Lợi nhuận & các biên pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng & tổng hợp Tiến Thành

Tài liệu Lợi nhuận & các biên pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng & tổng hợp Tiến Thành: ... Ebook Lợi nhuận & các biên pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng & tổng hợp Tiến Thành

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận & các biên pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng & tổng hợp Tiến Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hiệu quả là vấn đề cơ bản sản xuất kinh doanh của một hình thái kinh tế xã hội. Các chủ thể tham gia vào nền kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh phải đặc mục tiêu hiệu quả lên hàng đầu cùng với nâng cao năng suất và chất lượng. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp thoả mãn tối đa nhu cầu về hàng hoá - dịch vụ của xã hội trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được nhiều lợi nhuận nhất, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Như vậy có thể nói mục đích chính của sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động sản xuất kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây với chế độ hạch toán kinh tế mang nặng tính hình thức.. hoạt động đã được kế hoạch trước trên cơ sở cân đối thu chi từ một trung tâm chỉ huy và giao kế hoạch chỉ tiêu cho từng đơn vị. Lãi nộp Nhà nước bù. Dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, kìm hãm sử phát triển của các doanh nghiệp và tăng trưởng nền kinh tế. Kể từ khi đối mới, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với chế độ hạch toán kinh doanh đúng thực chất thì các vấn đề sản xuất kinh doanh đều được giải quyết thông qua thị trường. Doanh nghiệp có điều kiện chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao nhất trên cơ sở khai thác các khả năng hiện có. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại vàp hát triển được cần phải tạo ra lợi nhuận. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải đảm bảo có lợi nhuận và lợi nhuận cao. Xuất phát từ tầm quan trọng cũng như tính cấp bách của vấn đề lợi nhuận và sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận, qua quá trình học tập tại trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân và thời gian thực tập tại Công ty TNHH Xây Dựng Tổng hợp Tiến Thành Em đã chon đề tài "Lợi nhuận và các biên pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng và tổng hợp Tiến Thành" làm chuyên đề tốt nghiệp. Do thời gian nghiên cứu, thu thập thông tin và iến thức còn hạn chế nên Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô, các cô chú ở Công ty và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn.. Em chân thành cảm ơn cô giáo Trần Thị Thanh Tú đã hướng dẫn Em hoàn thành chuyên đề này. Kết cấu đề tài gồm ba phần chính sau: - Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận trong doanh nghiệp. - Chương II: Thực trạng về lợi nhuận và biện pháp tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng Tổng Hợp Tiến Thành. - Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Xây Dựng Tổng Hợp Tiến Thành. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. LỢI NHUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm về lợi nhuận doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tiền riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập nhằm mục đích thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ góc độ doanh nghiệp thì lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sau mỗi kỳ hạch toán có những khoản thu bằng tiền gọi chung là thu nhập của doanh nghiệp trông hoạt động sản xuất kinh doanh. Với khoản thu nhập đó để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo thì doanh nghiệp phải bỏ ra những phần nhất định để bù đắp cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh đã thục hiện. Những chi phí đó là những chi phí về vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí để trả lương cho người lao động, chi phí để làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Phần thu nhập còn lại sau khi bù đắp các khoản chi phí chính là lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ hiệu quả của qúa trình kinh doanh kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức qúa trình kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và giao dịch cho thị trường. Nó phản ánh cả về mặt số lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. 1.1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đa dạng, mỗi hoạt động đều tạo ra lợi nhuận cho nó. Do đó lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm các phần khác nhau ứng với từng hoạt động sản xuất kinh doanh, gồm có: - Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ. Đây là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ và chi phí của khối lượng hàng hoá - dịch vụ và lao vụ thuộc các bộ phận. Lợi nhuận này là phần cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất, vì nó thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Lợi nhuận thu được từ các hoạt động liên doanh liên kết . Đây là phần thu được do phân chia từ kết quả của hoạt động liên doanh với chi phí của đơn vị đã bỏ ra để tham gia liên doanh. Trước đây hoạt động này chưa phổ biến nên lợi nhuận này chưa đáng kể. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, với cơ chế kinh tế mới sản xuất gắn với thị trường, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh, hoạt động này có xu hướng ngày càng phát triển. Do đó nguồn này càng góp phần đáng kể trong tổng lợi nhuận của donah nghiệp. - Lợi nhuận thu được do các nghiệp vụ tài chính. Đây là chênh lệch giữa các khoản thu và chi có tính chất nghiệp vụ tài chính trong qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh như: Lãi tiền gửi ngân hàng, lãi tiền cho vay... khoản thu này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lợi nhuận. - Lợi nhuận do các hoạt động khác mang lại như: Thanh lý, nhượng bán tài sản cố định... Theo chế độ hạch toán doanh nghiệp ban hành tại nghị quyết 1141/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính trong cả nước kể từ ngày 01/01/1996 thì lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 3 bộ phận chính sau: - Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong đó: + Doanh thu thuần hoạt động sản xuất kinh doanh là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm trừ (chiết khấuc, giảm giá, giá trị hàng hoá bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp). + Chi phí bán hàng là những chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như: Chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bao gói, quảng cáo... + Chi phí quản lý là các chi phí liên quan đến quản lý chung của doanh nghiệp bao gồm các khoản như: Chi phí kinh doanh, chi phí hành chính. - Lợi nhuận hoạt động tài chính: Là khoản chênh lệch giữa thu nhập của hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính. + Thu nhập hoạt động tài chính là khoản thu hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn mang lại, bao gồm: - Lợi nhuận về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh. - Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư, mua, bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn.. - Lợi nhuận từ việc cho thuê tài sản. - Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư khác. - Lợi nhuận về chênh lệch tiền gữi ngân hàng và lãi vay ngân hàng. - Lợi nhuận cho vay vốn, lợi nhuận do bán ngoại tệ.. + Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí có liên quan đến các hoạt động tài chính như: chi phí liên doanh, lỗ liên doanh, giảm giá đầu tư chứng khoán và các khoản khác. - Lợi nhuận bất thường: Là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập bất thường và chi phí bất thường. + Thu nhập bất thường là khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính được không mang tính thường xuyên như: Thu và thanh lý tài sản cố định, thu về vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản nợ khó đòi đã được sử lý... + Chi phí bất thường là những chi phí liên quan đến hoạt động bất thường bao gồm chi phí thanh lá nhượng bán tài sản cố định, tiến bán do vi phạm hợp đồng kinh tế, bị phạt thuế, các khoản chi do kế toán bị nhầm hay bỏ sót khi vào sổ, truy nộp thuế... Tổng cộng ba khoản lợi nhuận trên cho ta tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. 1.1.3. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp. - Lợi nhuận là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải đạt được lợi nhuận. Nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đối với các doanh nghiệp. Có thể nói rằng : sự ra đời, vânj hành và phát triển của doanh nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận chính là điều kiện tồn tại của doanh nghiệp, là nguồn tài chính quan trọng để các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu lợi nhuận cho phép đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ khâu cung cấp, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tới thanh toán, biểu hiện cụ thể đó là: trình độ tổ chức và quản lý lao động, trình độ huy động và sử dụng vốn cố định, vốn lưu động Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn cố định, vốn lưu động tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì có lợi nhuận có thể trích lập các quỹ doanh nghiệp. Và cũng chính từ quỹ doanh nghiệp này mà không ngừng nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh nghiệp, tận tâm, tận lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển - Lợi nhuận là nhân tố tạo đoàn bẩy giúp doanh nghiệp – xã hội phát triển. Vai trò đòn bẩy kinh tế còn được thể hiện thông qua quá trình hình thành, phân phối, sử dụng lợi nhuận. Qua quá trình đó nó góp phần giải quyết mối quan hệ giữa 3 lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích của tập thể, lợi ích của Nhà nước do đó thúc đẩy mọi người quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận của doanh nghiệp là một phần quan trọng của ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế lợi tức. Nếu sản xuất hàng hóa càng phát triển thì lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng nhiều kéo theo nguồn thu này của ngân sách Nhà nước ngày càng tăng đáp ứng ngày càng lớn nhu cầu chi tiêu của bộ máy quản lý Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục và củng cố an ninh, quốc phòng - Lợi nhuận đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh, mở rộng tái sản xuất. Lợi nhuận làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, tạo vững chắc cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đây cũng là nguồn tài chính để doanh nghiệp trích lập các quỹ như: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng.. Lợi nhuận để lại còn là nguồn vốn trung và dài hạn góp phần giúp các doanh nghiệp nắm bắt cơ hội kinh doanh. Lợi nhuận càng cao thì việc trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi càng lớn, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên được quan tâm hơn, kích thích lòng nhiệt tình, hăng say làm việc của người lao động. Lợi nhuận cao hay thấp cũng tác động tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có lãi thì sẽ có điều kiện hoàn trả mọi khoản nợ tới hạn, bù đắp những khoản thua lỗ của các kỳ kinh doanh trước, đồng thời việc duy trì lợi nhuận cao đều đặn, tăng dần còn giúp doanh nghiệp nâng cao độ tín nhiệm của mình khi muốn vay vốn các tổ chức tín dụng để đầu tư cho những dự án mới. - Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận cao nếu đảm bảo được doanh thu tăng và tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí. Điều này đồng nghĩa với công tác quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả, được phản ánh trên nhiều mặt như: Doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm có mẫu mã, kiểu dáng phong phú, chất lượng cao, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, cải tiến công tác tổ chức sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất… Nhưng khi lợi nhuận bị suy giảm, nếu loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, có thể đánh giá rằng công tác quản lý chi phí, giá thành của doanh nghiệp chưa tốt hoặc việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường chưa hiệu quả. Lợi nhuận đạt được cao hoặc thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng thanh toán mà còn nâng được uy tín của mình trên thương trường góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh, liên kết hoặc cổ phần hoá và ngược lại - Lợi nhuận góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp kh tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước thông qua viêc nộp thuế. Các doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao thì nguồn ngân sách cũng tăng theo và ngược lại các doanh nghiệp trong nước làm ăn thua lỗ nhiều thì nhà nước không những không có khoản thu vào ngân sách mà đôi khi con phải bù lỗ cho các doanh nghiệp đó. Ở tầm vĩ mô trong nền kinh tế quốc dân, tăng lợi nhuận tạo điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ, đồng thời tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thể hiện ở các khoản nộp thuế cho nhà nước, cũng như các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp. Trên cơ sở các khoản thu này, ngân sách có điều kiện tập trung vốn mở rộng đầu tư, thành lập đơn vị sản xuất kinh doanh mới cũng như đầu tư phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Tóm lại, lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng là hết sức quan trọng, nhất là trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt như ngày nay. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy hữu hiệu không những đối với mỗi doanh nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân. 1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP. Trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ yếu chiếm tỉ trọng lớn nhất do đó việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận về cơ bản là nghiên cứu các nhân tố đến lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm. Xuất phát từ công thức xác định lợi nhuận: = _ _ Lợi nhuận tiêu Doanh thu tiêu Giá thành của SP Thuế gián thụ trong kỳ thụ trong kỳ tiêu thụ trong kỳ thu trong kỳ Từ công thức ta thấy lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi doanh thu tiêu thụ, giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và các khoản thuế gián thu phải nộp trong kỳ. Doanh thu tiêu thụ là nhân tố ảnh hưởng tỉ lệ thuận với lợi nhuận. Doanh thu càng lớn thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại doanh thu càng nhỏ thì lợi nhuận càng ít. Giá thành và thuế là nhân tố ảnh hưởng tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Giá thành và thuế càng cao thì lợi nhuận càng thấp và ngược lại. Doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm là các nhân tố có cấu thành phức tạp do đó biến động cuả các nhân tố này phụ thuộc vào các bộ phận cấu thành nên chúng. 1.2.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp. r Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ được xác định theo công thức: i = 1 D = å (Stigi) D: Là doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ Sti: Khối lượng hàng hoá tiêu thụ trong kỳ gi: Giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá i: Loại sản phẩm hàng hoá tiêu thụ thứ i Công thức trên cho thấy nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: - Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Trong điều kiện nhân tố khác không thay đổi, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng lên và sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ dẫn tới trực tiếp làm tăng lợi nhuận tiêu thụ và ngược lại nếu khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ giảm xuống sẽ làm giảm doanh thu tiêu thụ dẫn đến giảm lợi nhuận tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ phụ thuộc vào các yếu tố: quy mô sản xuất, dây truyền công nghệ, thị trường tiêu thụ... đây được coi là nhân tố ảnh hưởng chủ quan phản ánh sự cố gắng của doanh nghiệp trong công tác quản lý kinh doanh nói chung và quản lý lợi nhuận nói riêng. - Chất lượng sản phẩm tiêu thụ. Đây là yếu tốt rất quan trọng ảnh hưởng tới doanh thu nên tiêu thụ thể hiện ở chỗ có thể thúc đẩy hay kìm hãm công tác tiêu thụ, chất lượng sản phẩm tốt không chỉ làm tăng khả năng tiêu thụ mà còn có thể nâng cao giá bán, ngược lại chất lượng sản phẩm xấu thì chất lượng tiêu thụ thấp dẫn đến giá bán không cao, làm giảm doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp. Ngoài việc là phương tiện hỗ trợ bán hàng thì chất lượng sản phẩm còn là một vũ khí cạnh tranh sắc bén giữa các đối thủ trong nền kinh tế thị trường. Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm ở mức cao sẽ tạo uy tín cho doanh nghiệp đối với khách hàng, đây là điều kiện cơ bản bảm đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. - Giá tiêu thụ sản phẩm: Trong điều kiện các nhân tố khác thay đổi, giá bán đơn vị sản phẩm tăng lên làm doanh thu và do đó tăng lợi nhuận, ngược lại giá bán đơn vị sản phẩm làm giảm doanh thu và dẫn đến lợi nhuận giảm. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường giá bán của sản phẩm thường được hình thành khách quan do quan hệ cung cầu trên thị trường quy định. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp không thể tự tăng giá cao hơn các mặt hàng cùng loại trên trị trường, cũng như giảm giá hơn các đối thủ. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước ra chỉ tiêu sản xuất tiêu thụ một số mặt hàng nào đó thì giá bán này do Nhà nước quy định. Trong trường hợp này thì giá bán biến đổi dẫn đến lợi nhuận tiêu thụ biến đổi, nó được đánh giá là tác động khách quan đối với doanh nghiệp. - Kết cấu sản phẩm tiêu thụ: Đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm, chi phí để sản xuất ra mỗi loại sản phẩm là khác nhau, mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trong kỳ có mức lãi, lỗ khác nhau. Do đó trong điều kiện nhân tố khác không đổi việc biến đổi cơ cấu mặt hàng có thể làm tăng tỷ trọng của hàng hoá có mức lãi cao và làm giảm tỷ trọng hàng hoá có mức lãi thấp làm tổng lợi nhuận tiêu thụ tăng hoặc có thể làm giảm tỉ trọng hàng hoá có mức lợi nhuận cao và làm tăng tỷ trọng có mức lợi nhuận thấp kết quả là làm giảm tổng lợi nhuận tiêu thụ. Sự biến đổi kết cấu mặt hàng có thể do yếu tố chủ quan của doanh nghiệp tạo ra, song cũng có dựa vào sự biến động nhu cầu của thị trường. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu đó. 1.2.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới giá thành toàn bộ sản phẩm. - Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá được cấu thành theo công thức: Zt = Zcx + QL + B Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ QL: Chi phí quản lý doanh nghiệp B: Chi phí tiêu thụ sản phẩm Zcx: Giá thành công xưởng sản phẩm tiêu thụ. Công thức này cho thấy ảnh hưởng để giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ gồm có ba nhân tố: - Giá thành công xưởng sản phẩm tiêu thụ: Là biểu hiện bằng tiền của những khoản chi phí sản xuất được tính vào giá thành của từng mặt hàng bao gồm: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu và động lực dùng trực tiếp cho sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. + Chi phí nhân công trực tiếp: Là tiền lương thù lao phải trả cho số lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm cùng các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, chi phí công đoàn theo tỷ lệ quy định phân tích vào chi phí kinh doanh. + Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp. Bao gồm: điện cho phân xưởng, khấu hao máy móc... Chi phí công xưởng của sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp vì giá thành công xưởng quyết định giá bán của sản phẩm . Một sản phẩm sản xuất ra nếu phải tiêu hao nhiều chi phí công xưởng thì giá thành sản phẩm đó sẽ cao dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm trở nên hó khăn, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Để thu được lợi nhuận cao đòi hỏi danh nghiệp phải sử dụng một cách hiệu quả nhất chi phí công xưởng, doanh nghiệp cần có những hoạch định, định mức tiêu hao chi phí công xưởng cho từng loại sản phẩm cụ thể, tránh sử dụng lãng phí chi phí đó như: lãng phí nguyên vật liệu, công nhân làm không hiệu quả và giảm thiểu các chi phí chung cho phân xưởng.. Có như vậy doanh nghiệp mới tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh, bán được nhiều hàng hơn và thu được nhiều lợi nhuận về cho doanh nghiệp. - Chi phí tiêu thụ sản phẩm: Chi phí bán hàng là khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm. Nó tác động ngược chiều đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Chi phí bán hàng liên quan đến các khoản chi phí về nghiên cứu thị trường, dự trữ, quảng cáo, bán hàng, chi phí dịch vụ và bảo quản hàng hoá. Chi phí quảng cáo thường chiếm phần lớn trong tổng chi phí bán hàng của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn. Bán hàng là một khâu quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm đem về lợi nhuận cho doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp có mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt, đội ngũ bán hàng nhiệt tình, năng nỗ thì lượng sản phẩm bán được sẽ nhiều hơn, đem lại lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp. Ngày nay nhiều dịch vụ chăm sóc khách hàng tận tình đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều chi phí để làm tốt khâu bán hàng, chi cho các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng để có thể làm hài lòng khách hàng.. doanh nghiệp cũng cần chú ý đến những khâu, những bộ phận không làm tốt khâu bán hàng từ đó điều chỉnh hay loại bỏ khâu, bộ phận đó làm giảm đi chi phí của việc tiêu thụ sản phẩm.. Vì vậy quản lý tốt khâu bán hàng sẽ giúp doanh nghiệp có lợi nhuận cao và đạt hiệu quả trong kinh doanh. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp như: tiền lương và phụ cấp cho nhân viên quản lý các phòng ban, lãi vay vốn kinh doanh, chi phí tiếp tân... Một bộ máy quản lý cồng kềnh sẽ dẫn đến việc các phòng ban hoạt động chồng chéo lên nhau và đôi khi các phòng ban con ỷ lại công việc cho nhau làm cho việc quản lý kém hiệu quả và còn làm tăg chi phí trong công tác quản lý, điều đó ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận của doanh nghiêp. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải làm gọn nhẹ bộ máy quản lý mà vẫn đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thì doanh nghiệp đó mới có thể hoạt động hiệu quả cao. 1.2.3. Chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Đối với tất cả các công ty là làm thế nào để có thể huy động nguồn vốn được một cách có hiệu quả tối ưu nhất, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó để đầu tư các cơ sở vật chất trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cần có một khối lượng về vốn rất lớn. Chính vì vậy công ty đã có những chiến lược về vốn để đảm bảo có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng các yêu cầu trên đó là : - Nguồn vốn bên trong: Công ty có thể sử dụng lợi nhuận được trích lập vào các quỹ (quỹ đầu tư phát triển) hoặc công ty có thể dùng số tiền trích khấu hao tài sản cố định được nhà nước cho phép để lại cho đầu tư đổi mới tài sản cố định. - Nguồn vốn bên ngoài: Khi nguồn vốn bên trong chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn, Công ty có thể huy động thêm vốn bên ngoài như: + Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên chức và trong nhân dân. Để huy động được nguồn vốn này công ty cần có tỉ lệ lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng để hấp dẫn họ nhưng phải thấp hơn lãi suất tiền vay ngân hàng để đảm bảo có lợi cho công ty. Đây là một nguồn rất có triển vọng khai thác với khối lượng lớn có hiệu quả cao. + Liên doanh liên kết với các đơn vị khác. Công ty có thể thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm khắc phục các nhược điểm tạm thời về máy móc thiết bị nhằm đổi mới hiện đại hoá thiết bị và công nghệ sản xuất, đồng thời học tập tiếp thu kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại. Việc liên doanh liên kết có thể được tiến hành toàn bộ hay từng phần. - Công ty có thể cổ phần hoá doanh nghiệp như áp dụng hình thức khuyến khích và bắt buộc công nhân viên của công ty mua cổ phần (chẳng hạn công ty có thể quy định về số cổ phiếu tối thiểu mà mỗi công nhân viên phải mua). Việc bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên trong công ty có nhiều ưu điểm: giải quyết được nhu cầu về vốn của công ty; tạo ra sự ràng buộc giữa người lao động với công ty khi đã trở thành người chủ sở hữu thì họ sẽ có trách nhiệm hơn trong công việc làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng công trình vì sự thành bại của công gắn liền với quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của họ. => Căn cứ của bộ tài chính hiện nay đó là doanh nghiệp không phải trả thuế thu nhập cho phần vốn vay và vẫn phải chịu thuế thu nhập trên phần vốn của chủ sở hữu. Nếu doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn vay để kinh doanh thì có thể làm giảm bớt phần thuế thu nhập phải nộp cho nhà nước nhưng thay vào đó là việc phải trả lãi vay cho các chủ đầu tư, ngược lại doanh nghiệp sử dụng lượng lớn nguồn vốn của mình để kinh doanh thì có thể giảm khoản lãi phải trả chủ đầu tư nhưng lại phải chịu một khoản thuế thu nhập tương đối lớn trên phần lợi nhuận thu được. Điều đó đã làm cho nhiều doanh nghiệp lựa chọn cho mình hình thức huy động cũng như sử dụng vốn sao cho hợp lý nhất. 1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP. - Tổng mức lợi nhuận ( lợi nhuận tuyệt đối ) = - - Trong đó tổng chi phí cố định là không có lãi vay = - = - = Lợi nhuận trước thuế *( 1- Thuế suất thuế thu nhập DN) Lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho thấy mức độ thu lãi trên lượng vốn bỏ ra kinh doanh nó chỉ cho thấy quy mô của lượng lợi nhuận thu được chứ chưa phản ánh được hiệu quả kinh doanh vì còn có các khoản chi phí chưa tách ra là lãi vay và thuế phải nộp. Nếu doanh nghiệp phải trả một khoản lãi vay tương đối lớn hay phải nộp nhiều thuế do mặt hàng thuộc diện tiêu thụ đặc biệt.. sẽ làm giảm đi một lượng lớn lợi nhuận của doanh nghiệp từ đó cho thấy doanh nghiệp có thể làm ăn không hiệu quả. Lợi nhuận sau thuế và lãi vay là khoản phản ánh chính xác nhất kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, độ lớn của nó cho thấy doanh nghiệp làm ăn rất hiệu quả. - Tỷ suất lợi nhuận Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau. Dưới đây là một số cách tính tỷ suất lợi nhuận + Tỷ suất lợi nhuận vốn (doanh lợi vốn): là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ (gồm có vốn cố định và vốn lưu động hoặc vốn chủ sở hữu) P - Công thức tính: Tsv = ––– * 100 Vbq - Trong đó: Tsv : Tỷ suất lợi nhuận vốn P : Lợi nhuận trong kỳ Vbq : Tổng số vốn sản xuất được sử dụng bình quân trong kỳ (vốn cố định và vốn lưu động hoặc vốn chủ sở hữu ) Vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số khấu hao Vốn lưu động gồm có: vốn dự trữ sản xuất, vốn sản phẩm dở danh, bán thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm. Chỉ tiêu này cho thấy cứ 100 đồng tiền vốn bỏ vào đầu tư sau một năm thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nếu giá trị của tỷ suất doanh lợi càng cao và tăng đều qua các năm cho thấy doanh nghiệp đó hoạt động hiệu quả. Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, được dùng để so sánh doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp khác trong ngành. Việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận nói lên trình độ sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp, thông qua đó kích thích sử dụng vốn đạt hiệu quả cao Doanh nghiệp có thể tính được doanh lợi vốn chủ sở hữu, doanh lợi vốn đi vay trên cơ sở xác định được lợi nhuận hay lợi nhuận ròng do các khoản vốn đó mang lại để thấy hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và phục vụ cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp. + Tỷ suất lợi nhuận giá thành: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ P Công thức: Tsg = ––– * 100 Zt Tsg : tỷ suất lợi nhuận giá thành P : lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ Zt : giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ Thông qua tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Mặc dù chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả tổng hợp của hoạt động sản xuất, nhưng trong chừng mực nhất định chỉ tiêu này chưa phản ánh được đầy đủ kết quả của hoạt động trong các đơn vị hoạch toán kinh tế. Bởi vì trong giá thành mới chỉ tính chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho sản phẩm hoàn thành chứ chưa bao gồm chi phí nguyên vật liệu dự trữ, chi phí về sản xuất dở dang và bán thành phẩm. + Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng: là một chỉ số tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp P Công thức: Tst = –––– * 100 T Tst : tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng P : lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ T : doanh thu bán hàng trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy cứ 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn các ngành khác. Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành sản xuất và phương hướng sản xuất kinh doanh của từng ngành - Tỷ suất thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn chủ sở hữu): ROE. TNST ROE = * 100% VCSH Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được gọi là ổn định nếu tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu luôn tăng qua các năm và mức đạt được của nó phải ngang bằng với mức doanh lợi của ngành trên thị trường. Chúng ta cũng cần tìm hiểu ra những nguyên nhân làm giảm mức doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và từ đó tìm cách khắc phục để nâng cao mức doanh lợi đó của doanh nghiệp lên. - Doanh lợi tài sản: ROA TNTT&Lãi vay TNST ROA = hoặc ROA = * 100% TS TS Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0015.doc
Tài liệu liên quan