Lợi nhuận & Một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại Công ty sản xuất Xuất nhập khẩu Hà Nội

Lời mở đầu Nói đến sản xuất kinh doanh dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào không ai có thể quên vấn đề hiệu quả. Năng suất - chất lượng- hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ phát triển về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị cơ sở. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo tiền đề phấn đấu đạt mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tí

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận & Một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại Công ty sản xuất Xuất nhập khẩu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch luỹ cho xã hội. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các doanh nghiệp không chủ động khai thác hết khả năng sẵn có của mình để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao mà có thái độ ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Từ khi bước sang cơ chế thị trường với sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã có không ít các doanh nghiệp do không thích nghi được với cơ chế mới nên đã bị đào thải (giải thể hoặc phá sản). Nền kinh tế thị trường đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hội nhập và phát triển nhưng để thực hiện được điều đó thì mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là phải tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, trình độ tổ chức sản xuất sản phẩm. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội cùng với sự hướng dẫn giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS-TS Nguyễn Đình Kiệm và các cô chú trong phòng kế toán tổng hợp của công ty, em đã nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Lợi nhuận và một số biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội ” Nội dung chính của bản luận văn này gồm 3 chương: Chương I: lý luận chung về lợi nhuận của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội Chương III: một số giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Hà Nội Do trình độ lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên bản luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót khuyết điểm. Em rất monh nhận được sự đóng góp giúp đỡ của các thầy cô giáo để bản luận văn của em được hoàn thiện hơn Chương I: lí luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Lơị nhuận và vai trò của lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 1. Khái niệm a. Lợi nhuận và bản chất của lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp đều hướng tới . Khi tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào người ta đều tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Thực tế, có nhiều đối tượng quan tâm đến kết quả kinh doanh- lợi nhuận của doanh nghiệp , do đó tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận , xét trên góc độ khác nhau có thể có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau: Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mark cho rằng:" Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất gọi là lợi nhuận " Theo Mark:'' Giá trị thặng dư hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận "1 Các nhà kinh tế học hiện đại mà đại diện là David-Beggs, Samuelson cho rằng"Sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định '' là lợi nhuận Các quan điểm trên tuy được phát biểu khác nhau nhưng họ đều cho rằng lợi nhuận là phần dôi ra so với cho phí đã bỏ ra. Đó chính là bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Có thể nói kinh tế thị trường là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội mà ở đó các doanh nghiệp , các tổ chức , các cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách này hay cách khác , cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận . Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát huy tối đa khả năng và tinh thần tự chủ của mình để tạo ra thu nhập và lợi nhuận vì sự phát triển của chính bản thân. Như vậy lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp , đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các khoản chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định . Trong đó các khoản thu nhập của doanh nghiệp là toàn bộ khoản tiền mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động tài chính , hoạt động bất thường trong một thời kỳ nhất định Ta có công thức xác định: Lợi nhuận =Tổng thu nhập - Tổng chi phí 2. Nội dung lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường với cơ chế hạch toán kinh doanh , phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, đồng thời để có thể tối đa hoá được lợi nhuận , các doanh nghiệp đã đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của doanh nghiệp .Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp thường bao gồm: - Lợi nhuận hoạt động kinh doanh : Là khoản chênh lệch giữa doanh thu hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp ). Bộ phận lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp . - Lợi nhuận hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là những hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như :góp vốn liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần,hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu , cổ phiếu cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay khác ngoài nguồn vốn kinh doanh và quỹ…. Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng góp phần lớn vào việc làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp . - Lợi nhuận hoạt động bất thường: Đó là khoản lãi thu được từ các hoạt động (nghiệp vụ ) riêng biệt khác ngoài những nghiệp vụ nêu trên. Những khoản này phát sinh không thường xuyên, doanh nghiệp không thể dự kiến trước được. Lợi nhuận từ hoạt động bao gồm: lợi nhuận các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ, các khoản thu từ bán vật tư tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt-mất mát,lãi thu từ nhượng bán , thanh lý tài sản,tiền được phạt, được bồi thường. Vậy nói chung tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo thành từ 3 bộ phận nói trên. Tuy nhiên tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác biệt nhau trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và môi trường kinh tế khác nhau. Nhưng nhìn chung lợi nhuận hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng cao và có ý nghĩa quyết tổng lợi nhuận của doanh nghiệp . Việc xem xét nội dung lợi nhuận doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng -giúp ta thấy được khoản mục nào tạo nên lợi nhuận và tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp , từ đó có thể xem xét đánh giá kết quả từng hoạt động để tìm ra và phát huy các mặt tích cực cũng như khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực góp phần giúp doanh nghiệp đề ra quyết định thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận của doanh nghiệp . 3. Vai trò của lợi nhuận Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Đối với doanh nghiệp : Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp . Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều kiện tiên quyếtlà doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời nó là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ,là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh . Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp . Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên 4 phạm vi chính: mức nộp ngân sách với Nhà nước, đảm bảo đời sống cho các bộ công nhân viên, mở rộng quy mô kinh doanh và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường . - Lợi nhuận giúp cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô sản xuất : Cơ chế quản lý mới đã xoá bỏ sự bao cấp của Nhà nước , điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chủ vè tài chính , phải chủ động tìm nguồn tài nguyên cho mọi như cầu sản xuất . Lợi nhuận không những trở thành mục đích thiết thực mà còn là động lực mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không mở rộng được quy mô sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải thiện đời sống cho cán bộ công viên…từ đó sản phẩm bán ra không đáp ứng yêu cầu về chất lượng , giá thành cao dẫn đến thất bại trong cạnh tranh, về lâu dài có thể dẫn tới phá sản. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật chất lượng sản phẩm chủ yếu được quyết định bởi trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn bổ xung từ lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện đầu tư vốn phát triển kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh , từ đó góp phần tăng năng suất lao động , tăng khối lượng sản xuất ,nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm phục vụ tối đa nhu cầu người tiêu dùng, nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp . Đối với doanh nghiệp thương mại nhờ có thêm vốn doanh nghiệp sẽ mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng hàng hoá vận chuyển đa dạng hoá chủng loại hàng hoá kinh doanh .Nhờ vậy mà quy mô kinh doanh tăng lên. - Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất ,nâng cao chất lượng sản phẩm Mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người cung cấp sức lao động là tiền lương.Tiền lương có hai chức năng:đối với nhà sản xuất nó là một yếu tố chi phí- đối với người lao động nó là thu nhập, là lợi ích kinh tế của họ. Đối với doanh nghiệp chi phí thuê sức lao động là thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận -vì vậy đó là chi phí được bù đắp ở kết quả lao động , năng suất lao động của cán bộ công nhân viên tăng lên là điều kiện để doanh nghiệp tăng lợi nhuận . Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất lao động . Doanh nghiệp có lợi nhuận thì nhập của người lao động được đảm bảo , từ đó sẽ kích thích họ hăng say lao động , có trách nhiệm với chất lượng sản phẩm , phát huy tối đa sức sáng tạo của họ trong sản suất. Ngoài ra, khi lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên đồng nghĩa với việc tăng thêm các quỹ trong đó có quỹ khen thưởng , phúc lợi và lợi ích của người lao động cũng tăng lên. - Lợi nhuận cũng góp phần khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả , sử dụng vốn kinh doanh hợp lý, bộ phận quản lý có tài năng lãnh đạo, lực lượng cán bộ công nhân viên có trình độ có thực lực. Nhờ vậy mà uy tín, thế lực của doanh nghiệp ngày càng tăng, được khách hàng -nhà cung cấp-các tổ chức tín dụng và nhà nước tín nhiệm, từ đó hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi- hàng hoá được tiêu thụ nhanh hơn , doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn bằng cách sử dụng tín dụng hàng hoá, phát hành cổ phiếu liên doanh kết… * Đối với xã hội: Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh có lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp có thể tích luỹ vốn thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp mình . Khi mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào trong nền kinh tế thực hiện tái sản xuất xã hội cũng tất yêú là qúa trình tái sản xuất mở rộng.Mặt khác, khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lợi thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước cũng tăng lên (thông qua sắc thuế theo quy định của pháp luật ) đáp ứng nhu cầu tích luỹ vốn để thực hiện quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo các chức năng của Nhà nước như: phát triển kinh tế , củng cố tiềm lực quốc phòng,duy trì bộ máy quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân. Qua việc phân tích trên ta thấy lợi nhuận không chỉ có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nền quốc dân, bởi lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của Nhà nước , của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Lợi nhuận làm cho Nhà nước ,doanh nghiệp , người lao động có quan hệ gắn bó và cùng phát triển . II. phương pháp xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp 1. Phương pháp xác định lợi nhuận Trong nền kinh tế thị trường, để tăng cường khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá hoạt đông kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó lợi nhuận doanh nghiệp thu được từ các hoạt động khác nhau như :hoạt động kinh doanh , hoạt động tài chính , hoạt động bất thường -tổng lợi nhuận sẽ là tổng hợp lợi nhuận từ các hoạt động đó Lợi nhuận = Lợi nhuận hoạt + Lợi nhuận hoạt + Lợi nhuận Doanh nghiệp động kinh doanh động tài chính hbt Xem xét từng nhân tố ta có: - Lợi nhuận hoạt động kinh doanh :Là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp và được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động= Doanh thu - Trị giá vốn- Chi phí - Chi phí quản Kinh doanh thuần hàng bán bán hàng lý doanh nghiệp. Trong đó: Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản giảm trừ, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Trong đó doanh thu thuần được xác đinh: Doanh thu = Tổng doanh thu - Khoản giảm giá - Trị giá hàng - Thuế gián thuần bán hàng hàng bán bán bị trả lại thu + Tổng doanh thu (thu nhập từ hoạt động kinh doanh) có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp , nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và các nghĩa vụ với Nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu quan trọng chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh . Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng,sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền + Các khoản giảm trừ bao gồm: Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. + Thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…là các loại thuế theo luật định áp dụng cho các loại hàng hoá thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá . Sau khi xác định được chỉ tiêu doanh thu thuần và giá vốn hàng bán (hay giá thành hàng bán)ta có chỉ tiêu tài chính trung gian là "lãi gộp " Lãi gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá , dịch vụ như:tiền lương ,các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng,tiếp thị đóng gói bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu bao bì , dụng cụ đồ dùng , chi phí dịch vụ mua ngoài , chi phí bảo hành, quảng cáo…. + Chi phí quản lý doanh nghiệp:bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh , quản lý hành chính,và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốcvà nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu tiêu dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung toàn doanh nghiệp …. Qua việc xác định trên ta có thể tổng kết cách xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo sơ đồ sau: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ Doanh thu thuần Lãi gộp Lợi nhuận từ HĐKD Giá vốn hàng bán CFBH & CPQLDN Các khoản giảm trừ * Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa hoạt động tài chính và thu nhập hoạt động tài Lợi nhuận hoạt động tài chính được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động Doanh thu hoạt- Chi phí hoạt -Thuế gián Tài chính = động tài chính động tài chính thu (nếu có) Các khoản này bao gồm: Lợi nhuận từ hoạt động góp vốn liên doanh Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư , mua bán chứng khoán ngắn và dài hạn Lợi nhuận về cho thuê tài sản Lợi nhuận do kinh doanh ngoại tệ Hoàn nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn và dài hạn Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác. *Lợi nhuận từ hoạt động bất thường Là những khoản lợi nhuận không dự tính trước hoặc có dự kiến nhưng ít có khả năng thực hiện hoặc những khoản thu mang tính chất không thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan hoặc do khách quan mang lại. Lợi nhuận hoạt động bất thường được xác định theo công thức: Lợi nhuận hoạt động Doanh thu - Chi phí - Thuế gián bất thường = bất thường bất thường thu (nếu có) Thu nhập bất thường gồm: Các khoản nợ khó đòi đã duyệt bỏ (theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán) nay đòi được. Các khoản phải trả nhưng không có chủ nợ Chênh lệch nhượng bán thanh lý tài sản Thu từ việc bán vật tư , phế liệu tài sản thừa Các khoản lợi tức năm trước bỏ sót chưa ghi sổ. Số dư hoàn nhập quỹ các khoản dự phòng, giảm giá , phải thu khó đòi. Các khoản thu nhập bất thường khác: tiền được phạt, tiền được bồi thường, ngân sách thoái thu thuế, các khoản trích thành sản phẩm thừa khi hết hạn… + Chi phí bất thường là những chi phí liên quan đến các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động bất thường, cũng có thể là những khoản chi phí bị bỏ sót từ những năm trước khi lên báo cáo. Những khoản chi phí bất thường có thể do .chủ quan hay khách quan doanh nghiệp mang lại bao gồm.: -Chi phí thanh lý ,nhượng bán tài sản cố định. -Hao hụt vật tư hàng hoá trong quá trình trong quá trình vận chuyển trong kho - Các khoản lỗ hoặc chi phí do kế toán bị nhầm lẫn hay bỏ sót khi vào sổ - Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xoá. - Các chi phí bất thường khác như: tiền phạt, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng, tiền phạt thuế, truy nộp thuế… Sau khi thu được lợi nhuận, doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, phần còn lại là lãi thực của doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế = Tổng lợi nhuận -thuế thu nhập doanh nghiệp ý nghĩa: Xác định chính xác lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), là cơ sở cho việc đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời là cơ sở cho việc phân phối đúng đắn lợi nhuận đặt ra để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục 2. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tồng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp . Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển , tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình và ngược lại. 2.1 Yêu cầu của việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp Quá trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây: -Doanh nghiệp cần giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Mối quan hệ này thể hiện ở tỷ lệ thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và tỷ lệ trích lập các quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp . -Quá trình phân phối lợi nhuận phải đảm bảo mối quan hệ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tái sản xuất kinh doanh giản đơn và tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Mối quan hệ này được thể hiện ở tỷ lệ trích lập các quỹ của doanh nghiệp , trong đó phần lợi nhuận để tái đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh được chú trọng một cách thoả đáng. 2.2 Trình tự phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Nội dung cơ bản của việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tuỳ thuộc vào đặc điểm sở hữu của từng loại hình doanh nghiệp khác nhau Dựa theo các yêu cầu về phân phối lợi nhuận quy trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại được tiến hành theo trình tự sau: Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách theo luật định (32%) Doanh nghiệp nộp tiền thu sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước (nếu là doanh nghiệp Nhà nước ) (3.6%-6%) Trừ các khoản tiền phạt, vi phạm kỷ luật thu nộp ngân sách, vi phạm hành chính hợp đồng, phạt nợ quá hạn, các khoản chi phí không hợp lệ chưa được trừ khi xác định thuế thu nhập phải nộp, các khoản lỗ chưa được trừ vào thu nhập trước thuế thu nhập doanh nghiệp . Phân chia kết qủa hoạt động cho các bên tham gia liên doanh theo hợp đồng đã ký kết hoặc chia lãi cổ phần cho các cổ đông Trích lập các quỹ của doanh nghiệp Quy trình phân phối lợi nhuận có thể tổng quát theo sơ đồ sau: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phụ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính Lợi nhuận từ hoạt động bất thường Tổng lợi nhuận Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp Nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách (nếu là DNNN) Bù đắp chi phí bất hợp lý ... (nếu có) Chia liên doanh hoặc lãi cổ phần Trích lập các quỹ doanh nghiệp Thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập bổ sung Quỹ đầu tư phát triển Quỹ dự phòng tài chính Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm Quỹ khen thưởng và phúc lợi III. Kế hoạch hoá lợi nhuận và các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận doanh nghiệp 1. Kế hoạch hoá lợi nhuận và sự cần thiết phải lập kế hoạch lợi nhuận Kế hoạch lợi nhuận hàng năm là một kế hoạch tài chính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và là một bộ phận của hệ thống kế hoạch tài chính doanh nghiệp . Trong sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường , các doanh nghiệp đều rất chú ý đến hiệu quả của công việc chi phí , lao động, vật tư, tiền vốn. Việc sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp phải tính toán xây dựng mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập, sản xuất ra bao nhiêu sản phẩm với giá bán là bao nhiêu thì đảm bảo hoà được vốn bỏ ra và bao nhiêu sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ thì mang lại mức lãi theo dự kiến. Như ta đã biết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và nó có sự bù trừ lẫn nhau. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải đứng trước những tình huống phát sinh ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Các tình huống đó có thể do bên ngoài tác động như: khí hậu, thời tiết… kết quả là làm cho một phần lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm đi. Như vậy, nhà quản lý có thể phải chấp nhận một mức lỗ cá biệt để thu được lợi nhuận tổng thể cao. Tuy nhiên để chấp nhận một mức lỗ như vậy đòi hỏi người quản lý phải tính toán kỹ, kiểm soát chặt chẽ nếu không sẽ làm cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ. Hơn nữa do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông vận tải, vận chuyển hàng hoá, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận thu được giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. Việc bố trí sắp xếp mạng lưới kinh doanh cho thuận tiện làm giảm các chi phí vận chuyển bốc dỡ, bảo quản phục vụ được tối đa người tiêu dùng cũng là một yếu tố làm chi phí của doanh nghiệp giảm xuống, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao chất lượng mẫu mã, hoàn thiện thêm chức năng sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Tất cả những yếu tố trên làm cho số lợi nhuận giữa các hoạt động trong từng thời kỳ của doanh nghiệp cũng không giống nhau. Do đó hàng năm trước khi bước vào năm kế hoạch của hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch lợi nhuận. Kế hoạch lợi nhuận giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp dự kiến được số lãi mà doanh nghiệp sẽ tạo ra trong năm, từ đó giúp cho doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đề ra các giải pháp hữu hiệu để thực hiện thành công mục tiêu. Mặt khác biết trước quy mô lợi nhuận sẽ đạt được giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động trong việc phân phối và sử dụng lợi nhuận một cách hiệu quả nhất. 1.2 Phương pháp lập kế hoạch hoá lợi nhuận Việc lập kế hoạch phải kết hợp với việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, phân tích tài chính, phân tích điểm hoà vốn. Thông qua việc phân tích điểm hoà vốn, doanh nghiệp có thể rút ra những kết luận cần thiết đối với từng mặt hàng như: khối lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán tối ưu để đạt được mức lợi nhuận dự tính. Các chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận bao gồm: tổng mức lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận doanh thu, tỷ suất lợi nhuận vốn, tỷ suất lợi nhuận chi phí (cách thức xác định đã được đề cập ở phần trên). Để dự kiến mức lợi nhuận trong kỳ người ta sử dụng phương pháp xác định lợi nhuận trực tiếp và phương pháp sản lượng hoà vốn. Phương pháp xác định lợi nhuận trực tiếp có ưu điểm đơn giản dễ tính nhưng không phù hợp với doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng. Phương pháp sản lượng hoà vốn giúp doanh nghiệp thấy được mối quan hệ giữa lợi nhuận đạt được trong kỳ với quy mô kinh doanh và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa to lớn cho việc lựa chọn quy mô kinh doanh hợp lý để tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp. Dù xác định lợi nhuận theo phương pháp nào thì chúng ta đều thấy sự cần thiết phải lập kế hoạch hoá lợi nhuận. 2. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình lợi nhuận doanh nghiệp Để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp người ta có thể sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối. Tuy nhiên ta không thể coi nó là chỉ tiêu duy nhất , cũng không thể chỉ dùng nó để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì : Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau. Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. Ơ các doanh nghiệp có quy mô lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn nhiều những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Cho nên để đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ suât lợi nhuận hay hệ số sinh lời. * Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận , mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau cụ thể: 2.1 Tỷ suất lợi nhuận vốn: Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ với số vốn sử dụng bình quân ( gồm cả vốn cố định và vốn lưu động ) hoặc vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: Tsv= Trong đó: Tsv Tỷ suất lợi nhuận vốn P :Lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ Vbq: Tổng số vốn sản suất được sử dụng bình quân trong kỳ (cả vốn cố định và vốn lưu động) hoặc vốn chủ sở hữu. Vốn cố định được xác định bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi số tiền khấu hao luỹ kế đã thu hồi . Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm. ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ bỏ ra 100 đồng vốn thì doanh nghiệp thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận . Tỷ suất lợi nhuận vốn cho phép ta đánh giá được hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra những khả năng tiềm tàng và những biện pháp thích hợp làm cho công tác quản lý và sử dụng vốn cao hơn. 2.2 Tỷ suất lợi nhuận giá thành : Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tsg = Trong đó: Tsg :Tỷ suất lợi nhuận giá thành P :Lợi nhuận trước (hoặc sau) thuế đạt được trong kỳ Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng doanh thu thì doanh nghiệp thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận, đồng thời nó cũng phản ánh hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ trong kỳ . 2.3 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu :Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế sản phẩm tiêu thụ với doanh thu tiêu thụ sản đạt được trong kỳ. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tst = Trong đó: Tst: Tỷ suất lợi nhuận giá thành P: Lợi nhuận trước (hoặc sau)thuế đạt được trong kỳ T: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ ý nghĩa : Chỉ tiêu này phản ánh doanh nghiệp cứ bán được 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận . Nếu chỉ tiêu này của doanh nghiệp thấp hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp đã bán hàng với giá thấp hoặc giá thành của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp khác IV. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp 1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao lợi nhuận Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận cũng như từ mục tiêu và động lực phát triển của doanh nghiệp ta thấy việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì: Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường , doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Hay nói một cách khác, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ của ._.pháp luật.Xuất phát từ mục tiêu đó, trong kinh doanh , các doanh nghiệp luôn tìm cho mình một con đường riêng tối ưu để có thể thoả mãn cao nhất nhu cầu của thị trường và đạt tới mức lợi nhuận tối đa. Như vậy động lực lợi nhuận đã thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động ngày càng mở rộng. Và ngược lại khi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được mở rộng thì tất yếu sẽ đưa lợi nhuận doanh nghiệp ngày một tăng lên. Mặt khác muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả , tức là có lợi nhuận. Có lợi nhuận các doanh nghiệp mới có tiền đề vật chất để bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh , mở rộng quy mô kinh doanh hay nói cách khác là để tồn tại vầ phát triển , còn ngược lại nếu doanh nghiệp kinh doanh không có lợi nhuận , vốn của doanh nghiệp sẽ mất dần và đẩy doanh nghiệp tới bên bờ của sự phá sản. Hơn nữa, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, tức là có lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh để từng bước thay đổi quy trình công nghệ tiên tiến cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Lợi nhuận cao sẽ giúp cho tốc độ tích luỹ của doanh nghiệp càng nhanh, vốn kinh doanh cũng tăng nhanh tạo uy tín và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giành thắng lợi với hiệu quả kinh doanh cao nhất trên cơ sở đáp ứng tốt nhất các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cho nhu cầu xã hội. Và chính lợi nhuận năm trước sẽ là cơ sở để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp vào năm sau. Khi lợi nhuận tăng, cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp sẽ có mức thu nhập thoả đáng, doanh nghiệp có tiền để chi các khoản lương, phúc lợi khen thưởng. Đây chính là đòn bẩy kinh tế kích thích tính năng động sáng tạo, tự giác, phát huy hết khả năng tiềm tàng của người lao động, tạo ra sự gắn kết giữa người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, nhờ vậy mà năng suất lao động sẽ không ngừng tăng lên. Rõ ràng đây là nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Ngoài ra, khi lợi nhuận doanh nghiệp tăng thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước (trên cơ sở nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp) cũng tăng, điều này góp phần vào việc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Như vậy, lợi nhuận không chỉ là niềm mơ ước của các nhà đẩu tư, nhà kinh doanh mà còn của cả những người lao động và ngân sách Nhà nước. Lợi nhuận là phương tiện để doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh và là yếu tố quyết định sự sống còn cũng như sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó, nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp là điều tất yếu khách quan đối với mọi doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận Để có thể tìm những biện pháp hữu hiệu nhằm đạt tới mức lợi nhuận mong muốn, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong các nhân tố đó có những nhân tố thuộc về bên trong (chủ quan của doanh nghiệp) nhưng cũng có thể là những nhân tố khách quan bên ngoài không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Tất cả các nhân tố đó có thể tác động có lợi hoặc bất lợi tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể: 2.1 Các nhân tố khách quan Thứ nhất là thị trường và sự cạnh tranh: thị trường ảnh hưởng trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp cung cấp hàng hoá ra thị trường là nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lời. Sự biến động của cung và cầu trên thị trường sẽ ảnh hưởng tới khối lượng hàng hoá bán ra của doanh nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, chứng tỏ nhu cầu về mặt hàng kinh doanh đã được đáp ứng đầy đủ, việc tăng khối lượng hàng hoá bán ra là hết sức khó khăn - điều này ảnh hưởng bất lợi tới yêu cầu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu chứng tỏ mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp đang được người tiêu dùng quan tâm và ưa thích - nói cách khác doanh nghiệp chưa đáp ứng được hết nhu cầu thị trường, lúc này doanh nghiệp dễ dàng đẩy mạnh hoạt động bán ra để tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Khi nhắc tới thị trường ta không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh bởi cạnh tranh là một quy luật tất yếu của thị trường. Ngày nay mọi doanh nghiệp đều phải đối mặt với vấn đề này. Cạnh tranh trên thị trường luôn ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, do đó nó tác động lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Vì thế, doanh nghiệp cần nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để có thể xác định vị thế của mình trên thị trường, từ đó xây dựng một chiến lược cạnh tranh đúng đắn, phương thức cạnh tranh có lợi nhất để thu được hiệu quả kinh doanh cao nhất tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thứ hai là giá cả hàng hoá tiêu thụ: giá bán tác động đến khối lượng hàng hoá và do đó tác động đến doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Về nguyên tắc theo quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu khi giá giảm thì mức tiêu thụ tăng và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường giá cả hàng hoá nhất trí với giá trị và dao động theo quy luật cung cầu. Doanh nghiệp không thể kiểm soát được mức giá trên thị trường. Lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không bị giảm nếu mức giảm giá bán nhỏ hơn mức tăng khối lượng hàng bán và doanh thu vượt quá điểm hoà vốn hay mức tăng của giá bán lớn hơn mức giảm của khối lượng hàng bán. Thứ ba là chính sách kinh tế của Nhà nước: vai trò chủ đạo của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng bằng chính sách, luật lệ và các công cụ tài chính. Cụ thể Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động của mọi doanh nghiệp, đồng thời thông qua các chính sách thuế Nhà nước thực hiên tốt công việc điều tiết vĩ mô của mình. Tóm lại, thuế và các chính sách kinh tế khác của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá dịch vụ trên thị trường… và vì vậy nó tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra, sự biến động của giá cả tiền tệ, nhân tố chất lượng hàng hoá (đối với doanh nghiệp chỉ hoạt động kinh doanh thuần tuý) cũng là nhân tố khách quan ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.2 Các nhân tố chủ quan: Thứ nhất là nhân tố con người: có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đăc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là nhân tố quan trọng tạo ra lợi nhuận. Chỉ trên tinh thần hăng say lao động , phát huy hết sức sáng tạo và tâm huyết của mình thì năng suất lao động của người lao động mới được nâng cao - từ đó nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Khoa học phát triển mạnh mẽ đã tạo ra nhiều máy móc góp phần giải phóng sức lao động song không vì thế mà vai trò của con người giảm đi mà càng khẳng định sự cần thiết của đội ngũ cán bộ có ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đặc biệt là trình độ quản lý. Thứ hai là nhân tố chất lượng và khối lượng hàng hoá tiêu thụ: khối lượng hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp thương mại bởi: "Doanh thu = SLHH tiêu thụ * giá bán ". Do đó khi các yếu tố khác không đổi thì khối lượng hàng hoá tiêu thụ tăng, doanh thu sẽ tăng kéo theo lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại. Như vậy, khối lượng hàng hoá tiêu thụ thông qua doanh thu ảnh hưởng gián tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì chất lượng sản phẩm sản xuất ra, còn đối với doanh nghiệp chỉ tiên hành hoạt động kinh doanh thuần tuý thì chất lượng dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra trong bán hàng là nhân tố chủ quan tác động rất lớn đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ - vì vậy ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ba là nhân tố kết cấu hàng hoá tiêu thụ: trong nền kinh tế thị trường để nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm rủi ro trong kinh doanh các doanh nghiệp thường kinh doanh nhiều loại hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên giá cả, tốc độ tiệu thụ, mức độ phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của các loại hàng hoá khác nhau là khác nhau. Từ đó cho thấy cơ cấu mặt hàng kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận. Do vậy, nếu doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm, đưa ra kết cấu hàng hoá hợp lý sẽ tránh được tình trạng ứ đọng khi khối lượng hàng hoá quá lớn so với mức cầu của thị trường hoặc có thể bỏ lỡ cơ hội tốt trong kinh doanh khi nhu cầu của thị trường lớn nhưng doanh nghiệp lại dự trữ quá ít. Thứ tư là khả năng về vốn: vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp nào có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế trong kinh doanh. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến trang thiết bị máy móc kỹ thuật, mở rộng thị trường từ đó tạo điều kiện cho việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. 3. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp Không ngừng nâng cao lợi nhuận là mục tiêu mà các doanh nghiệp luôn hướng tới trong sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ mục tiêu đó, trong kinh doanh các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những giải pháp tối ưu để phát huy một cách tốt nhất lợi thế của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp khác nhau có lợi đặc điểm kinh doanh khác nhau nên các giải pháp cụ thể sẽ không giống nhau. Tuy nhiên dưới góc độ lý luận chúng ta có thể đề cập đến một số giải pháp mang tính chất chung như sau: 3.1 Xây dựng phương án kinh doanh phù hợp Xây dựng phương án kinh doanh phù hợp là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Xây dựng phương án kinh doanh đúng đắn sẽ làm doanh nghiệp tốn ít công sức mà vẫn thu được nhiều kết quả, ngược lại xây dựng phương án sai không hợp lý sẽ dẫn đến thua lỗ, thậm chí phá sản. Do vậy phải xây dựng phương án kinh doanh một cách thận trọng, khoa học và chính xác. Vấn đề đặt ra trong việc xây dựng phương án kinh doanh phù hợp là phương án phải khả thi, phù hợp với tình hình thực tế, khai thác hết thế mạnh tiềm năng của doanh nghiệp mình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thu về lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. 3.2 Phấn đấu tăng năng suất lao động Tăng năng suất lao động là tăng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Để tăng năng suất lao động cần thực hiện các biện pháp: Cải tiến đổi mới trang thiết bị cho phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường về chất lượng sản phẩm . Nâng cao hiệu suốt sử dụng máy móc thiết bị, sử dụng hết công suất của máy nhằm giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm Tổ chưc sắp xếp lao động một cách hợp lý,đảm bảo đúng người, đúng việc, có biện pháp khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động . 3.3 Tiết kiêm chi phí, giá thành sản phẩm Đây là biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, bởi mối quan hệ giữa chi phí và lợi nhuận là mối quan hệ tỷ lệ nghịch, nếu giảm chi phí thì lợi nhuận tăng và ngược lại,chi phí doanh nghiệp tăng thì lợi nhuận lợi nhuận giảm và ngược lại. Chi phí doanh nghiệp bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp bao gồm:chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung đó là những khoản chi phí bỏ trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh do đó chúng ta không thể cắt giảm khoản chi phí nào mà phải giảm định mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm . Chi phí gián tiếp bao gồm: chi phí khấu hao tài sản cố định,tiền lương công nhân gián tiếp, chi phí văn phòng tiếp khách…các khoản chi phí này không liên quan trực tiếp tới quá trình tạo ra sản phẩm, vì vậy phải giảm tỷ trọng của nó trong tổng chi phí như tinh giảm bộ máy quản lý, có kế hoạch khấu hao tài sản cố định và định mức sử dụng chúng… Ngoài ra tiết kiệm chi phí còn tạo điều kiện để hạ thấp giá thành sản phẩm,từ đó giảm giá bán, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường mà vẫn đảm bảo được mức lãi mong muốn Như vậy nếu giá bán và mức thuế đã xác định thì lợi nhuận đơn vị sẽ tăng lên hay giảm đi là do giá thành sản phẩm quyết định. Bởi vậy để tăng lợi nhuận các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm . 3.4 Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng. hiện nay, cạnh tranh trong cơ chế thị trường ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không những cạnh tranh về giá cả mà chuyển sang cạnh tranh về chất lượng và dịch vụ sau bán hàng như tín dụng, bảo hành,sửa chữa lắp đặt ….đòi hỏi doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề này 3.5 Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý Tổ chức tốt hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh , khâu cung ứng sản phẩm hàng hoá , khai thác tối đa khả năng người lao động sẽ góp phần nâng cao kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tổ chức tốt các phòng ban chức năng và xắp xếp lao động hợp lý đảm bảo sự quản lý của cấp trên đối với cấp dưới và sự kiểm soát giữa các bộ phận với nhau 3.6 Phân phối lợi nhuận hợp lý Thực chất đây là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ dự phòng và tiêu dùng để vừa đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh vừa thoả mãn tiêu dùng hợp lý của người lao động trong doanh nghiệp. Trong trường hợp vốn còn hạn chế thì việc phân phối lợi nhuận cần dành phần lớn cho tích luỹ vì có như vậy mới có điều kiện mở rộng và cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận đồng thời tạo điều kiện tích luỹ vốn nhiều hơn. Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội I. giới thiệu chung về công ty Tên gọi: Công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp se máy Hà Nội Tên giao dịch: LIXEHA Trụ sở :231 Tôn Dức Thắng - Đống Đa- Hà Nội Ngành nghề kinh doanh:sản xuất -xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Giấy phép xuất nhập khẩu số: 051074 1. Quá trình hình thành và phát triển công ty Công ty xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nôi tực thuộc liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội, tiền thân của liên hiệp là nhà máy xe đạp Thống Nhất được thành lập vào nawm 1960 trực thuộc bộ công nghiệp nặng.Trong giai đoạn đầu tiên liên hiệp gồm 3 thành viên: Nhà máy xe đạp Thống Nhất.nhà máy Xuân Hoà và nhà máy tuýp Kim Anh.Sau một thời gian hoạt động đến năm 1978 nhà máy xe đạp Thống Nhất chuyển sang trực thuộc sở công nghiệp Hà Nội ,liên hiệp lúc này gồm có 4 thành viên: Xí nghiệp dụng cụ cơ điện Xí nghiệp gia công và thu mua Xí nghiệp phụ tùng xe đạp Xí nghiệp xe đạp Thống Nhất Tuy nhiên các xí nghiệp thành viên trong liên hiệp không có đủ tư cách pháp nhân để hạch toán độc lập mà chỉ là đơn vị hạch toán nội bộ phụ thuộc vào liên hiệp. Để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất mới, tạo điều kiện hỗ trợ sản xuất và thống nhất quản lý,năm 1989 liên hiệp đổi tên từ "Liên hiệp xe đạp Hà Nội" thành "Liên hiệp xe đạp xe máy Hà Nội" gọi tắt là LIXEHA. Liên hiệp được thành lập dựa trên nguyên tắc tự nguyện đối với các thành viên và lúc này liên hiệp có thêm nhiệm vụ sản xuất phu tùng xe máy và lắp ráp xe máy. Đến năm 1995 công ty đã xác định được nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất và xuất nhập khẩu các sản phẩm tiêu thụ theo yêu cầu của thị trường và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, công ty đã thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm như các mặt hàng gia dụng nội thất văn phòng….Vì vậy theo chỉ thị 388/CP của thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp lạo các doanh nghiệp nhà nước và theo quyết định số 512/QD-UB của UBNN thành phố Hà Nội ngày 14/03/1995 công ty đã được thành lập và đổi tên thành công ty SX - XNK xe đạp xe máy Hà Nội có giấy phép kinh doanh số 100647 ngày 01/04/1995 và giấy phép XNK số2051047 2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty. 1.1. Chức năng của công ty. Là một doanh nghiệp nhà nước được tách ra từ bộ phận kinh doanh thuộc văn phòng liên hiệp xí nghiệp xe đạp xe máy Hà Nội, cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, công ty sản xuất xuất nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội thực hiện chế độ hạch toán kinh tế với các chức năng chủ yếu sau: -tổ chức kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng với mặt hàng kinh doanh chính là xe đạp xe máy và những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu cao -thực hiện sản xuất, gia công liên kết với các xí nghiệp sản xuất xe đạp xe máy khác để tạo nguồn kinh doanh phù hợp với nhu cầu trên thị trường - Tiếp thu công nghệ tiên tiến và hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, lắp ráp, xe máy, góp phần cải tiến nâng cao trình độ của công nhân. 2.2 nhiệm vụ của công ty Theo QĐ số 521/QĐ-UB ngày 14/3/1995 về việc thành lập lại doanh nghiệp và dựa vào giấy phép kinh doanh thì công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội có nhiệm vụ: - Sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu xe đạp xe máy và phụ tùng, đồ nồi thất văn phòng, gia đình, kinh doanh vật tư tổng hợp -Được cho thuê văn phòng đại diện, nhà khách khách sạn và dịch vụdu lịch -Được liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh, làm đại lý,mở chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của liên hiệp và các sản phẩm liên doanh 2.3 trách nhiệm và quyền hạn của công ty 2.3.1 trách nhiệm Phải thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch do Nhà nước giao cho Phải bảo toàn tăng trưởng và phát triển được vốn do Nhà nước giao Thực hiện việc nộp thuế đầy đủ theo quy định Thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ , chính sách đối với người lao động theo chế độ hiện hành của nhà nước , thành phố Chấp hành các quyết định về văn minh thương nghiệp, trật tự an toàn xã hội, vệ sinh môi trường do nhà nước,thành phố quy định. Quyền hạn Công ty có quyền tự chủ trong việc ký kết các hoạt động kinh tế với các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp của nhà nước Việt Nam quy định theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi Công ty được phép xuất khẩu các sản phẩm ,hàng hoá và được nhập khẩu hàng hoá thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mình theo đúng qui định của nhà nước Công ty được quyền tham dự các hội chợ kinh tế trong và ngoài nước về các sản phẩm xe đạp. Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính 3.1 cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh Công ty sản xuất-xuât nhập khẩu xe đạp xe máy Hà Nội được thành trên cơ sở bộ máy văn phòng liên hiệp. Vì vậy khối quản lý của công ty vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý công ty kiêm quản lý liên hiệp và có cơ cấu quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Tổng Giám đốc Phó Giám đốc kinh doanh Phó Giám đốc kỹ thuật Phòng tổng hợp P. kỹ thuật và đầu tư Phòng kế toán P. nhập khẩu P. kinh doanh vật tư P. kinh doanh xe máy nội thất Cửa hàng sản xuất kinh doanh dịch vụ Bộ máy quản lý của công ty bao gồm:Ban giám đốc, 3 phòng ban và 5đơn vị trực thuộc a. Ban giám đốc Có nhiệm vụ điều hành quản lý toàn bộ hoạt động của công ty và của liên hiệp, chịu trách nhiệm trước liên hiệp nhà nước và các cơ quan quản lý cấp trên trong việc thống nhất sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, vật tư hàng hoá,lao động. Đứng đầu ban giám đốc là giám đốc công ty kiêm luôn giám đốc liên hiệp là đại diện pháp nhân cho toàn công ty điêù hành hoạt động công ty theo hai phương pháp: Trực tiếp và thông qua hai phó giám đốc b. Các phòng ban - Phòng tổng hợp: Có chức năng tham mưa, đề đạt các yêu cầu của cán bộ công nhân viên trong công ty tới các ban lãnh đạo. Có nhiệm vụ giải quyết các mối quan hệ đối nội và đối ngoại tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh, làm thủ tục cho đoàn đi nước ngoài khảo sát và ký hợp đồng, đánh máy in ấn tài liệu, giải quyết các thủ tục hành chính phục vụ quản lý và các chế độ chính sách. - Phòng kinh tế: Thực hiện chức năng tài chính kế toán, thống kê kế hoạch của công ty và toàn liên hiệp Có nhiệm vụ huy động vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất xuất nhập khẩu, kiểm tra thanh quyết toán đảm bảo cho đồng vốn được bảo toàn, giúp cho giám đốc biết được tình hình công ty. -Phòng kỹ thuật: Có chức năng đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý chất lượng sản phẩm Có nhiệm vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, phối hợp với các phòng và các đơn vị kinh doanh để kiểm tra và đánh giá hàng tồn đọng để có biện pháp giải quyết kịp thời c. Các đơn vị kinh doanh hạch toán nội bộ thuộc công ty Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu xe đạp, phụ tùng xe đạp là chủ yếu và có nhiệm vụ tổ chức, khai thác hàng xuất nhập khẩu (Phòng này chủ yếu thực hiện các hoạt động bán buôn , đại lý uỷ thác không có bán lẻ ) Phòng kinh doanh vật tư: địa điểm kinh doanh tại 181 Nguyễn Lương Bằng-Đống Đa -Hà Nội .Phòng được nhà nước cấp hạn ngạch (quota) hàng năm để nhập nguyên chiếc, linh kiên xe máy CKD và lắp ráp tại xưởng, đồng thời nhập các thiết bị văn phòng, nội thất gia đình và làm đầu mối tiêu thụ vật tư phía bắc của LIXEHA Cửa hàng sản xuất kinh doanh dịch vụ:Địa điểm kinh doanh tại 181 Nguyễn Lương Bằng Đống Đa-Hà Nội.Chuyên sản xuất kinh doanh xe đạp, phụ tùng xe đạp và các sản phẩm cơ khí tiêu dùng, liên doanh liên kết để sản xuất các sản phẩm xe đạp , làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức kinh tế trong nước( chủ yếu thực hiện phương thức bán lẻ) Phòng kinh doanh xe máy nội thất:Đơn vị này chuyên kinh doanh các loại xe máy, phụ tùng, hàng nội thất, tổ chức lắp ráp xe đạp-xe máy, dịch vụ sửa chữa thay thế bảo dưỡng bảo hành xe máy, sửa chữa trang thiết bị phục vụ sản xuất, liên doanh liên kết sản xuất những sản phẩm xe đạp phục vụ nhu cầu tiêu dùng (chủ yếu thực hiện hoạt động bán buôn, bán đại lý, uỷ thác, không bán lẻ) 3.2 Tổ chức bộ máy quản lý tài chính của công ty Tổ chức khoa học và hợp lý bộ máy quản lý tài chính của công ty là điều kiện cần thiết để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời đảm bảo việc quản lý tài sản được tiến hành chặt chẽ, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, phát huy đầy đủ vai trò của hạch toán kế toán trong quản lý kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp. Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của công ty Ban Giám đốc Kế toán trưởng Kế toán tài sản cố định kiêm kế toán thanh toán Kế toán tổng hợp Kế toán với Ngân hàng kiêm thủ quỹ Bộ phận kế toán các đơn vị trực thuộc Tổ chức bộ máy kế toán của công ty bao gồm: + Phòng kế toán của công ty kiêm kế toán liên hiệp ( phòng kinh tế): hoạt động kế toán của công ty là chủ yếu với nhiệm vụ cung cấp đầy đủ chính xác các thông tin về tình hình và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh, phục vụ cho công tác chỉ đạo và quản lý kinh doanh của giám đốc công ty. Phòng gồm 4 người: Đứng đầu là kế toán trưởng: là người điều hành chung mọi công việc trong phòng, chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về công tác kế toán, thống kê, hạch toán kinh tế, lập kế hoạch tài chính, thực hiện đầy đủ các chức năng nhiệm vụ của kế toán trưởng chấp hành tốt các quy định của nhà nước, công ty. Dưới kế toán trưởng là các kế toán viên thực hiện các nhiệm chuyên trách: Kế toán tổng hợp: có nhiệm vụ tổng hợp các số liệu của các đơn vị nội bộ gửi lên hàng tháng, quý vào các sổ cái theo dõi và kiểm soát tình hình tài chính nội bộ của công ty, tính thuế, công nợ hàng tháng để nộp thanh toán và giúp kế toán trưởng lập các bản báo cáo quyết toán. Kế toán tài sản cố định kiêm kế toán thanh toán: có nhiệm vụ xem xét, tính, trích lập quỹ khấu hao tài sản cố định. Đồng thời căn cứ vào chứng từ gốc đã được giám đốc duyệt để viết phiếu thu chi, phản ánh số hiện có, tình hình tăng, giảm của các loại vốn bằng tiền của công ty. Theo dõi các khoản tạm ứng, tình hình biến động của quỹ quản lý công ty và liên hiệp. Kế toán các khoản tiền vay, tiền gửi ngân hàng kiêm thủ quỹ: Có nhiệm vụ quản lý quỹ, quản lý việc thu chi và lập báo cáo các quỹ. Theo dõi sự biến động của tiền gửi ngân hàng, hoàn thành các thủ tục để công ty vay tiền ngân hàng. Để phù hợp với quy mô, đặc điểm tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh công ty áp dụng mô hình tổ chức bộ máy vừa tập trung vừa phân tán. Kế toán của các đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập phản ánh chi tiết các hoạt động mua bán hàng hoá, sau đó định kỳ gửi báo cáo và bảng cân đối phát sinh theo quý của mình về phòng kinh tế để bộ phận kế toán tổng hợp số liệu cho cả công ty. Năm đơn vị kinh doanh nội bộ được phân cấp hạch toán nội, riêng phòng kinh doanh vật tư và xuất nhập khẩu có tài khoản phụ. Các đơn vị kinh doanh nội bộ được giao kế hoạch sản xuất kinh doanh, tiền lương nhân lực, vốn kinh doanh , tự ký kết hợp đồng mua bán, duyệt thu, duyệt chi và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh trước giám đốc công ty. Riêng việc vay trả ngân hàng và các khoản nộp ngân sách phải thông qua phòng ngân sách của công ty. Hiện nay công ty đã đưa máy vi tính vào h ỗ trợ một số hoạt động như: lập bảng biểu tổng hợp,lên các báo cáo kế toán …Với bộ máy kế toán gọn nhẹ, tổ chức khoa học và hợp lý, đảm bảo sự chỉ đạo tập chung của kế toán trưởng, với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, xử lý thông tin,công tác kế toán của công ty đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý, lập kế hoạch kinh doanh của công ty Công ty áp dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ giúp cho số lượng ghi chép của kinh tế giảm xuống rất nhiều do quá trình ghi sổ trùng lặp, cung cấp thông tin kịp thời cho việc quản lý và lập báo cáo tài chính, thuận lợi cho việc phân công công tác, chuyên môn hoá cán bộ kế toán. Tuy vậy kết cấu sổ khá phức tạp đã gây trở ngại rất nhiều cho công ty trong việc có ý định áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán. Hiện nay công ty đang nghiên cứu mẫu sổ vừa phù hợp với chế độ kế toán, vừa phù hợp với công việc làm kế toán trên máy vi tính để sớm máy tính hoá được hoạt động kế toán góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. II. tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 1. Tình hình sử dụng tài và nguồn vốn của công ty Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài sức lao động các doanh nghiệp còn cần có tư liệu lao độngvà đối tượng lao động-mà nếu xét về hình thái hiện vật đó là các tài sản cố định và tài sản lưu động còn nếu xét về hình thái giá trị được gọi là vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính gắn liền với sản xuất hàng hoá góp phần đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp . Do vậy quản lý, sử dụng vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp. Để có thể nhận xét đúng đắn về tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty trong những năm qua tài sản lập bảng cơ cấu tài sản và nguồn vốn để không những có thể thấy được cơ cấu tài sản, nguồn vốn mà còn theo dõi được sự thay đổi của các khoản mục. 1.1. Tình hình sử dụng tài sản Để thấy được doanh nghiệp sử dụng tài sản như thế nào tài sản sử dụng biểu cơ cấu tài sản Biểu : Cơ cấu tài sản Tài sản Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền tỷ lệ I. TSLĐ và ĐTNH Tiền Các khoản ĐTTCNH Các khoản phải thu Hàng tồn kho Tài sản lưu động khác Chi sự nghiệp II. TSCĐ và ĐTDH TSCĐ Các khoản đầu tư dài hạn 3. CPXDCB dỡ dang 19.562 1209 9236 6428 1055 1632 2177 2177 90 6,2 47 33 5,4 8,3 10 100 19.495 1132 5004 4235 7652 1472 2164 2118 46 90 5,8 25,6 22 39 7,6 10 98 2 -67 -77 -4232 -2193 6597 -160 -13 -59 -0,3 -6,4 -46 -34 625 -10 -0,4 -3 Tổng tài sản 21737 100 21658 100 -79 -0,4 Qua bảng trên ta thấy so với năm 2000 tổng tài sản của công ty giảm 79 (tr đồng) ứng với tỷ lệ giảm là 0.4%, số giảm nói trên phản ánh quy mô tài sản của công ty có sự giảm sút. Nguyên nhân chíng của sự giảm quy mô tài sản là do tài sản lưu động giảm là chủ yếu: 67 (tr đồng) đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 0.3%. Thực ra so với số giảm 67 (tr đồng) của tài sản cố định và 79 (tr đồng) của tổng tài sản là không đáng kể nhưng nó chứng tỏ trong năm doanh nghiệp chưa có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh. Nhận thấy là tài sản lưu động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của công ty ( khoảng 90 % )từ đó thấy được rằng sự biến động của tài sản lưu động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đi sâu vào nghiên cứu chi tiết ta thấy các khoản phải thu năm 2001 giảm mạnh so với năm 2000 với số giảm là 4232 (tr đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm là 46 %, đây là biểu hiên tích cực trong công tác thanh toán của doanh nghiệp. Hàng tồn kho năm 2001 giảm 2193 (tr đồng) so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm là 34%, đó cũng là dấu hiệu tốt nhưng cần phải xem xét hàng tồn kho được giải phóng là nhờ có sự biến động thuận lợi của thị trường hay là nỗ lực của công ty trong công tác này Tuy nhiên, nhìn vào khoản mục vốn bằng tiền năm 2001 lại giảm so với năm 2000 là 77 (tr đồng) - tỷ lệ giảm là 6.4 %. Vậy tại sao hàng tồn kho được giải phóng nhiều, các khoản phải thu được thu hồi rất tốt nhưng vốn bằng tiền lại giảm. Điều này có thể được lý giải bởi sự tăng của tài sản lưu động khác là khá lớn: 6597 (tr đồng) tăng 625 % so với năm 2000- cũng có thể công ty đang chuyển hướng đầu tư nhằm thu được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến ở phần sau. Xét về tài sản cố định và đầu tư dài hạn nhìn chung có sự biến động nhưng không đáng kể. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn chỉ chiếm khoảng 10 % trong tổng tài sản và năm 2001 lại giảm so với năm 2000. Trong khoản mục này tài sản cố định chiếm tỷ trọng chủ yếu, trong đó tài sản cố định hữu hình tăng 150 (tr đồng) từ 4229 (tr đồng) lên 4379 (tr đồng) năm 2001, điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã quan tâm đến đầu tư mua sắm tài sản cố định mới. Cụ thể doanh nghiệp đã mua sắm được hai dây chuyền đồ gá, xe máy hàn khung và một máy cắt tôn. Tuy nhiên tổng tài sản cố định vẫn giảm 59 (tr đồng) từ 2177 (tr đồng) năm 2000 xuống 2118 (tr đồng) năm 2001,lý do là nhà cũ 231 Tôn Đức Thắng phá dỡ, đã khấu hao hết, xây dựng mới. Riêng năm 2001 doanh nghiệp mới có chi phí xây dựng cơ bản dở dang là 46 (tr đồng) nhưng tài sản cố định lại giảm 59 (tr đồng) chứng tỏ doanh nghiệp cũng đã có quan tâm xây dựng nhà xưởng, cơ sở làm việc, tuy nhiên doanh nghiệp cần chú trọng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0067.doc
Tài liệu liên quan