Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Lời cảm ơn Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo – Th.S Trần Thị Kim Anh – Khoa Quản trị kinh doanh đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian qua. Xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các cô, chú ở Trung tâm thông tin kinh tế BIZIC và Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các cán bộ công tác tại Thư viện WTO - 63 Lý Thái Tổ, Viện nghiên cứu Kinh tế thế giới, Thư viên Trường Đại học Ngoại thương đã cung cấp cho em những tư liệu, tài liệ

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u quý báu. Cảm ơn tất cả bạn bè, người thân đã động viên và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành bài Khoá luận này. Mục Lục Lời mở đầu Qua hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới với cơ chế kinh tế mới – kinh tế thị trường, hơn bao giờ hết, tính tự chủ của doanh nghiệp được đề cao trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Muốn tồn tại và phát triển được, các doanh nghiệp chỉ có một con đường duy nhất đó là kinh doanh năng động, sáng tạo và không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và nâng cao lợi nhuận nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí cốt lõi, là mục tiêu quan trọng mà mỗi doanh nghiệp đều hướng tới. Vì sự phát triển của mình, doanh nghiệp cần phải phát huy tối khả năng và tinh thần tự chủ để từ đó thu được lợi nhuận cao đủ để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Cùng với quá trình phát triển chung của toàn nền kinh tế-xã hội, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang ngày một tỏ rõ vai trò quan trọng và tiềm năng to lớn, bước đầu đã có những đóng góp tích cực vào tổng thu nhập xã hội, giải quyết một số lượng đáng kể công ăn việc làm cho người lao động. Ngoài ra, qua hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn cho phép nền kinh tế tận dụng triệt để và có hiệu quả các nguồn lực xã hội cũng như góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đang gặp phải rất nhiều khó khăn, từ phía chủ quan cũng như khách quan, trong quá trình hoạt động, mà thể hiện rõ nhất là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tình hình thực hiện lợi nhuận nói riêng còn thấp. Do đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”. Bằng phương pháp tổng hợp và phân tích, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, khoá luận này đi vào nghiên cứu và phân tích vị trí, vai trò, thực trạng hoạt động nói chung và cụ thể là tình hình lợi nhuận của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn 1999-2001, từ đó đề xuất những kiến nghị góp phần tăng hiệu quả hoạt động của khu vực này. Trên cơ sở đó, Khoá luận được bố cục như sau: Chương I : Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp Chương II : Tình hình thực hiện lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thời gian qua (1999-2000) Chương III: Một số đề xuất nhằm tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Mặc dù đã rất cố gắng, song do những hạn chế về trình độ, kiến thức của bản thân, và do nguồn số liệu chính thức chưa được đầy đủ, chi tiết nên Khoá luận chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình của các thày giáo, cô giáo cũng như các bạn sinh viên quan tâm tới vấn đề này. Xin chân thành cảm ơn. Hà nội, tháng 12 năm 2002. Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 1. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận Lợi nhuận vốn là một khái niệm rất trừu tượng và có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngay từ thời sơ khai của các quan hệ sản xuất, trao đổi, mua bán hàng hoá, lợi nhuận đã là đề tài nghiên cứu, tranh luận, tìm tòi của nhiều trường phái kinh tế học với mục đích xác định khái niệm này một cách chính xác và rõ ràng. Adam Smith - đại diện tiêu biểu của trường phái kinh tế học cổ điển - là người đầu tiên có những nghiên cứu khá toàn diện về lợi nhuận. Xuất phát từ quan điểm giá trị trao đổi của mọi hàng hoá là do lao động để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, Adam Smith cho rằng nếu lao động để sản xuất ra một sản phẩm nào đó có giá trị càng lớn thì giá trị trao đổi càng lớn. Nhưng ông bác bỏ quan điểm cho rằng giá trị của hàng hoá quy định giá trị trao đổi, rằng trong cấu thành nên giá trị của hàng hoá có tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận của nhà tư bản được sinh ra trong quá trình sản xuất là hình thức biểu hiện khác của giá trị thặng dư - tức là phần giá trị không được trả công - tạo ra. Trên cơ sở đó, Adam Smith cho rằng "lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm lao động", còn khoản khấu trừ thứ nhất là địa tô - tiền trả cho việc sử dụng đất. Kế thừa học thuyết của Adam Smith, David Ricardo đã phân tích và tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong xã hội Tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng giá trị tạo được gồm có hai phần: tiền lương và lợi nhuận. Từ những nghiên cứu của mình, ông đi đến kết luận quan trọng về sự đối kháng giữa hai bộ phận này: khi năng suất lao động tăng lên thì tiền lương giảm đi và lợi nhuận thì tăng. David Ricardo cho rằng lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công. Mặc dù chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư song ông vẫn khẳng định rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Đây là bước tiến bộ của David Ricardo so với Adam Smith. Phát huy học thuyết của hai bậc tiền bối Adam Smith và David Ricardo, Sismondi đi sâu phân tích và đã có những bước tiến bộ mới. Theo ông, lợi nhuận là khoản khấu trừ từ sản phẩm lao động , đó là thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, tai họa kinh tế của giai cấp vô sản. Việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá huỷ những tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp. Dựa vào học thuyết giá trị thặng dư, Karl Marx là người đầu tiên đã phân tích một cách khoa học, sâu sắc, có ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp, địa tô của địa chủ, lợi tức của tiền cho vay,…đều là các hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư. Ông khẳng định: về nguồn gốc, lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra; về bản chất, lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của lao động không được trả lương do nhà tư bản chiếm lấy, là quan hệ nô dịch và bóc lột trong xã hội Tư bản chủ nghĩa. Karl Marx viết: "giá cả sức lao động biểu hiện dưới hình thái lợi nhuận trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa vì mục tiêu lợi nhuận dẫn tới việc trả công có xu hướng giảm sút". Ông đã tóm tắt " tiền công và lợi nhuận tỷ lệ nghịch với nhau, tức là lợi nhuận tăng lên khi mức độ tiền công giảm xuống và giảm xuống theo mức độ tiền công tăng lên, và lợi nhuận tăng lên không phải là tiền công giảm, nhưng tiền công giảm vì lợi nhuận tăng". Sang thế kỷ XX, nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau, song nhìn chung đều nhằm biện hộ cho lợi nhuận, khẳng định sự tồn tại đương nhiên và hợp lý của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Theo A.Marshall thì lợi nhuận là tiền công trả cho năng lực điều hành và tổ chức hoạt động kinh doanh. F.H.Knight trong luận án tiến sỹ bảo vệ năm 1921 của mình đã đưa ra luận thuyết " lợi nhuận là kết quả của sự không chắc chắn, là kết quả của sự khác biệt giữa thu nhập thực tế nhận được và thu nhập mong muốn". Quan điểm của J.Schompeter lại hoàn toàn khác. Ông cho rằng lợi nhuận là kết quả của mọi sự cách tân, cụ thể là sự đổi mới của chức năng sản xuất, của sản phẩm, của công nghệ và phương pháp tổ chức sản xuất,… Như vậy, gần 200 năm sau ngày ra đời của khoa học kinh tế, các nhà lý luận vẫn không thống nhất về cách chứng minh nguồn gốc cũng như sự chiếm hữu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong phạm vi nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp đều hướng tới. Khi tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, người ta đều phải tính đến khoản lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Có thể nói kinh tế thị trường là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, mà ở đó các doanh nghiệp, các cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo cách này hay cách khác cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường để đạt được mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát huy tối đa khả năng và tinh thần tự chủ của mình để tạo ra thu nhập và lợi nhuận vì sự phát triển của chính bản thân mình. 2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không, điều đó phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Bởi vậy lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp. Việc thực hiện tốt lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Lợi nhuận cao hoặc thấp có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận có nghĩa là tình hình kinh doanh nói chung là tốt. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể trang trải các khoản chi phí đã bỏ ra, nhanh chóng thanh toán các khoản tiền vay, lãi vay,… . Từ đó có điều kiện tăng thêm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác lợi nhuận là kết quả cuối cùng của chu trình sản xuất kinh doanh, nó bị ảnh hưởng bởi tất cả các nhân tố trước. Nhưng không phải vì thế mà lợi nhuận là chỉ tiêu không kiểm soát được, thể hiện ở chỗ doanh nghiệp có thể hoạch định trước lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu trong kỳ và hạn chế các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản của doanh nghiệp, là nguồn bổ sung vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu và cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Lợi nhuận là phương tiện để khai thác, tận dụng thế mạnh và tạo điều kiện để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn, đồng thời đảm bảo thu nhập và nâng cao mức sống cho người lao động. Lợi nhuận cao thể hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Trong điều kiện cơ chế quản lý mới, doanh nghiệp thu được lợi nhuận một cách hợp lý, hợp pháp là doanh nghiệp đáp ứng được với môi trường kinh doanh. Tuy lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp, nhưng không vì thế mà doanh nghiệp bỏ qua lợi ích chung của xã hội. Đứng trên góc độ này thì doanh nghiệp phải đề ra những giải pháp tăng lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với lợi nhuận chung của nền kinh tế xã hội. Nói tóm lại, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận là thước đo tổng hợp trình độ quản lý, trình độ tổ chức, chuyên môn của doanh nghiệp. Nhờ có lợi nhuận, doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để Nhà nước tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở hạ tầng, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Lợi nhuận cũng còn là nguồn thu nhập để người lao động tái sản xuất sức lao động, tạo mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp. 3. Lợi nhuận là một mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp Vì sự phát triển bền vững của chính mình, mỗi doanh nghiệp đều phải nỗ lực hài hoà các mục tiêu kinh doanh, trong đó phải kể đến lợi nhuận; chất lượng sản phẩm, dịch vụ; khách hàng; cạnh tranh; đổi mới. Tuỳ từng giai đoạn sản xuất kinh doanh nhất định và có tính đến đặc điểm thị trường, mà doanh nghiệp đưa ra thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu này. Chẳng hạn, khi mới thâm nhập thị trường, muốn sản phẩm của mình có sức thu hút sự chú ý của khách hàng và chấp nhận tình huống xấu là thua lỗ, doanh nghiệp sẽ chú trọng tới mục tiêu khách hàng và mục tiêu chất lượng sản phẩm. Vấn đề hoàn thiện chất lượng sản phẩm sẽ là ưu tiên hàng đầu nhằm tạo được lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của mình, lôi kéo được khách hàng của các doanh nghiệp khác. Đó đã là một thành công lớn, một tiền đề khả quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường. Song hơn hết thảy, lợi nhuận là yếu tố phản ánh tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Và như đã phân tích, lợi nhuận là động lực kinh doanh, là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, đồng thời là đòn bẩy kinh tế lợi hại trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng. Bởi vì, muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả, tức là trước hết phải có lợi nhuận. Có lợi nhuận, các doanh nghiệp mới có tiền đề vật chất để bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh, mở rộng quy mô kinh doanh, hay nói cách khác là để tồn tại và phát triển. Do đó, duy trì một mức độ lợi nhuận kinh doanh hợp lý là cần thiết để giữ được sản xuất ở mức độ cao và cung cấp tài chính cho tăng trưởng kinh tế quốc dân. Lợi nhuận chỉ phát sinh tác động khi nó là quá mức, nghĩa là nó được tăng lên một cách bất hợp lý so với khoản tiền đầu tư và mức rủi ro mà chủ doanh nghiệp phải gánh chịu. Hiện tượng này sẽ chỉ xảy ra trong điều kiện cạnh tranh bị hạn chế. II.Các yếu tố cấu thành lợi nhuận 1. Doanh thu 1.1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ Chỉ tiêu này phản ánh tổng doanh thu bán hàng hoá, thành phẩm và cung cấp dịch trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nó bao gồm toàn bộ số tiền mặt thu được và các khoản phải thu từ khách hàng mua chịu hàng hoá và được xác định ngay tại thời điểm bán hàng. Các khoản giảm trừ: Chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp các khoản được ghi giảm trừ vào tổng doanh thu trong kỳ, bao gồm: các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp phải nộp tương ứng với số doanh thu được xác định kỳ báo cáo. +) Chiết khấu thương mại: Chỉ tiêu này phản ánh tổng số chiết khấu thương mại cho người mua hàng của doanh nghiệp cho số hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã bán phát sinh trong kỳ báo cáo. +) Giảm giá hàng bán : Chỉ tiêu này phản ánh số giảm giá hàng bán cho người mua hàng của doanh nghiệp cho số hàng hoá, thành phẩm đã bán bị kém, mất phẩm chất phát sinh trong kỳ báo cáo. +) Hàng bán bị trả lại : Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá bán của số hàng hoá, thành phẩm đã bán bị trả lại trong kỳ báo cáo. +) Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp, thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp : Chỉ tiêu này phản ánh tổng số thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế xuất khẩu phải nộp, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cho ngân sách nhà nước theo số doanh thu phát sinh trong kỳ báo cáo. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ Chỉ tiêu này phản ánh số doanh thu bán hàng hoá, thành phẩm và cung cấp dịch vụ đã trừ các khoản giảm trừ (chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp ) trong kỳ báo cáo, làm căn cứ tính kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. Doanh thu hoạt động tài chính Chỉ tiêu này phản ánh doanh thu hoạt động tài chính thuần (tổng doanh thu trừ (-) thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp (nếu có) liên quan đến hoạt động khác) phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. 1.3. Thu nhập khác Chỉ tiêu này phản ánh các khoản thu nhập khác (đã trừ thuế GTGT phải nộp tính theo phương pháp trực tiếp) phát sinh trong kỳ báo cáo 2. Chi phí 2.1. Giá vốn hàng bán Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá vốn của hàng hoá, giá thành sản xuất của thành phẩm đã bán, chi phí trực tiếp của các dịch vụ đã cung cấp, chi phí khác được tính vào hoặc ghi giảm giá vốn hàng bán trong kỳ báo cáo. 2.2. Chi phí bán hàng Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí bán hàng phân bổ cho số hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã bán trong kỳ báo cáo. 2.3. Chi phí quản lý doanh nghiệp Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã bán trong kỳ báo cáo. 2.4. Chi phí tài chính Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí tài chính, gồm tiền lãi vay phải trả, chi phí bản quyền, chi phí hoạt động liên doanh,… phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. 2.5. Chi phí khác Chỉ tiêu này phản ánh các khoản chi phí khác. 3. Thuế thu nhập doanh nghiệp Chỉ tiêu này phản ánh tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong kỳ báo cáo. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp 1. Nhóm nhân tố chủ quan a. Năng lực, quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Vốn, lao động và công nghệ là những tiền đề vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo cho việc thực thi các phương án, các kế hoạch kinh doanh, các dự án đầu tư của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có thể tái sản xuất một cách hiệu quả và có điều kiện đổi mới sản phẩm. Vì vậy, đây là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi thế về vốn trong cơ chế ngày nay hết sức quan trọng. Khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghịêp giành được thời cơ trong kinh doanh, có điều kiện để mở rộng thị phần, từ đó có nhiều khả năng tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Cùng với vốn, có thể nói con người luôn đóng vai trò chủ đạo và có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được vai trò then chốt trong việc tạo ra lợi nhuận. Trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cũng như sự nhanh nhạy của người lãnh đạo trong cơ chế thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi với một phương án kinh doanh mềm dẻo sẽ giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tối ưu. Bên cạnh đó trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm trong lao động của cán bộ công nhân viên cũng rất quan trọng, ảnh hưởng tới sự thành công của mỗi doanh nghiệp. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ cao thích ứng với yêu cầu thị trường, doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu suất lao động, từ đó tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận. Công nghệ là một yếu tố có thể khiến doanh nghiệp giành được lợi thế trên thị trường nhưng cũng có thể làm doanh nghiệp bị tụt hậu so với đối thủ cạnh tranh. Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc tiên tiến giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thực tiễn kinh doanh cho thấy, công nghệ chính là nhân tố giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao và lợi nhuận siêu ngạch. b. Giá thành sản phẩm Đây là một nhân tố mang tính chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp, bởi nó chính là kết quả của việc quản lý và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất. Nó có tác động ngịch chiều đến lợi nhuận. Giá thành sản phẩm có thể là giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) thực tế (với doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ), hay trị giá mua của hàng hóa cùng phí thu mua phân bổ cho hàng hóa (với doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa). Khi giá thành sản phẩm tăng lên thì lợi nhuận gộp sẽ giảm xuống, và khi giá thành sản phẩm giảm thì lợi nhuận gộp của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Như thế, giá thành sản phẩm có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lợi nhuận doanh nghiệp, đồng thời cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất, thu mua liên quan đến hàng tiêu thụ thì sẽ làm cho lợi nhuận bán hàng tăng lên và ngược lại. Bên cạnh đó, nếu xem xét chi phí sản xuất với cách phân loại thành chi phí bất biến và chi phí khả biến, trong đó chi phí chi phí bất biến được hiểu là chi phí không thay đổi khi tổng khối lượng sản phẩm thay đổi nhưng chi phí tính cho từng đơn vị sản phẩm lại thay đổi, còn chi phí khả biến là chi phí thay đổi theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra nhưng chi phí cho từng sản phẩm lại thay đổi. Khi đó, khi lượng sản phẩm thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi của tổng chi phí sản xuất, nhưng tương quan về sự thay đổi của hai thành phần của chi phí sản xuất lại không giống nhau. Nhờ đó, trong điều kiện giữ nguyên khối lượng sản phẩm đầu ra nhưng lại giảm chi phí bất biến ở đầu vào thông qua việc sắp xếp lại biên chế, tinh giản bộ phận quản lý, bộ phận phục vụ,... thì chi phí tuyệt đối sẽ giảm và lợi nhuận tăng. Hoặc doanh nghiệp cũng có thể tập trung vào việc đầu tư, tăng cho phí sản xuất ở đầu vào (chi phí khả biến) nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, theo đó giảm tương đối chi phí và cũng cho kết quả là lợi nhuận nhiều hơn. c. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ Đây là nhân tố tích cực, có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến lợi nhuận của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Trong trường hợp giá cả không thay đổi, nếu khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng lên thì lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Ta có: Mức tăng của lợi nhuận Mức tăng doanh thu Tỷ lệ lợi do tăng khối lượng = bán hàng * nhuận thuần hàng hóa tiêu thụ kinh doanh Với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng lên, giảm đi bao nhiêu lần thì lợi nhuận cũng tăng lên hoặc giảm đi bấy nhiêu lần. Việc tăng giảm khối lượng tiêu thụ phản ánh kết quả sản xuất cả về khối lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian, cũng như phản ánh kết quả công tác bán hàng của doanh nghiệp. Như vậy, tác động của nhân tố này chủ yếu phản ánh yếu tố chủ quan trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. d. Chất lượng và giá bán của hàng hóa Trong điều kiện cạnh tranh, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ là nhân tố quan trọng hàng đầu, giữ vai trò quyết định đối với nhân tố khối lượng và giá cả, bởi vì thị trường là nơi quyết định mức doanh thu của doanh nghiệp: chất lượng tạo nên giá trị sử dụng của hàng hóa, dịch vụ mà người mua nhận được. Chất lượng được thể hiện trước hết ở phẩm cấp, kiểu dáng, màu sắc và sự phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Chất lượng phụ thuộc vào người sản xuất và việc mua nguyên vật liệu đầu vào. Nó chính là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Giá bán sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ (xét cả về mặt giá trị và hiện vật), ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện khối lượng hàng hóa tiêu thụ không thay đổi, nếu giá cả hàng hóa tăng lên thì doanh thu bán hàng tăng lên và do đó lợi nhuận đạt được từ hoạt động bán hàng cũng tăng lên và ngược lại, nếu giá cả giảm xuống thì lợi nhuận cũng giảm xuống. Mức tăng lợi nhuận = Mức tăng giá * Khối lượng hàng * Tỷ lệ lợi nhuận do tăng giá hoá tiêu thụ thuần KD Trong thực tiễn kinh doanh, giữa giá cả hàng hóa với khối lượng hàng hóa tiêu thụ và lợi nhuận có mối quan hệ phụ thuộc. Khi giá cả hàng hóa tăng lên, sẽ bị sức ép của thị trường nên khối lượng hàng hóa tiêu thụ có khả năng giảm xuống, bởi vậy tăng giá chưa chắc đã làm tăng doanh thu và lợi nhuận. Nếu giá cả tăng lên mà làm cho khối lượng hàng tiêu thụ giảm nhanh hơn mức tăng của giá thì doanh thu giảm và do đó lợi nhuận cũng giảm xuống. Ngược lại, khi giá cả giảm xuống sẽ khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn, làm cho khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng lên, do đó giảm giá chưa chắc đã làm giảm doanh thu và giảm lợi nhuận. Nếu giảm giá làm cho khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng nhanh hơn mức giảm của giá thì doanh thu bán hàng tăng và lợi nhuận cũng tăng lên. Tóm lại, nhân tố giá bán hàng hóa có thể coi là nhân tố tác động mạnh đến sự thay đổi của lợi nhuận doanh nghiệp. Trường hợp giá cả của một số mặt hàng còn do Nhà nước quy định và trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giá cả tăng hay giảm là do tác động của nhân tố khách quan. Còn do phẩm cấp hàng hóa thay đổi làm giá bán bình quân thay đổi lại là tác động của nhân tố chủ quan. Nói cách khác, trong trường hợp này thì giá là nhân tố chủ quan tác động đến lợi nhuận, còn trong trường hợp khác thì giá bán của hàng hóa lại đóng vai trò làm nhân tố khách quan tác động tới doanh thu và lợi nhuận. e. Phương thức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã. Cùng một loại sản phẩm nhưng lại có rất nhiều hãng khác nhau tiến hành sản xuất. Điều đó làm làm cho môi trường cạnh tranh trên thị trườngângỳ càng trở nên khốc liệt và gay gắt. Trong điều kiện đó, việc các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa là hết sức cần thiết. Doanh nghiệp có thể không ngừng đổi mới hình thức mẫu mã của sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa và áp dụng các biện pháp dịch vụ sau khâu bán. Khi sản phẩm đồng loại của các hãng khác nhau mà giá cả, chất lượng ngang nhau thì hàng hóa nào có dịch vụ sau bán hàng tốt thì ắt hẳn sẽ được khách hàng lựa chọn. Các dịch vụ kèm theo đó không tạo ra lợi nhuận nhưng nó làm tăng khối lượng hàng hóa tiêu thụ, và thông thường, khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng nhanh hơn rất nhiều so với chi phí bỏ ra, do đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. f. Chiến lược kinh doanh, trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp Chiến lược kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi một doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tùy theo mục đích theo đuổi của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn mà lợi nhuận của doanh nghiệp thu được trong giai đoạn đó là nhiều hay ít. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là cạnh tranh mở rộng thị trường (tăng thị phần) thì doanh nghiệp phải chấp nhận mức lợi nhuận thấp, thậm chí còn có thể không có lợi nhuận. Ngược lại khi đã chiếm lĩnh được thị trường thì lợi nhuận sẽ không ngừng tăng lên. Vậy chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó trình độ quản lý doanh nghiệp cũng góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Trước đây với cơ chế quản lý của nền kinh tế bao cấp, các doanh nghiệp làm ăn hầu như không có hiệu quả, thậm chí lỗ năm nay kéo theo lỗ năm kế tiếp .Cơ chế quản lý yếu kém đã làm cho doanh nghiệp không thể hoàn thiện và phát triển được. Nhưng sau thời kỳ quá độ thì các doanh nghiệp bắt đầu hết sức coi trọng vấn đề quản lý trong kinh doanh. Nếu doanh nghiệp có trình độ quản lý kinh tế nói chung và trình độ quản lý vốn và chi phí nói riêng tốt, đây sẽ là một điều kiện quan trọng để giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trình độ tổ chức kinh doanh, sự năng động, sáng tạo của doanh nghiệp bị coi nhẹ hoặc không cần thiết, không được quan tâm, không liên quan tới sự sống còn của doanh nghiệp . Ngược lại, trong điều kiện kinh tế thị trường, nó giữ một vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trình độ tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu bao gồm hai nội dung cơ bản sau : - Các phương án, kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp có tính khả thi hay không, có phù hợp với thị trường hay không, có hiệu quả hay không, và hiệu quả cao hay thấp. Một phương án, kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư mà không phù hợp với thực tế của thị trường, không phù hợp với doanh nghiệp, không mang tính khả thi hoặc hiệu quả thấp kém ... có thể dẫn đến sự suy thoái, thậm chí là sự tiêu vong của doanh nghiệp . - Việc thực thi phương án, kế hoạch kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp phải được tổ chức một cách khoa học và thực tiễn. Thực hiện kế hoạch môt cách máy móc, thụ động có thể dẫn tới hậu quả ngoài mong muốn của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp liên quan tới các nội dung cơ bản về khai thác sử dụng các nguồn vốn, về việc tổ chức thanh toán ... đều ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và tất yếu cũng liên quan tới lợi nhuận của doanh nghiệp. g. Vị thế doanh nghiệp trên thị trường Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, đối với tâm lý người tiêu dùng mà xét, thì khi sản phẩm giống nhau về mẫu mã, chủng loại thì người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp có uy tín lớn hơn. Một doanh nghiệp có uy tín lớn trên thị trường bao giờ cũng có vị thế cạnh tranh cao hơn, do đó sẽ bán được nhiều hàng hơn, thậm chí còn có thể bán với giá cao hơn. Khi đó tổng doanh thu tăng lên và lợi nhuận cũng tăng lên tương ứng trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Thực chất, đây là kết quả gặt hái được từ chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ. 2. Nhóm nhân tố mang tính khách quan a. Cung - cầu và sự cạnh tranh trên thị trường Thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp vì doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường là nhằm phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lời. Sự biến động của cung và cầu trên thị trường ảnh hưởng đến khối lượng hàng hóa bán ra của doanh nghiệp. Cung - cầu cho doanh nghiệp biết những mặt hàng cần thiết với khối lượng và chất lượng nhất định, thời điểm đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Cung cầu xác định mức giá cho mỗi loại hàng hóa và giúp các doanh nghiệp có định hướng khi quyết định tung ra thị trường sản phẩm của mình. Với giá thành hợp lý, số lượng, chất lượng và mẫu mã đặc biệt hợp thị hiếu thì sản phẩm sẽ có sức cạnh tranh rất lớn và dễ được người tiêu dùng chấp nhận. Nếu cầu về hàng hóa trên thị trường lớn hơn mức cung, doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế để tăng giá, thu lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh và mở rộng sản xuất kinh doanh nếu cần, hoặc chuyển sang lĩnh vực đầu tư khác. Ngược lại, nếu cầu nhỏ hơn cung, doanh nghiệp nên kích thích tiêu thụ hàng hóa bằng các biện pháp như khuyến mại, giảm giá,... để thu hồi vốn và tất nhiên lợi nhuận thu được trong trường hợp này không cao. Thông thường thì các doanh nghiệp bao giờ cũng thu hồi vốn trong giai đoạn đầu khi tung hàng hóa ra thị trường bằng chính sách giá cao, sau đó tìm mọi cách tăng khối lượng hàng bán ra nhằm thu thêm lợi nhuận. Bởi vậy việc nắm bắt được quy luật cung cầu và tận dụng nó có hiệu quả luôn được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Khi nói tới thị trường ta không thể không nói đến cạnh tranh bởi nó là quy luật tất yếu khách quan. Mọi doanh nghiệp có mặt trên thị trường ngày nay đều phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về thị phần, chất lượng hàng hóa, uy tín trên thị trường,... Nhà nước đã và đang tạo hành lang pháp lý thông thoáng, giao thương giữa các ngành, các vùng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy tối đa tiềm lực sẵn có. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải có s._.ản phẩm đưa ra thị trường đúng thời điểm, cạnh tranh được với sản phẩm của các doanh nghiệp khác - những mặt hàng cả ở trong nước sản xuất và những mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Các doanh nghiệp phải nghiên cứu và hiểu rõ đối thủ cạnh tranh, biết vị thế mình đang đứng, những ưu nhược điểm đang có để đưa ra những chiến lược, sách lược kinh doanh trong từng giai đoạn nhằm đạt hiệu quả cao nhất mà vẫn nằm trong khuôn khổ một thị trường cạnh tranh lành mạnh. b. Chính sách của Nhà nước Vai trò chủ đạo của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước định hướng, khuyến khích hay hạn chế hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng bằng các chính sách, luật lệ và công cụ tài chính, trong đó chính sách thuế và chính sách lãi suất là những công cụ giúp Nhà nước thực hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô của mình. Thuế, lãi suất và các chính sách kinh tế khác của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và sự vận động của toàn nền kinh tế. Vì vậy nó tác động rất lớn đến lợi nhuận. Đây là nhân tố không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp một cách khách quan. Doanh nghiệp chỉ có thể nắm bắt các chủ trương chính sách của Nhà nước để chủ động trong sản xuất kinh doanh, có các chiến lược kinh doanh phù hợp. c. Tác động của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập Chúng ta đang ở những năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới với những biến động to lớn trên tất cả các mặt của quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế quốc tế, được dặc trưng rõ nét bởi một xu thế bao trùm-xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, Việt nam đã triển khai những nỗ lực quan trọng để hội nhập vào xu thế chung này. Đây vừa là một thách thức, vừa là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt nam thường sử dụng công nghệ kém hiện đại hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài và do vậy thường phải sử dụng nhiều nhân công hơn cho một đơn vị sản phẩm. Khi thực hiện mở cửa thị trường, hàng hoá nhập khẩu sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường trong nước. Người tiêu dùng có cơ hội mua hàng với giá thấp hơn, có nhiều sự lựa chọn vời mẫu mã đa dạng hơn. Các doanh nghiệp Việt nam nếu tham gia vào các ngành sản xuất cũng có cơ hội tương tự như vậy để lựa chọn vật liệu sơ chế và các đầu vào trực tiếp khác. Nhờ đó, giá thành sản phẩm sẽ giảm. Bên cạnh đó, mở cửa thương mại gắn liền với tiến trình toàn cầu hoá bởi nó tạo ra sự gắn kết giữa nền kinh tế trong nước với thị trường toàn cầu cả về đầu vào lẫn đầu ra. Nó tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước thành viên trong liên minh với các nước, các khu vực trên thế giới. Nhờ đó, tiềm năng kinh tế của các nước được khai thác một cách hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi quốc gia có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia khác, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Đây là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp khai thác, tận dụng những lợi ích mà toàn cầu hoá đem lại nhằm cắt giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới trình độ công nghệ, trình độ quản lý, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đồng thời, toàn cầu hoá và hội nhập cũng tạo ra những thách thức lớn đối với mỗi quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, về các mặt như năng lực cạnh tranh, cơ chế chính sách, nguy cơ tụt hậu. Chương II Tình hình thực hiện lợi nhuận trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thời gian qua (1999 - 2001) I. Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 1. Khái niệm Chủ thể quan trọng nhất của mỗi một nền kinh tế chính là các doanh nghiệp. Bên cạnh các doanh nghiệp, các xí nghiệp lớn về quy mô, về số lượng vốn, về số lượng công nhân, thì không thể không nhắc đến các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt có không ít nền kinh tế phát triển và hưng thịnh dựa vào sự phát triển và hưng thịnh của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vai trò to lớn của các doanh nghiệp này là không thể phủ nhận được, song để có được sự thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vẫn đang là mục tiêu cố gắng của các nước trên thế giới Vào những năm 1970, Ngân hàng thế giới đã tổng kết ở 75 quốc gia có tới 50 định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1997, tại hội nghị quốc tế về lao động, các chuyên gia kinh tế đã đưa ra định nghĩa rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có từ 100 đến 499 lao động, còn các doanh nghiệp có từ 500 lao động trở lên là các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa đạt được sự thống nhất về khái niệm thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ và mỗi quốc gia hầu như vẫn duy trì quan niệm riêng dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau như vốn, số lao động, doanh thu và nhiều khi còn dựa vào cả ngành nghề sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để phân loại. 1.1. Khái niệm doanh nghiệp của một số quốc gia Châu á - ở Đài Loan, Chính phủ Đài Loan quy định doanh nghiệp có lượng vốn dưới 4 triệu đôla Đài loan ( khoảng 1.6 triệu USD ) là doanh nghiệp vừa và nhỏ. - ở Hàn Quốc, doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định trên cơ sở tổng hợp 3 tiêu thức là vốn, số lao động và doanh thu, đồng thời dựa vào ngành nghề lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, theo đó: + Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và xây dựng có 300 lao động và có tổng số vốn dưới 600.000 USD là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó doanh nghiệp có dưới 20 lao động là doanh nghiệp nhỏ; + Doanh nghiệp thương mại có dưới 20 lao động, doanh thu dưới 500.000 USD (đối với doanh nghiệp bán buôn) và dưới 250.000 USD (đối với doanh nghiệp bán lẻ) là doanh nghiệp vừa và nhỏ. - ở Thái Lan, Chính phủ quan tâm duy nhất tới tiêu thức số lao động, theo đó doanh nghiệp có quy mô từ 50 đến 200 lao động là doanh nghiệp vừa, dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ. - ở Nhật Bản, vấn đề định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và các vấn đề khác về doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung được đặc biệt quan tâm và đã đựợc pháp quy hoá rất chặt chẽ. Tiêu chí về doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định rõ trong văn bản “ Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ ” Bảng 1: Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản Ngành Số lượng công nhân và vốn Doanh nghiệp nhỏ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Qui định năm 1963 Sửa đổi năm 1973 Mỏ và chế tạo ,vận tải ,xây dựng 300 người và thấp hơn 50 triệu yên và thấp hơn 300 người và thấp hơn 100 triệu yên và thấp hơn 20 người và thấp hơn Bán buôn 30 người và thấp hơn 10 triệu yên và thấp hơn 100 người và thấp hơn 30 triệu yên và thấp hơn 20 người và thấp hơn Bán lẻ và dịch vụ 30 người và thấp hơn 10 triệu yên và thấp hơn 50 người và thấp hơn 10 triệu yên và thấp hơn 20 người và thấp hơn ( Nguồn: “ Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản: Khả năng hợp tác với Việt Nam ”, NXB Khoa học xã hội, 1997 ) Như vậy, Nhật Bản đã quan tâm tới hai tiêu chí là số lao động và vốn, đồng thời có xét đến tính chất sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, ở một số quốc gia như Philippin lại áp dụng tiêu chí số lao động và giá trị tài sản cố định, ở Inđônnêxia lại lấy tiêu chí vốn bình quân cho một lao động để xem xét. Tóm lại, tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước có khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước cũng như chính sách của từng nước trong từng thời kỳ. 1.2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Nước ta là một nước kém phát triển, sản xuất nhỏ là chủ yếu nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Song thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta vẫn còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Do đó, để phục vụ cho công tác của mình, một số cơ quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chủ động đưa ra các tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như : - Theo Ngân hàng Công Thương Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có số lao động trung bình hàng năm dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu bình quân tháng dưới 20 tỷ đồng ; - Theo trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 300 lao động và vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng ; - Theo SMEDF – Quỹ Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ do EU tài trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu là doanh nghiệp có số vốn đăng ký từ 50.000 USD đến 300.000 USD và sử dụng từ 10 đến 500 lao động. Công văn 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ về việc định hướng chiến lược và các chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạm thời quy định các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ VND hoặc lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Với cách xác định này thì về mặt số lượng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam. Gần đây, ngày 23/11/2001, Chính phủ ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo Nghị định này, doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nghiên cứu này bao gồm những doanh nghiệp được phân loại dựa theo tiêu chí trên. 2.Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam Quan điểm chung hiện nay đều cho rằng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đóng góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội (GDP), tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, thu hút một phần không nhỏ số lao động mới gia tăng ở Việt Nam. 2.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước Trong giai đoạn 1995 – 2000, bình quân hàng năm khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế đã đóng góp hơn 45% GDP (riêng khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp 41,58%). Nếu xét riêng trong ngành công nghiệp chế biến, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 81% tổng giá trị sản lượng của toàn ngành công nghiệp chế biến. Theo tính toán, doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy chiếm trên 90% về số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhưng lại chỉ chiếm 52% tổng vốn kinh doanh của cả khu vực này. Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh chiếm khoảng 19% GDP. Còn trong 35% GDP thuộc về khu vực Nhà nước, khu vực doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ chiếm gần 20%, tức khoảng 7% GDP. Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tăng 14,0%; khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 11,7%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 19,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1%. 2.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần giải quyết công ăn việc làm với hiệu suất cao, tạo thu nhập cho dân cư Trên thế giới, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ được coi là khu vực thu hút nhiều lao động, góp phần quan trọng giải quyết việc làm, nhất là ở các nước đông dân, lại chủ yếu sản xuất nông nghiệp, dư thừa lao động và có thu nhập thấp như nước ta. Các số liệu mà Tổng cục Thống kê công bố đã cho thấy rõ một điều: các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn chủ yếu tạo ra công ăn việc làm trong tất cả các lĩnh vực. Thứ nhất, các số liệu cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuyển dụng gần 1 triệu lao động, chiếm gần một nửa (49%) lực lượng lao động trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trong các lĩnh vực cơ bản của ngành công nghiệp chế biến, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuyển dụng 355.000 lao động, chiếm 36% tổng số lao động trong ngành. (Trong ngành công nghiệp chế biến, số lao động trung bình của doanh nghiệp nhỏ khoảng 16 người, của doanh nghiệp vừa khoảng 102 người và của doanh nghiệp lớn khoảng 543 người). Trong ngành xây dựng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra chỗ làm việc cho 155.000 lao động, chiếm 51% tổng số lao động trong toàn ngành; trong ngành thương nghiệp và dịch vụ sửa chữa: 111.000 lao động, chiếm 56% tổng số lao động trong ngành này; lĩnh vực khách sạn và nhà hàng: 51.000 lao động, chiếm 89% tổng số lao động trong ngành; hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn: 27000 lao động, chiếm 72% tổng số lao động trong ngành. Hơn nữa, các số liệu thống kê cũng cho thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút một tỷ lệ lao động chủ yếu trên phạm vi toàn quốc; ở duyên hải miền Trung số lao động làm việc tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ so với tổng số lao động làm việc ở tất cả các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất là 67%; Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất là 44%; và trên toàn quốc, tỷ lệ này là 49%. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đa dạng hoá nguồn thu nhập và tăng thu nhập cho dân cư. Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất thấp, do đó thu nhập của dân cư cũng thấp, lại chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì thế, sự lớn mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập và đa dạng hoá thu nhập cho dân cư. Thu nhập của dân cư vùng có doanh nghiệp cao gấp 4 lần so với vùng thuần nông. Bình quân thu nhập của một lao động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức 300-400 nghìn đồng/tháng, cao gấp 2-3 lần của hộ nông dân. Nguồn thu nhập được đa dạng hoá góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động, ổn định xã hội nói chung. 2.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp lớn cho xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, đảm bảo thực hiện định hướng chiến lược của toàn bộ nền kinh tế Hoà nhập với nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có nhưng định hướng phát triển phù hợp. Trước hết, để có tích luỹ, đặc biệt là tích luỹ bằng ngoại tệ để đầu tư phát triển, chúng ta định hướng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu. Nhà nước đã liên tục đề ra các chính sách khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế được trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu (Nghị định 57 NĐ-CP/1998). Trong xu thế đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang là một lực lượng nòng cốt của công tác xuất khẩu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò chủ đạo trong công tác sản xuất, chế biến, thu mua, dịch vụ cho hàng xuất khẩu, bởi sản phẩm xuất của chúng ta chủ yếu là nông sản. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu của mỗi mặt hàng hơn 100 triệu USD hàng năm thì chỉ có dầu thô là sản phẩm không của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn Trong những năm qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ là người đi đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong từng làng xã. Các doanh nghiệp lớn không có lợi thế về quy mô nhỏ, dễ phân tán như thế để làm được việc đó. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với mạng lưới rộng khắp, đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn đã là một động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Qua hoạt động của các doanh nghiệp đó, nhiều tụ điểm, cụm công nghiệp đã và đang được hình thành, có tác động chuyển hoá cơ cấu kinh tế sang các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao, vươn tới mức chiếm ưu thế so với tỷ trong nông nghiệp trong tương lai không xa. Hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển hơn nữa trên đà những kết quả khả quan hiện nay, nhờ đó, các làng nghề sẽ được phát triển, hiện đại hoá. II. Một số đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam sau năm 1986 là nền kinh tế nhiều thành phần với chế độ đa sở hữu. Do đó, có doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở hữu Nhà nước, tức là doanh nghiệp Nhà nước, một số khác thuộc sở hữu tập thể hay thuộc sở hữu tư nhân, trong đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở hữu tư nhân có số lượng đông hơn. Doanh nghiệp có quy mô lớn hầu như đều thuộc sở hữu Nhà nước. Có thể khái quát thành phần doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay là: - Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệp Nhà nước (1990); - Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân cá quy mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân (1990); - Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã (1996); - Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất kinh doanh dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị định 66-HĐBT. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến 31/12/2000, số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, phân loại theo tiêu chí vốn, như sau: Bảng 2: Số doanh nghiệp phân theo quy mô vốn trong các khu vực kinh tế Doanh nghiệp Tổng số DN Vốn < 0,5 tỷ đồng Vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng Vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng Vốn từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ Số DN Tỷ lệ Số DN Tỷ lệ Số DN Tỷ lệ Số DN Tỷ lệ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) Tổng số 39.762 14.723 37,0 6071 15,3 10336 26,0 2714 6,9 1.Dn trong nước 38.223 14.707 38,5 6052 15,8 10184 26,6 2525 6,6 1.1.DNNN 5531 110 1,9 154 2,8 1228 22,2 888 16,1 1.1.1.DNNN TƯ 1877 8 0,4 20 1,1 150 7,9 201 10,7 1.1.2.DNNN địa phương 3654 102 2,8 134 3,7 1078 29,5 687 18,8 1.2.Hợp tác xã 3187 1204 27,8 464 14,6 1205 37,8 180 5,6 1.3.DN tư nhân 18226 11552 63,4 3205 17,6 3021 16,6 300 1,6 1.4.Công ty hợp danh 4 - - - - 3 75 1 25 1.5.Công ty TNHH 10485 1794 17,1 2180 20,8 4444 42,4 1012 9,7 1.6.Công ty cổ phần có vốn nhà nước 368 8 2,2 14 3,8 95 25,8 84 22,8 1.7.Công ty cổ phần không có vốn NN 432 39 9,0 35 8,1 188 43,5 60 13,9 2.DN có vốn đầu tư nước ngoài 1529 16 1,0 19 1,2 152 9,9 189 12,4 2.1.DN 100% vốn nước ngoài 858 6 0,7 11 1,3 111 12,9 116 13,5 2.2.DNNN liên doanh với nước ngoài 513 8 1,6 3 0,6 29 5,7 40 7,8 2.3.HTX liên doanh với nước ngoài 4 - - - - - - 1 25 2.4.Các loại hình DN khác liên doanh với nước ngoài 132 - - 4 3,0 8 6,0 29 21,9 2.5.Hợp đồng hợp tác kinh doanh 22 2 9,1 1 4,5 4 18,2 3 13,6 (Nguồn: Tổng cục Thống kê-Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp –NXB Thống kê-2001) Như vậy, trong tổng số 39.762 doanh nghiệp của cải nước tính đến thời điểm 31/12/2000, có tới 33.844 doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (quy mô vốn dưới 10 tỷ VND), chiếm tỷ lệ 85,2%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,2% ((4)+(6)+(8)+(10)) trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân; chiếm 95,8% trong tổng số các hợp tác xã; chiếm 90% trong tổng số các công ty TNHH; chiếm 54,6% trong tổng số các công ty cổ phần có vốn Nhà nước và 74,5% trong tổng số các công ty cổ phần không có vốn Nhà nước; chiếm 43% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà nước. Còn theo tiêu chí phân loại dựa theo số lao động thì trong tổng số 39.762 doanh nghiệp, có 36.302 doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người, chiếm khoảng 91,3%. Số lao động bình quân ở các loại hình doanh nghiệp như sau: Bảng 3: Số lao động trung bình trong các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ Đơn vị: người 1999 2000 2001 -DNNN -Công ty tư nhân -Công ty cổ phần -Công ty TNHH 152 12 111 35 151,2 12,7 110,1 36 150 13 111,8 36,5 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư-Báo cáo nghiên cứu- Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Việt Nam ) Vậy, có thể xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ là một lực lượng kinh tế quan trọng đối với nền kinh tế Việt nam. Ngoài những đặc điểm chung như hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn có một số đặc thù ngành nghề kinh doanh , địa bàn hoạt động, về thị trường, về vốn, nhân sự,… Cụ thể: 1. Đặc điểm về ngành nghề, phạm vi kinh doanh và địa bàn kinh doanh, hoạt động: Về ngành nghề, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hoạt động trong 3 lĩnh vực chính: thương mại và dịch vụ đời sống; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách. Ta cùng xét bảng sau: Bảng 4: Phân bố các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành kinh tế căn cứ vào tiêu chí vốn Ngành Tổng số < 0,5 tỷ 0,5 tỷ đến dưới 1 tỷ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ DNVVN Tổng số Tỷ lệ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Tổng số 39762 14723 6071 10336 2714 33844 85,1 1.Nông nghiệp và lâm nghiệp 831 34 47 253 169 503 60,5 2.Thuỷ sản 60 6 6 26 6 44 73,3 3.Công nghiệp khai thác mỏ 430 126 57 100 43 326 75,8 4.Công nghiệp chế biến 10403 3134 1549 2529 826 8038 77,3 5.Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước 113 24 7 10 9 50 44,2 6.Xây dựng 3984 639 706 1362 376 3083 77,4 7.Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng gia đình 17364 8686 2770 3906 786 16148 92,9 8.Khách sạn và nhà hàng 1917 788 333 515 100 1736 90,5 9.Vận tải và thông tin liên lạc 1789 407 250 602 211 1470 82,2 10.Tài chính,tín dụng 1026 134 81 581 79 875 85,3 11.Hoạt động khoa học và công nghệ 7 4 2 1 - 7 100,0 12.Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản,dịch vụ tư vấn 1372 542 212 360 67 1181 86,1 13.Giáo dục và đào tạo 81 53 10 7 4 74 91,9 14.Y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội 24 3 3 9 4 19 79,2 15.Hoạt động văn hoá thể thao 118 14 9 44 11 78 66,1 16.Hoạt động phục vụ cá nhân và công cộng 243 129 29 31 23 212 87,2 (Nguồn: Tổng cục Thống kê-Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp-NXB Thống kê,2001) Như vậy, có thể thấy phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam là khá rộng, chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các ngành. Trong tổng số 33.844 doanh nghiệp vừa và nhỏ, có 16148 doanh nghiệp tham gia vào các ngành thương nghiệp,sửa chữa, chiếm 92,9% tổng số doanh nghiệp hoạt động trong ngành này; 8038 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chiếm 77,3% trong tổng số doanh nghiệp cùng ngành. Tiếp đó, ngành xây dựng có 3083 doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, chiếm 77,4% trong tổng số doanh nghiệp cùng ngành; số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng chiếm 90,5%. Các ngành như hoạt động khoa học và công nghệ, y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội, giáo dục và đào tạo, hoạt động văn hoá thể thao, tuy số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ áp đảo, song so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước thì con số này chiếm tỷ lệ không đáng kể. Còn về địa bàn hoạt động, doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn tập trung ở đô thị và vùng ven đô. Tỷ lệ hoạt động ở vùng nông thôn rất thấp. Hơn nữa, trong những năm đổi mới, hàng loạt những doanh nghiệp mới ra đời, nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh, trong khi nhiều doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại thông qua sát nhập, đóng cửa hoặc giải thể. Tình hình đó có tác động lớn đến thực trạng phân bổ doanh nghiệp trong cả nước, trong đó có cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các vùng đô thị tập trung đông dân cư, các vùng gần thị trường tiêu thụ và các trung tâm công nghiệp được hình thành từ trước thời kỳ đổi mới là nơi thuận lợi cho việc ra đời các doanh nghiệp mới. ở các vùng nông thôn - nơi các làng nghề truyền thống bị mai một trong những năm bao cấp - nay lại được chính sách đổi mới tác động nên nhiều doanh nghiệp với các loại hình khác nhau đã ra đời, góp phần duy trì và phát triển các nghề truyền thống. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn vẫn chưa tương xứng. Tất cả các yếu tố đó đã ảnh hưởng tới sự phân bố doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ, kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ. Riêng vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm trên 55% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước. Hai vùng có số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn tiếp theo là đồng bằng sông Hồng (18,1%) và duyên hải miền Trung (10,1%). 2. Năng lực, quy mô sản xuất kinh doanh Như đã phân tích, khi nói tới năng lực và quy mô sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là nói tới các yếu tố vốn, công nghệ và lao động và nó có tác động mạnh tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và lợi nhuận nói riêng. Song trên thực tế, đây lại là những khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam gặp phải. Về vốn, mặc dù số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng số doanh nghiệp cả nước, nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giải quyết được nhiều lao động song tổng vốn cho sản xuất kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh nghiệp trong cả nước. Điều này, một mặt phản ánh mức độ thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp, mặt khác phản ánh các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhìn chung đều gặp phải khó khăn thiếu vốn để mở rộng sản xuất, và tình trạng ấy ở các doanh nghiệp là không giống nhau. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2000, nếu xét chung tổng số các doanh nghiệp thì tỷ lệ thiếu vốn là 43,6%, còn nếu xét riêng khu vực ngoài quốc doanh, tỷ lệ này lên tới trên 90%. Việc cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay được đánh giá là chủ yếu được thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của người thân, bạn bè và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức, tức tín dụng của hệ thống Ngân hàng, một phần do hệ thống Ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian còn yếu kém, chưa tiếp cận được với cầu về tín dụng; song một phần không nhỏ là do bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có đủ khả năng đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi của Ngân hàng về các thủ tục như lập dự án, thế chấp,… Các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng thường e ngại khi vay vốn của Ngân hàng vì như vậy họ buộc phải xuất trình các báo cáo chính xác về tình hình tài chính và các kết quả sản xuất kinh doanh - điều mà nhiều doanh nghiệp không muốn làm vì nhiều lý do khác nhau. Ngoài vấn đề thiếu vốn, thì việc chiếm dụng vốn của nhau, công nợ không thanh toán được càng làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả hơn. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam giảm trong tương quan với các nước trong khu vực. Về trình độ công nghệ, đánh giá tổng quan về trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay so với thời kỳ trước đổi mới đã có nhiều cơ hội và nhiều thay đổi hơn. Song so với các nước trong khu vực, thế giới thì phổ biến công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vẫn còn thấp kém, lạc hậu 30 – 50 năm. Vì vậy, chi phí đầu vào ở các doanh nghiệp Việt Nam cao hơn 30% – 50% so với các đối tác ASEAN. Khả năng đổi mới công nghệ lại rất hạn chế kể cả trong những năm tăng trưởng cao vừa qua. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh – trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước – cũng chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu tư. Như vậy, phải mất khoảng 10 năm mới đổi mới được hết máy móc thiết bị. Trong khi đó nhiều sản phẩm công nghệ trong công nghiệp hiện nay như điện tử, viễn thông, hoá thực phẩm thường trở nên lạc hậu rất nhanh. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu lại quá cao nên với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như vậy thì khó có thể tránh khỏi tụt hậu. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là là do chúng ta thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Riêng vốn lưu động của các doanh nghiệp Việt Nam mới đáp ứng được 60% nhu cầu. Mặt khác, hiệu quả sử dụng vốn kém, thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn còn cao qua các năm: “ năm 1997: 3,7; 1998: 4,5; 1999: 5,7; 2000: 6,9; trong khi đó năm 2000 ở Hàn Quốc là 2,5; Malaixia là 4 lần”. Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy: chỉ có 5,3% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). Phần lớn các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh-các doanh nghiệp mới được thành lập trong những năm gần đây-chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh. Trong số các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 42,7%là những người đã từng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước, trên 60% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có độ tuổi trên 40, khoảng 48,4% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn và chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ từ cao đẳng trở lên. 3. Năng suất lao động, giá thành sản phẩm Bảng 5: Doanh thu trung bình trên một lao động trong các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh thu (đồng) Doanh thu trung bình của một lao động (đồng) Doanh thu trung bình trên 1 lao động (đồng) DNNN 182419363 31060,68 206 Công ty tư nhân 11419661 1046,14 87 Công ty CP 2742742 23243,58 209 Công ty TNHH 19702605 4644,65 133 ( Nguồn: Một số chỉ tiêu chủ yếu về quy mô vốn và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, Hà nội, 2000 ) Từ những số liệu trong bảng trên về doanh thu trên 1 lao động, có thể thấy rằng năng suất lao động trung bình của các công ty cổ phần cao hơn một chút so với các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng cả hai loại hình doanh nghiệp này đều có năng suất lao động cao hơn khoảng 2,5 lần so với các doanh nghiệp tư nhân, cao hơn 2 lần so với các công ty TNHH, trong đó phần lớn các doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đạt được năng suất lao động cao hơn, các doanh nghiệp lớn hơn, mà cụ thể là các doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần, dường như đã đầu tư một lượng vốn trên một lao động cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo số liệu trong Niên giám thống kê 2000, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong công ty cổ phần là ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVMAI.doc
  • docBìa luận văn.doc
Tài liệu liên quan