Luận án Biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển đà nẵng trong quá trình đô thị hóa

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM -------------------- Lê Thị Thu Hiền BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội – 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM -------------------- Lê Thị Thu Hiền BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Chuyên ngành

pdf234 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển đà nẵng trong quá trình đô thị hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Văn hóa học Mã số: 62 31 06 40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI QUANG THANH Hà Nội - 2017 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ: Biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa là công trình do tôi viết và chưa công bố, các tư liệu sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2017 Tác giả luận án Lê Thị Thu Hiền 2 MỤC LỤC LỜICAM ĐOAN ....................................................................................................... 1 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ 3 DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ......................................................................... 4 MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .. 25 1.1. Các khái niệm thao tác ....................................................................................... 25 1.2. Lý thuyết nghiên cứu ......................................................................................... 32 1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ........................................................................... 39 Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 49 CHƯƠNG 2. TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG ................................................................................................................ 50 2.1. Niềm tin và thực hành tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng ..................... 50 2.2. Đối tượng thờ tự ................................................................................................. 54 2.3. Cơ sở thờ tự (không gian văn hóa thực hành tín ngưỡng) ................................. 59 2.4. Hệ thống lễ cúng ................................................................................................ 65 Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 73 CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HIỆN NAY . 75 3.1. Khái quát về quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng .................................................... 75 3.2. Thay đổi trong niềm tin và thực hành tín ngưỡng.............................................. 82 3.3. Thay đổi đối tượng và cơ sở thờ tự .................................................................... 92 3.4. Thay đổi trong lễ cúng ....................................................................................... 99 Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 108 CHƯƠNG 4. TÍN NGƯỠNG CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA, MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ........................ 109 4.1. Nhận diện đặc trưng văn hóa của cư dân ven biển Đà Nẵng qua thực hành tín ngưỡng ............................................................................................................... 109 4.2. Những nhân tố tác động đến biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa .............................................................................. 116 4.3. Các xu hướng biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng .................. 127 Tiểu kết chương 4.................................................................................................... 133 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 135 DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....................... 138 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 139 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 152 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Ch.b : Chủ biên CTQG : Chính trị Quốc gia ĐHQG : Đại học Quốc gia KHXH : Khoa học xã hội Nxb : Nhà xuất bản PL : Phụ lục STT : Số thứ tự TP : Thành phố Tr : Trang 4 DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ Bảng 1. Hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa áp dụng cho Việt Nam .. 30 Bảng 3.1. Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Mỹ Khê, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ..................................................... 85 Bảng 3.2. Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Nam Thọ, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ..................................................... 85 Bảng 3.3. Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Thanh Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ................................................ 86 Bảng 3.4. Đóng góp của các hộ gia đình cho hoạt động thực hành tín ngưỡng . 88 Bảng 3.5. Đến cơ sở thờ tự của làng Mỹ Khê, Nam Thọ và Thanh Khê ............ 88 Bảng 3.6. Tham gia lễ hội của người dân địa phương ........................................ 90 Bảng 3.7. Nguyên nhân không tham gia lễ hội tại các điểm nghiên cứu ............ 90 Bảng 4. Thực trạng thực hành tín ngưỡng của bộ phận thanh niên làng Mỹ Khê .................................................................... 130 Biểu đồ 3.1. Sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành (1997 - 2015) ........................ 76 Biểu đồ 3.2. Sự tăng giảm dân thành thị và nông thôn ở thành phố Đà Nẵng (1997 - 2015) ................................................... 78 Biểu đồ 3.3. Niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân tại ba điểm nghiên cứu ............. 83 Biểu đồ 3.4. Tần suất cúng bái tại các cơ sở thờ tự ................................................ 87 Biểu đồ 3.5. Tần suất đến các cơ sở thờ tự của ba làng hiện nay ........................... 89 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Biến đổi là một quy luật tất yếu trong sự vận động không ngừng của lịch sử, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống con người, trong đó có văn hóa. Tuỳ vào nhân tố tác động cũng như “bản lĩnh tự thân”, các thành tố của văn hóa biến đổi khác nhau về tốc độ, quy mô, phương thức, trạng thái. Sự biến đổi đó biểu hiện xu thế hay các trạng hướng vận động mới của văn hóa. Và trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, mà biểu hiện đặc trưng là đô thị hóa, văn hóa nói chung cũng như tín ngưỡng nói riêng mỗi ngày một đổi thay mạnh mẽ do sự tương tác của nhiều nhân tố khác nhau. Hình thành dựa trên cơ sở niềm tin của con người vào cái siêu nhiên, tín ngưỡng ra đời gắn với cuộc sống con người từ thuở còn sơ khai, mông muội, phát triển thăng trầm qua các thời kỳ lịch sử và tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người Việt hiện nay. Những niềm tin tưởng chừng “mơ hồ” trong tín ngưỡng lại có tác dụng nâng đỡ tâm hồn con người trong một bối cảnh xã hội đầy xáo động (về các giá trị xã hội, đạo đức, niềm tin...) với những đổi mới không ngừng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ngày nay. Là một trong những địa phương tiêu biểu của cả nước về hiệu quả và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, bộ mặt thành phố Đà Nẵng đang ngày càng thay đổi không ngừng. Theo đó, nhiều giá trị văn hóa đã dần biến đổi dưới tác động của quá trình đô thị hóa theo cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Hơn nữa, từ khoảng gần hai chục năm trở lại đây, cũng như khá nhiều địa phương ven biển khác của Việt Nam, Đà Nẵng đã và đang chủ động trong trào lưu hướng biển, tạo xây mối quan hệ kinh tế và văn hóa biển, nhằm mục đích phát triển một cách toàn diện và bền vững Đà Nẵng trong hiện tại và lâu dài. Do vậy, nghiên cứu diện mạo và biến đổi văn hóa của cư dân ven biển, cụ thể là tín ngưỡng tại một thành phố đô thị hóa đang diễn ra sôi động như Đà Nẵng là một trong những công việc giúp sự tiếp cận vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nghiên cứu có nhiều ý nghĩa hơn. 6 Bên cạnh đó, nằm trong nhóm thành phố đáng sống hàng đầu ở Việt Nam, Đà Nẵng là một thành phố ven biển có cảnh quan đẹp, con người thân thiện, kiến trúc thành phố hài hòa với thiên nhiên, cơ sở hạ tầng tốt. Tuy nhiên, để có thể tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội của thành phố một cách bền vững trong tương lai, Đà Nẵng cần đảm bảo tăng trưởng kinh tế không tàn phá môi trường, không làm cho xã hội bất ổn và đặc biệt là không làm mất đi các giá trị văn hóa truyền thống. Trong khi đó, hiện tại Đà Nẵng mới phân bổ ngân sách cho hoạt động văn hóa hàng năm là 0,9%, thay vì 1,8% nguồn thu (GDP) của tỉnh theo quy định của luật [133]. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hoạt động văn hóa, nhất là hoạt động nghiên cứu và bảo tồn chưa được quan tâm đúng mức, làm cho các giá trị văn hóa truyền thống, bao gồm cả tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng chưa được nhận thức đầy đủ và ngày càng bị mai một. Vì vậy, kết quả nghiên cứu tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa sẽ góp thêm cơ sở, luận cứ cho các cấp chính quyền địa phương có chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa thành phố nói chung, tín ngưỡng cư dân ven biển nói riêng một cách đúng đắn, thiết thực hơn. Mặt khác, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã xác định Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về văn hóa địa phương, cụ thể là tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển Đà Nẵng trên hai phương diện truyền thống và biến đổi trong bối cảnh hiện đại hóa đang diễn ra sôi động tại Đà Nẵng là việc làm hết sức cần thiết, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, vừa thực hiện theo đúng đường lối phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bàn về tín ngưỡng và biến đổi tín ngưỡng, dưới góc độ lý luận và thực tiễn, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Riêng đối với Đà Nẵng, ngoài công trình chuyên khảo Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng của Nguyễn Xuân Hương tiếp cận dưới góc độ văn hóa dân gian, tập trung khảo tả tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam và Đà Nẵng ở 7 khía cạnh truyền thống, thì chỉ có một vài bài báo, tạp chí viết về tín ngưỡng thờ cá Voi và lễ hội Cầu ngư của các làng ven biển Đà Nẵng. Do vậy, với những tư liệu nghiên cứu sinh tiếp cận được, có thể khẳng định rằng, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, hệ thống về diện mạo và biến đổi tín ngưỡng ở bộ phận cư dân ven biển thành phố Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Điều đó có nghĩa, cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu về biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong bối cảnh đô thị hóa thành phố hiện nay để bổ sung vào phần khuyết thiếu này trong nghiên cứu về tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng nói riêng, cư dân ven biển Việt Nam nói chung. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn vấn đề: Biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa làm đề tài nghiên cứu của luận án tiến sĩ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Các nghiên cứu trong nước về tín ngưỡng của cư dân ven biển Việt Nam Tín ngưỡng cư dân ven biển ở Việt Nam được đề cập đến trong một số công trình cuối thế kỷ XIX song chỉ là những ghi chép tản mạn, thiếu hệ thống, chủ yếu về tín ngưỡng thờ cá Voi ven biển. Những tác phẩm đầu tiên có thể kể đến là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí - phần tỉnh Thừa Thiên của Quốc sử quán triều Nguyễn có đề cập đến vai trò quan trọng của cá Voi trong đời sống ngư dân Trung Bộ và Nam Bộ, vì thế mà được tôn sùng, kính trọng [32], [72]. Tín ngưỡng thờ cá Voi còn được đề cập đến, không mô tả và bình luận, trong các tác phẩm Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên, Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [45], [4]. Sau năm 1954, việc nghiên cứu văn hóa của cư dân ven biển được chú ý nhiều hơn, nhưng chủ yếu vẫn là tín ngưỡng thờ cá Voi. Tiêu biểu như: Kẻ thừa tự của ông Nam Hải của Cung Giũ Nguyên và Tục thờ cá Voi của Thái Văn Kiểm cùng đề cập khá kỹ đến sự thờ phụng cá Voi của cư dân ven biến phía Nam [46]. 8 Phải đến đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các bài viết cũng như nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian làng ven biển Việt Nam được công bố và vì thế, bức tranh văn hóa biển Việt Nam nói chung, tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam nói riêng ngày càng được phác họa rõ nét. Trước hết, tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam được đề cập trong những công trình chuyên sâu về văn hóa làng ven biển hay cộng đồng ngư dân ở Việt Nam. Các tác giả đa phần đều đi vào miêu thuật lại các thành tố văn hóa nổi bật tại vùng đất mình nghiên cứu, vừa cố gắng khái quát hóa hết mức có thể nhằm xây dựng bức tranh toàn diện, đa chiều; vừa chọn lọc, phân tích những yếu tố văn hóa đặc thù để làm nổi bật nét riêng có của địa phương mình. Những thành tố được lựa chọn thường là: Di tích, tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, diễn xướng, văn học dân gian, tri thức bản địa. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu: Văn hóa dân gian làng ven biển do Ngô Đức Thịnh chủ biên [82], Cộng đồng ngư dân ở ViệtNam của Nguyễn Duy Thiệu [80], Văn hóa cư dân ven biển Quảng Ngãi của Nguyễn Đăng Vũ [87], Cộng đồng ngư dân Nam Bộ do Trần Hồng Liên chủ biên [54], Văn hóa cư dân Việt ven biển Phú Yên của Tập thể tác giả của Viện Văn hóa Nghệ thuật và Sở Văn hóa - Thông tin Phú Yên [107], Văn hóa biển miền Trung Việt Nam của Lê Văn Kỳ [51],Phong tục - tín ngưỡng dân gian làng biển Đông Tác củaLê Thế Vịnh - Nguyễn Hoài Sơn [109], Đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của ngư dân và cư dân vùng biển Nam Bộ của Phan Thị Yến Tuyết [104]... Nghiên cứu riêng về tín ngưỡng cư dân ven biển ở Việt Nam, nổi bật hơn cả là công trình chuyên khảo Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa của Lê Quang Nghiêm. Công trình này đã đưa đến một cái nhìn cụ thể, rõ ràng hơn về niềm tin, nguồn gốc thờ cúng và lễ nghi khấn vái của những người hành nghề đánh bắt cá bằng cách đặt lưới cố định dọc theo chân các gành đảo ở Khánh Hòa qua việc điền dã, khảo sát các tục thờ: Cúng ráp xương queo, cúng Tổ, cúng Tết thuyền, cúng khai sơn, cúng kết gang, cúng ra mắt, cúng Lịch y, cúng Dàng, cúng Cầu ngư, cúng mừng Rau, cúng Hạ đăng, cúng Tạ và nhấn mạnh, miêu thuật lại những tục thờ cúng đặc biệt và kỳ lạ của 10 sở đầm đăng của Khánh Hòa [60]. 9 Dù khan hiếm các công trình quy mô tìm hiểu về tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam nói chung hay cư dân ven biển tại các tỉnh thành, tuy nhiên từ những năm đầu thế kỷ XXI cho đến nay, ngày càng xuất hiện nhiều các bài viết trên tạp chí đề cập riêng về tín ngưỡng cư dân sinh sống ven biển. Tiêu biểu như các bài viết của Tôn Thất Bình, Nguyễn Thanh Lợi, Phạm Văn Tú, Nguyễn Xuân Đức, Lê Thanh Tùng... cùng hàng loạt bài tham luận trong các hội thảo: Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa, văn nghệ dân gian Nam Trung Bộ;Văn hóa sông nước miền Trung, Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ;Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ Vị Thánh Nương với văn hóa biển ở Việt Nam;Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa biển, đảo Việt Nam... Qua các bài báo, bài tham luận, có thể thấy nổi bật lên trong tín ngưỡng của cư dân ven biển Việt Nam là tín ngưỡng thờ cá Voi. Dù có sự khác nhau về địa bàn nghiên cứu (Quảng Bình, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Cần Thơ) song các tác giả đều gặp nhau ở phương pháp và cách tiếp cận. Dựa trên khảo cứu nguồn tư liệu kết hợp quan sát, tham dự khi tiến hành thực địa, các nghiên cứu gần như cùng có chung nhận định tín ngưỡng thờ cá Voi của người Việt phổ biến và dàn trải trên khu vực Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam, bắt nguồn từ tục thờ thần biển của người Việt và tiếp biến từ thờ vị thủy thần Cha - Aih - Va của người Chăm. Xét về cơ bản, những biểu hiện cơ bản của tín ngưỡng ở các địa phương như đối tượng thờ, nơi thờ tự, đám tang cá Voi, phong tục, lễ nghi, lễ hội tương đối giống nhau, mặc dù trong từng tiểu tiết mỗi vùng miền ít nhiều có sự khác biệt. Tiêu biểu như: Lê Văn Kỳ [51], Phạm Văn Tú [99], Nguyễn Xuân Hương [46], Lê Thế Vịnh, Nguyễn Hoài Sơn [109], Nguyễn Thanh Lợi [55],... Bên cạnh tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu là đối tượng thứ 2 được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn khảo sát khi đề cập đến tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam. Quy mô hơn cả là hội thảo Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ Vị Thánh Nương với văn hóa biển ở Việt Nam tập trung phân tích các vấn đề xoay quanh 4 vị thánh nữ - nhân vật trung tâm trong lễ hội đền Cờn ở Nghệ An và được thờ tự phổ 10 biến nhiều nơi ven biển nước ta. Ninh Viết Giao, Trần Thị An làm sáng tỏ nghi vấn về thân phận của Tứ Vị Thánh Nương qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian, tục thờ cúng. Nguyễn Xuân Đức “bóc tách” các lớp văn hóa tâm linh đền Cờn. Nguyễn Thị Yên nhìn lễ hội đền Cờn trong trạng thái vận động và biến đổi qua so sánh truyền thống và thực tại, trong khi Đinh Văn Hưng chỉ chú ý đến giá trị truyền thống của lễ hội phản ánh đời sống văn hóa cư dân vùng biển Quỳnh Lưu. Hồ Phi Hùng nhấn mạnh vào sự hiện tồn của các lễ hội khác ngoài lễ hội đền Cờn và văn hóa biển ở Quỳnh Lưu có giá trị khai thác phát triển địa phương bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo. Cũng quan tâm đến giá trị du lịch của đền Cờn là các tác giả Đào Tam Tỉnh, Trương Minh Hằng, Đoàn Văn Nam. Từ văn hóa đền Cờn và tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nghệ An, Hoàng Tuấn Phổ, Hồ Đức Thọ, Ngô Đăng Lợi, Nguyễn Xuân Hương, Nguyễn Thanh Lợi đối chiếu đến tín ngưỡng thờ Tứ Vị Thánh Nương và thờ Nữ thần ở các vùng biển khác như Thanh Hóa, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Nam - Đà Nẵng, Nam Bộ trên các mặt: Địa điểm, sắc phong, bố cục nơi thờ tự, nghi lễ,... [65]. Ngoài thờ Tứ vị thánh mẫu, trong công trình Một góc nhìn về văn hóa biển - tập hợp các bài viết đã đăng tạp chí của Nguyễn Thanh Lợi có một bài ngắn đề cập đến tín ngưỡng thờ bà Thủy Long, trong đó khảo tả qua những nơi thờ bà Thủy Long ở cư dân ven sông, ven biển miền Trung [55]. Còn Phạm Văn Tú lại tìm hiểu sự thâm nhập của tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu vào đời sống tâm linh cư dân vùng biển phía Nam Việt Nam [99]. Một số tác giả khác còn quan tâm đến tín ngưỡng thờ cô hồn ven biển Nam Trung Bộ. Nhưng nếu như Nguyễn Đăng Vũ chỉ đưa ra những nét khái quát nhất về nơi thờ, các nghi lễ, lễ vật, ý nghĩa tục thờ, qua đó nhấn mạnh vào nguồn gốc và các hằng số giá trị trong tín ngưỡng thờ cô hồn dọc biển thì Nguyễn Thanh Lợi, bằng rất nhiều cứ liệu cụ thể về tục thờ cô hồn tại các làng ven biển Nam Trung Bộ, đặc biệt qua việc phân tích cơ sở thờ tự, nghi lễ và phong tục đã đưa đến một cái nhìn vừa cụ thể vừa đa diện với những biểu hiện hết sức phong phú mang sắc thái riêng của từng địa phương trên cùng mảnh đất Nam Trung Bộ [127]. 11 Mặt khác, vấn đề tín ngưỡng cư dân ven biển trong nền kinh tế thị trường gắn với việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống bước đầu được một số nhà nghiên cứu chú ý, điển hình là 2 bài viết Đôi nét văn hóa dân gian ven biển trong nền kinh tế thị trường và Bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển của Lê Hồng Lý. Dưới góc độ quản lý văn hóa, sau khi điểm qua một số sinh hoạt văn hóa nổi trội của cộng đồng cư dân ven biển, tác giả cho rằng trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố trong tín ngưỡng truyền thống cư dân ven biển Việt Nam đang dần dần biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị tín ngưỡng nói riêng, văn hóa cư dân ven biển nói chung [57]. Hoặc dự báo các xu hướng phát triển của văn hóa dân gian ven biển, bao hàm cả tín ngưỡng, trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có giá trị tham khảo cho các nhà quản lý văn hóa đô thị ven biển [58]. Như vậy, có thể thấy cho đến nay trong lĩnh vực nghiên cứu tín ngưỡng cư dân ven biển ở Việt Nam nổi bật lên một số đặc điểm sau: - Thứ nhất, về thời gian nghiên cứu: Mặc dù đã được đề cập đến trong một số công trình cuối thế kỷ XIX song chỉ là những ghi chép tản mạn, thiếu hệ thống, chủ yếu về tín ngưỡng thờ cá Voi ven biển. Cho đến cuối thế kỷ XX, có rất ít chuyên khảo nghiên cứu về văn hóa cư dân ven biển nói chung, tín ngưỡng cư dân ven biển nói riêng. Năm 2000, với Văn hóa dân gian các làng ven biển do Ngô Đức Thịnh chủ biên, văn hóa cư dân ven biển Việt Nam, trong đó có tín ngưỡng, ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên mọi phương diện. Qua đó, bước đầu góp phần nhận diện và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về đời sống tín ngưỡng của cư dân ven biển Bắc, Trung, Nam. - Thứ hai, về không gian nghiên cứu: Bờ biển Việt Nam dài 3260km, bao gồm trong đó hàng loạt đảo và quần đảo. Dọc theo bờ biển lại có nhiều vũng, vịnh, đó là địa bàn thuận lợi để ngư dân sinh sống suốt từ Bắc đến Nam. Do đó, từ những nghiên cứu bước đầu về văn hóa, tín ngưỡng các làng biển ở Bắc và Bắc Trung Bộ, 12 các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam đã mở rộng không gian, tập trung ngày càng nhiều vào khu vực ven biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ. - Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu: Đa số đều vận dụng phương pháp nghiên cứu định tính như quan sát, tham dự, phỏng vấn sâu với lối miêu tả, trần thuật, kết hợp so sánh, phân tích và đạt được nhiều kết quả trong việc phục dựng, khắc họa diện mạo tín ngưỡng trong nền văn hóa biển truyền thống ở Việt Nam. Chưa có nhiều những công trình sử dụng kết hợp phương pháp định lượng trong nghiên cứu tín ngưỡng cư dân ven biển để có thể “đo đạc” những đối tượng nghiên cứu mang tính vô hình, trừu tượng như các giá trị, các ý nghĩ, thái độ và niềm tin của chủ thể tín ngưỡng. - Thứ tư, về nội dung: Tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam đã được triển khai nghiên cứu trên nhiều bình diện, cơ bản làm rõ được các vấn đề về các loại hình tín ngưỡng đặc thù, những biểu hiện đặc trưng của tín ngưỡng truyền thống như nguồn gốc, đối tượng thờ, cơ sở thờ tự, nghi lễ... Tuy nhiên, tín ngưỡng cư dân ven biển được tìm hiểu chủ yếu ở phương diện truyền thống với những biểu hiện bề mặt, chưa đi sâu vào nghiên cứu những biến đổi của nó dưới tác động của các yếu tố đương đại ngày nay. Tựu trung, trong hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI, nghiên cứu tín ngưỡng cư dân ven biển bắt đầu trở thành hướng đi được giới học giả trong nước quan tâm, chú trọng, đóng góp không nhỏ cho khoa học về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Những nghiên cứu này đã giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn sát thực và đầy đủ về diện mạo tín ngưỡng của cư dân ven biển ở Việt Nam. 2.2. Các nghiên cứu về tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng Trước đây, nghiên cứu văn hóa Đà Nẵng thường gắn liền với Quảng Nam thành một tổng thể - văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng hay văn hóa xứ Quảng (có phần chú trọng Quảng Nam hơn Đà Nẵng). Ban đầu chỉ là những bài viết, công trình đi sâu vào một số lĩnh vực cụ thể của văn hóa như văn học, lễ hội, âm nhạc, phong tục tập quán, ngôn ngữ, tính cách con người. Gần đây đã xuất hiện những công trình mang tính tổng quát, khá quy mô của tập thể các tác giả Võ Văn Hòe, Hoàng Hương Việt, 13 Bùi Văn Tiếng [42]. Hay tác phẩm đề cập đến văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng dưới dạng địa chí do Thạch Phương, Nguyễn Đình An chủ biên [68]. Từ sau khi tách tỉnh (năm 1997), văn hóa Đà Nẵng với tư cách là một tổng thể riêng biệt mới bắt đầu được giới nghiên cứu quan tâm. Mọi công trình đều cố gắng phác họa những đặc trưng riêng có của văn hóa Đà Nẵng trong đối sánh với văn hóa Quảng Nam/xứ Quảng. Đó là Phạm Hoàng Hải [36], Lê Duy Anh, Lê Hoàng Vinh [6], Bùi Văn Tiếng [90], [91], Võ Văn Hòe [40]. Về tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng, trong những công trình chung về văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng, các hình thái tín ngưỡng của vùng đất này không được tách bạch, mô tả rõ nét mà lồng trong diện mạo chung của tín ngưỡng cả khu vực Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ góc nhìn đó, văn hóa Đà Nẵng nói chung và cư dân ven biển Đà Nẵng nói riêng chỉ là những đốm sáng mờ nhạt, thấp thoáng sau Quảng Nam rộng lớn. Trong công trình Đình làng Đà Nẵng do Hồ Tấn Tuấn chủ biên, các tác giả đã giới thiệu 35 ngôi đình trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có 6 ngôi đình ở 6 làng ven biển Đà Nẵng là: đình làng An Hải, đình làng Mân Quang, đình làng Mỹ Khê, đình làng Nại Hiên Đông, đình làng Nam Thọ, đình làng Thanh Khê. Ở góc độ tín ngưỡng, đình các làng ven biển Đà Nẵng là nơi thờ Thành hoàng bổn xứ, các bậc Tiền hiền, hậu hiền, đồng thời là nơi thực hiện nghi lễ cúng bái, tổ chức lễ hội. Theo một “khuôn mẫu”, các tác giả trình bày lịch sử hình thành và những đổi thay của ngôi đình gắn với những bước thăng trầm của làng trong lịch sử địa phương, dân tộc, mô tả kiến trúc của đình, bài trí trong đình và lịch lễ được tổ chức tại đình [100]. Cuốn sách Sắc phong ở Đà Nẵng lại tiếp cận tín ngưỡng ở Đà Nẵng nói chung, cư dân ven biển ở Đà Nẵng nói riêng dưới một chiều cạnh khác. Qua các văn bản sắc phong ở các làng ven biển như An Hải, Hóa Khuê Đông, Mân Quang, Nam Thọ, Mỹ Khê, có thể biết được các vị thần được thờ tự ở các làng ven biển (và được các tác giả làm rõ hơn qua việc “truy tìm” gốc tích một số vị thần có tính phổ quát, phổ biến ở phần mở đầu của sách), mỹ hiệu được triều đình phong kiến gia tặng, 14 thái độ, ý thức của Nhà nước phong kiến đối với tín ngưỡng [89]. Ở phạm vi bài báo đăng trên tạp chí, Biển trong đời sống văn hóa của ngư dân Đà Nẵng, hai tác giả Tống Quốc Hưng, Võ Văn Hoàng có điểm qua những tín ngưỡng sinh hoạt đặc thù của ngư dân Đà Nẵng như thờ cá Voi và lễ hội Cầu ngư, thờ Mẫu, một số kiêng kỵ. Ngoài ra, bài báo còn đề cập đến văn học, ẩm thực, nghề truyền thống, các loại hình đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân Đà Nẵng, xem đó như những dấu ấn văn hóa biển độc đáo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa dân gian của thành phố Đà Nẵng [48]. Trong khi đó, bài viết của Đinh Thị Trang lại hướng đến tục thờ cây của cư dân Đà Nẵng, bao hàm cả cư dân ven biển như miếu ông Gốc ở hai làng biển Nam Ô và Xuân Dương, quận Liên Chiểu, nhưng chỉ lý giải nguồn gốc tục thờ này ở nơi đây [92]. Những năm đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các bài viết chuyên về tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng được công bố trên các tạp chí chuyên ngành Văn hóa và tác giả của chúng - Nguyễn Xuân Hương thực sự đã có đóng góp to lớn vào lĩnh vực nghiên cứu này khi tác giả cho ra đời cuốn Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng. Nội dung tác phẩm đã đi sâu vào phân tích, khảo tả các loại hình tín ngưỡng, lễ hội ở cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng như: Tục thờ cá Ông, lễ hội Cầu ngư, hát chèo đưa linh, tục thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cô hồn - cô bác, tín ngưỡng thờ tổ tiên. Hệ thống tín ngưỡng, lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng đồng đề cập trong công trình được tác giả tiếp cận dưới phương diện loại hình theo lịch sử hình thành, diễn trình phát triển. Dù là công trình duy nhất đến nay mang tính hệ thống về tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng song chỉ khảo sát ở phương diện lịch sử và biểu hiện của các tín ngưỡng, khía cạnh biến đổi của tín ngưỡng được đề cập như một nội dung phụ trong công trình. Hơn nữa, đề cập chung cả tín ngưỡng Quảng Nam và Đà Nẵng [46]. Ngoài ra, dưới dạng một bài viết ngắn trong cuốn sách, các tác giả Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô [41], Lê Duy Anh [5], có đề cập đến tín ngưỡng thờ cá Ông và lễ hội Cầu ngư làng Tân Thái (nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà). Đinh Thị Trang thì tìm hiểu tín ngưỡng thờ cá Ông ở làng Nam Ô (nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên 15 Chiểu) và làng Tân Trà (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) [93], [135]. Nằm trong phạm vi khảo sát của luận án, tín ngưỡng của cư dân làng Nam Thọ, Mỹ Khê, Thanh Khê bước đầu được điểm qua trong các cuốn lịch sử đấu tranh cách mạng phường Thọ Quang, Phước Mỹ và Thanh Khê Đông. Bên cạnh đó, có thể kể đến công trình nghiên cứu do Hồ Tấn Tuấn chủ biên giới thiệu qua về lịch sử, kiến trúc đình làng Nam Thọ, đình làng Mỹ Khê và đình làng Thanh Khê. Ở một góc độ khác, trong khi đi tìm hiểu các bản sắc phong ở Đà Nẵng lưu giữ tại đình làng, Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan đã cho biết thêm về các loại hình tín ngưỡng và đối tượng tôn thờ của cư dân ven biển thuộc ba làng nói trên thông qua việc dịch nội dung các sắc phong ở Nam Thọ và Mỹ Khê. Và một số bài viết ngắn mang tính chất thông tin, giới thiệu về đình làng, lễ hội Cầu ngư của 3 làng trên các báo mạng. Như vậy, cho đến nay, có rất ít công trình, bài viết nghiên cứu về văn hóa Đà Nẵng và càng ít tác giả quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng của bộ phận cư dân ven biển Đà Nẵng, đặc biệt là đời sống tín ngưỡng và biến đổi tín ngưỡng trong bối cảnh đô thị hóa mạnh mẽ, sôi động đang diễn ra ở Đà Nẵng hiện nay. Do đó, đây vẫn là “mảnh đất” có nhiều khoảng trống cần được khai phá, lấp đầy. 2.3. Các nghiên cứu về đô thị hóa ở Đà Nẵng Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Đà Nẵng được nhìn nhận là một trong những thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh và mạnh nhất Việt Nam thời gian qua. Một trong những thành quả to lớn nhất của thành phố Đà Nẵng trong hơn một thập niên qua là công tác quy hoạch và chỉnh trang đô thị, thu hồi đất, tái định cư một cách hiệu quả. Do đó, những nghiên cứu về Đà Nẵng thường quan tâm đến các vấn đề kinh tế - xã hội của thành phố trong quá trình đô thị hóa như vấn đề kinh tế và môi trường; lao động nhập cư; giải phóng mặt bằng và sự chuyển đổi nghề nghiệp; thu hồi đất và tái định cư Đề tài Biến đổi việc làm và thu nhập của nhóm dân sau tái định cư ở thành phố Đà Nẵng của Trần Văn Thạch nghiên cứu những thay đổi t... biến chuyển trên hầu hết các phương diện của đời sống kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu thường dựa trên các tiêu chí sau để đánh giá đô thị hóa: quy mô dân số thành thị, tỉ lệ thị dân, tốc độ tăng dân số thành thị, mật độ đô thị. Dưới đây là hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa theo phương pháp phân tích đa tiêu chí: Bảng 1. Hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa áp dụng cho Việt Nam Nhóm Các tiêu chí Các chỉ tiêu Nhóm 1: Đánh giá mức độ phát triển kinh tế - xã hội Tiêu chí 1: Dân số đô thị - Quy mô dân số - Mật độ dân số - Tỷ lệ dân số đô thị - Tỷ lệ hộ nghèo Tiêu chí 2: Lao động đô thị - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp - Tỷ lệ thất nghiệp Tiêu chí 3: Phát triển kinh tế đô thị - Tốc độ tăng GDP bình quân năm - Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ - GDP bình quân đầu người Tiêu chí 4: Vị trí và phạm vi ảnh hưởng của đô thị - Ảnh hưởng của đô thị đến việc phát triển vùng và quốc gia - Sự mở rộng quy mô hành chính và nội thành Nhóm 2: Đánh giá mức độ phát triển Tiêu chí 5: Nhà ở đô thị - Diện tích nhà bình quân đầu người - Tỷ lệ nhà ở kiên cố trong tổng quỹ nhà ở Tiêu chí 6: Y tế đô thị - Cơ sở y tế/1000 dân Tiêu chí 7: Giáo dục đô - Số cơ sở giáo dục/1000 dân 31 Nhóm Các tiêu chí Các chỉ tiêu cơ sở hạ tầng xã hội thị Tiêu chí 8: Dịch vụ văn hóa, giải trí cho cộng đồng - Số điểm dịch vụ giải trí và dịch vụ cộng đồng/100000 dân Nhóm 3: Đánh giá mức độ phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật Tiêu chí 9: Giao thông đô thị - Tỷ lệ đất giao thông đô thị - Mật độ đường chính Tiêu chí 10: Cấp nước đô thị - Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch - Lượng nước cấp bình quân người/ngày Tiêu chí 11: Thoát nước đô thị - Mật độ đường ống thoát nước chính - Tỷ lệ nước thải được thu gom và xử lý Tiêu chí 12: Cung cấp điện và chiếu sáng đô thị - Cấp điện sinh hoạt bình quân người/năm - Tỷ lệ đường phố chính được chiếu sáng Tiêu chí 13: Bưu điện - Số điện thoại cố định/100 dân Tiêu chí 14: Vệ sinh môi trường đô thị - Tỷ lệ rác thải được thu gom và xử lý - Diện tích cây xanh/người Nhóm 4: Đánh giá trình độ quản lý đô thị Tiêu chí 15: Trình độ quy hoạch và quản lý quy hoạch - Quy hoạch đầy đủ và đồng bộ - Chấp hành quy hoạch - Bảo tồn và tôn tạo di sản văn hóa, lịch sử Tiêu chí 16: Trình độ quản lý hành chính - Tỷ lệ cán bộ quản lý đô thị có trình độ đại học trở lên - Trình độ áp dụng tin học trong quản lý [Nguồn: 31, tr.38] 32 1.2. Lý thuyết nghiên cứu 1.2.1. Lý thuyết biến đổi văn hóa Là đối tượng nghiên cứu trọng tâm của Nhân học, biến đổi văn hóa được xem như kết quả của quá trình vận động xã hội.Khái niệm biến đổi văn hóa chỉ sự thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa cho trước, được đặc trưng bởi sự thay đổi các biểu tượng văn hóa, các nguyên tắc ứng xử, các thiết chế văn hóa và các hệ thống giá trị. Biến đổi văn hóa được các nhà khoa học khởi xướng thuyết Tiến hóa luận như Edward B. Taylor hay L. Morgan đề cập đến từ thế kỷ XIX khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội cũng như biến đổi văn hóa. E.Taylor cho rằng: “Sự phát triển tiến bộ tiến hóa của các nền văn hóa là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Xu hướng phát triển này là rất hiển nhiên, vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác định, mà không thể làm ngược lại” [1, tr.53]. Theo các nhà tiến hóa luận, biến đổi văn hóa có một mô hình chung, đó là ở những nền văn hóa ngoài phương Tây được nhìn nhận “kém văn minh”, sự biến đổi văn hóa diễn ra chậm chạp, đối ngược với văn hóa phương Tây năng động và biến đổi nhanh. Các giai đoạn hiện tại của văn hóa đã tiến hóa lên từ các giai đoạn sớm hơn. Mô hình tiến hóa đơn tuyến về sự phát triển và biến đổi văn hóa này đã bị phản đối rộng khắp trong giới nhân học và là tiền đề dẫn đến sự ra đời và phát triển của khá nhiều lý thuyết mới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX, thuyết Truyền bá văn hóa ra đời và phát triển phổ biến ở các nước Âu - Mỹ. Các đại đại biểu của xu hướng này như G.Elliot Smith, W.Rivers ... cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc truyền bá/khuếch tán các đặc trưng văn hóa từ một xã hội này sang một xã hội khác [128]. Cũng trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện một số lý thuyết khác có liên quan đến biến đổi văn hóa như: Thuyết tương đối văn hóa (đại diện là Franz Boas) phản đối thuyết Tiến hóa văn hóa khi cho rằng quá trình lịch sử loài người và hướng chung của sự biến đổi văn hóa ngày càng trở nên 33 không còn là một vấn đề về sự phát triển tiến bộ mà là một sản phẩm của sự tình cờ lịch sử nhiều hơn [126]. Thuyết Vùng văn hóa (đại diện là C.L.Wissler, A.L.Kroeber...) đưa ra quan điểm về sự biến đổi đa chiều và nhiều cấp độ của văn hóa tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi trường và sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì [126]. Thuyết tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfield, Broom...) lại ám chỉ những biến đổi văn hóa diễn ra qua quá trình tiếp xúc lâu dài giữa các xã hội phương Tây và ngoài phương Tây, nhất là những ảnh hưởng mà các xã hội thống trị gây ra cho các tộc người bản địa [14, Tập 1, tr.12]. Từ năm 1920 đến năm 1950, một phương pháp tiếp cận biến đổi văn hóa có ảnh hưởng lớn đối với nước Anh là thuyết chức năng, trong đó phải kể đến hai nhà nghiên cứu là Malinowski và Radcliffe Brown. Hai ông cho rằng các xã hội và các văn hóa tương đối hòa hợp và cân bằng, vì vậy cần nghiên cứu mối quan hệ qua lại về chức năng của các hệ thống văn hóa, xã hội, chứ không phải nghiên cứu cách thức hệ thống này thay đổi. Nếu văn hóa trải qua sự biến đổi thì về cơ bản đó là kết quả của những ảnh hưởng bên ngoài [35, tr.92]. Đến năm 1955, Julian Steward đã khởi xướng một phương pháp tiếp cận biến đổi văn hóa khác trong nhân học Bắc Mỹ về sinh thái văn hóa, năm 1960 phương pháp này đã có ảnh hưởng lớn ở cả khu vực và trên thế giới. Julian Steward tìm cách chứng minh rằng sự biến đổi văn hóa có thể giải thích được chủ yếu trong khuôn khổ của sự thích nghi mang tính tiến bộ của một văn hóa cụ thể với môi trường của nó, với kết quả mà hướng biến đổi có thể dự đoán được [128]. Trong suốt nửa sau thế kỷ XX và phổ biến cho đến nay có một khuynh hướng nghiên cứu hấp dẫn các nhà nhân học, đó là nghiên cứu sự biến đổi văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt ở những xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Dù biến đổi văn hóa trong quá trình hiện đại hóa là một thực tế không thể đảo ngược, song các tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị truyền thống và nó sẽ chi phối sự lựa chọn của từng xã hội cụ thể đến chiều hướng, quy mô, dạng thức biến 34 đổi của văn hóa [114], [118], [115], [116]. Điều này hướng nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu biến đổi tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng lưu ý đến các giá trị bền vững của tín ngưỡng cộng đồng này trong quá trình đô thị hóa. Ở nước ta, trong thời gian gần đây đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa [94], [67], [34], [101], [76], [16]... Trong công trình Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Duy Bắc đã cho rằng: “Biến đổi văn hóa chính là quá trình thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá... các sản phẩm và các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại” [11, tr.36]. Bốn nhân tố tác động đến biến đổi văn hóa được đề cập trong công trình này bao gồm: Thứ nhất là sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; Thứ hai là nhân tố tư tưởng, chính trị; Thứ ba là kỹ thuật và công nghệ mới; Thứ tư là giao lưu văn hóa. Như vậy, các lý thuyết, quan điểm khác nhau có liên quan đến biến đổi văn hóa cung cấp cho nghiên cứu sinh những cách tiếp cận/luận giải không giống nhau về tác nhân biến đổi, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều góc độ để có câu trả lời thấu đáo về tính đa diện của hiện tượng/quá trình biến đổi văn hóa. Tựu trung, sự vận động và biến đổi văn hóa của một xã hội do các nhân tố cơ bản sau: (1). Những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thể hiện qua những chính sách đầu tư phát triển, về môi trường sống, về phương pháp, cách thức sản xuất, về nhu cầu nhận thức, giáo dục nhiều hơn của con người nhằm đáp ứng đòi hỏi của trình độ phát triển xã hội. (2). Điều kiện về kỹ thuật và công nghệ mới. Đây là một tác nhân cơ bản dẫn đến biến đổi văn hóa. Trong cuộc sống, kỹ thuật công nghệ mới góp phần làm thay đổi trình độ nhận thức, tạo sự phát triển của sản xuất vật chất, làm xuất hiện các loại hình văn hóa nghệ thuật mới như nhiếp ảnh, điện ảnh, rồi những hình thức hiện đại của thông tin như truyền thanh, truyền hình cũng như phổ cập rộng rãi những sản phẩm đó đến với mọi tầng lớp xã hội. 35 (3). Sự giao lưu văn hóa: Khi một cộng đồng tiếp xúc với một cộng đồng khác, có hai quá trình có thể diễn ra, từ đó, thúc đẩy văn hóa biến đổi, đó là truyền bá văn hóa và tiếp biến văn hóa. Truyền bá văn hóa là trình mà các yếu tố văn hóa được vay mượn từ một xã hội khác hội nhập với văn hóa của cộng đồng tiếp nhận được gọi là truyền bá văn hóa. Còn tiếp biến văn hóa là một quá trình tiếp xúc văn hóa mang tính bất bình đẳng giữa hai xã hội. Trong tiếp biến văn hóa, không loại trừ trường hợp hai chủ thể cùng “vay mượn” lẫn nhau nhưng phổ biến hơn là chủ thể yếu tiếp nhận các giá trị văn hóa từchủ thể mạnh. Áp dụng các luận điểm giải thích nguyên nhân biến đổi văn hóa ở trên, luận án đã chỉ ra các tác nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa, cụ thể từ sau năm 2003 đến nay. Đó là sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ về khoa học - kỹ thuật và những chính sách có liên quan đến vùng ven biển và ngư dân của Nhà nước, chính quyền thành phố Đà Nẵng. Trong những năm gần đây, sự phát triển về kinh tế là yếu tố quan trọng tác động đến sự biến đổi văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng. Kinh tế phát triển khiến đời sống cư dân ven biển Đà Nẵng trở nên khấm khá hơn, vì vậy có điều kiện đóng góp cho các hoạt động tín ngưỡng cộng đồng của làng. Bên cạnh đó không thể không nói đến nguồn hỗ trợ đáng kể từ những người con xa xứ - bộ phận kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài, điển hình là ở làng Thanh Khê. Mặt khác, kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống tinh thần của cư dân ven biển, người dân được tiếp xúc và hưởng thụ nhiều thành tựu văn hóa mới lạ, nhiều hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn, do đó, lễ hội Cầu ngư hay lễ hội đình làng không còn là niềm mong ngóng, chờ đợi trong năm của người dân ven biển để được xem hội, xem hát, giải tỏa căng thẳng, mệt nhọc trong công việc và cuộc sống. Cùng với sự phát triển về kinh tế tại các làng đánh cá ven biển, các phương tiện, ngư cụ của nghề biển ở Đà Nẵng hiện nay cũng đã thay đổi do có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật. Thuyền máy và dàn lưới hiện đại, la bàn, radio đã thay thế cho ghe nan, ghe mê với những dàn mành xưa cũ, với những tay chèo. Ngày càng nhiều tàu thuyền có công suất lớn được đưa vào sử dụng, mang lại sản lượng và 36 năng suất đánh bắt cao. Được trang bị, hỗ trợ bởi công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, niềm tin của con người vào các thế lực siêu nhiên, các vị thần biển luôn trợ giúp ngư dân bình an trong mỗi chuyến ra khơi vào lộng dường như dần dần bị mai một. Bên cạnh đó, những chính sách của Nhà nước và chính quyền thành phố Đà Nẵng cũng là một tác nhân quan trọng tạo nên sự thay đổi trong văn hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển nơi đây. Chiến lược biển Việt Nam của Nhà nước, được cụ thể hóa bằng những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội qua các năm của thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ ngư dân. Sự phát triển của kinh tế biển làm cho một số hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của dân biển phục hồi và tồn tại theo thời gian, song mặt khác cũng khó còn nguyên vẹn bởi mục đích thực dụng. Bên cạnh đó là chính sách quy hoạch giải tỏa, chỉnh trang đô thị khu vực ven biển Đà Nẵng và chính sách đầu tư phát triển văn hóa, tín ngưỡng của thành phố và các địa phương ven biển cũng tác động lớn đến diện mạo tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng hiện nay. Tuy nhiên, với bối cảnh nghiên cứu là quá trình đô thị hóa và đặt tín ngưỡng cổ truyền của cư dân ven biển Đà Nẵng trong không gian đô thị, nghiên cứu sinh nhận thấy cần lưu ý đến quan điểm của trường phái Chicago về đời sống đô thị khi nhận diện những nhân tố chính tác động đến sự biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng hiện nay. Theo Louis Wirth - một trong những đại biểu của trường phái Chicago - điều kiện sinh thái của kích cỡ, mật độ, tính lâu bền và hỗn tạp xã hội tạo ra một thế giới xã hội với nhiều mối quan hệ có tính phi cá thể, nông cạn, dễ chuyển đổi và đứt gãy. Không chỉ bám theo những kiểu cư trú theo các mối quan hệ gia đình và láng giềng, cư dân đô thị giờ đây có cuộc sống chắp vá với nhiều vai trò trong các thế giới xã hội đa sắc màu [14, Tập 2, tr.794]. Nói cách khác, toàn bộ bức tranh về đời sống đô thị của Wirth chứng tỏ con người vô danh, tách biệt khỏi hàng xóm của họ, liên quan đến những người khác chủ yếu để tăng tối đa lợi ích - kinh tế cá nhân của họ. Với đặc tính đời sống đô thị như vậy, văn hóa đô thị không thể thuần nhất mà luôn biến đổi đa dạng và phức tạp do sự giao lưu, tiếp biến văn hóa 37 liên tục/thường xuyên giữa các nhóm dân cư khác nhau. Đối với trường hợp Đà Nẵng, sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong quá trình đô thị hóa đã tạo ra sức hút với dòng di dân từ nông thôn và các tỉnh khác tới tạo nên những đóng góp lớn về kinh tế, đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội rất phức tạp. Ở phương diện văn hóa tín ngưỡng truyền thống, sự giao lưu, tiếp xúc giữa văn hóa của những người “ngụ cư” và “chính cư” tất yếu diễn ra, song ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng của cư dân bản địa vạn chài Đà Nẵng lên những người dân mới đến không mạnh mẽ. Không gắn bó lâu dài với mảnh đất, không có sự hiểu biết về tín ngưỡng, không làm nghề biển, những đặc tính đó khiến những người dân “ngụ cư” thêm xa rời với tín ngưỡng địa phương một khi chính bản thân họ cũng không quan tâm, không muốn hòa nhập vào nền văn hóa bản địa, do vậy, làm lơi lỏng phần nào tính cố kết cộng đồng làng xã về mặt tâm linh thông qua tín ngưỡng. Lý thuyết biến đổi văn hóa chính là cơ sở quan trọng của luận án, xác lập nền tảng lý thuyết để phân tích những nhân tố tác động đến biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay. 1.2.2. Lý thuyết sinh thái học văn hóa Sinh thái học văn hóa được coi như một mô hình lý thuyết để tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên bao quanh, cũng như tìm hiểu về văn hóa với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ đó. Những người theo thuyết sinh thái học văn hóa khẳng định rằng kiểu văn hóa của mỗi tộc người được tạo ra là do những nguồn tài nguyên và những giới hạn của môi trường xung quanh, kể cả những thay đổi trong môi trường đó [35, tr.110]. Năm 1955, Julian Steward đã khai sinh một cách tiếp cận mới mang tính khoa học và duy vật mà ông đặt tên là sinh thái học văn hóa (cultural ecology), nhìn nhận môi trường và văn hóa trong mối quan hệ tương hỗ, biện chứng: môi trường ảnh hưởng đến văn hóa và văn hóa ảnh hưởng đến môi trường. Steward xem sinh thái học văn hóa như một phương pháp luận để tìm hiểu xem các xã hội loài người đã thích nghi như thế nào đối với các loại môi trường tự nhiên khác nhau. Áp dụng 38 luận điểm này vào nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa, luận án cho thấy có sự liên hệ mật thiết giữa môi trường ven biển với đặc điểm văn hóa của người dân ven biển Đà Nẵng, biểu hiện cụ thể ở tín ngưỡng. J. Steward đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của môi trường trong sự biến đổi mang tính tiến hóa của văn hóa. Trong một công trình rất nổi tiếng của Steward, Lý thuyết biến đổi văn hóa: phương pháp luận của sự tiến hóa đa tuyến, ông đã xem sự biến đổi văn hóa như là kết quả của các kiểu thích nghi của con người đối với môi trường tự nhiên. Do đó, ông dành sự quan tâm đặc biệt cho cái mà ông gọi là “lõi văn hóa” (culture core) - là các chiến lược sinh kế trong một cộng đồng văn hóa. Qua lịch sử và thời gian, các mô hình sinh kế có sự thay đổi để thích ứng với một môi trường cụ thể. Hơn thế, lõi văn hóa có thể tác động trở lại các đặc điểm văn hóa khác. Do đó, quan điểm “lõi văn hóa“ chỉ ra vai trò có đi có lại của cả văn hóa lẫn môi trường trong việc thúc đẩy sự biến đổi văn hóa [120]. Vận dụng quan điểm “lõi văn hóa” của Steward, luận án nhận thấy rằng, cư dân ven biển Đà Nẵng đã tìm cách thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống, khi biển không còn là không gian sinh tồn chủ yếu của họ, do sự vơi cạn nguồn cá; do sự biến đổi khí hậu; do sự hình thành các khu du lịch, nhà hàng, khách sạn ven biển. Ở làng Mỹ Khê, biển không đảm bảo đời sống cho người dân, họ thay đổi phương thức mưu sinh sang các hoạt động kinh tế du lịch biển, làm việc trong các nhà hàng, khách sạn, quán ăn dọc ven biển. Ở làng Nam Thọ, truyền thống đánh bắt cá gần bờ khiến người dân ngại không vươn khơi, ngay cả khi nguồn cá gần bờ đang dần cạn kiệt, vì vậy ở đây, họ vừa tiếp tục duy trì hoạt động đánh bắt cá, trong tình trạng bấp bênh, vừa tìm kiếm những công việc mới khi có cơ hội. Ở làng Thanh Khê, thuộc một trong những phường ven biển Đà Nẵng có thu nhập sản lượng và giá trị sản xuất hải sản lớn nhất, với truyền thống đánh bắt xa bờ, nay được củng cố thêm bởi chiến lược vươn khơi, bám biển nhằm góp phần thực thi nhiệm vụ giữ gìn lãnh thổ biển đảo của Tổ quốc, cho nên, cuộc sống ngày càng gắn chặt hơn với môi trường biển. Tuy nhiên, nằm khá gần quận trung tâm thành phố là quận Hải Châu, 39 cư dân ven biển Thanh Khê có điều kiện thuận lợi tiếp cận nhiều công ăn việc làm có tính chất nhẹ nhàng, an toàn và ổn định hơn so với nghề biển, do vậy, vẫn có sự thay đổi nhất định trong sinh kế của cư dân ven biển. Đúng như quan điểm của Steward, các chiến lược sinh kế mới đã tác động trở lại lối sống của cộng đồng. Nói khác đi, khi chiến lược sinh kế thay đổi, lối sống của con người cũng thay đổi theo. Một khi sinh kế không còn gắn liền với môi trường biển thì những giá trị tín ngưỡng, văn hóa biển cũng dần mai một. Vì vậy, trong những tác nhân ảnh hưởng đến sự biến đổi tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay, luận án chú trọng đến tác nhân chuyển đổi sinh kế - nghề nghiệp ở cư dân ven biển Đà Nẵng, coi đó như một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. 1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Tổng quan môi trường tự nhiên, đặc điểm cư dân và văn hóa của cư dân ven biển Đà Nẵng 1.3.1.1. Đặc điểm môi trường tự nhiên ven biển Đà Nẵng Nằm ở vào trung độ của đất nước, Đà Nẵng cách thủ đô Hà Nội 764 km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Với vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không; cửa ngõ chính ra biển Đông của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng sông Mê Kông, Đà Nẵng có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững, đang từng bước vươn lên trở thành trung tâm kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Thành phố Đà Nẵng nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, thừa hưởng một chế độ bức xạ năng lượng mặt trời rất phong phú của vùng nhiệt đới, đồng thời còn chịu sự chi phối chủ yếu của các hoàn lưu gió mùa, tín phong và chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhiễu động nhiệt đới như: bão, áp thấp nhiệt đới, giải hội tụ nhiệt đới, Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan ở miền Nam. Do đó, mùa đông ở Đà Nẵng không 40 chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, các khối khí lạnh đã bị suy yếu nhiều sau khi vượt qua đèo Ngang và hầu như đã bị biến tính khi vượt qua khỏi đèo Hải Vân cao ngất ngưởng song không phải không có những thời điểm nhiệt độ Đà Nẵng hạ thấp, nhiều khi xuống dưới 200C. Ngược lại, ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam vào mùa hè cùng hiệu ứng phơn khiến Đà Nẵng rất khô và nóng, nhiệt độ có thể lên đến trên 370C. Vùng đồng bằng ven biển Đà Nẵng có nền nhiệt độ cao hơn so với vùng trung du miền núi, mưa nhiều với hai thời kỳ: khô hạn kéo dài từ tháng 2 đến tháng 7 và mưa lớn dồn dập từ tháng 9 đến tháng 12. Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng, vừa có núi, vùng núi cao và dốc tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp (chịu ảnh hưởng của biển nên bị nhiễm mặn). Ảnh hưởng của biển đến vùng đất này biểu hiện rõ rệt thành nhiều dạng địa hình đặc sắc như cồn cát duyên hải, các bãi phù sa biển, vụng và các bậc thềm biển. Giống như các tỉnh khác ở Trung Bộ, sông ngòi Đà Nẵng không đóng vai trò lớn trong việc hình thành nên đồng bằng. Đa số các sông đều ngắn và có trắc diện gần như nằm ngang ngay khi chúng vừa mới xuống đến đồng bằng. Vì vậy, chúng khó lòng có đủ khả năng để mà bồi đắp những vụng biển lớn và cấu tạo những đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu như ở châu thổ Bắc Bộ hay Nam Bộ. Dù không được thiên nhiên ưu đãi về nguồn lợi đất đai, song Đà Nẵng lại được bù đắp bằng nguồn lợi biển cả. Bờ biển Đà Nẵng dài hơn 90 km, trải dài từ chân đèo Hải Vân đến Non Nước. Bờ biển có vịnh nước sâu với các cửa ra biển như Liên Chiểu, Tiên Sa, có vùng lãnh hải thềm lục địa độ sâu 200m, tạo thành vành đai nước nông rộng lớn thích hợp cho việc phát triển kinh tế tổng hợp biển và giao lưu với nước ngoài. Đề cập đến thế mạnh của biển Đà Nẵng, không thể không nhắc đến nguồn tài nguyên biển nằm trong ngư trường trọng điểm của miền Trung, với trữ lượng nguồn lợi thủy sản khoảng 1.140.000 tấn, chiếm 43% trữ lượng của cả nước. Bên cạnh đó, các con sông chạy dọc ven biển đã cung cấp cho vùng nguồn nước lợ lớn, tạo được thuận lợi để nuôi trồng thủy sản với các hình thức như nuôi bè ở Thọ Quang, nuôi hải sản ở Nại Hiên Đông, vùng biển Cổ Cò. 41 Vùng ven biển Đà Nẵng còn nổi tiếng với những bãi tắm đẹp liên hoàn cùng nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và giá trị như bãi tắm Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, Nam Ô thích hợp phát triển những khu du lịch sinh thái, những khu nghỉ dưỡng, khách sạn sang trọng. Đặc biệt, quanh bán đảo Sơn Trà là vòng cung bờ biển tuyệt đẹp, trải dài hàng chục km với những bãi san hô lớn, đây sẽ là nguồn tài nguyên quý giá phục vụ cho việc phát triển du lịch sinh thái biển ở Đà Nẵng. Nhìn chung, môi trường tự nhiên vùng ven biển Đà Nẵng bao hàm các điều kiện thuận tiện cho con người sinh sống. Đồng thời, ở đây còn có đầy đủ các nhân tố thuận lợi để phát triển một nền kinh tế biển đa dạng, quy mô. Tuy nhiên, vùng ven biển cũng là nơi chịu nhiều biến động khắc nghiệt của thời tiết, đặc biệt là bão tố, lốc, gây khó khăn cho cuộc sống của cư dân ven biển và trở ngại trong việc phát triển kinh tế vùng biển ở Đà Nẵng. 1.3.1.2. Cư dân ven biển Đà Nẵng Những cư dân đầu tiên ven biển Đà Nẵng không phải là người Việt như hiện nay mà là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh. Những khai quật khảo cổ học cho biết, xứ Quảng (gồm cả Quảng Nam và Đà Nẵng) thuộc về một phức hệ văn hóa mà chặng cuối của nó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Đây là nơi tập trung dày đặc nhất những di chỉ từ sớm đến muộn, cả nơi cư trú và mộ táng của phức hệ văn hóa này ở Nam Trung Bộ. Dựa vào thực tiễn khảo cổ và những lập luận xác đáng, giới khảo cổ học đoán định: chủ nhân phức hệ văn hóa Bàu Trám - Sa Huỳnh là kết quả của sự tiếp xúc và giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng Nam Đảo (Mã Lai - Pôlinêdiêng hay Anhđônêdiêng) và tiếng Nam Á (Môn - Khơme) mà hậu duệ của họ chính là những người Chàm cổ [112, tr.109]. Nếu tách riêng ra, so với Quảng Nam, những dấu tích về sự tồn tại của người Sa Huỳnh cổ ở Đà Nẵng rất ít ỏi. Cuộc khảo sát của Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam và Sở Văn hóa - Thể thao Quảng Nam - Đà Nẵng năm 1976 ở khu vực Ngũ Hành Sơn đã phát hiện ngay dưới chân núi Hỏa, trên một cồn cát chạy dài, những di tích của văn hóa Sa Huỳnh. Trong khi đó, dù không còn tồn tại những di tích nguyên vẹn hay quy mô mà chủ yếu là nền móng tháp nhưng các dấu vết còn lại của nền 42 văn hóa Chăm ở Đà Nẵng lại cho thấy có sự phân bố khá dày đặc các công trình kiến trúc đền tháp quan trọng của người Chăm trong một phạm vi hẹp chỉ khoảng 30km 2 ở khu vực lân cận cửa biển Đà Nẵng. Sự xuất hiện (dù ít ỏi) các di tích và hiện vật Chăm ở một số địa điểm thuộc các làng đánh cá ven biển Đà Nẵng cùng với kết luận khảo cổ học về đặc điểm của nền kinh tế tổng hợp mà yếu tố biển giữ vai trò lớn, có thể khẳng định những tiên dân tiền Việt sinh sống ven biển Đà Nẵng là người Sa Huỳnh và người Chăm. Sự hiện diện của người Việt trên mảnh đất Đà Nẵng được các nhà nghiên cứu thống nhất từ năm 1306. Sự sáp nhập của Đà Nẵng vào Đại Việt đã tạo tiền đề cho một quá trình liên tục khai phá lập làng của các lớp lưu dân người Việt ở Đà Nẵng nói riêng, Quảng Nam và miền Nam nói chung. Vốn là dân nông nghiệp, người Việt ban đầu lựa chọn sinh sống ở những nơi cách biển khá xa, chủ yếu thuận tiện cho việc cày cấy, canh nông và buôn bán nhỏ cho dù trước mặt họ là nguồn tài nguyên biển bao la, vô tận. Ngôi làng cổ nhất ở Đà Nẵng do tiền hiền tộc Phan khai phá - làng Đà Sơn (phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu) thành lập vào thế kỷ XIV, là vùng đất ven chân núi khá màu mỡ nhờ phù sa của các con sông suối. Từ đây, các luồng cư dân Việt tiến ra ven sông biển khẩn hoang những vùng đất mới.Giống như làng nông nghiệp Bắc Bộ, làng ven biển Đà Nẵng vừa là một đơn vị kinh tế, vừa là một đơn vị xã hội liên kết các tộc họ cùng cư trú trên một vùng đất. Làng có trưởng làng, có Ban khánh tiết để sinh hoạt các tín ngưỡng truyền thống và giữ gìn các giá trị văn hóa. Do đặc thù của hoạt động sản xuất, để liên kết và hỗ trợ những người cùng nghề ngư tại các làng ven biển Đà Nẵng đã hình thành một tổ chức nghề nghiệp gọi là Vạn biển. Làng biển Đà Nẵng được lập theo dải dọc ven biển, trên những cồn cát, gò cát chạy song song với biển và gần các nguồn nước ngọt. Sự thích ứng của cư dân Việt ở môi trường mới còn thể hiện trong nền kinh tế cơ cấu đa nghề. Các làng ven biển Đà Nẵng đều kết hợp nông - ngư, vừa làm ruộng vừa đánh bắt hải sản. Đất canh tác khô cằn diện tích trồng lúa ít, sản lượng thấp. Đa số sinh tồn dựa vào nghề đi biển. Lúc đầu là làm xăm, lùng, lưới quát kéo ven bờ, tiến lên làm mành chà, 43 mành đen, làm giả ruốt, lưới ruốt, lưới cao, Một số làng gần núi như Mỹ Khê, Tân Thái, cổ Mân, Nam Thọ, Mân Quang, Nại Hiên Đông, Nam Ô, có thêm nghề phụ lên rừng đốt than, đốn củi, lấy mật, bứt lá nín, nghề lấy chai trét tre, nghề làm muối. Môi trường sinh sống khắc nghiệt, không phù hợp với thói quen canh tác nông nghiệp truyền thống của lưu dân Việt nên đến đầu thế kỷ XX, cư dân ở các làng ven biển Đà Nẵng vẫn còn thưa thớt, những ngôi nhà đơn sơ, nằm rải rác, thấp thoáng trong những cánh rừng phi lao, một số cư trú trên những “nhà chồ” ven sông Hàn. Mỗi làng chỉ có vài chục ngôi nhà, làm bằng tranh tre sơ sài, rất ít nhà xây lợp ngói. Đến nay, do tốc độ đô thị hóa nhanh nên cảnh quan làng biển Đà Nẵng đã có nhiều thay đổi. Nhà cửa của cư dân ven biển được đúc bê tông, lợp ngói. Đường xá được trải nhựa, đổ bê tông. Quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng cũng tạo ra sức hút với dòng di dân nông thôn và các tỉnh khác tới, tạo nên sự đa dạng về nguồn gốc, thành phần xuất thân, địa vị xã hội, học vấn, tính cách, lối sống, văn hóa, của cư dân ven biển Đà Nẵng trong hơn chục năm qua. Quy hoạch của thành phố với việc giải phóng mặt bằng, phân lô bán đất, các khu công nghiệp, công ty thành lập ngày một nhiều đã tạo điều kiện cho những người dân ở nơi khác trong thành phố và ngoại tỉnh tìm đến sinh sống và làm việc, góp phần tạo dựng nên một môi trường xã hội mới với các mối quan hệ phức tạp, đan xen, đa chiều trong cộng đồng cư dân ven biển hiện nay. 1.3.1.3. Văn hóa truyền thống của cư dân ven biển Đà Nẵng Chịu sự tác động của môi trường sinh thái mới, người Việt cư trú ở ven biển Đà Nẵng không chỉ bảo lưu, tái hiện các hình thái, giá trị văn hóa vùng Bắc và Bắc Trung Bộ mà họ mang theo trong hành trang của mình trên bước đường về phương Nam, mà còn tiếp thu và sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Một trong những giá trị văn hóa tiêu biểu của cư dân ven biển Đà Nẵng được kết tinh từ cuộc sống gắn với biển và người đi biển là tri thức dân gian của ngư dân Đà Nẵng, đúc kết thành ca dao, tục ngữ, vè lưu truyền qua bao đời. Bên cạnh đó là những kinh nghiệm dự báo thời tiết trên biển được truyền khẩu ở các làng đánh cá 44 ven biển Đà Nẵng như: Quan sát bầu trời vào sáng sớm, nếu thấy mây ti tích di chuyển từ phía Đông sang phía Tây là dấu hiệu cho thấy khả năng một vài ngày tới sẽ có bão, biển động mạnh. Quan sát trăng non (trăng từ mồng 8 đến 12 âm lịch) nằm nghiêng thì sau vài ngày sóng mặt biển thường rất cao, gió sẽ rất lớn. Còn nếu trăng khuyết mà nằm ngang thì trời đẹp, có thể ra khơi bình thường... Cuộc sống nơi “đầu sóng ngọn gió” đã tạo nên tính cách con người miền biển Đà Nẵng can trường, dũng cảm, hiệp nghĩa, thậ...t vị chư tiên linh Thượng niệm thất thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao cao tổ cô, cao lãnh cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm lục thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao cao tổ cô liệt vị chư tiên linh Thượng niệm ngũ thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao tổ cô cao lãnh cô liệt vị chư tiên linh Thượng niệm tứ thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao tổ cô cao lãnh cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm tam thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao tổ cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm nhị thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao tổ cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm nhứt thế cao tổ, bá thúc khảo tỷ Cao tổ cô, cao lãnh cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm tằng tổ, bá thúc khảo tỷ. Tằng tổ cô liệt vị chư tiên linh. Thượng niệm hiển tổ, bá thúc khảo tỷ, tổ cô hiển cô liệt vị chư tiên linh Tri niệm hiển khảo, bá thúc tỷ, hiển cô liệt vị chư hương linh vị tiền. Đồng bào đồng đường bá thúc nội ngoại, cô di tỷ muội, vô tự tùng tựnhứt thiết tộc nội môn đường, tiên diễn tùng quân, thất tích đao binh tử trận, thất thi lạc mộ, nam nữ tử tôn điệt. Hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, suốt sảo tảo vong liệt vị đẳng chư thầnchánh hương hồn đồng lai phối hưởng. Viết cung duy tiên linh Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên, chim kia có tổ người đời có tông. Non cao biển thẳm ngậm ngùi hai chữ triệu bồi. Thu đến Xuân qua cảm khái một câu phước ấm. 187 Tưởng công đức tổ tiên thuở trước, mãi muôn đời con cháu vẫn còn ghi. Tổ nguyên sơ từ đất bắc, cùng đoàn quân. Nam tiến, phò chúa dựng cơ đồ sự nghiệm trời nam. Công đức hãy còn muôn thuở, phá thành Chiêm Lập ấp qui dân, xô đất lập xây làng tôn xã hiệu Mỹ Khê, lập họ Khiến thử địa giang sơn cẩm tú, xây dựng làng đoàn tụ đến ngày nay. Nhớ xưa, Đông Hải tung hành, bãi vàng yên giấc Mỹ Khê tân địa dừng bước đăng trình Thuỷ tổ khai cơ, 20 đời kế thế Từ Mỹ Khê, Cổ lưu phố Hội Đến Hoa thôn, Điện Dương - Quảng Ngãi Bốn phái trải dài trăm dặm Hiền Lương thu lại một nhà Khai sinh tân kỹ quyết định trường tồn Bể biếc sóng dồi, điền trang nắng cháy Huyền nhiệm đất trời, mênh mông cuộc sống Thương thay! Tấm lòng thiên cổ chi xiết nỗi lo Ánh lửa hằng đêm ở trái mù u Bữa cơm mỗi buổi từ lòng mảnh đất Trong binh lửa bất phân sinh tử - oan hồn theo thiên cổ tha hương Thương bề gian khổ giữa chiến trường - Khoảng khắc lìa đời, khí phách laithôn trang cố quận. Cám nỗi điêu linh, tha thiết nội hoa đành chịu thiệt - phận bạc lìa đời nỉnon tiếng quạ. Cam phận gởi con cùng lớp cỏ, áo não tà huy Niệm thuở răng long tóc bạc như lá úa cành khô. Khổ đau chi xiết tiếng quạ trời chiều. 188 Công ơn tiên tổ, kiến thiết từ đường, chấn hưng thân tộc. Chinh chiến phân kỳ, điền trang tổn thất Đường tranh đấu tài hoa trí thức theo tử tôn vương tộc đại gia Cõi dấn thân hoạt động khoa danh, giỏi học vấn kỹ năng chuyên nghiệp Từ đường tân tạo sau những phong sương Nội ngoại quần đoàn qua nhiều ly cách Mặt hướng đông phương lấp lánh thiều quang Nội ngoại Mỹ Khê lưng xây tây bộ. Êm đềm nguyệt sắc nội hoa lưu địa Đương tiếc thu quang lễ thường hằng năm Dẫu biết vật thường chẳng bền lâu lấy gì biểu hiện Bảo tồn di chỉ chỗ dựa tình thương tôn tộc - nơi rèn đức trọng quốc gia. Nguyện giữ đức xưa theo đạo nhân luân lấy hiếu làm đầu - Trọng tình đồng loại coi hòa lấy gốc. Trước ngọn gió Thu thắm sắc cỏ hoa Nỗi niềm thương, chuyện nghìn xưa bao cảnh phù du Cảm hoài liệt tổ, tưởng gian nan từng lá thu bay Dẫu lệ tử sinh như bóng phù vân Nhưng đường suy thịnh là điều tự định Mến yêu tiên tổ tự lập tự cường Báo đáp ơn xưa đồng tâm hiệp lực Trước từ đường đồng xưa, bến cũ nay Bổn tộc thâm thành thượng đạt Xincảm phó nội ngoại lưỡng toàn. Tưởng tiên thu giấc mộng đoàn viên Cổ tục Thu thiên lễ thành kính cáo Đoàn Tử tôn ngưỡng vọng thân ân. Phục duy cẩn cáo 189 VĂN TẾ CÔ HỒN LÀNG MỸ KHÊ Duy Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Đà Nẵng thành, Sơn Trà quận, Cựu Mỹ Khê xã, Phước Mỹ phường Tuế thứ: Mậu Tý niên, thất nguyệt, sơ thập nhựt Đàm tộc trí trạch tự tôn: Đàm Văn Nhi Tả hữu phối: Đàm Văn Linh - Đàm Văn Kháng Đại diện tộc Đàm gốc Mỹ Khê Thích đáo: Thu thiên cung trần nghi lễ Cẩn dĩ hương đăng kim ngân, diêm mễ, hoa quả, phù lang tửu chi nghi Cảm cáo vu: Tiêu diện đại sĩ, diện khẩu quỷ vương, tam tế thánh hiền bà lamôn tiên, hà sa ngọa quỷ, tả giám đàn tràng bổn xứ thần hoàng tôn thần. Hữu giám đàn tràng bổn xứ thần hoàng chi thần Tả ban liệt vị chư dương thần Hữu ban liệt vị chư âm thần Y Đông thắng thần châu, Nam thiện bộ châu, Tây nông hỏa châu, Bắc cu lu châu Cập thập loại cô hồn đẳng chúng đồng lai phụ thực. Viết cung duy âm hồn cô hồn Hỡi ôi!!! Duy - Âm hồn cô hồn sống ở dương gian thác về âm địa, quỷ thần là đức cao xa, dẫu tới sớm cũng thấu. Nay bổn tộc có lòng thành kính Đâu linh hiển đã thông qua, đến lễ tế cô hồn giám ngụ tấc lòng tri niệm Trên soi xét thông đài sĩ, dưới cho hay phụng thỉnh cô hồn. Thập loại cô hồn, âm hồn.Chiến sĩ trận vong thương vong tiệt tự oan hồn uổng tử.Nam nữ thương vong vô y, vô ủy nhất thiết đẳng chúng đồng lại thụ hưởng. Ôi thương ôi. Các vị âm linh dục tú nam châu chung linh tây hải, hình chuyển bóng xuôi hồn khôn vía dại, mồ cũ phất phơ nền cỏ úa - trăm năm còn để 190 tiếng anh hùng. Người xưa mang tượng tác âm linh.Muôn thuở nối truyền oai khẳng khái, hoặc những kẻ tứ dân tứ thú kiếp trước chưa tu, hoặc những người tam giáo cửu lưu xưa từng trải.Hoặc binh tốt mà rủi ro mũi hạt phơi mình trên gươm giáo bơ vơ góc biển chân trời, hoặc có gan mà bền giữ gan vàng, vai gánh vác non sông phảng phất nơi đầu gành cuối bãi. Hoặc có kẻ theo nghề than củi, nương cội từng ăn tuyết nằm sương. Cũng có người vui thú giang hồ tay chèo quế mà đứt giây gãy lái. Hoặc có kẻ rủi ro về cảnh ngộ bơ vơ thì ẩn số nô thường chi khéo dở dang. Cũng có người yểm khí mạng thường dơ dác hồn ba chữ bất đắc nghĩ thương đau. Hoặc có kẻ hùm tha rắn cắn, thú ăn, cá chụp, voi chà, đá dập, xa chận, treo ngọn, thắt ghành xa đó, hay gần đây, không rõ căn nguyên. Hoặc có người lửa cháy nước trôi, tên bay đạn lạc, nhìn cũ đây hoang mới những anh linh chưa rõ tông đường, xương khô dịch cạn sâu năm hằng lớp, khóc than chi xiết nỗi sự tình. Hồn tự do thấp thoáng mấy ngàn năm, thảm thiết bấy những người đạo nghĩa, nay nhân lúc Đàm tộc thu tế đơn sơ chung rượu chén trà đạm bạc nguyện anh linh cô hồn chứng giám lòng thành, hộ bổn tộc bình an khương khái. Cúi đội ơn ân linh thiên tài để ơn dư hà tang long. Kính dâng thượng hưởng. Phục duy cẩn cáo. VĂN TẾ KHAI HẠ LÀNG NAM THỌ (Tài liệu văn khấn của làng Nam Thọ do ông Trần Văn Lự, nguyên Trưởng ban khánh tiết làng Mỹ Khê cung cấp, ngày 1/11/2014) Duy Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Đà Thành đông giang, Đệ tam quận Nguyên Nam Thọ xã, liên hiệp Thọ Quang phường, Thọ An khối Tuế thứ... niên, chánh ngoạt, kiến sơ thất nhựt Chánh bái Tả phân hiến.. Hữu phân hiến Đồng bổn xã nhơn dân nam phụ lão ấu đại tiểu đẳng 191 Tư nhân tiết đáo xuân thiên, lệ hữu minh niên khai hạ, sơ thất nhựt thị niên chi lễ. Cẩn phụng tư thạnh thanh chước, kim ngân tiền tài gia mã công vật phẩm dụng chi nghi. Cảm cáo vu Đương niên Hành trình tôn thần. Đương niên Hành khiển tôn thần Đương niên Hành binh tôn thần Đương niên Qủy vương Đương niên Vạn binh Chúa bạc tử khí tánh cao danh ba tự hậu thiên ngoạt bội tánh trung danh diên tự trung ứng. Cao Các Quảng Độ Đại Vương gia tặng Hồng Mô Vĩ Lược Đôn Hậu Phu Hựu Trượt Dương Trác Dĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần. Thái Giám Bạch Mã Đại Vương gia tặng Dương Oai Ngự Dụ Bảo Chưởng Kiện Thuận Hòa Nhu Hàm Quang Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần. Bổn xứ Thổ địa long thần. Tiền sanh Thổ công Thổ chủ, Thổ phủ Táo Quân. Kị Cấm kị trụ trạch, tiền khai canh hậu khai cư tiền hậu khai khẩn nhứt thiết oai linh diên trung ứng giám. Viết duy Tôn thân di đức tắc cực kỳ thạnh đồng đạt quang huy thể vật nhi bất khả di bảo phò ấm tí. Tư thích mạnh xuân chi giai thần, kỉnh trần chi khai hạ chi bạc lễ, thượng kỳ như tại, dương dương cảm cách lai lâm đàn đàn hữu cảm giai thông hữu cầu tắc tọi, tỉ võ thu dinh long văn giai tịch thí đốn tức thử sùng tiêu dịch lệ, vật phụ vãng khương, niên đăng tế tỉ, hương xã gia ký phú yên, lân lý hộ tăng thứ hĩ, ngưu súc thành quần, kim ngân mãn thiện viết thọ viết khương, đắc danh đắc vị Ngưỡng lại thần minh chi lễ giả Thượng hưởng cẩn cáo! 192 VĂN VÍA BÀ THIÊN Y A NA LÀNG NAM THỌ Duy Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Đà Nẵng Đông giang đệ tam quận, nguyên Nam Thọ xã, liên hiệp Thọ Quang phường, Thọ An khối. Tuế thứ. Niên chánh ngoạt kiếnnhị thập ngũ nhựt Chánh bái: Đệ tự Đồng bổn xã nhơn dân nam phụ lão ấu đại tiểu đẳng Tư nhơn tiết đáo xuân thiên lệ hữu nhương ôn thị niên chi lễ giả, cẩn phụng sanh khê, trai bàn, hàn âm,kim ngân, thanh chước thứ phẩm chi nghi. Cảm cáo vu Đương niên Hành trình chi tôn thần Đương niên Hành khiển đại tướng quân chi tôn thần Đương niên Hành binh chi tôn thần Hòa ôn đại thành khương phụ tiên sanh tôn thần Ngũ phương hành chi ôn thần Ngũ phương tứ quý hành ôn bộ chi thần Hành ôn lưu tướng quân chi thần Quách lý sứ giả chi thần Chuá bạc tử khí tánh cao danh ba tự hậu thiên Ngoạt bội tánh trung danh diêm tự trung ứng Cao Các Quảng Độ Đại Vương tôn thần Thái Giám Bạch Mã đại vương Thành hoàng bổn xứ chư vị linh thần Ngũ Hành thần nữ chư vị nương nương Tiên sanh thổ công thổ tôn thần địa long thần Tổ ngưu thần nữ chi thần Phu thê ngưu lang hộ duệ ngưu thục chi thần, tiền khai canh, hậu khai cư, tiền hậu khai khẩn nhứt thiết oai linh diên trung giám cách. 193 Viết duy Lễ hữu kỳ an tất cáo lễ giả, tư thuộc mỗ thiên cung trần giá lễ, nguyện dĩ hưởng hâm tích chi, khánh chi tỉ, đồng xã bình an, nhơn dân thạnh thứ, ngưu súc thạnh quần, quá tài mãn thiện phước lộc, kinh trăn ôn hoàng viễn tị, nhơn vật khương ninh phong đào, ngưỡng cút thường thạnh, thường an viết phú viết quý. Vĩnh bảo nhơn vật chi ngại khương Ngưỡng lại thánh thần chi phò tế Thượng hưởng cẩn cáo! VĂN TẾ CÚNG VŨNG Duy Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Đà thành đông giang đệ tam quận. Nguyên Nam Thọ xã, liên Thọ Quang phường, Thọ An khối. Tuế thứ niên ngoạt nhựt Chánh bái. Tả phân hiến. Hữu phân hiến..... Đồng bổn xã bổn vạn nhơn dân ngư thuyền đại tiểu đẳng Tư nhơn tiết đáo xuân thiên, lệ hữu cầu ngư, lễ vũng thị niên chi lễ dã Cẩn phụng hàn hâm, trai bàn, kim ngân, thanh chước thứ phẩm chi nghi Cảm cáo vu! Thượng nguyên thiên quan phò tang đại đế Trung nguyên địa quan đơn lâm đại đế Hạ nguyên thủy quan đồng đình thủy quân Bá công, tổ chúa tam giáo tổ sư thánh vương Kim niên hành khiển đại vương Kim niên thái tuế chí đức tôn thần Sắc Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương gia tặng Hàm Hoằng Quang Đại Chí Đức Tôn Thần Phổ Bác Hiển Quá Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần 194 Sắc Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi gia tặng Hồng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Cao Các Quảng Độ Đại Vương gia tặng Hồng Mô Vĩ Lược Đôn Hậu Phu Hựu Trượt Dương Trác Dĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Thái Giám Bạch Mã Đại Vương gia tặng Dương Oai Ngự Dụ Bảo ChưởngKiện Thuận Hòa Nhu Hàm Quang Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Kỉ Mùi Khoa Tấn Sĩ Phi Vận Tướng Quân Tùng Giang Văn Trung Công gia tặng Hiển Văn Chiếu Tiết Phương Du Tuấn Vọng Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Sắc Phục Ma Đại Đế Quan Thánh Đế Quân gia tặng Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Chàng Cả hiển ứng tịnh quyên từ tường thanh hòa long vương Chàng Hai gia ứng quảng thi triêm ân quang trạch long vương Chàng Ba phước ứng trợ linh thi tường chung tú long vương Nhứt Lang Long Vương gia tặng Anh Linh Hách Trượt Hoằng Lợi Phổ Đức Trung đẳng thần Nhị Lang Long Vương gia tặng Bàng Hường Hòa Mục Phổ Tế Hiệp Đức Trung đẳng thần Tam Lang Long Vương gia tặng Huệ Triêm Ân Hiệp Hoằng Phu Bát Trạch Trung đẳng thần Tứ Lang Long Vương gia tặng Quảng Uyên Hoằng Tế Bát Lợi Nhuận Trạch Trung đẳng thần Ngũ Lang Long Vương gia tặng Hồng Ân Tuấn Trạch Nhân Tế Hoằng Hiệp Trung đẳng thần Thái tử kinh hà long vương Sắc Khổng Lồ Giác Hải Đạt Ma Chơn Tiên, trước phong Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần Trấn Nam Dinh Phó Đô Tướng Dương Võ Công Thần Mai Quý Phủ Thiệp Thắng Diện Dũng Anh Nghị Hùng Lược Trượt Linh Tráng Du Tôn Thần 195 Khâm Sai Bắc Quân Đô Đốc PhủChưởng Phủ Sự, gia tặng Thái Bảo Trấn Quận Công Oai Vọng Huân Đức Chiếu Hựu Tôn Thần Đoan Nhã Công Thần Quảng Quận Công Linh ng Phu Cảm Chiếu ng Trạch Phước Quang Liệt Tôn Thần Oai Dũng Công Thần Lương Quận Công Bảo Cảnh Vệ Quốc Hộ Dân Hòa Ninh Phu ng Tôn Thần Dương Linh Dược Quận Tế Diệu ng Linh Thông Hiển Hựu Địch Võ Quy Vọng Thành Quốc Công Tôn Thần, trước phong Di Quang Hí Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Bích Sơn Trợ Thuận Hữu Thạch Tượng Ngật Đức Đà Quận Công Thanh Trung Tôn Thần, trước phong Di Tú Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần Thành hoàng đại đế thượng vị linh quan Sắc phong Đô đại thành hoàng đại vương, trước phong Di Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần Thành hoàng đương cảnh thổ địa phước đức chánh thành, trước phong Di Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần Đông Hải Tế Độ đại vương Đông Hải Cự Tộc Ngọc Lân Đại Tướng Quân gia tặng Từ Tế Tôn Thần Sắc Đức Ngư Ông chi thần gia tặng Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần Đương niên cai ngư đại vương tôn thần An hỏa đại vương tôn thần Tam vị Tản Viên sơn tôn thần Sắc Phục Ba Mã tướng quân Sắc quốc quận công Thường Kiệt Lý tướng quân Bổn xứ quốc tánh Duệ Phan tướng quân Văn tài hầu quý phủ Thạch trụ hầu quý phủ Sơn thần chi tôn thần 196 Bổn xứ thổ địa long thần Ngũ phương hà bá thủy quan tôn thần Đông Nam Sát Hải Lang Lại Nhị Đại Tướng Quân Công du tử tiên sanh tôn thần Thủy long tinh tá trợ chi thần Thủy tề hải để ngọc nữ tiên tiên nương Sắc phong ma lũ nàng màng đạt dang thần Bô Bô linh ứng cảm phu nàng dàng đạt tôn thần Bô xung linh ứng quảng thi tôn thần Thiên tiên, ngọc nữ,công chúa, hồng nương Cao sơn, chúa động nương nương Sắc Ngũ hành thánh nương tôn thần, trước phong Di Ân Nhuận Táng Quá Mặc Vận Thuận Thành Hòa Tự Tư Nguyên Trang Quy Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Thủy long thánh phi tôn thần, trước phong Di Ân Nhuận Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Mộc thọ tiên nương tôn thần Kim tinh ngọc nữ tôn thần Hồng ba công chúa tôn thần Hồng phi phu nhơn tôn thần Sắc Dàng phi phu nhơn tôn thần, trước phong di tề tịnh dực bão trung hưng trung đẳng thần Lồi phi phu nhơn tôn thần tứ đầu nhà cầm tam vị đàn nương Cô nuôi nàng hai chi thần Ông Đa, bà Đa chi thần Thiên sanh thạch tượng chi thần Tả ban liệt vị chư tôn thần Hữu ban liệt vị chư tôn thần Ngũ phương thổ công thổ chủ thổ phủ táo quân cấm kỵ trụ trạch ngũ âm 197 bách tánh hà bá thủy quan sơn thần địa kỳ mãnh lang thủ địa Chủ ngung man nương tôn thần Sắc tiền hiền khai canh Trương đại lang chi thần, trước phong Di Dực Bảo Trung Hưng gia tặngTrai Tịnh Linh Phò Tôn Thần Sắc tiền hiền khai canh nguyễn đại lang chi thần,trước phong Di Dực Bảo Trung Hưng gia tặng Trai Tịnh Linh Phò Tôn Thần Thượng hưởng cẩn cáo! VĂN TẾ CHÁNH LỄ CẦU AN Duy Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Đà thành đông giang đệ tam quận Nguyên Nam Thọ xã, liên hương Thọ Quang phường, Thọ An khối Tuế thứ.. niên lục ngoạt kiếnthập nhị nhựt Chánh bái.. Tả phân hiến Hữu phân hiến Trưởng ban khánh tiết Đồng bổn xã viên hào nhơn dân nam phụ lão ấu nam nữ đại tiểu đẳng Tư nhơn tiết đáo hạ thiên lệ hữu kỳ phước cầu an thị niên chi lễ dã Cẩn phụng trai bàn, hàn âm, quả phẩm, nhang đăng, kim ngân, thanh chước, thứ phẩm chi nghi Cảm cáo vu Bá cốc tổ chúa Thần Nông thánh đế Bá nghệ tổ sư Phục Hy thánh đế Cửu Thiên Huyền Nữ thánh tổ đạo mẫu nguyên quân Sắc Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi gia tặng Hồng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Cao Các Quảng Độ Đại Vương gia tặng Hồng Mô Vĩ Lược Đôn Hậu Phu Hựu Trượt Dương Trác Dĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Thái Giám Bạch Mã Đại Vương gia tặng Dương Oai Ngự Dụ Bảo 198 Chưởng Kiện Thuận Hòa Nhu Hàm Quang Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần Sắc Kỉ Mùi Khoa Tấn Sĩ Phi Vận Tướng Quân Tùng Giang Văn Trung Công gia tặng Hiển Văn Chiếu Tiết Phương Du Tuấn Vọng Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Chúa động sơn lâm thánh phi tôn thần Kim niên thái tuế chí đức tôn thần Kim niên hành khiển đại vương tôn thần Thượng nguyên thiên quan phò tang đại đế Trung nguyên địa quan đơn lâm đại đế Hạ nguyên thủy quan đồng đình thủy quân Hậu tắc đại vương tôn thần Tả xã hữu tắc câu mang địa kỳ tôn thần Sắc Phục Ma Đại Đế Quan Thánh Đế Quân gia tặng Dực Bảo Trung Hưng tôn thần Bách nghệ tổ sư kim niên thái tuế chí đức tôn thần Chàng Cả hiển ứng tịnh quyên từ tường thanh hòa long vương Chàng Hai gia ứng quảng tế triêm ân quang trạch long vương Chàng Ba phước ứng trợ linh thi tường chung tú long vương Nhứt lang long vương gia tặng anh linh hách truật hoằng lợi phổ bác trung đẳng thần Nhị lang long vương gia tặng bàng hường hòa mục phổ nhuận hiệp đức trung đẳng thần Tam lang long vương gia tặng huệ triêm ân hiệp hoằng bác trạch trung đẳng thần Tứ lang long vương gia tặng quảng uyên hoằng tế bác lợi nhuận trạch trung đẳng thần Ngũ lang long vương gia tặng hồng ân tuấn trạch nhân tế hoằng hiệp trung đẳng thần Thái tử kinh hà long vương 199 Sắc Khổng Lồ Giác Hải Đạt Ma Chơn Tiên, trước phong Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần Trấn Nam Dinh Phó Đô Tướng Dương Võ Công Thần Mai Quý Phủ Thiệp Thắng Diện Dũng Anh Nghị Hùng Lược Trượt Linh Tráng Du Tôn Thần Khâm Sai Bắc Quân Đô Đốc Phủ Chưởng Phủ Sự, gia tặng Thái Bảo Trấn Quận Công Oai Vọng Huân Đức Chiếu Hựu Tôn Thần Đoan Nhã Công Thần Quảng Quận Công Linh ng Phu Cảm Chiếu ng Trạch Phước Quang Liệt Tôn Thần Oai Dũng Công Thần Lương Quận Công Bảo Cảnh Vệ Quốc Hộ Dân Hòa Ninh Phu ng Tôn Thần Dương Linh Dược Quận Tế Diệu ng Linh Thông Hiển Hựu Địch Võ Quy Vọng Thành Quốc Công Tôn Thần, trước phong Di Quang Hí Dực Bảo Trung Hưng Trung đẳng thần Bích Sơn Trợ Thuận Hữu Thạch Tượng Ngật Đức Đà Quận Công Thanh Trung Tôn Thần, trước phong Di Tú Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Hạ đẳng thần Thành hoàng đại đế thượng vị linh quan Thành hoàng đương cảnh thổ địa phước đức chánh thần trước phong di đôn ngưng dực bão trung hưng hạ đẳng thần Sắc phong đô đại thành hoàng đại vương tôn thần An hỏa đại vương tôn thần Đông Hải tế độ đại vương Sắc Đông Hải Tế Độ Cự Tộc Ngọc Lân đại tướng quân gia tặng từ tế tôn thần Sắc Đức Ngư Ông chi thần gia tặng trừng trạm dực bão trung hưng tôn thần Tam vị Tản Viên sơn tôn thần Sắc Phục Ba Mã tướng quân Quốc quận công Thường Kiệt Lý tướng quân tôn thần Bổn xứ quốc tánh Duệ Phan tướng quân Văn tài hầu quý phủ 200 Thạch trụ hầu quý phủ Sơn thần chi tôn thần Bổn xứ thổ địa long thần Ngũ phương hà bá thủy quan tôn thần Đương niên cai ngư đại vương tôn thần Đông Nam Sát Hải Lang Lại nhị đại tướng quân Công du tử tiên sanh tôn thần Thiên tiên ngọc nữ công chúa hồng nương Cao sơn, chúa động nương nương Sắc Ngũ Hành Tiên Nương tôn thần, trước phong táng quá mặc vận thuận thành hòa tự tư nguyên trang huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần Sắc Thủy Long Thánh Phi tôn thần, trước phong Ân nhuận dực dực bảo trung trung đẳng thần Thủy tề hải để ngọc nữ tiên tiên nương Sắc phong ma lũ nàng màng đạt dàng thần Bô Bô linh ứng cãm phu nàng dàng đạt tôn thần Hồng ba công chúa tôn thần Hồng phi phu nhơn tôn thần Sắc Dàng phi phu nhơn tôn thần, trước phong tề tịnh dực bão trung hưng trung đẳng thần Lồi phi phu nhơn tôn thần Cô nuôi nàng hai chi thần Tứ đầu nhà cầm tam vị đàng nương Ông Đa, bà Đa chi thần Thiên sanh thạch tượng chi thần Tư hòa cốc trừ thữ tước hoàng trùng chi thần Linh hổ miêu thần thủ hòa cốc chi thần Tả ban liệt vị chư linh thần Hữu ban liệt vị chư dương thần 201 Tam giáo đạo sư thánh hiền thiên sư thổ công thổ chủ thổ phủ táo quân Cấm kỵ trụ trạch đẳng chư tôn thần hàm tư phối hưỡng Kỵ Ngũ âm bá tánh hà bá thủy quan sơn thần địa kỳ mãnh lang thủ địa Chủ ngung man nương tôn thần Sắc tiền hiền khai canh Trương đại lang chi thần, trước phong Di Dực Bảo Trung Hưng gia tặng Trai Tịnh Linh Phò Tôn Thần Sắc tiền hiền khai canh nguyễn đại lang chi thần, trước phong Di Dực Bảo Trung Hưng gia tặng Trai Tịnh Linh Phò Tôn Thần Tiền hiền khai canh, hậu hiền khai khẩn đạt ư gia hiển ư quốc hộ dật Tí dân tiền đầu xã hậu đầu thôn cập thập nhị tôn phái cảnh nội thương vong vô y vô ỷ nhứt thiết hương lân oan hồn uổng tử đồng lai hiệp hưởng Viết duy Thần minh Thông minh cảm ứngnãi thần chi cách tư tự điển cầu an kỳ phước thị niên chi đại tế Lệ đáo quí hạ thiên cung trần nghi lễ nguyện giám chí thành tích chi khánh chi tỉ hương chức tôn ti phú thạnh tước vinh long hiển đạt vân trình hựu thứ dân lão ấu thạnh cường khánh cộng hưởng vinh hoa phú quý tài tắc lợi lộc xương đa Hòa cốc tắc phong đăng tế tỉ nghệ nghiệp tắc lộc tăng long bách nghệ tắc tài chiêu xương xí Gia môn ký viết phú yên hộ khẩu ích tăng thứ hĩ, vĩnh bảo nhơn dân toàn xã chi bình an Ngưỡng lại thần minh chi phò tý Thượng hưởng cẩn cáo! Phụ lục 8 202 Một số hình ảnh về tín ngưỡng ở làng Thanh Khê, Nam Thọ, Mỹ Khê Ảnh 1: Lăng Ông Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 2: Bình phong trở thành tường rào của lăng Ông Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 203 Ảnh 3: Nhà dân Nguồn: NCS – 2013 Ảnh 4: Hòm đựng cốt Ông trong lăng Ông Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 204 Ảnh 5: Cổng vào lăng Ông Nam Thọ (trước nằm đối diện lăng Ông, do nhà dân xây án ngữ nên giờ cửa mở ra phía hông, bên phải của lăng Ông) Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 6: Ban thờ Đức Ngư Ông trong lăng Ông Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 205 Ảnh 7: Miếu Âm linh làng Nam Thọ (cạnh chánh điện lăng Ông) Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 8: Khu mộ vô chủ, bên trái miếu Âm linh làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 206 Ảnh 9: Lăng Bà Mỹ Khê Nguồn: NCS - 2014 Ảnh10: Bên trong lăng Bà Mỹ Khê Nguồn: NCS - 2014 207 Ảnh 11: Đình làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 12: Bên trong đình làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 208 Ảnh 13: Đình làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 Ảnh 14: Ban thờ Hội đồng, phía sau là hậu tẩm trong đình làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 209 Ảnh 15: Mộ tiền hiền làng Nam Thọ (nằm ở bên hông phía sau đình làng Nam Thọ) Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 16: Đình làng Mỹ Khê Nguồn: NCS - 2014 210 Ảnh 17: Ban thờ Tiền hiền tronghậu tẩm đình làng Mỹ Khê Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 18: Sự xuống cấp bên trong đình làng Mỹ Khê Nguồn: NCS - 2014 211 Ảnh 19: Miếu Thuyền làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 20: Miếu Bà Thiên Y Ana làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2015 212 Ảnh 21: Miếu Bà Dàng Què làng Nam Thọ trước đây (bên trong ban đầu chỉ có ban thờ ghi chữ Thần, từ khi bà Hồng nhận thờ phụng thì có thêm tượng các Mẫu, các Cô) Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 22: Miếu Bà Dàng Què làng Nam Thọ hiện nay (xây thêm Lục động sơn trang bên trái, gian thờ Mẫu Thiên Y A Na phía sau và ban thờ Thành hoàng phía trước, chếch về bên phải) Nguồn: NCS - 2015 213 Ảnh 23: Miếu Ông Chài làng Nam Thọ (nằm bên phải miếu Bà Dàng Què) Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 24: Miếu thần Cao Các và nhà nồi hương (nằm bên trái miếu) Nguồn: NCS - 2015 214 Ảnh 25: Nhà thờ tập linh làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 26:Bên trong chánh điện Nhà thờ tập linh làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 215 Ảnh 27: Mộ Tiền hiền làng Thanh Khê (nằm ở trước Lăng tập linh, chếch về bên phải) Nguồn: NCS - 2013 Ảnh 28: Nhà thờ tiền hiền làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2013 216 Ảnh 29: Lễ vật trong lễ hạ kỳ (lễ tống cói hạ kỳ/lễ tống ôn) ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 30: Long Chu trong lễ hạ kỳ ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 217 Ảnh 31: Tống Long Chu ra biển (trong lễ hạ kỳ ở làng Nam Thọ) Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 32: Lễ nghinh thần ở lăng Bà Mỹ Khê (trước khi tiến hành lễ Xuân thủ minh niên ở đình làng Mỹ Khê) Ảnh NCS - 2015 218 Ảnh 33: Lễ vật trong lễ Cầu ngư (lễ sa nước) ở đình làng Mỹ Khê (trong lễ Xuân thủ minh niên ở đình ngày 24 tháng Giêng) Ảnh NCS -2016 Ảnh 34: Đọc văn tế trong lễ Xuân thủ minh niên ở đình làng Mỹ Khê (ông độc chúc là người trong đoàn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh được thuê đến đọc) Ảnh NCS - 2016 219 Ảnh 35: Lễ nghinh cốt Ông trong Lễ Cầu ngư làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 36: Lễ nghinh văn trong Lễ Cầu ngư làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 220 Ảnh 37: Xây chầu hát lễ trong Lễ Cầu ngư làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 38: Lễ nghinh Thủy thần trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2016 221 Ảnh 39: Khán đài tổ chức Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 40: Lễ vật trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2014 222 Ảnh 41: Hát bả trạo trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2014 Ảnh 42: Múa cờ trình tường trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2016 223 Ảnh 43: Thi kéo co trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 44: Thi đan lưới trong Lễ hội Cầu ngư quận Thanh Khê Nguồn: NCS - 2015 224 Ảnh 45: Lễ cúng Hưng Tác trong lễ Cầu an làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 46: Học trò gia lễ trong lễ Cầu an ở đình làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2015 225 Ảnh 47: Nghi lễ cầu siêu trong lễ Quẩy cơm Cô Bác ở Lăng Tập linh làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2015 Ảnh 48: Dân làng đang thiểu khước trong lễ Quẩy cơm Cô Bác ở Lăng Tập linh làng Thanh Khê Nguồn: NCS - 2015 226 Ảnh 49: Lốt bà Thủy trong lễ cúng vũng ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 Ảnh 50: Lễ vật trong lễ cúng vũng ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 227 Ảnh 51: Lễ vật chay trong lễ vía Bà Thiên Y A Na ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 Ảnh 52: Các bà trong Hội thờ Mẫu ở làng Nam Thọ Nguồn: NCS - 2016 228 Ảnh 53: Bà Hồng - người trông coi miếu Bà Dàng Què ở làng Nam Thọ hiện nay Nguồn: NCS - 2016 Ảnh 54: Lễ cúng Tiền hiền làng Thanh Khê tại nhà thờ tộc Hồ Nguồn: NCS – 2015 229 Phụ lục 9 Danh sách những người cung cấp thông tin cho đề tài luận án STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ 1 Huỳnh Văn Ba 56 Ngư dân Tổ 22A, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 2 Nguyễn Văn Ban 54 Ngư dân, nay đã nghỉ Tổ 94, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 3 Đoàn Thị Bằng 66 Cán bộ viên chức Tổ 38, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 4 Nguyễn Đình Chơi 70 Ngư dân Tổ 68, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 5 Nguyễn Cư 50 Ngư dân Tổ 20B, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 6 Ngô Văn Đưa 75 Ngư dân, Chủ bái làng Nam Thọ Tổ 25, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 7 Lương Văn Đức 57 Cán bộ về hưu Tổ 65, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 8 Nguyễn Văn Đức 36 Nhạc công, trước là ngư dân Tổ 22B, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 9 Phan Xuân Kha 41 Bảo vệ, trước là ngư dân Tổ 24B, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 10 Đàm Văn Kháng 76 Ngư dân, Trưởng ban khánh tiết làng Mỹ Khê 110 Hà Bổng, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 11 Nguyễn Văn Khuê 59 Ngư dân Tổ 91, phường Thanh Khê 230 STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ Đông, quận Thanh Khê 12 Nguyễn Văn Kim 80 Ngư dân K35/11 Tô Hiến Thành, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 13 Đàm Văn Ký 82 Ngư dân, nay đã nghỉ, nguyên Trưởng ban khánh tiết làng Mỹ Khê K30/H1/01 Hà Bổng, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 14 Phan Thị Lành 62 Cán bộ về hưu Tổ 13B, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 15 Nguyễn Văn Lênh 45 Ngư dân 84 Bùi Hữu Nghĩa, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 16 Lê Văn Lễ 69 Ngư dân, Trưởng ban khánh tiết làng Thanh Khê Tổ 69, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 17 Cao Đình Liên 63 Nghệ sĩ tuồng, đã nghỉ hưu Tổ 34, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 18 Trần Văn Lự 72 Ngư dân, Trưởng ban khánh tiết làng Nam Thọ Tổ 24A, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 19 Nguyễn Văn Mai 80 Ngư dân, nay đã nghỉ Tổ 26B, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 20 Nguyễn Văn Mạnh 57 Lái xe, trước là ngư dân Tổ 69, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 231 STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ 21 Huỳnh Văn Mao 64 Ngư dân Tổ 25, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 22 Nguyễn Thị Mười 65 Buôn bán Tổ 84, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 23 Phạm Thị Mười 58 Nội trợ Tổ 22C, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 24 Lê Nam 70 Ngư dân Tổ 85, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 25 Đoàn Văn Nga 51 Buôn bán Tổ 22, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 26 Hồ Văn Ngân 88 Ngư dân, nay đã nghỉ, Chủ bái làng Thanh Khê Tổ 84, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 27 Nguyễn Thị Phượng 39 Cán bộ viên chức Tổ 35B, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 28 Nguyễn Trọng Sơn 66 Cán bộ viên chức Tổ 16, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 29 Nguyễn Hồng Tân 28 Dân phòng ở phường Thanh Khê Đông Tổ 81, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 30 Nguyễn Văn Thành 73 Ngư dân, đã nghỉ Tổ 84 Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 31 Trần Văn Thành 67 Giữ xe (trước là ngư dân), nguyên Chủ bái làng Mỹ Khê Tổ 60, phường Mân Thái, quận Sơn Trà 32 Nguyễn Văn Thiện 60 Cán bộ về hưu, 65 Đất Đỏ, phường Phước 232 STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ Bồi bái làng Mỹ Khê Mỹ, quận Sơn Trà 33 Nguyễn Thanh Thuận 38 Ngư dân Tổ 86, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê 34 Lê Hồng Tiến 62 Ngư dân, nay đã nghỉ Tổ 25A, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 35 Nguyễn Văn Trung 26 Ngư dân Tổ 15B, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 36 Nguyễn Thị Vân 32 Nội trợ 90 Phan Bá Phiến, Phường Thọ Quang, quận Sơn Trà 37 Trần Văn Xê 41 Ngư dân Tổ 7, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà 38 Nguyễn Văn Xuyên 46 Ngư dân Tổ 91, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_bien_doi_tin_nguong_cua_cu_dan_ven_bien_da_nang_tron.pdf
Tài liệu liên quan