ở khu vực. Góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy xu thế mở rộng của ASEAN. Tích cực đưa ra các sáng kiến trong ASEAN (đề nghị đặt tên chương trình đối thoại á - Âu là ASEM, đề nghị mở rộng tầm nhìn 2020 bao gồm không chỉ phần kinh tế mà còn cả chính trị, chuyên ngành đối ngoại. Góp phần duy trì vai trò đầu tầu của ASEAN tại các diễn đàn ARF, ASEM, tăng cường quan hệ đối ngoại của ASEAN với các nước lớn (các nước công nghiệp phát triển) thông qua việc hoàn thành tốt vai trò điều phối của ASEAN với các nước được phân công, góp phần thúc đẩy làm tăng thêm số lượng các bên đối thoại của ASEAN. Đóng góp vào việc sửa đổi Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước Bali) Quá trình hợp tác an ninh, chính trị Việt Nam - ASEAN đang diễn ra trong môi trường an ninh quốc tế và khu vực có nhiều biến động, phức tạp trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Trật tự chính trị, kinh tế thế giới đang trong quá trình định hình, những nhân tố thúc đẩy và hạn chế hợp tác an ninh, chính trị Việt Nam - ASEAN thường đan xen nhau và tác động lẫn nhau. Do đó Việt Nam và các nước ASEAN muốn đẩy mạnh hợp tác an ninh, chính trị tốt, cần phải phát huy tối đa nội lực của bản thân mỗi nước trong Hiệp hội, tăng cường quan hệ với các nước lớn trong và ngoài khu vực, nâng cao tính hiệu quả của diễn đàn an ninh khu vực ARF và tăng cường liên kết khu vực trên tất cả các bình diện khác nha, nhất là lĩnh vực kinh tế nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho hợp tác an ninh, chính trị hạn chế những tác động tiêu cực. các nước ASEAN đều cam két giữ gìn hoà bình ổn định ở Đông Nam á giải quyết bất đồng tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Đây là nhân tố thuận lợi cho sự phối hợp về an ninh, chính trị giữa Việt Nam và ASEAN trong 5 năm qua và mong muốn duy trì đoàn kết, nhất trí, bảo đảm sự phát triển đồng đều, nhất là trong bối cảnh ASEAN mở rộng 2. Lĩnh vực đối thoại về an ninh Việt Nam gia nhập ASEAN đã và đang tạo ra cho Việt Nam một môi trường hoà bình, ổn định để hoà nhập vào cộng đồng khu vực và quốc tế nhằm phát triển đất nước, phá thế bao vây của Mỹ, Phương Tây đối với nước ta, tạo những điều kiện mới nâng cao vị thế trên thế giới, đồng thời thu hẹp sự khác biệt và tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN, hạn chế những mặc cảm nghi kỵ do lịch sử để lại. Vì vậy các nước ASEAN thất rằng để đảm bảo an ninh lâu dài thì cần phải xây dựng một số cơ chế an ninh được thể chế hoá, có sự tham gia của tất cả các nước lớn trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc khi nước này chưa trở nên quá mạnh và không thể kiểm soát nổi. Và đó là nội dung chủ yếu trong chính sách “ngoại giao phòng ngừa” của ASEAN được các nước trong khu vực ủng hộ. Để đối phó với những thách thức mới về an ninh trong khi khu vực vẫn chưa có một cơ chế chính thức về vấn đề này, ASEAN đã tăng cường các cuộc đối thoại với bên ngoài về những vấn đề an ninh tại các cuộc họp sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 26 họp ở Xingapo (23,24 - 7 - 1993), các Bộ trưởng Ngoại giao dẫ xêm xét sự hợp tác an ninh và chính trị đang ngày càng lớn mạnh ở Đông Nam á và đã đồng ý tiến hành cuộc đối thoại giữa các nước ASEAN về hợp tác an ninh với sự tham gia của các quan chức Bộ quốc phòng và Bộ Ngoại giao. Cũng tại Hội nghị trên, sáng kiến về diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) đã được các nước ASEAN đưa ra. ARF ra đời cách đây chưa lâu và hiện nay có lẽ còn hơi sớm để khẳng định mức độ thành công của nó. Tuy nhiên, chỉ riêng việc diễn đàn tập hợp được 21 quốc gia ở Đông Nam á và Châu á - Thái Bình Dương và đại diện liên minh Châu Âu để bàn về vấn đề an ninh khu vực cũng đã là một thành công. Trải qua 4 kỳ Hội nghị ARF đã khẳng định được vị thế của mình là đóng góp tích cực cho việc tăng cường hoà bình và ổn định trong khu vực. ARF - 1 họp tại Bangkok ngày 25 - 7 - 1994 ARF - 2 họp tại Brunei ngày 30 - 7 - 1995 ARF - 3 họp tại Jakata ngày 23 - 7 - 1996 ARF - 4 họp tại Kualalumpur ngày 27 - 7 - 1997 Và Việt Nam đến lượt giữ chức Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) và chủ tịch diễn đàn khu vực (ARF) từ tháng 8 - 2000 đến hết tháng 7 năm 2001. Đồng thời ta còn làm chủ tịch Uỷ ban điều hành Hiệp ước Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) và có thể làm chủ tịch một số cơ chế khác của ASEAN như Hội đồng tối cao Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC) và chủ tịch bộ ba ngoại trưởng ASEAN (ASEAN-TROIKA) khi cơ chế này được thành lập. Tóm lại ta sẽ thay mặt ASEAN điều hành các hoạt động có liên quan đến chính trị, an ninh, chuyên ngành và quan hệ đối ngoại của Hiệp hội trong nhiệm kỳ chủ tịch. Đảm nhiệm vai trò đó sẽ cho ta tiếp tục phát huy kết quả của cấp cao Hà Nội, triển khai chính sách khu vực tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò quốc tế của ta. Chúng ta sẽ có cơ hội thúc đẩy và tăng cường hơn nữa mỗi quan hệ tay đôi với các nước trong và ngoài ASEAN, khu vực và các tổ chức quốc tế quan trọng khác trên các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh. Mặc dù tham gia ASEAN mới được hơn 5 năm nhưng thông qua những kết quả đã đạt được trong các lĩnh vực hợp tác an ninh, chính trị đã chứng tỏ vai trò và vị trí của Việt Nam trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á. Với sự chủ động tích cực trong công tác hội nhập khu vực và đã tận dụng phát huy các lợi thế tối đa trong công tác ASEAN góp phần triển khai tốt chính sách khu vực, nâng cao đáng kể uy tín và vị thế của ta. Do khuôn khổ giới hạn của một tiểu luận, em chỉ có thể phân tích một số thuận lợi khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Một là, Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá của Đảng và Nhà nước ta, vào việc củng cố xu thế hoà bình và hợp tác khu vực tăng cường hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, góp phần cải thiện và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hữu nghị, hợp tác của ta với các nước này. Hai là, quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước ASEAN khác cũng tăng nhanh và đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Tính chung từ năm 1990 đến nay thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác tăng với tốc độ trung bình 26,8%/năm và hiện nay chiếm tới 32,9 (tức gần 1/3) toàn bộ kim ngạch ngoại thương của Việt Nam .Tổng vốn đầu tư của ASEAN vào Việt Nam là 9,5 tỷ USD (chiếm 2,5% tổng vốn đầu tư nước ngoài ) Ba là, là thành viên của ASEAN, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy và tăng cường hơn nữa mối quan hệ tay đôi với các nước ngoài ASEAN, các tổ chức quan trọng và các khu vực khác, trên các lĩnh vực chính trị an ninh và phát triển kinh tế xã hội, tham gia các hiệp định hợp tác của ASEAN với các bên đối thoại như EU,Canada, austrâylia... cũng như hàng trăm dự án quốc tế cụ thể được các bên đối thoại tài trợ Bốn là, việc tham gia các chương trình hợp tác và liên kết kinh tế của ASEAN như khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư cho quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương giữa ta và các nước ASEAN đồng thời mở đường cho ta tham gia các cơ chế hợp tác và tổ chức khác như APEC, WTO... và góp phần chuẩn bị tích luỹ kinh nghiệm và tạo thuận lợi cho ta tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế sau này. Năm là, Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để học tập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến thông qua các chương trình hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực. Những cơ hội trên thiết nghĩ là rất đáng kể với Việt Nam, một nước đang trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá của mình. Việt Nam hợp tác với ASEAN thành công hay không là tuỳ thuộc vào sự vận dụng, phát huy những cơ hội này có đúng hay không? Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội đạt được thì những khó khăn mà chúng ta gặp phải cũng không ít, đó là điều không tránh khỏi, điều đó đang đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta những trở ngại, trăn trở nhưng vấn đề là phải nhìn thẳng vào sự thật, phân tích rõ tình hình để rút ra những giải pháp thích hợp. Kết luận Ngày nay nhiều người đều thừa nhận ASEAN có nhiều thành tựu trong xây dựng và phát triển. Một nhận xét như vậy quả thật là đơn giản. Nhưng nếu chúng ta nhìn lại ASEAN trong 30 năm qua với điểm xuất phát ban đầu là hết sức thấp về trình độ phát triển và đặt nó trong bối cảnh của một khu vực có chiến tranh và xung đột trong phạm vi khu vực và trong nhiều nước thì chúng ta mới thấy hết được ý nghĩa to lớn và sâu sắc của những thành tựu đã đạt được của tổ chức ASEAN. Nhìn tổng thể trong 30 năm tồn tại và phát triển ASEAN đã thu được những thành tựu đáng kể trên một số lĩnh vực sau: - Hợp tác về chính trị và an ninh - Hợp tác về kinh tế - Hợp tác chuyên ngành Xuất phát từ những thành tựu trên việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một tất yếu và phù hợp với xu thế vận động của Thế giới. Từ khi gia nhập ASEAN Việt Nam đã tăng cường củng cố được sức mạnh nội lực như giải quyết vấn đề Campuchia. Việt Nam củng cố phát triển mối quan hệ của mình với các nước trong khu vực, nó đã chấm dứt hơn nửa thế kỷ Đông Nam á bị chia ra làm hai trận tuyến đối địch nhau, mở ra một thời kỳ mới trong khu vực, thời kỳ các bên tăng cường hợp tác cùng phát triển vì lợi ích riêng của mỗi bên và lợi ích chung của toàn khu vực. Thông qua ASEAN, Việt Nam còn phát triển mối quan hệ của mình với các nước khác trên Thế giới và nâng cao vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế. tài liệu tham khảo 1. ASEAN hôm nay và triển vọng trong thế kỷ 21 PTS Nguyễn Thu Mỹ 2. Một số vấn đề về tổ chức ASEAN PTS Nguyễn Xuân Sơn 3. ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam Đào Duy Ngọc 4. Thời cơ và thách thức của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN PTS Nguyễn Hữu Cát 5. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) Bộ Ngoại giao NXB CTQG 1998 6. Năm mươi năm Ngoại giao Việt Nam Lưu Văn Lợi 7. Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 34 8. Tạp chí Quốc tế: 5 năm Việt Nam hội nhập ASEAN Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35121.doc
Tài liệu liên quan