Lựa chọn giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 - 2015

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - - - - - o 0 o - - - - - NGUYỄN THỊ THU THỦY LỰA CHỌN GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2005 – 2015 Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 5 . 0 2 . 0 5 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ BẢO LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2004 2 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ASEAN (The Association of Southeast Asian Nations): Hiệp hội các quốc gia Đông Na

pdf78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Lựa chọn giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m Á CSHT: Cơ sở hạ tầng GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm trong nước MICE (Meetings, Insensitives, Conference and Events): Hội thảo, hội nghị, tổ chức sự kiện và tưởng thưởng TM – DL: Thương mại Du lịch WTO (World Travel Organization): Tổ chức du lịch Thế giới UBND: Ủy ban nhân dân 3 MỤC LỤC Lời mở đầu CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. Cơ sở lý luận về du lịch 01 1.1.1. Du lịch – Khách du lịch – Sản phẩm du lịch – Ngành du lịch 01 1.1.2. Các loại hình du lịch 04 1.1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch 07 1.2. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế xã hội 09 1.3. Kinh nhiệm phát triển du lịch của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á 11 1.3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan 14 1.3.2. Kinh nghiệm của Inđonesia 15 1.3.3. Kinh nghiệm của Singapore 16 1.3.4. Kinh nghiệm của Malaysia 17 1.4. Vài nét về ngành du lịch Việt Nam 17 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DU LỊCH TỈNH BÌNH THUẬN 2.1. Tổng quan về kinh tế – xã hội 21 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 21 2.1.2. Điều kiện xã hội 22 2.2. Tình hình hoạt động du lịch trong thời gian qua 26 2.2.1. Khách du lịch 26 4 2.2.2. Doanh thu 30 2.2.3. Cơ sở vật chất 33 2.2.4. Lực lượng lao động 35 2.2.5. Hoạt động giới thiệu, quảng bá du lịch 36 2.2.6. Công tác quy hoạch phát triển du lịch 37 2.3. Kết luận chương 2 38 CHƯƠNG 3: LỰA CHỌN GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2005 – 2015 3.1. Những xu hướng du lịch hiện nay 40 3.2. Mục tiêu phát triển du lịch 42 3.2.1. Mục tiêu phát triển của cả nước 42 3.2.2. Mục tiêu phát triển của Bình Thuận 44 3.3. Lựa chọn giải pháp phát triển du lịch Bình Thuận 45 3.3.1. Nhóm giải pháp nền tảng 46 3.3.2. Nhóm giải pháp chiến lược 53 3.4. Các bước đề nghị thực hiện 60 3.4.1. Giai đoạn 2005 – 2006 60 3.4.2. Giai đoạn 2006 – 2010 61 3.4.3. Giai đoạn 2010 – 2015 61 KẾT LUẬN 62 PHỤ LỤC 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 5 LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ trên các mặt đời sống – kinh tế – văn hóa – xã hội – khoa học kỹ thuật trên Thế giới, du lịch đã trở thành hoạt động phổ biến trong các tầng lớp dân cư. Nhu cầu du lịch đã đi vào cuộc sống của từng gia đình, làm phong phú thêm hoạt động nghỉ ngơi – vui chơi – giải trí và bản thân du lịch cũng đang ngày càng phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội, đáp ứng cao nhất khả năng tái tạo sức lao động cho xã hội nói chung và cho từng cá nhân nói riêng. Về mặt kinh tế, ngày nay du lịch đã tạo nên những thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế của một quốc gia, những khoản thu nhập với lợi thế hơn hẳn các ngành trọng yếu khác, đặc biệt là khoản thu ngoại tệ, đã, đang và sẽ tiếp tục đưa du lịch trở thành ngành công nghiệp số một trong tương lai. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, các quốc gia trên thế giới đã đầu tư thích đáng cho sự phát triển của ngành du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng có thể phát triển du lịch được do những đặc trưng riêng có của du lịch, cụ thể là tiềm năng du lịch của quốc gia và khả năng đón tiếp khách của họ. Bình Thuận là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải miền Trung có nguồn tài nguyên du lịch khá phong phú và đa dạng. Trong một thời gian dài, ngành du lịch ở đây dường như đã ngủ quên và chỉ thực sự được đánh thức từ sau sự kiện nhật thực toàn phần diễn ra vào tháng 10/1995 mà Mũi Né là nơi duy nhất có thể quan sát được toàn cảnh hiện tượng này. Sau sự kiện này, khách du lịch bắt đầu biết đến Phan Thiết, Mũi Né với những bờ biển trong xanh, những đồi cát mênh mông như đang ở sa mạc, biết đến những công trình kiến trúc đặc trưng của người Chăm, biết đến lầu ông Hoàng và hàng loạt các danh thắng khác… 6 Qua hơn 10 năm phát triển, ngành du lịch Bình Thuận đã đạt được một số thành tựu đáng kể, số lượng khách du lịch đến với Bình Thuận và thu nhập từ du lịch của Tỉnh đã liên tục tăng ở mức tương đối cao, thậm chí có năm tốc độ tăng trưởng đạt ở mức 3 chữ số. Nhưng nếu nghiên cứu qua từng năm thì sự tăng trưởng này dường như không ổn định và đang có xu hướng giảm dần. Trong tình hình “người người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch” ở một số địa phương như hiện nay dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và “góp phần” hủy hoại môi trường tự nhiên của địa phương thì Bình Thuận, là người đi sau có thể học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, cần có những hành động cụ thể và kịp thời ngay từ bây giờ để có thể định hướng cho sự phát triển du lịch của tỉnh nhà theo hướng phát triển bền vững. Là một du khách có dịp may được đến với Bình Thuận từ những ngày đầu mới phát triển của ngành du lịch, tôi thực sự ngạc nhiên và khâm phục trước sự phát triển quá “nóng” của vùng đất này. Thế nhưng, bên cạnh niềm vui tôi cũng lo sợ một ngày nào đó không còn được nhìn ngắm những đồi cát trùng điệp, không còn được tắm mình trong làn nước trong xanh nữa vì sự xuất hiện của đủ thứ rác bẩn, nước thải và những khách sạn mini, những khu dân cư “ăn theo” sự phát triển của du lịch… Tất cả những thứ đó sẽ làm thay đổi cảnh quan và môi trường tự nhiên nơi đây, cản trở sự phát triển của du lịch. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu “Lựa chọn giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 – 2015”. Thông qua việc đánh giá tiềm năng du lịch của tỉnh Bình Thuận, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh 7 du lịch của tỉnh trong thời gian qua để tìm ra nguồn gốc sự phát triển cũng như những nguyên nhân, những khó khăn tồn tại cản trở sự phát triển. Trên cơ sở đó đề xuất và lựa chọn những giải pháp góp phần phát triển du lịch phù hợp với điều kiện thực tế của Tỉnh. Tuy nhiên, du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành khác nhưng để du lịch có điều kiện phát triển thì cũng cần sự hỗ trợ, phối hợp của rất nhiều ban ngành. Giới hạn nghiên cứu của luận văn chỉ dừng lại ở góc độ quản lý về du lịch và trong bối cảnh hiện tại của tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng hoặc điểu chỉnh quy hoạch phát triển tổng thể của tỉnh vì du lịch là một trong những thành phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, cũng như các quy hoạch chi tiết về phát triển du lịch của từng khu vực mà Sở Thương mại – Du lịch tỉnh đang thực hiện. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn chủ yếu là phương pháp thống kê phân tích, sau đó tổng hợp lại và dựa trên những khả năng có thể xảy ra để đưa ra kết luận. Một số chỉ tiêu được tính toán bằng cách áp dụng mô hình tăng trưởng trên phần mềm Excel. Luận văn gồm 61 trang với 3 chương, 6 bảng số liệu, 8 đồ thị minh họa và 7 phụ lục. - Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch và vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế. - Chương 2: Tình hình hoạt động của du lịch tỉnh Bình Thuận - Chương 3: Lựa chọn giải pháp góp phần phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005 – 2015 8 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH: 1.1.1. Du lịch – Khách du lịch – Sản phẩm du lịch – Ngành du lịch: 1.1.1.1. Du lịch – Du lịch bền vững: Thuật ngữ “du lịch” ngày càng trở nên thông dụng đối với mọi người. “Du lịch” là từ được bắt nguồn từ tiếng Pháp “Tour” có nghĩa là đi vòng quanh, là cuộc dạo chơi; còn từ “Touriste” là nguời đi dạo chơi. Du lịch gắn liền với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm hồi phục, nâng cao sức khỏe và khả năng lao động của con người, nhưng trước hết nó có liên quan mật thiết với sự di chuyển chỗ của họ. Năm 1991, tổ chức du lịch Thế giới WTO đã thống nhất được định nghĩa về du lịch theo phát biểu như sau: “Du lịch bao gồm những hoạt động của con người, di chuyển đến và ở lại những nơi ngoài môi trường quen thuộc của họ ít hơn 1 năm liên tục để giải trí, công vụ và những mục đích khác” (Theo Charles R. Goeldner & những người khác, Tourism: Principles, Practices, Philosophies, tái bản lần thứ tám, NXB Johnwiley & Sons, New York 2000, Ch.1,tr.6). Do những thay đổi theo hướng tiêu cực của môi trường sống, năm 1999 Hội đồng Thế giới về tham quan và du lịch WTTC, Hội đồng về trái đất CT và WTO đã đưa ra định nghĩa về du lịch bền vững như sau: “Du lịch bền vững là loại hình du lịch đáp ứng được nhu cầu hiện tại của du khách và của những vùng đón tiếp mà 9 vẫn đảm bảo và cải thiện nguồn lực cho tương lai. Du lịch bền vững dẫn tới một phương thức quản lý tất cả các nguồn lực sao cho thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ mà vẫn giữ gìn được sự trọn vẹn của văn hóa và môi trường sống”. Theo Pháp lệnh du lịch Việt Nam thì: Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí… trong một khoảng thời gian nhất định. 1.1.1.2. Khách du lịch: Tháng 09/1968, hội nghị của WTO họp tại Roma đã chính thức xác định phạm trù khách du lịch và khách du lịch quốc tế. Theo đó thì: Khách du lịch là những người lưu lại ít nhất một đêm tại một nơi không phải là nhà mình và mục đích của sự di chuyển này không phải là để kiếm tiền. Khách du lịch quốc tế là những người đi ra nước ngoài với mục đích thăm viếng người thân, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tham gia vào các hội nghị, hội thảo quốc tế, ngoại giao, thể thao, thực hiện công vụ (ký kết hợp đồng mua bán, thăm dò thị trường…) và có lưu trú qua đêm tại đó. 1.1.1.3. Sản phẩm du lịch: Sản phẩm du lịch là tổng hợp các yếu tố khác nhau nhằm cung cấp cho du khách một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng. Sản phẩm du lịch thường được cấu thành từ 7 yếu tố sau: - Di sản thiên nhiên: đồi, núi, sông, biển, thác, suối, rừng, đảo… - Di sản do con người tạo ra: chùa chiền, đền thờ, bảo tàng, các công trình kiến trúc, tượng đài, công viên… - Các yếu tố mang tính chất xã hội: thái độ của người dân tại khu vực, quốc gia tiếp nhận khách, của nhân viên phục vụ khi tiếp xúc với khách… 10 - Các yếu tố hành chính: thủ tục xuất nhập cảnh, xuất khẩu hàng hóa… - Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho ngành du lịch: hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí… - Tình hình kinh tế, tài chính, chính trị của quốc gia… - Các dịch vụ công cộng: hệ thống giao thông, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc… Do được cấu thành từ những yếu tố như trên nên sản phẩm du lịch thường có những đặc điểm như sau: - Sản phẩm du lịch được bán trước khi khách hàng thấy hoặc tiêu thụ chúng. - Sản phẩm du lịch mang tính trừu tượng, vô hình nhưng dễ bắt chước. - Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm tổng hợp mà các nguồn kinh doanh khác phải tiêu phí thời gian và tiền bạc trước khi sử dụng nó. - Khách mua sản phẩm du lịch phải được thông tin đầy đủ về chuyến đi. - Các sản phẩm du lịch thường ở xa nơi khách hàng cư trú. Do đó cần phải có hệ thống phân phối thông qua việc sử dụng các đơn vị trung gian như các đại lý du lịch, các cơ quan du lịch… tức là các đơn vị có khả năng ảnh hưởng đến nguồn du khách tiềm năng. - Sản phẩm du lịch có chu kỳ sống ngắn, dễ bị thay đổi vì sự biến động của tỷ giá tiền tệ; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… và nó cũng không thể tăng theo ý muốn của khách du lịch một cách nhanh chóng. - Khách mua sản phẩm du lịch thường ít trung thành hoặc không trung thành với điểm du lịch, tạo nên sự bất ổn về nguồn khách. - Nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm du lịch, ngoại trừ việc đi du lịch công vụ, phần lớn hết sức uyển chuyển và mang tính cạnh tranh cao. 11 1.1.1.4. Ngành du lịch: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến nhiều khu vực ngành khác nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo Victor T.C. Middleton trong tác phẩm Marketing in Travel and Tourism (tái bản lần thứ hai, NXB Bulterworth Heinemann, Oxford 1994, tr.4) thì năm khu vực chính trong ngành du lịch bao gồm: - Khu vực vận chuyển: bao gồm các hãng hàng không, hãng tàu biển, phà, thuyền, tàu hỏa, nhà điều hành xe bus, xe khách, công ty cho thuê xe… - Khu vực lưu trú: bao gồm các khách sạn, lữ quán, nhà hàng, khu nghỉ mát, trung tâm hội nghị, trung tâm triển lãm, căn hộ, villa, nông trại… - Khu vực tổ chức lữ hành: nhà điều hành du lịch, nhà bán sỉ, môi giới du lịch, đại lý du lịch bán lẻ, nhà tổ chức hội nghị, đại lý đặt chỗ… - Khu vực điểm du lịch: bao gồm công viên giải trí, viện bảo tàng và trưng bày nghệ thuật, công viên quốc gia, công viên hoang dã, di tích lịch sử và các trung tâm thể thao, thương mại… - Khu vực tổ chức điểm đến: bao gồm cơ quan du lịch quốc gia NTO, cơ quan du lịch vùng, cơ quan du lịch địa phương và các Hiệp hội du lịch… 1.1.2. Các loại hình du lịch: Du lịch ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và phổ biến. Để phân loại, chúng ta thường phải căn cứ vào một số tiêu thức như: 1.1.2.1. Căn cứ vào nhu cầu của khách: có thể có những loại hình sau - Du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh: đáp ứng nhu cầu điều trị bệnh, phục hồi sức khỏe của khách. Ngày nay, một số nước có điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã biết kết hợp có hiệu quả việc khai thác sử dụng các nguồn nước khoáng, suối 12 nước nóng, bùn thuốc, khí hậu biển trong lành… với kinh doanh dịch vụ phục vụ đối tượng khách du lịch này. Nhu cầu nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe của khách du lịch đôi khi chỉ đơn giản là muốn được gần gũi với thiên nhiên hay thay đổi môi trường sống hàng ngày. Vì vậy, loại hình du lịch này đòi hỏi phải có điều kiện thiên nhiên tốt như bờ biển, sông suối, hồ nước, cao nguyên… những nơi có khí hậu trong lành. - Du lịch tham quan: là những chuyến đi qua nhiều địa danh du lịch, đặc biệt là các khu di tích văn hóa, lịch sử, các công trình kiến trúc…, nó gắn liền với nhu cầu làm tăng thêm sự hiểu biết của khách về kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của người dân địa phương nơi mà họ đến thăm. Khách du lịch thường rất quan tâm đến phương tiện di chuyển và các thông tin về điểm tham quan. - Du lịch thể thao: nhu cầu, sở thích của khách gắn liền với một môn thể thao nào đó. Có thể chia loại hình du lịch này thành 2 loại Chủ động và Thụ động. o Chủ động: khách du lịch chính là các vận động viên đi đến những vùng có tiềm năng về thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội, lướt ván… hoặc đến những khu vực có tổ chức các giải thi đấu để trực tiếp thi đấu hoặc tham gia vào các hoạt động thể thao đó như là một nhu cầu rèn luyện thân thể hoặc giải trí. o Thụ động: khách du lịch đi đến những nơi này để xem các trận thi đấu. - Du lịch có tính chuyên nghiệp: nó gắn liền với yêu cầu nghề nghiệp. Khách du lịch đi đến một địa danh nào đó với những mục đích rõ ràng và họ có sự chuẩn bị cho những nội dung cần giải quyết tại nơi đến. Khách du lịch của loại hình này thường là các nhà khoa học, kỹ thuật viên hay các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc, tôn giáo, những nhà khoa học về tự nhiên, môi trường 13 hoặc văn hóa nghệ thuật, và bao gồm cả những người đi dự hội nghị, hội thảo khoa học, hội diễn tài năng… Khách đề ra mục đích rõ ràng và yêu cầu tìm hiểu về những nơi họ tham quan thường rất cao, rất cụ thể, đồng thời họ cũng có nhu cầu cao về trang thiết bị, tiện nghi và người giúp việc phục vụ cho các nội dung liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu. - Du lịch công vụ: hay còn gọi là du lịch kết hợp với công tác. Đối tượng khách chủ yếu là những người đi dự hội nghị, hội chợ, lễ kỷ niệm, đi thảo luận trao đổi ký kết văn bản hợp tác, trao đổi về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật… Loại khách này có nhu cầu cao về phòng ngủ, nhà hàng, phòng họp và hệ thống tiện nghi phục vụ đi kèm như dịch thuật, máy chiếu phim, điện thoại… các chương trình tham quan du lịch, vui chơi giải trí phụ trợ. - Du lịch có tính chất xã hội: khách đi du lịch kết hợp với thăm viếng người thân, quê hương… loại khách này chủ yếu phát triển ở những nước có nhiều kiều dân nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Nam Tư, Tây Ban Nha; các vùng có tôn giáo lớn như Ấn Độ, Trung Đông… - Du lịch sinh thái, du lịch xanh…: là những loại hình du lịch đang có xu hướng phát triển rất mạnh. Chúng ta đang sống trong một môi trường công nghiệp, tiếp xúc với máy móc, tiếng ồn, không khí nóng bức bụi bặm, tác phong làm việc khẩn trương theo khuôn phép và luôn căng thẳng… Do đó mới phát sinh nhu cầu được trở về với thiên nhiên, được thư giãn trong không khí trong lành của môi trường nguyên sinh; tìm hiểu về con người, cuộc sống và những điều huyền bí, kỳ diệu của tự nhiên, đồng thời góp tay giữ gìn, bảo tồn tài nguyên và môi trường đó bằng cách tạo cơ hội về việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, lợi ích kinh tế cho địa phương, các tổ chức và chủ thể quản lý. 14 1.1.2.2. Căn cứ theo quốc tịch của khách: có thể chia thành 2 loại - Du lịch nội địa – Domestic Tourism: là loại hình mà công dân của một nước đi du lịch dưới bất cứ hình thức nào trong phạm vi quốc gia của nước mình. - Du lịch quốc tế – International Tourism: là loại hình du lịch mà công dân của một nước đi du lịch ở các nước khác. Quan hệ kinh tế, văn hóa giữa các nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi tác động tích cực đến sự phát triển du lịch quốc tế. 1.1.2.3. Căn cứ theo phương tiện giao thông mà khách sử dụng để đi du lịch: có thể có các loại hình như du lịch bằng xe đạp, xe máy, ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Thời gian gần đây đã có xuất hiện loại hình du lịch bằng tàu vũ trụ để bay vào không gian, tuy còn khá mới và chi phí khá cao nhưng loại hình này hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai. 1.1.2.4. Căn cứ theo đặc điểm cơ sở lưu trú: có thể chia thành các loại hình du lịch như du lịch trong khách sạn – hotel, du lịch trong nhà nghỉ dọc đường – motel, du lịch trong nhà trọ, hoặc du lịch cắm trại… 1.1.2.5. Căn cứ vào thời gian lưu trú: có 2 loại hình chính là du lịch ngắn ngày (thời gian đi du lịch là những ngày nghỉ cuối tuần hoặc kéo dài không quá 2 tuần) và du lịch dài ngày (thời gian đi du lịch kéo dài hơn 2 tuần nhưng không quá 1 năm). 1.1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch: Du lịch là một hoạt động đặc trưng mà nó chỉ có thể phát triển được trong những điều kiện nhất định và trong những hoàn cảnh thuận lợi. Trong những điều kiện này, có những điều kiện thuộc về các mặt của cuộc sống xã hội, có đặc tính chung, đồng thời có những điều kiện khác lại trực tiếp gắn liền với những đặc điểm và vùng địa lý nhất định. Do đó có thể chia chúng thành 2 nhóm điều kiện: 15 1.1.3.1. Nhóm điều kiện thứ 1 – Các điều kiện có đặc tính chung: bao gồm - Thời gian rảnh rỗi: phần lớn các chuyến đi du lịch là các cuộc tham quan những danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa lịch sử, nghỉ dưỡng, giải trí… được thực hiện trong thời gian nhàn rỗi của con người. Kết quả của các công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng, những người tích cực tham gia vào các chuyến du lịch phải là những người có thời gian nhàn rỗi. - Điều kiện vật chất: du lịch được xem như là nhu cầu thứ 2 của con người. Sau khi nhu cầu thứ nhất về ăn, mặc, ở được thỏa mãn thì nhu cầu về du lịch và giao lưu tình cảm xuất hiện. Hiện nay ở các nước có nền kinh tế phát triển, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Các nhà nghiên cứu về kinh tế du lịch đã đưa ra nhận định rằng, ở các nước này, nếu GDP bình quân đầu người tăng lên 1% thì chi tiêu cho du lịch tăng 1,5%. - Điều kiện chính trị, hòa bình: du lịch quốc tế chỉ có thể phát triển được trong một bầu không khí hòa bình, hữu nghị giữa các nước. Gần đây, các cuộc xung đột trong nội bộ, khủng bố, bất đồng về chính trị giữa các nước trong khu vực đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ cho ngành du lịch của một số quốc gia, ảnh hưởng chung tới sự phát triển du lịch quốc tế cũng như du lịch nội địa của cả một vùng. Ví dụ như vụ đánh bom khủng bố vào tháng 10/2002 tại đảo du lịch nổi tiếng Bali của Indonesia là nguyên nhân chính làm cho lượng khách du lịch quốc tế đến Bali giảm hẳn (lượng khách đến Bali trong 6 tháng đầu năm 2003 giảm hơn 41% so với cùng kỳ năm 2002), đồng thời các nước trong khu vực cũng phải gánh chịu những ảnh hưởng gián tiếp từ sự kiện này. - Trình độ văn hóa: phần lớn những người tham gia vào các chuyến du lịch là những người có trình độ văn hóa nhất định, nhất là những người đi du lịch ra 16 nước ngoài bởi vì họ có nhu cầu tìm hiểu các danh lam thắng cảnh, đặc điểm dân tộc… Du lịch không phải là nhu cầu đối với những người có trình độ văn hóa thấp mặc dù họ có thể có dư điều kiện vật chất và thời gian nhàn rỗi. Ở các nước mà người dân có trình độ văn hóa cao thì số người đi du lịch ra nước ngoài có xu hướng tăng lên không ngừng. 1.1.3.2. Nhóm điều kiện thứ 2 – Các điều kiện của 1 vùng lãnh thổ nhất định: Nhóm điều kiện này đòi hỏi 1 địa phương, 1 vùng hoặc 1 quốc gia phải có được cả tiềm năng du lịch lẫn khả năng đón tiếp khách thì mới có thể phát triển du lịch như mong muốn được. - Tiềm năng du lịch: có ý nghĩa vô cùng quan trọng và được xem như là điều kiện cần trong việc phát triển du lịch, nó bao gồm các yếu tố liên quan đến điều kiện thiên nhiên hiện có của địa phương đó. Ở đây bao gồm cả địa hình, khí hậu, hệ thống sông ngòi, thác nước, suối nước, diện tích bờ biển, hệ động thực vật… lẫn các công trình kiến trúc, tượng đài, các công trình văn hóa… - Khả năng đón tiếp khách: được xem như là điều kiện đủ để phát triển du lịch. Khả năng đón tiếp khách thể hiện ở hệ thống giao thông vận chuyển, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, trình độ nghiệp vụ của nhà quản lý cũng như nhân viên phục vụ, hệ thống quản lý trong ngành du lịch… 1.2. VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI: Mối quan hệ giữa phát triển du lịch và phát triển kinh tế – xã hội là mối quan hệ hai chiều. Khi nền kinh tế của một quốc gia càng phát triển thì nhu cầu đi du lịch của người dân càng tăng lên, do đó ngành du lịch có điều kiện để phát triển. Ngành du lịch phát triển sẽ là đầu tàu kéo theo sự phát triển của các ngành khác có liên quan, trước tiên là những ngành thuộc 5 khu vực chính trong ngành du lịch, tạo 17 ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội, cải thiện điều kiện sống của một bộ phận dân cư… và như vậy, sự phát triển của ngành du lịch góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn nữa. - Phát triển du lịch quốc tế sẽ làm tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ cho địa phương và cho đất nước. Nhiều nhà kinh tế đã khẳng định: Du lịch là một ngành xuất khẩu vô hình hoặc Du lịch là một ngành xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả kinh tế cao. Khi khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng, họ sẽ tiêu thụ một khối lượng lớn nông sản, thực phẩm dưới dạng các món ăn, đồ uống và mua hàng hóa, sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, thủ công mỹ nghệ… Như vậy địa phương sẽ thu được một khoản ngoại tệ tại chỗ với hiệu quả cao. - Ngành du lịch phát triển là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các ngành khác trong nền kinh tế. Đặc biệt là ngành nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng. Ngành du lịch đã mở ra thị trường tiêu thụ ngay tại đất nước mình thông qua việc cung cấp một khối lượng lớn các sản phẩm của những ngành này cho du khách. Từ đó thúc đẩy các ngành cải tiến kỹ thuật, quy trình sản xuất kinh doanh… để tạo ra nhiều loại sản phẩm mới. Ngoài ra nó còn gián tiếp kéo theo sự phát triển của một số ngành có liên quan như xây dựng, giao thông vận tải, ngân hàng, bưu chính viễn thông… - Ngành du lịch góp phần vào việc mở rộng và củng cố các mối quan hệ đối ngoại và giao lưu kinh tế giữa các nước trên thế giới thông qua việc mở rộng các phương tiện giao thông vận chuyển khách du lịch, trao đổi hàng hóa… và quan trọng hơn hết là làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và các nước khác nhau trên thế giới. 18 - Phát triển du lịch sẽ đem lại sự thay đổi sắc thái của vùng, địa phương thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, việc phát triển các ngành nghề để cung cấp các sản phẩm phục vụ du lịch và việc giao lưu giữa người dân địa phương và khách du lịch. - Phát triển du lịch nội địa không những góp phần sử dụng triệt để công suất của cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo cho người dân địa phương được sử dụng các dịch vụ của cơ sở kinh doanh du lịch, huy động đồng tiền nhàn rỗi trong nhân dân… mà nó còn là một trong những hình thức tái sản xuất sức lao động của con người, là phương tiện quan trọng giúp giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống đấu tranh của dân tộc, lòng yêu nước và niềm tin giữa con người với con người. 1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á: Khu vực châu Á nói chung và khu vực ASEAN nói riêng được đánh giá là khu vực có nền kinh tế năng động, tốc độ phát triển kinh tế luôn ở mức cao (xem Phụ lục 1). Theo dự đoán của WTO đến năm 2010, khu vực này sẽ dẫn đầu thế giới về phát triển du lịch, hàng năm có thể thu hút hàng trăm triệu lượt khách du lịch quốc tế. Trong tương lai gần, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế chủ lực của các quốc gia này. Có một đặc điểm chung dễ dàng nhận thấy và các nhà làm du lịch cũng cần quan tâm đó là, người dân các nước ASEAN có xu hướng đi du lịch trong nội bộ các nước ASEAN khá cao. Điều này thể hiện rõ qua cơ cấu khách du lịch đến với các nước ASEAN. Theo đó, tỷ lệ đối tượng du khách đi du lịch trong nội bộ các nước ASEAN chiếm đến 43,2% tổng số khách, nghĩa là chiếm đến gần một nửa, thị 19 trường lớn thứ hai đó là Nhật Bản, kế đến là thị trường Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Úc… Trong khối các nước ASEAN, quốc gia nào cũng có những tiềm năng to lớn về du lịch nhưng không phải quốc gia nào cũng khai thác tốt tiềm năng đó (xem Phụ lục 2), tiêu biểu là Thái Lan, Indonesia, Singapore, Malaysia… Do có những đặc điểm tương đồng nhau và sự gần gũi về nền văn hóa phương Đông nên chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm về phát triển du lịch từ những quốc gia này, vừa có thể phát triển vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc của chúng ta. Bảng 1: SỐ LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH ĐẾN CÁC NƯỚC ASEAN NĂM 2003 (Đơn vị tính: lượt khách) BAO GỒM CÁC NƯỚC ASEAN KHÔNG BAO GỒM CÁC NƯỚC ASEAN QUỐC GIA GỬI KHÁCH SỐ KHÁCH TỶ LỆ (%) SỐ KHÁCH TỶ LỆ (%) ASEAN 16.210.238 43,2 - - Nhật Bản 2.898.167 7,7 2.898.167 13,6 Trung Quốc 2.328.251 6,2 2.328.251 10,9 Mỹ 1.756.827 4,7 1.756.827 8,2 Hàn Quốc 1.702.909 4,5 1.702.909 8,0 Hồng Kông 1.589.425 4,2 1.589.425 7,5 Đài Loan 1.496.177 4,0 1.496.177 7,0 Úc 1.343.262 3,6 1.343.262 6,3 Các quốc gia khác 8.211.708 21,9 8.211.708 38,5 TỔNG SỐ 37.536.964 100 21.326.726 100 (Nguồn: Phòng hỗ trợ du lịch quốc gia các nước ASEAN và website www.asean.or.jp) 20 Đồ thị 1: CƠ CẤU KHÁCH DU LỊCH ĐẾN CÁC NƯỚC ASEAN NĂM 2003 BAO GỒM KHÁCH DU LỊCH ĐẾN TỪ CÁC NƯỚC ASEAN 37.536.964 lượt khách Các quốc gia khác 21,9% ASEAN 43,2% Úc: 3,6% Đài Loan: 4,0% Hồng Kông: 4,2% Hàn Quốc: 4,5% Mỹ: 4,7% Nhật Bản: 7,7% Trung Quốc: 6,2% KHÔNG BAO GỒM KHÁCH DU LỊCH ĐẾN TỪ CÁC NƯỚC ASEAN Các quốc gia khác 38,5 % Nhật Bản: 13,6 % Úc: 6,3 % Đài Loan: 7,0 % Hồng Kông: 7,5 % Hàn Quốc: 8,0% Mỹ: 8,2 % Trung Quốc: 10,9 % 21.326.726 lượt khách 21 Đồ thị 2: SỐ LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ ĐẾN ASEAN QUA CÁC NĂM 43,989,010 21,771,581 23,465,426 29,669,071 30,932,853 31,048,739 42,202,266 37,493,883 29,733,004 34,215,220 39,136,421 25,278,317 20,000,000 25,000,000 30,000,000 35,000,000 40,000,000 45,000,000 50,000,000 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Năm lượt khách (Nguồn: website www.aseansec.org) 1.3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan: Vương quốc Thái Lan nằm ở phía Nam lục địa châu Á, tại trung tâm vùng Đông Nam Á, vốn đã nổi tiếng từ lâu là một xứ sở nhiệt đới thần tiên đầy những điều bí ẩn và kỳ lạ. Không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt cho quốc gia này nhiều tên gọi thân mật và ấn tượng như vương quốc của loài Voi, vương quốc của nụ cười, vương quốc của sự mê hoặc… Với lối sống phóng khoáng đầy quyến rũ của người dân, với những bờ biển và khu nghỉ mát tuyệt đẹp, hàng năm Thái Lan thu hút một số lượng lớn du khách ở khắp nơi trên thế giới. Để đạt được và duy trì những thành quả đó, Chính phủ Thái Lan đã đề ra những chính sách vừa thông thoáng vừa nghiêm ngặt để khuyến khích phát triển du lịch nhưng không gây tổn hại đến môi trường. Cơ quan quản lý du lịch Thái Lan TAT đưa ra bảy biện pháp bảo vệ môi trường thiên nhiên ở các khu vực du lịch như sau: - Hạn chế số lượng khách du lịch đến dựa trên cơ sở sức chứa. - Quản lý sự ra vào khu bảo tồn. 22 - Giảm chất thải và nâng cao mức độ trong sạch. - Thành lập các trung tâm điều phối. - Quản lý chất lượng dịch vụ. - Chỉ dẫn thông tin. - Chia khu vực khách đến. 1.3.2. Kinh nghiệm của Indonesia: Indonesia là một quốc gia bao gồm 17.508 hòn đảo trải dài trên 6.000km giữa Ấn Độ dương và Thái Bình dương. Với gần 600 nhóm chủng tộc cùng sinh sống, Indonesia được ví như một ống kính vạn hoa về cảnh sắc và lối sống: từ những ngọn núi lửa hung hãn còn đang hoạt động cho đến những mảnh ruộng bậc thang hiền lành, từ những khu rừng nguyên thủy dày đặc với hệ động – thực vật phong phú và đa dạng cho đến những bãi biển tuyệt đẹp, từ những bộ lạc săn đầu người rùng rợn cho đến những người Java có nền văn hóa phát triển cao… Tất cả những điều đó đã tạo nên một tiềm năng du lịch to lớn cho Indonesia. Để quản lý sự phát triển du lịch của mình, Bộ Môi trường Inđônêsia đã đưa ra năm nguyên tắc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, như sau: - Nguyên tắc 1: Trách nhiệm quan tâm và cam kết về việc bảo tồn thể hiện ở chỗ trong quy hoạch và thi._.ết kết phải xem xét khả năng chuyển tải của nơi du lịch; quản lý toàn bộ khách du lịch, cơ sở hạ tầng và các phương phục vụ du lịch phù hợp với khả năng chuyển tải của nơi đến; nâng cao hoặc tăng nhận thức bảo vệ môi trường của cộng đồng địa phương và du khách; … - Nguyên tắc 2: Tham khảo ý kiến và được sự tán thành của cộng đồng địa phương về sự phát triển du lịch như lập tổ chức đối tác với cộng đồng địa phương trong quá trình quy hoạch và phát triển dự án; thông báo rõ ràng và 23 trung thực cho cộng đồng địa phương biết về mục đích và hướng phát triển trong khu vực; cộng đồng địa phương có quyền tự do chấp nhận hoặc từ chối phát triển du lịch trong khu vực… - Nguyên tắc 3: tăng lợi ích cho cộng đồng địa phương thể hiện ở chỗ mở ra cơ hội cho cư dân địa phương tham gia chủ động vào sự phát triển du lịch; nâng cao kỹ thuật chuyên môn cho cộng đồng địa phương; trao quyền cho cộng đồng địa phương để nâng cao lợi ích kinh tế xã hội… - Nguyên tắc 4: Tôn trọng văn hóa truyền thống và tín ngưỡng của địa phương. Thể hiện ở việc đưa ra những quy định, quy ước về đạo đức kinh doanh cho nhà điều hành du lịch và đạo đức của du khách phù hợp với giá trị văn hóa, xã hội và tín ngưỡng của cộng đồng địa phương. - Nguyên tắc 5: Tôn trọng pháp pluật của Chính phủ về quản lý môi trường, tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hóa; về quy hoạch không gian… 1.3.3. Kinh nghiệm của Singapore: Singapore là một quốc gia nằm trên một hòn đảo rất nhỏ nằm ở đầu mút lục địa châu Á, ngay phía Nam Malaysia. Vị trí có tính chiến lược cùng với một hệ thống cảng biển tự nhiên đã giúp cho làng chài ở thế kỷ 19 này phát triển nhanh chóng trở thành một thành phố hiện đại như ngày hôm nay. Sở dĩ Singapore đạt được những thành tựu đó là do Chính phủ đã có những định hướng phát triển đúng đắn, tầm nhìn quy hoạch xa và sự nghiêm minh của pháp luật đã góp phần tích cực cho việc thực hiện thành công những chính sách này. Một ví dụ đơn giản về việc xử phạt lỗi xả rác ở nơi công cộng, quốc gia này có những mức phạt rất nặng khiến cho người dân và ngay cả du khách cũng phải ý 24 thức về việc đó. Vì vậy đường phố ở Singapore lúc nào cũng sạch sẽ, môi trường được bảo vệ. 1.3.4. Kinh nghiệm của Malaysia: Bộ Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Malaysia đã xác định hướng phát triển du lịch của quốc gia này là duy trì đa dạng sinh học và phát huy bản sắc văn hóa Malay truyền thống nhưng họ cũng không phủ nhận sự pha trộn các dòng văn hóa ngoại lai để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo. Chương trình du lịch nghỉ tại nhà dân cho du khách nước ngoài để họ có điều kiện tiếp xúc, trao đổi và trực tiếp tham gia vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng là một trong những sản phẩm thành công của Malaysia. 1.4. VÀI NÉT VỀ NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM: Du lịch Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt mức phát triển cao, số lượt khách du lịch quốc tế và nội địa liên tục tăng, doanh thu từ du lịch đã đạt con số 1,36 tỷ USD từ năm 2002, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 36 nước trên thế giới có doanh thu từ du lịch đạt trên 1 tỷ USD (theo Tạp chí Du lịch Tp.HCM tháng 1/2003). Bảng 2: TÌNH HÌNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI KỲ 2000 – 2004 Năm Tiêu thức 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) Khách du lịch quốc tế (1.000 lượt khách) 2.141 2.330 2.628 2.430 2.930 8,16 Khách du lịch nội địa (1.000 lượt khách) 11.200 11.700 12.350 13.005 14.500 6,70 Thu nhập từ du lịch (tỷ đồng) 18.050 20.500 21.000 22.015 26.000 9,55 (Nguồn: Tổng cục Thống kê và website www.vietnamtourism.com của Tổng cục du lịch VN) 25 Đồ thị 3: TÌNH HÌNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI KỲ 2000 – 2004 12.79 -7.53 11.50 20.58 8.83 4.46 5.98 4.88 13.57 2.44 4.83 18.10 -10.00 -5.00 0.00 5.00 10.00 15.00 20.00 25.00 2000 2001 2002 2003 Năm % Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế Tốc độ tăng trưởng khách nội địa Tốc độ tăng trưởng thu nhập từ du lịch Bảng 3: KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM THỜI KỲ 2000 – 2004 (Đơn vị tính: 1.000 lượt khách) Năm Tiêu thức 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) Tổng số khách 2.141 2.330 2.628 2.430 2.930 8,16 Theo phương tiện đến: - Đường hàng không - Đường biển - Đường bộ 1.114 256 771 1.294 285 751 1.540 309 779 1.395 242 793 1.828 264 838 13,18 0,78 2,11 Theo mục đích chuyến đi: - Du lịch, nghỉ ngơi - Đi công việc - Thăm thân nhân - Các mục đích khác 1.138 492 400 111 1.225 395 390 320 1.460 446 431 291 1.239 468 392 331 1.583 523 466 358 8,60 1,53 3,89 34,0 Theo thị trường: - Các nước ASEAN - Châu Á - Châu Âu - Châu Mỹ - Các thị trường khác 266 1.045 258 240 332 241 1.101 302 267 419 270 1.321 344 303 390 327 1.241 294 259 309 356 1.544 345 322 363 7,55 10,25 7,50 7,65 2,25 Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng do tác giả tính từ số liệu nguồn (Nguồn: Tổng cục Thống kê và website www.vietnamtourism.com của Tổng cục du lịch VN) 26 Ngành du lịch Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân tương đối cao nhưng không ổn định. Theo nhận xét chung của nhiều nhà kinh doanh du lịch thì hoạt động kinh doanh du lịch của chúng ta mới chỉ được thực hiện ở bước sơ khai, chúng ta chưa có một công nghệ du lịch thật sự để khai thác hiệu quả những tiềm năng, những ưu thế sẵn có của chúng ta. Theo phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại hội nghị tổng kết năm 2004 của ngành du lịch thì “Cả chất lượng và tính chuyên nghiệp của ngành du lịch thực tế vẫn rất kém” (báo Thanh niên số 11-3307), cụ thể như tình trạng điểm du lịch và điểm bán hàng không tách bạch, lễ hội được tổ chức nhiều nhưng “tân không ra tân, cổ không ra cổ”, tình trạng phá vỡ quy hoạch ở nhiều nơi như đảo Phú Quốc, Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình)… Ông Chủ tịch Hiệp hội du lịch Nhật Bản lần đầu tiên đến thăm Việt Nam đã phát biểu “Lần đầu tiên tôi đến Việt Nam. Đất nước các bạn đẹp hơn những gì bạn đã nói, đã làm” (theo Tạp chí Du lịch Tp.HCM số 6-2004). Theo ông Thân Hải Thanh – giám đốc công ty dịch vụ du lịch Bến Thành – thì “khách đến Việt Nam hiện chỉ để khám phá chứ chưa chọn Việt Nam như một điểm đến để nghỉ ngơi dài ngày, du lịch thật sự. Tỷ lệ 3–5% khách trở lại đã nói lên điều này” (theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 50/2004). Vấn đề đặt ra là liệu chúng ta có thể đạt được tốc độ tăng trưởng và thu nhập từ ngành du lịch cao hơn những gì chúng ta hiện có hay không? Xét về tổng thể có thể phân nước ta thành 3 vùng du lịch lớn, bao gồm: - Vùng du lịch Bắc bộ: với trung tâm là Hà Nội và các vùng phụ cận bao gồm Đồ sơn, vịnh Hạ Long, Hòa Bình, Điện Biên Phủ, Tam Đảo, Tam Cốc, Bích Động, Hoa Lư, Cửa Lò… Ở vùng này, 4 loại hình du lịch có nhiều tiềm năng phát triển và cũng là thế mạnh của vùng là du lịch văn hóa, du lịch biển, du lịch bản làng và du lịch điền dã – làng lúa nước. 27 - Vùng du lịch Bắc Trung bộ: với trung tâm là Huế – Đà Nẵng và các vùng phụ cận bao gồm Phong Nha, Hội An, Mỹ Sơn, Quảng Trị, Sa Huỳnh… thế mạnh của vùng này là du lịch văn hóa và du lịch cảnh quan thiên nhiên. - Vùng du lịch Nam Trung bộ và Nam bộ: với các trung tâm là Đà Lạt, Tây Nguyên, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan Thiết và thành phố Hồ Chí Minh. Thế mạnh của du lịch Nam Trung bộ là du lịch biển và du lịch văn hóa Chàm. Tây Nguyên có thế mạnh riêng là du lịch bản làng. Nam bộ với trung tâm du lịch lớn nhất và nhiều sức hút nhất là thành phố Hồ Chí Minh, từ đây có thể hình thành các tuyến du lịch liên vùng, liên quốc gia. Như vậy, xét trên phạm vi toàn quốc về tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch thì loại hình du lịch văn hóa – tìm hiểu, nghiên cứu và cảm nhận bề dày lịch sử văn hóa mà trong đó du lịch điền dã làng lúa nước là trọng tâm; du lịch biển và du lịch bản làng là những thế mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và cả thế giới. Đây là những loại hình du lịch có thể tạo nên sắc thái riêng của Việt Nam, là cái mà khách du lịch quốc tế muốn được hòa nhập để hiểu tập quán, sinh hoạt, cảnh sắc thiên nhiên của những vùng thôn dã êm ả, cao nguyên hiền hòa… thậm chí du khách còn mong muốn được hòa mình vào cuộc sống thường nhật, chứng kiến cảnh sinh hoạt hàng ngày của người dân bản địa… qua đó tăng thêm sự hiểu biết và sẽ bắt gặp nhiều điều thú vị bất ngờ về đất nước và con người Việt Nam chúng ta. Để đẩy mạnh sự phát triển của du lịch, chúng ta phải biết rõ thế mạnh của chúng ta, dựa theo kinh nghiệm của những nước đi trước để biến những thế mạnh đó thành tiền, thành ngoại tệ, tăng thu nhập cho nền kinh tế mà vẫn bảo tồn được những di sản và những nét văn hóa, truyền thống dân tộc của chúng ta./. 28 Chương 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DU LỊCH TỈNH BÌNH THUẬN 2.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ – XÃ HỘI: 2.1.1. Điều kiện tự nhiên: Bình Thuận là một tỉnh duyên hải nằm ở cực Nam Trung Bộ, phía Đông Bắc và Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận; phía Bắc và Tây Bắc giáp Lâm Đồng; phía Tây giáp Đồng Nai, phía Tây Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Diện tích toàn tỉnh là 7.828 km2, chiếm 2,378% diện tích của cả nước. Về mặt hành chính, tỉnh gồm có thành phố Phan Thiết, 1 huyện đảo Phú Quý và 7 huyện gồm Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Hàm Tân, Đức Linh và Tánh Linh. Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng: vùng rừng núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Bờ biển dài hơn 192 km từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná – Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu – Bà Rịa Vũng Tàu có nhiều nhánh núi đâm ra biển tạo nên các mũi: La Gàn, Mũi Nhỏ, Mũi Rơm, Mũi Né, Kê Gà và chia bờ biển thành nhiều đoạn lõm, vòm, tạo ra những vùng cửa biển tốt như La Gàn – Phan Ri, Mũi Né – Phan Thiết, La Gi... Bình Thuận nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, ít chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, khí hậu quanh năm nóng, khô hạn. Nhiệt độ trung bình năm 260C – 270C, lượng mưa trung bình năm 800 – 1.150 mm. 29 Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km. Tỉnh có quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam đi qua; bờ biển dài với nhiều bãi cát trắng, nước trong xanh, sạch sẽ cùng với những dãy núi trùng điệp, nối những bãi biển nên thơ và những dải đồng bằng bát ngát. Thiên nhiên và con người tạo nên một Bình Thuận có nhiều “cái nhất” như: đồi cát đẹp nhất, nhà thờ cá voi lớn nhất, đèn biển cao nhất, thanh long nhiều và ngon nhất, tượng Phật dài nhất, bãi đá có nhiều hình thù và màu sắc nhất… tất cả đều khắc họa vẻ đẹp riêng hấp dẫn du khách mọi miền đến với Bình Thuận. 2.1.2. Điều kiện xã hội: 2.1.2.1. Dân số – Lao động: Tính đến hết năm 2002, dân số của tỉnh là 1.096.700 người, chiếm 1,376% dân số của cả nước. Mật độ dân số trung bình là 140 người/km2, chỉ bằng 0,58 lần so với mật độ dân số trung bình của cả nước, mật độ cao nhất là ở huyện đảo Phú Quý (1.310 người/km2), kế đến là ở thành phố Phan Thiết (924 người/km2). Nhìn chung, dân số của tỉnh có cơ cấu trẻ, sự biến động cơ cấu tuổi có xu hướng ngày càng hợp lý, tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm dần từ 0,96% năm 1992 xuống còn 0,93% vào năm 2000. Đây là một thuận lợi về nguồn nhân lực cho thời kỳ quy hoạch tới, song cũng gây ra những khó khăn không nhỏ trong việc xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo và các vấn đề xã hội khác. Nếu so với vùng Đông Nam Bộ thì cơ cấu xã hội của dân số còn nặng sắc thái nông nghiệp nông thôn và mật độ dân số còn ở mức thấp. Tổng nguồn lao động của tỉnh tính đến cuối năm 2002 là khoảng gần 500.000 người với trình độ học vấn có xu hướng nâng lên và có khả năng tăng nhanh trong các năm sau. Tuy nhiên thực trạng vẫn còn thấp, tỷ lệ người chưa biết chữ còn khá cao từ 6-7%; tỷ lệ tốt nghiệp cấp I khoảng 38%, cấp II khoảng 19% và cấp III 30 khoảng 7-8%. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật so với số lao động đang làm việc của tỉnh chỉ chiếm khoảng 6%, trong đó đại học và trên đại học khoảng 1%, cao đẳng là 0,5%, công nhân kỹ thuật là 2% và trung học chuyên nghiệp là 2.8%. Thực trạng cơ cấu lao động có trình độ chuyên môn của tỉnh là còn rất thấp. 2.1.2.2. Tăng trưởng kinh tế: Thời kỳ 1992 – 2000, nền kinh tế Bình Thuận đạt được nhịp độ tăng trưởng khá cao và liên tục, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 10,78%/năm. Trong đó, giai đoạn 1992 – 1995 tăng bình quân 12,04%/năm, giai đoạn 1996 – 2000 tăng trưởng bình quân khoảng 10,16%/năm. Trong năm 2004, GDP của tỉnh dự kiến đạt mức tăng trưởng là 13%, ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao khoảng 16,6 – 16,7% trong khi ngành nông lâm thủy sản tăng 7,9%. Bảng 4: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN 1992 – 2004 (Đơn vị tính: %) 1992 – 2000 1992 – 1995 1996 – 2000 1. GDP toàn tỉnh 10,86 12,04 10,16 _ Nông lâm thủy sản 7,67 6,99 8,08 + Nông lâm sản 6,57 5,93 6,95 + Thủy sản 10,98 10,51 11,26 _ Công nghiệp, xây dựng 18,61 29,35 12,60 + Công nghiệp 15,16 20,87 11,87 + Xây dựng 29,67 60,53 14,08 _ Dịch vụ 12,33 12,96 11,95 2. Bình quân cả nước 8,20 9,30 7,00 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế –Xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2001 – 2010 và website của tỉnh Bình Thuận www.binhthuan.gov.vn) Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo xu hướng tăng dần tỷ trọng khu vực Công nghiệp và Dịch vụ và giảm dần tỷ trọng khu vực Nông lâm nghiệp. 31 Đồ thị 4: CƠ CẤU KINH TẾ CỦA TỈNH BÌNH THUẬN QUA CÁC NĂM 24.00 29.60 34.60 38.00 11.40 20.50 23.00 27.80 64.60 49.90 42.40 34.20 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 1992 1995 2000 2004 Năm Dịch vụ Công nghiệp - Xây dựng Nông lâm thủy sản (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế – Xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2001 – 2010 và website của tỉnh Bình Thuận www.binhthuan.gov.vn). Theo số liệu trên ta thấy khu vực dịch vụ có xu hướng tăng khá nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trên thực tế, hoạt động thương mại của tỉnh đã có những bước phát triển đáng kể. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch cũng thực sự có những bước chuyển biến tích cực, đặc biệt là những năm gần đây. Ví dụ, giai đoạn 1992 – 1995 lượng khách du lịch đến Bình Thuận có tốc độ tăng bình quân khoảng 24%/năm, trong đó khách quốc tế tăng bình quân khoảng 19%/năm và chiếm tỷ trọng khoảng 10 – 15% tổng số khách; sang giai đoạn 1996 – 2000, mức tăng bình quân luôn đạt trên 70%/năm, tỷ lệ này đối với khách quốc tế là khoảng 60%/năm; sang giai đoạn 2001 – 2004, mức tăng khách bình quân là 23%/năm, trong khi khách quốc tế cũng tăng hơn 13%/năm. Sự tăng trưởng này có ý nghĩa rất lớn vì nó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành công 32 nghiệp, dịch vụ khác hỗ trợ cho nó và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho lực lượng lao động của tỉnh. 2.1.2.3. Văn hóa – Lễ hội: Bình Thuận là vùng đất có nền văn hóa đa dạng và lâu đời của nhiều dân tộc. Toàn tỉnh có 37 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó 6 dân tộc đông nhất là: Việt (Kinh), Chăm, Ra Glai, Hoa, Cơ Ho và Tày. Đặc biệt nơi đây còn lưu giữ nền kiến trúc của người Chăm rất phong phú với những tháp cao bằng đất nung vừa thanh thoát, vừa bền vững với dáng đứng hiên ngang. Những tác phẩm điêu khắc Chăm như tượng các thần, các vị vua, hoàng hậu, vũ nữ… đã thể hiện trình độ điêu luyện về kỹ thuật chạm, khắc với những đường nét chắc, khỏe, lãng mạn, giàu trí tưởng tượng. Trang phục, nhạc cụ, điệu múa, lời ca là những di sản quý của nền văn hóa cổ Sa Huỳnh và văn hóa Chăm cổ còn được lưu giữ đến ngày nay. Các công trình kiến trúc cổ có đền, tháp, đình, chùa, lăng, miếu đan xen với các di tích khảo cổ học, di tích lịch sử cách mạng, các lễ hội truyền thống của người Việt, người Chăm… đã mang lại cho Bình Thuận những nét văn hóa riêng độc đáo. Một số lễ hội đặc trưng có thể kể ra đây như hội đền dinh Thầy Thím, lễ hội Kate, lễ hội cầu yên, lễ Nghinh ông… Một số di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu của Bình Thuận bao gồm: di tích trường Dục Thanh, nhà lưu giữ bảo vật Vương quốc Chăm, đền thờ Pôklông–Mơh Nai, nhóm di tích tháp cổ Pô–Sha–Nư, chùa Hang, chùa Bảo Sơn, đền thờ Cổ Hỷ, chùa Linh Sơn Trường Thọ (chùa núi Tà – Cú), Vạn Thủy Tú… Các điểm du lịch nổi tiếng ở Bình Thuận là Mũi Né, khu du lịch Hòn Rơm, hòn Lao Câu, đảo Phú 33 Quý, suối Tiên, bãi biển Đồi Dương, khu du lịch Vĩnh Hảo – Tuy Phong, hồ Biển Lạc, núi Tà – Cú, lầu ông Hoàng, hải đăng Khe Gà… 2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG THỜI GIAN QUA: Trong thời gian qua, ngành du lịch tỉnh Bình Thuận đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là từ sau năm 1995, ngành du lịch Bình Thuận như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. 2.2.1. Khách du lịch: Trong năm 2004, Bình Thuận dự kiến đón khoảng 1,5 triệu lượt du khách nội địa đến tham quan và nghỉ ngơi. Nguồn khách này chủ yếu là khách ở khu vực Nam bộ và Nam Trung bộ, tỷ lệ khách đến từ khu vực Bắc Trung bộ và Bắc bộ còn thấp do giới hạn về vị trí. Theo số liệu thống kê của Sở Thương mại – Du lịch Bình Thuận thì có đến hơn 80% trong tổng số du khách đến Bình Thuận với mục đích du lịch biển và tỷ trọng này có xu hướng ngày càng tăng, nhất là sau khi có sự đầu tư nhiều hơn cho các dự án du lịch ở khu vực Phan Thiết, Mũi Né, Tiến Thành, Hàm Thuận Nam… Về khách du lịch quốc tế, trong năm 2004 Bình Thuận dự kiến đón khoảng 102.000 lượt du khách. Trước đây, nguồn khách quốc tế chủ yếu là những người nước ngoài sống và làm việc tại Việt Nam, lượng khách nước ngoài đến trực tiếp từ các nước chưa nhiều, do đó đa số khách có quốc tịch Hàn Quốc, Nhật, Pháp, Đài Loan… Trong những năm gần đây, số lượng khách liên tục tăng và nguồn khách cũng đa dạng hơn trước, tỷ lệ khách đến trực tiếp từ các nước cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt là thị trường khách Nga, Úc, Mỹ (chủ yếu là Việt kiều). Riêng năm 2002 – 2003 do nhiều nguyên nhân khách quan, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính như dịch cúm gia cầm, bệnh SARS và những bất ổn trong tình 34 hình chính trị chung của thế giới… làm cho du khách quốc tế có tâm lý ngại đi du lịch, nhưng lượng du khách đến Bình Thuận vẫn không giảm. Bảng 5: SỐ LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH GIAI ĐOẠN 1991 – 2004 TỔNG SỐ KHÁCH KHÁCH QUỐC TẾ NĂM SỐ KHÁCH (lượt khách) TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (%) SỐ KHÁCH (lượt khách) TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (%) 1991 22.162 0 2.636 0 1992 1993 25.008 12,84 3.769 42,98 1994 1995 53.200 112,73 5.300 40,62 1996 58.500 9,96 7.900 49,06 1997 70.000 19,66 14.000 77,22 1998 250.000 257,14 16.500 17,86 1999 2000 513.000 105,20 53.000 221,21 2001 800.000 55,95 69.775 31,65 2002 1.100.000 37,50 90.000 28,99 2003 1.280.000 16,36 90.000 0 2004 1.500.000 17,19 102.000 13,33 Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1991 – 2004 113.680 khách/năm 38,3%/năm 7.643 khách/năm 32,5%/năm (Nguồn: Báo cáo kết quả sau 10 năm thực hiện chỉ thị số 300/TTg ngày 05/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế biển trên lĩnh vực du lịch – Sở TM-DL Bình Thuận) Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng do tác giả tính từ số liệu nguồn Xem xét tốc độ tăng trưởng khách du lịch bình quân thì trong suốt giai đoạn từ 1991 đến 2004, Bình Thuận đạt được tốc độ tăng khoảng 38%/năm, trong đó khách du lịch quốc tế tăng khoảng 32%/năm. Đây là tỷ lệ tăng khá cao, nhưng nếu 35 xem xét ở từng giai đoạn thì có sự chênh lệch khá lớn, không ổn định qua các năm và tỷ lệ này đang có xu hướng giảm mạnh. Đồ thị 5: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG SỐ LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH 0 12.84 112.73 17.1916.36 105.20 19.66 9.96 257.14 37.50 55.95 0 50 100 150 200 250 300 1991 1993 1995 1996 1997 1998 2000 2001 2002 2003 2004 Năm % (Nguồn: Báo cáo kết quả sau 10 năm thực hiện chỉ thị số 300/TTg ngày 05/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế biển trên lĩnh vực du lịch – Sở TM-DL Bình Thuận) Đồ thị 6: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG SỐ LƯỢNG KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ 0 77.22 221.21 - 13.33 42.98 17.86 28.99 40.62 49.06 31.65 0 50 100 150 200 250 1991 1993 1995 1996 1997 1998 2000 2001 2002 2003 2004 Năm % (Nguồn: Báo cáo kết quả sau 10 năm thực hiện chỉ thị số 300/TTg ngày 05/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế biển trên lĩnh vực du lịch – Sở TM-DL Bình Thuận) Đồ thị 7: SO SÁNH TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA KHÁCH DU LỊCH VÀ KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ QUA CÁC NĂM 36 0 12.84 112.73 17.1916.36 105.20 19.66 9.96 257.14 37.50 55.9577.22 221.21 - 13.33 42.98 17.86 28.9940.62 49.06 31.65 0 50 100 150 200 250 300 1991 1993 1995 1996 1997 1998 2000 2001 2002 2003 2004 Năm % Giai đoạn 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình là 24,5%/năm với số lượng khách từ 22.162 lượt trong năm 1991 tăng lên đến 53.200 lượt khách vào năm 1995, trong đó số khách quốc tế tương ứng là 2.636 và 5.300 lượt khách với tốc độ tăng trung bình là 19,1%/năm. Sang giai đoạn 1996 – 2000, đây là giai đoạn phát triển “đột biến” của du lịch Bình Thuận, tốc độ tăng trưởng khách trung bình trên 70%/năm đạt 513.000 khách vào cuối năm 2000, trong đó tốc độ tăng khách quốc tế cũng đạt trên 60%/năm với 53.000 lượt khách. Tuy nhiên sau đó, giai đoạn 2001 – 2004 tốc độ tăng số lượng khách lại giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 23%/năm đạt 1.500.000 khách năm 2004 và tốc độ tăng khách quốc tế chỉ khoảng 13%/năm với 102.000 lượt khách. Dễ dàng nhận thấy tốc độ tăng trưởng khách du lịch nội địa vẫn thường xuyên cao hơn tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế, do đó khi xây dựng chiến lược phát triển cũng như các quy hoạch cần quan tâm đến yếu tố này vì đặc điểm của 2 đối tượng khách này khác nhau khá nhiều. Có nhiều lý do để giải thích cho sự tăng trưởng về số lượng khách quá nhanh trong giai đoạn 1996 – 2000. Trong đó nguyên nhân quan trọng nhất chính là sự hấp dẫn của vùng đất này mà từ lâu khách du lịch chưa biết đến. Chỉ từ sau sự kiện nhật thực toàn phần xảy ra tại đây vào hồi cuối tháng 10/1995 thu hút hàng vạn nhà 37 khoa học, khách du lịch trong và ngoài nước đến đây để chiêm ngưỡng, nghiên cứu thì mọi người mới nhận ra những cảnh quan kỳ thú và tiềm năng kinh tế của vùng đất này. Tuy nhiên do phát triển quá nhanh nên chỉ trong một thời gian ngắn, du lịch Bình Thuận đã bộc lộ ra những điểm yếu của mình, cơ sở hạ tầng không đáp ứng đủ nhu cầu cũng như yêu cầu của khách, lượng khách đổ về nhiều trong khi ngành du lịch của tỉnh chưa có đủ kinh nghiệm trong quản lý và phát triển du lịch dẫn đến hàng loạt các vấn đề phát sinh như nạn ô nhiễm môi trường, các cơ sở lưu trú được xây dựng ồ ạt nhưng không đảm bảo chất lượng, phá vỡ quy hoạch chung của tỉnh, dịch vụ cung cấp cho khách không đảm bảo chất lượng, hệ thống cung cấp nước – thoát nước chưa đầy đủ, nguồn nhân lực chưa sẵn sàng để tham gia vào các hoạt động du lịch chuyên nghiệp… Tất cả những yếu tố đó đã làm giảm mạnh lượng khách đến với Bình Thuận trong thời kỳ sau đó, thời kỳ 2001 – 2004. 2.2.2. Doanh thu: Năm 2004, doanh thu từ du lịch của tỉnh Bình Thuận ước đạt 361 tỷ đồng, tăng 21,14% so với năm 2003, trong đó lĩnh vực lưu trú và ăn uống chiếm khoảng 90% tổng doanh thu. Tính chung cho thời kỳ 1991 – 2004 thì tốc độ tăng trưởng bình quân là trên 35%/năm, nhưng nếu tính cho từng thời kỳ thì tốc độ tăng có xu hướng tăng mạnh rồi sau đó giảm dần. - Thời kỳ 1991 – 1995: trong thời kỳ này tuy tốc độ tăng trưởng bình quân của khách du lịch không cao (24,5%/năm) nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu lại đạt trên 43%/năm. - Thời kỳ 1996 – 2000: tốc độ tăng trưởng bình quân của khách du lịch tăng cao một cách đột biến (70%/năm) nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân lại không cao như vậy, chỉ đạt bình quân khoảng 33%/năm. 38 - Thời kỳ 2001 – 2004: tốc độ tăng trưởng bình quân của cả khách du lịch lẫn doanh thu vẫn có tăng nhưng không bằng hai thời kỳ trước, nhưng nếu so với tốc độ tăng trưởng về khách thì tốc độ tăng trưởng về doanh thu vẫn khả quan hơn đạt trên 26%/năm. Những gì xảy ra đều rất hợp lý trong tình hình phát triển du lịch của Bình Thuận. Vì tò mò, muốn khám phá một điểm đến mới với nhiều thắng cảnh đẹp và nhiều điều kỳ thú mà không phải du khách nào cũng có thể khám phá hết nên lượng khách đổ về Bình Thuận trong thời kỳ 1996 – 2000 tăng “đột biến”. Có thể nói du khách hoàn toàn không bị thất vọng về những vẻ đẹp mà họ đã được nghe, đã được thấy qua báo chí, hình ảnh… nhưng họ lại bị “thất vọng” về vấn đề khác, đó là họ không có cơ hội để tiêu hết số tiền mà họ mang theo, mà đây thực sự là một trong những nhu cầu của du khách, đặc biệt là khách nước ngoài. Khi đến đây rồi, ngoài những chi phí liên quan đến việc lưu trú, ăn uống, đi lại và tham quan thì gần như họ không phải chi cho cái gì nữa, muốn hưởng thụ các dịch vụ giải trí hay đơn giản chỉ là việc mua quà lưu niệm cho người thân cũng rất khó vì vào thời đó, các dịch vụ chưa phát triển, nếu có thì rất ít và chất lượng cũng không đáp ứng được nhu cầu của khách. Do đó, trong thời kỳ này doanh thu tăng chủ yếu là do doanh thu lưu trú và ăn uống tăng. Bước sang thời kỳ 2001 – 2004, ngành du lịch của tỉnh Bình Thuận có sự phát triển mang tính chuyên nghiệp hơn thời kỳ trước với sự ra đời của hàng loạt các khách sạn, khu nghỉ dưỡng, khu du lịch cao cấp đạt tiêu chuẩn 3 – 4 sao; các đơn vị kinh doanh bắt đầu tổ chức thêm các hoạt động, dịch vụ phục vụ du khách như lặn biển, câu cá câu mực ngoài biển, lướt sóng… các dịch vụ này đã tạo ra nguồn thu đáng kể đồng thời góp phần kéo dài ngày lưu trú của khách hơn. Thời gian lưu trú 39 bình quân trong thời kỳ này là 1,9 ngày đối với khách quốc tế (tăng 0,55 ngày so với thời kỳ 1996 – 2000) và là 1,4 ngày đối với khách nội địa (tăng 0,2 ngày so với thời kỳ 1996 – 2000). Chính vì vậy mà doanh thu có mức tăng bình quân cao hơn so với mức tăng bình quân về số lượng khách trong thời kỳ này. Bảng 6: DOANH THU TỪ DU LỊCH THỜI KỲ 1991 – 2004 DOANH THU LƯU TRÚ, ĂN UỐNG DOANH THU KHÁC TỔNG DOANH THU NĂM DOANH THU (tỷ đồng) TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (%) DOANH THU (tỷ đồng) TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (%) DOANH THU (tỷ đồng) TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG (%) 1991 2,015 5,161 7,176 1993 5,869 191.27 6,757 30.92 12,626 75.95 1995 14,179 141.59 16,488 144.01 30,667 142.89 1996 17,300 22.01 15,200 -7.81 32,500 5.98 1997 37,500 116.76 6,000 -60.53 43,500 33.85 1998 60,150 60.40 13,250 120.83 73,400 68.74 2000 102,000 69.58 21,100 59.25 123,100 67.71 2001 125,000 22.55 53,000 151.18 178,000 44.60 2002 158,000 26.40 68,000 28.30 226,000 26.97 2003 208,000 31.65 90,000 32.35 298,000 31.86 2004 320,000 53.85 41,000 -54.44 361,000 21.14 BÌNH QUÂN 47,68 %/năm 23,05 %/năm 35,18 %/năm (Nguồn: Báo cáo kết quả sau 10 năm thực hiện chỉ thị số 300/TTg ngày 05/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế biển trên lĩnh vực du lịch – Sở TM-DL Bình Thuận) Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng do tác giả tính từ số liệu nguồn 40 Đồ thị 8: DOANH THU TỪ DU LỊCH THỜI KỲ 1991 – 2004 14.179 17.3 37.5 60.15 102 125 158 208 32053 68 90 41 5.8692.015 6.7575.161 16.488 15.2 6 13.25 21.1 0 50 100 150 200 250 300 350 400 1991 1993 1995 1996 1997 1998 2000 2001 2002 2003 2004 Năm Tỷ đồng Doanh thu từ lưu trú, ăn uống Doanh thu khác Nếu xem xét ở góc độ đóng góp của lĩnh vực dịch vụ – du lịch đối với GDP của tỉnh thì trong thời gian vừa qua, tỷ trọng này liên tục tăng. Ở thời điểm năm 1997, GDP trong lĩnh vực du lịch của tỉnh Bình Thuận được xác định chiếm khoảng 2,37 – 2,4% GDP toàn tỉnh, năm 2000 tỷ trọng này tăng lên là 5,2% GDP toàn tỉnh, năm 2002 tăng lên chiếm 6,5% GDP toàn tỉnh và năm 2004, GDP trong lĩnh vực này ước chiếm khoảng 8% GDP toàn tỉnh. Điều này cho thấy hoạt động du lịch đã và đang góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo chiều hướng tích cực, phù hợp với mục tiêu phát triển mà tỉnh đã đề ra, phấn đấu đến năm 2005, tỷ này sẽ là 10% GDP toàn tỉnh. 2.2.3. Cơ sở vật chất: Với tốc độ tăng trưởng về khách du lịch và doanh thu luôn ở mức cao như trên thì cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho ngành du lịch cũng phải phát triển mạnh, số lượng buồng phòng khách sạn, cơ sở lưu trú du lịch cũng phải tăng cao. 41 Năm 1991, toàn tỉnh mới chỉ có 238 phòng khách sạn, trong đó có chưa đến 60 phòng đạt tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Năm 2000, toàn tỉnh cũng mới chỉ có khoảng 610 phòng khách sạn thì đến nay, tháng 12/2004, toàn tỉnh đã có trên 100 cơ sở kinh doanh lưu trú đang hoạt động kinh doanh với tổng số phòng trên 2.300 phòng (không kể các nhà trọ, nhà nghỉ có quy mô nhỏ). Trong đó, cơ sở lưu trú hoạt động theo dự án có 74 doanh nghiệp gồm 7 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài và 67 cơ sở đầu tư trong nước; có 52 khách sạn, khu du lịch đã được xếp hạng với tổng số phòng là 1.971 phòng nghỉ, trong đó tiêu chuẩn 4 sao có 3 cơ sở lưu trú với 255 phòng, tiêu chuẩn 3 sao có 8 cơ sở lưu trú với 530 phòng, tiêu chuẩn 2 sao có 15 cơ sở lưu trú với 644 phòng, tiêu chuẩn 1 sao có 16 cơ sở lưu trú với 360 phòng và đạt tiêu chuẩn tối thiểu có 10 cơ sở với 182 phòng. Công suất sử dụng phòng bình quân trong giai đoạn 2001 – 2004 là 52 – 55% thấp hơn thời kỳ 1996 – 2000 với công suất phòng bình quân đạt khoảng 55 – 60%. Theo thống kê của Sở Thương mại – Du lịch Bình Thuận thì đến hết ngày 15/12/2004, trên địa bàn toàn tỉnh đã có 103 dự án du lịch được chấp thuận đầu tư mới và 17 dự án đầu tư mở rộng. Như vậy, cho đến nay toàn tỉnh có 357 dự án du lịch còn hiệu lực với tổng diện tích đất cấp là 2.464,4 ha với tổng vốn đăng ký đầu tư là 7.322 tỷ đồng. Trong đó có: - 15 dự án đầu tư nước ngoài với tổng diện tích đất cấp là 704,834 ha và tổng vốn đăng ký là 1.337,5 tỷ đồng. - 342 dự án đầu tư trong nước với tổng diện tích đất cấp là 1.759,6 ha và tổng vốn đăng ký là 5.984,5 tỷ đồng. Như vậy, bình quân mỗi dự án có diện tích đất cấp là khoảng 6,9 ha và suất đầu tư khoảng 2,97 tỷ đồng/ha. 42 Với 68 dự án đang triển khai thực hiện, xây dựng và 215 dự án s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA2139.pdf
Tài liệu liên quan