Luận án Những đóng góp của phan khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN PHẠM THỊ THÀNH NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI ĐỐI VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX Ngành : Báo chí học Mã số : 60 31 02 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TẠ NGỌC TẤN HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các số liệu sử dụng trong luận án này là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa

doc200 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Những đóng góp của phan khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả Phạm Thị Thành MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHAN KHÔI 9 1. Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước 9 2. Tình hình nghiên cứu Phan Khôi ở ngoài nước 27 3. Những vấn đề đặt ra 31 Chương 1: THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 33 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 33 1.2. Sự phát triển báo chí đầu thế kỷ XX 41 1.3. Thân thế và quá trình hoạt động báo chí của Phan Khôi 63 Chương 2: QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG CÁC TÁC PHẨM BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI 78 2.1. Quan điểm chính trị 79 2.2. Quan điểm xã hội 99 Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN TIẾNG VIỆT TRONG BÁO CHÍ 121 3.1. Những đóng góp của Phan Khôi với Việt ngữ học 123 3.2. Phát triển cách diễn đạt hiện đại vào ngôn ngữ báo chí 132 3.3. Phổ biến và phát triển tiếng Việt 141 Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI TRONG PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI TÁC PHẨM BÁO BÁO CHÍ VÀ KỸ NĂNG LÀM BÁO 149 4.1. Quan điểm của Phan Khôi về nghề báo và những kỹ năng hoạt động nghề nghiệp 150 4.2. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại tiểu phẩm báo chí 162 4.3. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại bình luận, chuyên luận 176 KẾT LUẬN 183 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 189 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 190 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Nửa đầu thế kỷ XX, Phan Khôi là nhà báo nổi bật. Ông là cây bút nổi tiếng về sự sắc sảo và thẳng thắn, thường đề cập đến các vấn đề thời sự, nhạy cảm trong xã hội. Ông cũng là người khởi xướng và tham gia những cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí thời bấy giờ. Vốn là người thông minh, nhạy cảm trước cái mới và giàu tinh thần nhập thế, ông sớm bỏ lối học khoa cử, để chuyển sang học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Ông là một trong những người đầu tiên cắt tóc ngắn, hưởng ứng vận động duy tân. Chính phong trào cách mạng sôi động những năm đầu thế kỷ XX đã cuốn Phan Khôi vào hoạt động báo chí. Nhờ tiếp thu được những tư tưởng tiến bộ từ Cách mạng Tân Hợi 1911, phong trào Ngũ Tứ 1919 ở Trung Hoa cùng với làn sóng tân thư mà Phan Khôi đã bàn luận một cách thẳng thắn trên báo chí về những vấn đề rất mới bấy giờ như: Vai trò người phụ nữ trong thời đại mới; về vai trò người trí thức trong vận hội mới của dân tộc Riêng về vấn đề nữ quyền, Phan Khôi cho rằng phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới, người phụ nữ không phải là những người chỉ biết quẩn quanh nơi góc nhà, xó bếp mà họ có quyền tham gia các hoạt động xã hội, có quyền được học hành và nuôi chí tiến thủ. Có thể nói, với tư tưởng cấp tiến đó, Phan Khôi xứng danh là một trong những người khởi xướng phong trào “nữ quyền” ở nước ta ngay từ những năm đầu thế kỷ XX. Thời kỳ làm báo sung sức nhất của Phan Khôi là những năm 1928-1939, đặc biệt là quãng thời gian ông làm chủ bút tờ Phụ nữ Tân văn (từ 02/5/1929 đến 21/4/1935). Đây là tờ báo lớn, được phát hành trong cả nước. Trong hàng loạt bài báo đầy màu sắc luận chiến, Phan Khôi luôn đề cập đến những vấn đề nóng bỏng và bức thiết được xã hội bấy giờ quan tâm, trong đó có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ và văn tự. Cụ thể là, ông quan tâm đến việc viết chữ quốc ngữ phải viết cho đúng, đính chính những chữ mà người sử dụng hay dùng sai nghĩa; việc dùng điển tích trong thơ văn và chú thích; cách đặt quán từ, danh từ, động từ Những bài viết này có ý nghĩa rất quan trọng, vì đây là thời kỳ chữ quốc ngữ đang trong quá trình hoàn thiện ở nước ta. Những bài báo của Phan Khôi luôn gây được sự chú ý bởi tính thẳng thắn trong suy nghĩ và cách trình bày hấp dẫn, rành mạch, đậm chất duy lý. Tiếp cận, phân tích các tác phẩm báo chí của Phan Khôi, một điều dễ nhận thấy là sự nhất quán trong tinh thần học thuật của ông - Phan Khôi luôn trọng lý. Ông là người ưa nhập thế, thích tranh luận để làm sáng tỏ chân lý. Chính trong những cuộc bút chiến này, độ sắc sảo của ngòi bút Phan Khôi được bộc lộ một cách rõ nét nhất. Tinh thần nhập thế và ý thức luôn tìm đến cái mới đã tạo nên nguồn cảm hứng tranh luận trong ngòi bút của ông. Với bút lực mạnh mẽ, ý tưởng dồi dào, ông đã vận dụng luận lý học để giải thích và bàn luận sâu nhiều vấn đề học thuật và tư tưởng. Từ số lượng khổng lồ các tác phẩm báo chí, có thể nói, ông là người có những đóng góp to lớn thúc đẩy sự phát triển của báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Những đóng góp đó đã được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận và đánh giá rất cao. Trong bài viết tham dự tọa đàm nhân dịp 120 năm ngày sinh của Phan Khôi (1887-2007), tác giả Lê Minh Quốc (làm công tác nghiên cứu, sưu tầm danh nhân lịch sử nước Việt) viết: “Nếu chỉ chọn lấy một nhà báo tiêu biểu nhất của xứ Quảng trong thế kỷ XX, tôi sẽ chọn lấy Phan Khôi. Đó là một hình ảnh kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại”. Tác giả Lại Nguyên Ân sau quá trình sưu tầm khối lượng khổng lồ các tác phẩm báo chí của Phan Khôi những năm 20-30, thế kỷ XX đã nhận định: Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn (...) Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ; ông sống như một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận. Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX [12, tr.443-444]. Với sức lao động phi thường, thể hiện ở số lượng tác phẩm báo chí khổng lồ đăng tải trên báo chí khắp ba miền từ những năm 20 đến những năm 50 của thế kỷ XX (các tờ: Đông Tây, Đăng Cổ Tùng báo, Nam Phong, Thực nghiệp dân báo, Hữu Thanh, Hà Nội báo, Phụ nữ thời đàm ở Hà Nội; Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ Tân văn, Trung lậpở Sài Gòn; Tràng An và thành lập tờ Sông Hương ở Huế), Phan Khôi thực sự là tên tuổi lớn của báo chí Việt Nam. Tuy nhiên, do những quan điểm về văn nghệ, “lúc đó là sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông bị cách ly và không được quyền đăng bài vở, không được quyền công bố gì cả, thành ra sau cái chết có thể nói là rất lặng lẽ của ông vào năm 1959, thì dư luận, sách vở ở miền Bắc hầu như là lãng quên ông hoàn toàn” [12, tr.444]. Là người đã dày công sưu tầm các tác phẩm đăng báo của Phan Khôi giai đoạn 1928-1938, tác giả Lại Nguyên Ân cũng khẳng định ông mới sưu tầm tác phẩm của Phan Khôi, chứ chưa đặt bút để bàn luận về nhân vật này. Theo Lại Nguyên Ân, những tư tưởng của Phan Khôi về các vấn đề xã hội, về con đường phát triển đất nước, về những nhược điểm của dân tộc Việt Nam cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và tính giá trị, và các bài báo, sức sáng tạo, đóng góp cho báo chí thời Pháp thuộc của Phan khôi có ý nghĩa lớn đối với các nhà báo hiện nay ở Việt Nam. Như vậy, việc tìm hiểu, tổng kết “những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX” là nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, góp phần phác họa chân dung một trong số những nhà báo hàng đầu Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - Phan Khôi, đồng thời bổ sung tài liệu tham khảo trong nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng thêm một lần tìm đến sự đánh giá tương đối công bằng về những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí cũng như nền văn hóa Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở việc tìm hiểu, phân tích sự nghiệp báo chí và khắc họa chân dung nhà báo Phan Khôi, luận án sẽ tổng kết, đánh giá những đóng góp của ông đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX; tìm đến sự nhìn nhận công bằng, khách quan hơn đối với Phan Khôi trong lịch sử báo chí Việt Nam. Kết quả của luận án sẽ góp phần cung cấp tài liệu tham khảo có ý nghĩa giúp những người làm công tác nghiên cứu có cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn trong quá trình nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Phan Khôi; bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những điều kiện chính trị - xã hội ảnh hưởng đến hoạt động báo chí của ông. - Nghiên cứu hệ thống tác phẩm báo chí của Phan Khôi và những hoạt động của ông trong lĩnh vực báo chí. - Phân tích làm rõ những thành tựu trong hoạt động báo chí của Phan Khôi và ảnh hưởng của những hoạt động đó đối với xã hội, với diện mạo báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Từ đó, làm sáng tỏ những đóng góp của ông đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, trên các khía cạnh: Sự phát triển những quan điểm chính trị - xã hội, học thuật thông qua báo chí; ngôn ngữ; thể loại, nghiệp vụ báo chí; những bài học cho người làm báo hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, hệ thống các tác phẩm, các hoạt động của Phan Khôi trong lĩnh vực báo chí, những ý kiến đánh giá về Phan Khôi và hoạt động báo chí của ông qua các thời kỳ để làm rõ những đóng góp của Phan Khôi đối báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, luận án tập trung khảo sát các tác phẩm báo chí của Phan Khôi từ năm 1928 đến năm 1939. Đây là thời gian nhà báo Phan Khôi hoạt động nghề nghiệp sung sức nhất, để lại dấu ấn đậm nét nhất đối với nền báo chí Việt Nam. Những kết quả lao động báo chí của ông thời kỳ này đã góp phần tạo nên diện mạo báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. - Các ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà báo và các tác giả khác phân tích, nhận xét, đánh giá về cuộc đời, hoạt động báo chí của Phan Khôi. - Trong điều kiện khó khăn về tìm kiếm và tập hợp tư liệu, trong luận án, một số tác phẩm báo chí của Phan Khôi được thống kê toàn bộ, một số khác được nghiên cứu khảo sát mang tính chọn lọc, đại diện. - Nguồn tư liệu về các tác phẩm báo chí của Phan Khôi làm cơ sở cho những phân tích trong luận án được khai thác chủ yếu từ các cuốn sách do tác giả Lại Nguyên Ân sưu tầm. Các nguồn khác từ chương trình phát thanh của Đài RFI hay trên các trang mạng ngoài nước dùng để tham khảo, đối chứng. 4. Giả thuyết nghiên cứu Do những quan điểm về văn nghệ và mối quan hệ với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm của Phan Khôi những năm 1956-1958, nên hiện nay những đánh giá về ông không nhất quán, với các luồng ý kiến trái ngược nhau: Có ý kiến đánh giá rất cao những đóng góp của Phan Khôi trong các lĩnh vực lịch sử, văn học, báo chí, văn hóa, xã hội, nhưng cũng không ít ý kiến phê bình, chỉ trích gay gắt các quan điểm của ông. Có một xu hướng thứ hai là: Do những tế nhị liên quan đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm, người ta không nhắc đến Phan Khôi, và do đó, ông trở thành người xa lạ! Đây chính là tình huống có vấn đề. Vì vậy câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là: Cần phải đánh giá về Phan Khôi thế nào cho công bằng, nhất là những đóng góp của ông đối với nền báo chí nước nhà? Luận án đưa ra hai giả thuyết như sau: Thứ nhất: Mặc dù còn có những ý kiến phê bình thậm chí là chỉ trích các quan điểm của Phan Khôi nhưng không thể phủ nhận ông đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thông qua hoạt động báo chí, ông có những đóng góp trên nhiều lĩnh vực lịch sử, văn học, văn hóa, xã hội. Thứ hai: Còn có sự đánh giá không công bằng đối với những đóng góp “tích cực” và những điểm “tiêu cực” đối với Phan Khôi. Luận án “Những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX” sẽ tìm những luận cứ góp phần làm sáng tỏ giả thuyết nghiên cứu nêu trên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: phương pháp luận biện chứng Mác-Lênin và những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về báo chí; Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như: thống kê, phân tích tài liệu sẵn có, lịch sử so sánh (đồng đại, lịch đại), chuyên gia, tổng hợp. Cụ thể: - Phương pháp thống kê, phân tích tài liệu sẵn có: Rà soát, thống kê những ấn phẩm báo chí của nhà báo Phan Khôi. Luận án cũng thu thập và phân tích những tài liệu nghiên cứu lịch sử báo chí về Phan Khôi cũng như một số nhà báo cùng thời với ông. - Phương pháp so sánh đồng đại: Luận án sẽ khảo cứu tư liệu để so sánh những đóng góp và hạn chế của Phan Khôi (thông qua các hoạt động và ấn phẩm báo chí của ông) với các nhà hoạt động báo chí Việt Nam khác trong cùng thời điểm thập niên 30 và 40 của thế kỷ trước. - Phương pháp so sánh lịch đại: Luận án sẽ khảo cứu tư liệu để so sánh những đóng góp và hạn chế của Phan Khôi (thông qua các hoạt động và ấn phẩm báo chí của ông) theo tuần tự thời gian trong suốt sự nghiệp báo chí của ông, đặc biệt là giai đoạn 1928 - 1939. - Phương pháp chuyên gia: Tác giả trực tiếp gặp gỡ (hoặc xin ý kiến bằng văn bản) các nhà báo lão thành, các nhà hoạt động văn hóa, các nhà ngôn ngữ, các nhà khoa học, giảng viên, người thân trong gia đình nhà báo Phan Khôi - là những người đã dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và có am hiểu sâu sắc cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi về những nội dung mà luận án quan tâm. - Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tư liệu thu được cùng ý kiến phân tích của các chuyên gia, luận án sẽ tổng hợp và làm rõ những đóng góp cũng như những hạn chế về những mặt khác nhau (như mục tiêu, quan điểm chính trị - xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, thể loại, phương pháp - kỹ năng, bản lĩnh nghề nghiệp) của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam. 6. Đóng góp mới của luận án - Làm sáng tỏ được những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đây là nội dung mà do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa đề cập và nghiên cứu; đồng thời góp phần bổ sung một cách nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. - Kết quả luận án góp một cách nhìn mới, đánh giá công bằng hơn đối với sự nghiệp báo chí của Phan Khôi, bên cạnh những hạn chế của ông ở những thời điểm lịch sử cụ thể. 7. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án chia thành bốn chương, gồm: Chương 1: Thân thế, sự nghiệp báo chí của Phan Khôi những năm đầu thế kỷ XX. Chương 2: Quan điểm chính trị - xã hội trong các tác phẩm báo chí của Phan Khôi. Chương 3: Những đóng góp của Phan Khôi về phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trong báo chí. Chương 4: Những đóng góp của Phan Khôi về phát triển thể loại tác phẩm báo chí và kỹ năng làm báo. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHAN KHÔI 1. Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước 1.1. Phan Khôi trong các sách nghiên cứu về lịch sử báo chí, văn học đầu thế kỷ XX - Cuốn sách của Vu Gia “Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo chí và thơ mới” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003), gồm 15 bài viết về Phan Khôi, đề cập đến nhiều vấn đề: Phan Khôi, huyền thoại của một thời; người làm chủ được bản ngã; người bảo vệ ngôn ngữ dân tộc; về những nội dung nổi bật trong các các tác phẩm văn chương, báo chí của Phan Khôi, như: Vấn đề đấu tranh nữ quyền; cuộc tranh luận về Nho giáo; vụ án Truyện Kiều; người đi nhặt những niềm vui; cuộc tranh luận về duy tâm, duy vật; cuộc tranh luận về Quốc học; thi sĩ có tài năng vững chãi; truyện ngắn; dịch thuật; vấn đề Nhân Văn Giai Phẩm; truyện dài và người tạo dấu ấn rõ nét trong lòng bạn đọc. Trong cuốn sách này, cùng với những bài viết của mình, tác giả còn giới thiệu một số tác phẩm của Phan Khôi và những nhận định, đánh giá về Phan Khôi của một số cây bút nổi tiếng, tiêu biểu như: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho rằng: Hồi bấy giờ Phụ nữ tân văn đương thời cực thịnh. Những lời nói của ông Phan được truyền bá đi khắp nơi. Cái bài thơ mới “Tình già” được ông dẫn ra làm thí dụ, không rõ có được ai thích không, nhưng một số đông thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo dấu diếm của mình đã được một bực đàn anh trong văn giới công nhiên thừa nhận [35, tr.22-23]. Khẳng định những đóng góp của Phan Khôi với tiếng Việt, Lưu Trọng Lư viết: “Tiên sinh thật là người trong những người tôi quen và tôi đã đọc, quả là người viết quốc ngữ đứng đắn hơn hết, yêu chữ quốc ngữ với tất cả sự từng trải của một người đã sống khắp ba kỳ, quen thuộc với những lỗi phát âm, với những thổ ngữ...” [35, tr.337-338]. Còn Vũ Ngọc Phan cho rằng: Lối bút chiến là lối ông sở trường nhất. Ông bút chiến về người, ông bút chiến về việc, rồi ông bút chiến cả về những chữ dùng sai (...) Phan Khôi mà đóng vai ngự sử đàn văn thì thật là xứng, vì không mấy người kiêm được nhiều điều như ông: có óc tỉ mỉ, soi mói, lại dùng chữ rất đúng, học rộng, kinh nghiệm nhiều (...) Trong văn giới Việt Nam, dù thuộc về phái già hay trẻ, tuy có nhiều người không đồng ý kiến với Phan Khôi, nhưng ai ai cũng phải công nhận ông là một tay kiện tướng [35, tr.252-253]. Thanh Lãng đánh giá rất cao: Phan Khôi là khuôn mặt đẹp đẽ nhất của thời đại ta, một tổng hợp kỳ diệu được hình thành do những gì tinh túy nhất của nền cổ học vô cùng tế nhị Đông phương và nền học thuật minh bạch khúc triết của Tây phương (...) Hình như Phan Khôi không muốn người ta xếp ông vào một biên thùy nào, là Trung ông không chịu, là Nam ông không ưng, là Bắc ông cũng chẳng thích; có lẽ ông chỉ muốn người ta gọi ông là người Việt Nam, ông muốn xóa bỏ cái biên thùy địa phương chật hẹp... [35, tr.48-49]. Tác giả Nguyễn Văn Xuân khẳng định: Từ 1918 đến 1945, ông Phan Khôi hoạt động cho báo chí, đã đóng vai trò ký giả, học giả. Nêu cái gương sáng của một người thức thời, biết cựu học không đủ để thực hiện công cuộc đổi mới (Duy Tân) nên đã ra sức học Pháp văn và nhờ đó theo kịp Tân trào. Ông đã không chấp nhận cái hư vinh bậc đại khoa cũ để dấn thân vào con đường chông gai, mới mẻ của báo chí. Ông có công với báo chí suốt giai đoạn từ 1918 đến 1936, nhất là thời Phụ nữ tân văn tạp chí dẫn đầu cho loại tuần báo nổi tiếng [35, tr.646-647]. - Cuốn sách “Thiếu Sơn, Nghệ thuật và Nhân sinh” (Lê Quang Hưng sưu tầm và chỉnh lý), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm 2000, gồm nhiều bài phê bình nhân vật - các tác giả, nhà văn, nhà báo, chính khách nổi tiếng đầu thế kỷ XX của nhà văn, nhà phê bình văn học Thiếu Sơn. Với thái độ công bằng, thẳng thắn, những nhận xét sắc sảo, Thiếu Sơn viết về các tác giả nổi tiếng: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách Trong đó, với “Bài học Phan Khôi”, Thiếu Sơn khắc họa: Ông đã viết cho những tờ Đăng Cổ Tùng báo, Nam Phong, Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Lục tỉnh tân văn v.v... Ông đã làm thơ ký cho công ty Bạch Thái Bưởi, dịch Thánh kinh cho đạo Tin lành. Nhưng người ta chỉ biết tới ông khi ông viết cho Đông Pháp Thời báo, Thần chung và nhứt là Phụ nữ Tân văn”. Ông Diệp Văn Kỳ là con người sành điệu đã để ý tới ông, mời ông hợp tác nhưng lúc đó nhiều ngôi sao sáng đã gặp nhau ở một chỗ nên Phan Khôi chưa nổi bật. Ông chỉ nổi bật khi ông được mời tới viết cho Phụ nữ Tân Văn của ông bà Nguyễn Đức Nhuận. Hồi đó, vào khoảng 1930 một bài văn được trả 5 đồng tiền nhuận bút là hậu lắm rồi. Vậy mà Phụ nữ Tân Văn dám trả 25 đồng một bài cho ông Phan. Một tháng bốn bài, 100 đồng tức là hơn lương công chức ngạch cao cấp ở huyện, phủ. Như vậy thì đâu phải văn chương hạ giới rẻ như bèo. Phải nói là mắc như vàng mới đúng. Nhưng cũng phải nói thêm là chỉ có văn chương của Phan Khôi mới được giá đến thế và chỉ có ông bà Nguyễn Đức Nhuận mới dám trả tới giá đó mà thôi. Trả như vậy mà tôi còn cho rằng chưa tới mức vì hầu hết độc giả bỏ 15 xu ra mua Phụ nữ Tân Văn đều chỉ muốn được coi bài của Phan Khôi hay Chương Dân, những bài viết gãy gọn, sáng sủa, đanh thép với những đề tài mới mẻ, những lý luận thần tình làm cho người đọc say mê mà thống khoái. Cái đặc biệt ở Phan Khôi là chống công thức (non conformiste) [35, tr.353-355]. - Cuốn sách: “Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945”, của Huỳnh Văn Tòng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000. Là người dày công nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam, khi đề cập đến sự ra đời và phát triển của tờ Phụ nữ tân văn, nhà báo, học giả Huỳnh Văn Tòng khẳng định: “Chủ bút Phụ nữ Tân văn là Đào Trinh Nhất, một người làm báo nhà nghề, lừng danh. Phải nhìn nhận rằng báo này được mọi giới chú ý nhờ sự hợp tác của nhà văn Phan Khôi, ký giả lão thành, học rộng, có lối lập luận sắc bén” [106, tr.255]. 1.2. Phan Khôi trong các hồi ký - Hồi ký: “Nhớ cha tôi - Phan Khôi”, của Phan Thị Mỹ Khanh, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2001. Cuốn sách giới thiệu gia cảnh và những chặng đường đời của Phan Khôi; những chuyện đời thường, chuyện văn nghiệp của ông (trong đó có những nội dung đã được tác giả ghi lại trong bài “Cha tôi: ông Phan Khôi”, được đăng 2 kỳ trên Tạp chí Phổ thông số 29 ra ngày 01-3-1960 và số 30 ra ngày 15-3-1960, nhân dịp một năm sau ngày mất của Phan Khôi); một số tác phẩm của Phan Khôi và một số bình luận, nhận định của các nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà báo viết về Phan Khôi. Cuốn sách được hoàn thành vào mùa Thu năm 1999. Những dòng khép lại đoạn kết, tác giả viết: Năm nay tròn 40 năm ngày cha tôi đi vào cõi vĩnh hằng. Nhìn lại cuộc đời thăng trầm của ông, những năm tháng vinh quang thời tráng niên, rồi chuỗi ngày lận đận tuổi xế chiều, tôi không khỏi ngậm ngùi vừa thương, vừa tiếc. Với đôi điều hiểu biết còn nông cạn, với mớ kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, tôi xin trân trọng gởi đến bạn đọc những trang hồi ức trung thực mà tôi ấp ủ từ lâu, qua đó, bạn đọc sẽ hiểu thêm về con người của cha tôi [43, tr.142]. - Hồi ký:“Nắng được thì cứ nắng”, tác giả: Phan An Sa, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2013. Nếu như, năm 2001, Phan Thị Mỹ Khanh, người con gái của Phan Khôi xuất bản cuốn “Nhớ cha tôi - Phan Khôi” là cuốn sách đầu tiên phác thảo về tiểu sử, thân thế sự nghiệp của ông giai đoạn từ trước năm 1975 ở miền Nam, thì, năm 2013, “Nắng được thì cứ nắng” - cuốn sách do người con trai út của ông viết là cuốn sách thứ hai. Có thể nói, “Nắng được thì cứ nắng” là cuốn sách chứa đựng rất nhiều thông tin về Phan Khôi, mặc dù sách chỉ giới hạn ở giai đoạn 1936 đến cuối đời ông - thời kỳ Phan Khôi từ vai trò chủ nhiệm tuần báo Sông Hương đến vai trò chủ nhiệm tuần báo Nhân văn rồi đi vào văn học sử Việt Nam với tư cách một trong số những tác gia trọng yếu của phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Những mốc thời gian quan trọng trong hai mươi ba năm cuối đời của Phan Khôi (1936-1959), được tác giả Phan An Sa ghi lại trong cuốn "Nắng được thì cứ nắng": - 1936-1937: Phan Khôi ở Huế, sáng lập báo Sông Hương, xuất bản 32 số. - 1937: Phan Khôi về quê Quảng Nam, sau đó vào Sài Gòn, dạy trường tư thục Chấn Thanh; viết tiểu thuyết “Trở vỏ lửa ra”. - 1939: Phan Khôi ra Hà Nội, viết cho Tạp chí Tao đàn; cộng tác với Phổ thông bán nguyệt san để in “Trở vỏ lửa ra”. - Cuối tháng 8-1939: Phan Khôi về quê Quảng Nam rồi vào Sài Gòn, dạy trường Chấn Thanh, viết cho một số tờ báo Bắc, Nam. - Giữa năm 1941: Phan Khôi cùng cả gia đình về quê Bảo An, Quảng Nam; - Tháng 6-1946: Phan Khôi ra Hà Nội, dự Hội nghị văn hóa toàn quốc. - 19-12-1946: Phan Khôi đi từ Hà Nội về phía Hà Đông, gặp đoàn văn hóa kháng chiến, ông nhập đoàn, đi Việt Bắc; làm việc trong cơ quan Hội Văn nghệ Việt Nam. - Tháng 10-1954: Phan Khôi cùng Ban Văn, Sử, Địa về Hà Nội. Ông hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam; tham gia Ban chung khảo giải thưởng văn nghệ Việt Nam; viết bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trên Giai phẩm mùa thu, tập 1; nhận làm chủ nhiệm báo Nhân văn; đi Trung Quốc dự kỷ niệm 20 năm ngày mất Lỗ Tấn; bị phê phán trong cuộc đấu Nhân văn - Giai phẩm; ông qua đời ngày 16-01-1959. Trong cuốn sách này, tác giả khai thác được các nguồn ký ức của các thành viên trong đại gia đình Phan Khôi, nhất là hồi ức của bà Nguyễn Thị Huệ, mẹ của tác giả - người phụ nữ luôn bên cạnh Phan Khôi từ năm 1934 đến 1946 ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Quảng Nam, và từ năm 1955 đến 1959 ở Hà Nội. 1.3. Phan Khôi trong các bài nghiên cứu - Cuộc Tọa đàm tưởng niệm cố nhà văn, nhà báo Phan Khôi nhân 120 năm ngày sinh của ông (1887-2007), đã tập hợp được nhiều bài viết ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp của Phan Khôi trong các lĩnh vực lịch sử, văn học, báo chí, văn hóa, xã hội của các nhà khoa học, nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình Trong đó, nhà sử học Dương Trung Quốc nhận xét Phan Khôi là người có tính cách quyết liệt và tư tưởng duy tân. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, Phan Khôi là một trong những nhà văn hóa nổi bật của thế kỷ XX. Giáo sư Chương Thâu nhấn mạnh khả năng trực dịch của Phan Khôi. Còn tác giả Nguyễn Văn Khang khẳng định: “Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, không thể phủ nhận những đóng góp của Phan khôi bằng cả tâm huyết, trách nhiệm, trí tuệ đối với quá trình bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia tiếng Việt” - Nhân dịp kỷ niệm 127 năm ngày sinh Phan Khôi, ngày 06-10-2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam, quê hương ông, đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Phan Khôi và những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc”. 48 bài viết cùng với đề dẫn và tổng luận của cuộc hội thảo tập trung vào hai mảng nội dung lớn: Một là, những bài viết về cuộc đời Phan Khôi; hai là, những đóng góp của Phan Khôi cho nền văn hóa dân tộc (cụ thể là trên các lĩnh vực: báo chí, văn học, văn hóa - tư tưởng). Một số bài xếp vào nhóm nội dung những đóng góp của Phan Khôi trên lĩnh vực báo chí, đề cập đến phong cách báo chí Phan Khôi như “Phong cách nghị luận, bút chiến của Phan Khôi” của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh; “Tinh thần hiện đại qua các bài báo “vị nữ giới” của Phan Khôi” của tác giả: PGS,TS Trần Thị Quỳnh Thuận, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh; “Phan Khôi với thơ trào phúng và nghề làm báo”, tác giả: nhà văn Vu Gia; “Phan Khôi - Đào Trinh Nhất: Hai cách tồn tại trong báo chí văn chương Việt Nam trước 1945”, tác giả Cao Việt Dũng, và “Phan Khôi - Nhà hoạt động báo chí nửa đầu thế kỷ XX”, tác giả Thái Nhân Hòa. Trong quá trình sưu tầm các tác phẩm báo chí của Phan Khôi, tác giả Lại Nguyên Ân có dịp tìm hiểu tổng thể hoạt động báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX và viết các bài nghiên cứu khái quát cuộc đời làm báo của Phan Khôi, đặc biệt trong 30 năm đầu thế kỷ. Có thể kể đến một số bài tiêu biểu sau: Bài thứ nhất:“Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920-1930”, Lại Nguyên Ân - Nhà xuất bản Hội nhà văn - Tạp chí Nghiên cứu Văn học số tháng 8-2007. Ở bài viết này, Lại Nguyên Ân khái quát quá trình Phan Khôi tham gia báo chí Sài Gòn. Tác giả cho rằng: Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi nổi tiếng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời [7]. Theo thời gian, ngòi bút Phan Khôi hiện diện trên báo chí Sài Gòn những năm 1920-1930 như sau: Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài là tờ Lục tỉnh tân văn. Theo nghiên cứu của Lại Nguyên Ân, ngày 07-5-1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 là về đề tài thường thức xã hội và về ngôn ngữ. (10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12-5 đến 25-6-1919). Thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập. Trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi bắt đầu viết thể loại tiểu phẩm báo chí, trong mục hài đàm, với bút danh Tân Việt trong tiểu mục “Câu chuyện hằng ngày” do Chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, và được tiếp tục trên tờ Thần chung sau đó. Trên Thần chung, Phan Khôi dùng họ tên thật của mình từ 03-10-1929 trong loạt bài 21 kỳ của tiểu luận “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”, sau đó là trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Giữa năm 1929, đánh dấu sự tham gia từ đầu của Phan Khôi vào tuần báo rất thành công của báo chí tiếng Việt những năm 1930: Tuần báo Phụ nữ tân văn. Số lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này khá lớn: Khoảng trên 100 bài trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 02-5-1929 đến 21-4-1935, trong đó, nhiều bài là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ.   Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ các thể loại: Nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Và một số tranh luận về học thuật, về việc dùng chữ quốc ngữ... Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập. Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập là lớn nhất so với ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm “Những điều nghe thấy” mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ông dùng bút danh Tha Sơn); các bài chính luận, bình luận về chính trị - xã hội, về lịch sử. Về phương diện văn học, một đóng góp khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được “Phụ trương văn chương”, thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ Bảy hằng tuần. Bài thứ hai:“Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng Phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi”, Lại Nguyên Ân, tại Hội thảo khoa học: Lý luận văn học Việt Nam thế kỷ XX, do khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức, 07-6-2008. Bài thứ ba:“Liệu có thể xem Phan Khôi (1887 - 1959) như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?”. Đây là tham luận tại hội thảo khoa học “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945” tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 26-5-2006. Từ việc khái lược hoạt động báo chí và văn chương của Phan Khôi tại Sài Gòn, trong những thời đoạn ông sống và viết báo, viết văn ở đây đủ để khẳng định: R... liên kết để hạn chế và đàn áp các trào lưu cách mạng nói trên. Mặt khác, để khôi phục nền kinh tế nhằm tạo đà cho cuộc chạy đua trong nội bộ giới tư bản và với một hệ thống mới - hệ thống xã hội chủ nghĩa, vừa ra đời từ thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, các nước đế quốc tăng cường khai thác nguồn tài nguyên và nhân công giá rẻ của các nước thuộc địa. Trong bối cảnh chung đó, đế quốc Pháp vừa ra sức bóc lột nhân dân chính quốc, vừa đẩy mạnh khai thác các thuộc địa cả cũ và mới. Thêm vào đó, Pháp còn có những điều chỉnh trong chính sách thuộc địa để cho việc khai thác hiệu quả hơn, trong đó Đông Dương được Pháp đặt vào kế hoạch khai thác trước hết vì đây được coi là thuộc địa mà “về mọi phương diện là quan trọng nhất, phát triển nhất và giàu có nhất” [134, tr.24]. Cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng được Pháp tiến hành hết sức gấp rút, bằng những chương trình lớn: 5 năm (1918 - 1923 và 1924 - 1930) với những chính sách nhiều chiều về kinh tế, tài chính, chính trị, văn hóa xã hội... và những biện pháp đa dạng về hành chính, pháp lý... để cụ thể hóa những chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc khai thác thuộc địa. Trong đó, chính sách “hợp tác với người bản xứ” được sử dụng triệt để. Mục đích của chính sách này nhằm lôi kéo người Việt về phía Pháp, tránh ảnh hưởng của những luồng tư tưởng mới, nhất là ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đang tác động mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung. Trên tờ l’Annam, số 121 (ngày 03-12-1926), Hồ Từ Hải đã viết: “Mục đích ích kỷ của những người Pháp khi họ kêu gọi hợp tác, thì không cần chứng minh cũng thấy rõ lắm rồi. Họ cần nhân công bản xứ dể khai thác tài nguyên xứ ta làm giàu cho họ; họ cần chúng ta để bán hàng hóa của họ, thương mại của họ sẽ sụp đổ nếu chúng ta tẩy chay; mộng đế quốc của họ sẽ tan vỡ nếu chúng ta bất hợp tác toàn diện. Bằng lời lẽ quỷ quyệt, họ yêu cầu chúng ta giúp họ để bóc lột chúng ta. Bằng cớ chứng minh rõ nhất rằng họ dối trá chính là ở chỗ họ không bao giờ xác định đến mức rõ ràng cần thiết thế nào là sự “hợp tác”, chỉ dùng những từ như: “chân thành”, “không mưu mô thầm kín” mà họ hiểu theo một cách khác” [134, tr.45]. Về tác hại của “chính sách hợp tác” này, Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: Dù sao ảnh hưởng của những bài diễn văn của Sarraut khá rộng rãi và khá lâu dài, một lúc nào đó nó đánh lừa được nhiều người, kể cả nhiều người yêu nước chân thật, nó là một nguồn cảm hứng lý luận cho bọn truyền bá chủ nghĩa dân tộc cải lương ngoài Bắc và trong Nam suốt thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới [37, tr.507]. Có thể nói cuộc khai thác thuộc địa bằng chính sách “hợp tác với người bản xứ” đã tác động đến xã hội Việt Nam trong những năm 20 - 30 thế kỷ XX với những thay đổi trong kinh tế, văn hóa - xã hội, nhất là những biến động trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam thời kỳ đó. 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX Chỉ trong một thời gian ngắn, từ năm 1919 cho đến khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ, nền kinh tế thuộc địa đang trên đà phát triển ở những năm trước nhờ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sự mở rộng một số ngành sản xuất phục vụ chiến tranh có những bước phát triển mới. Hầu hết các ngành kinh tế đều phát triển, từ nông nghiệp, đến công, thương nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ tài chính... trong đó phải kể đến sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế nông nghiệp. Đi liền với sự phát triển của các ngành kinh tế, cơ cấu của nền kinh tế cũng thay đổi, mang tính chất thực dân - tư bản. Chế độ đại sở hữu tư nhân tư bản phát triển. Nền sản xuất được thương mại rõ rệt, với sự xuất hiện và mở mang của những vùng kinh tế thương phẩm lớn, nhất là những vùng trồng các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cao su, chè, cà phê... Mối quan hệ giữa tư bản và công nhân trở thành mối quan hệ chi phối quan trọng trong nền sản xuất. Sự chuyển biến của nền kinh tế, cùng với sự thay đổi trong chính sách thuộc địa - lấy “hợp tác với người bản xứ” làm cho xã hội Việt Nam có sự thay đổi về kết cấu dân cư, sự phân hóa xã hội trở nên phức tạp hơn, mâu thuẫn xã hội quyết liệt hơn xung quanh vấn đề cách mạng dân tộc, dân chủ. Tùy vào địa vị kinh tế và xã hội trong hệ thống thuộc địa, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp có vai trò và tiếng nói chính trị khác nhau. Ở khu vực nông thôn, địa chủ tăng cường tích tụ ruộng đất, người nông dân chịu thuế khóa nặng nề, phu phen tạp dịch. Quá trình chiếm đoạt ruộng đất của chính quyền thực dân đã làm cho số ruộng đất dành cho việc mở rộng diện tích canh tác của nông dân cũng như dành cho sự gia tăng dân số bị thu hẹp, gây nên tình trạng manh mún hơn về ruộng đất ở các vùng thôn quê, nhất là ở những vùng đồng bằng đông dân. Mặt khác, công cuộc khai thác thuộc địa được mở rộng khiến cho nông dân buộc phải đáp ứng những nhu cầu không giới hạn về nhân công cho các cơ sở kinh tế (đồn điền, hầm mỏ, nhà máy...) ở cả trong và ngoài nước và dù ở đâu họ cũng bị bóc lột thậm tệ. Đời sống của nông dân ngày càng lầm than, cơ cực. Có thể nói, chính cuộc sống vật chất cơ cực, giá trị tinh thần bị xúc phạm đã khiến cho nông dân giác ngộ hơn về quyền lợi cũng như ý thức dân tộc. Giai đoạn này, giai cấp địa chủ gia tăng về số lượng và đa dạng hơn về thành phần, gồm: địa chủ “nhà quê” là địa chủ nước ngoài và địa chủ người Việt. Thành phần của giai cấp địa chủ ngày càng trở nên phức tạp. Một bộ phận xuất thân từ các tầng lớp “trên” của xã hội thuộc địa, là các quan lại trong bộ máy chính quyền, là các trí thức Đông - Tây học, các doanh nhân, thương gia trung thành với chủ nghĩa “Pháp - Việt đề huề” quay lưng lại với quyền lợi quốc gia, dân tộc, chống lại nhân dân. Bộ phận khác là tầng lớp địa chủ nhỏ và vừa, trong đó có một số xuất thân từ nông dân có những quan điểm khác nhau đối với các phong trào giải phóng dân tộc. Trong khi đó, địa chủ người nước ngoài, trên thực tế cũng có tham gia vào việc cướp đoạt ruộng đất và bóc lột nông dân. Giữa những năm 20, giai cấp địa chủ, một lần nữa đã trỗi dậy nhằm phục hưng dân tộc, nhưng đó chỉ là sự trỗi dậy muộn màng, giai cấp này thực sự mất vai trò lịch sử, cùng với sự thất bại của Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ. Tư sản dân tộc chính thức trở thành một giai cấp, trên cơ sở một nền kinh tế phát triển, ít nhiều có tính chất “Việt hóa”. Giai đoạn này, vượt qua thời kỳ hoạt động riêng lẻ, phân tán, các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã biết liên kết thành hội đoàn để mở rộng sản xuất và bảo vệ quyền lợi của mình trước sự cạnh tranh của tư bản nước ngoài. Cùng với sự phát triển về số lượng, ý thức giai cấp trong giới này đã hình thành và ngày càng bộc lộ rõ nét. Từ những cuộc đấu tranh đòi được bình đẳng về quyền lợi kinh tế, giai cấp tư sản đã tiến sang đòi được hưởng quyền tự do - dân chủ theo kiểu tư sản, đòi có tiếng nói và vai trò về chính trị. Lúc này, chính sự ra đời của báo chí tư sản đánh dấu một bước trưởng thành của giai cấp tư sản Việt Nam về tư tưởng và ý thức giai cấp. Tuy nhiên, do sinh sau đẻ muộn, lại là con đẻ của một nền kinh tế thuộc địa kém phát triển - hậu quả của chính sách khai thác thuộc địa mang tính chất ăn bám của tư bản Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam nhanh chóng bộc lộ sự yếu ớt về kinh tế và bạc nhược về chính trị. Sau một thời gian ngắn, các cơ sở sản xuất của tư sản Việt Nam đã bị các ngành công nghiệp của tư bản nước ngoài đè bẹp, nhất là khi khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra. Còn về chính trị thì những ý tưởng của nó đã nhanh chóng bị phá sản. Cuối cùng thì một số đại tư sản đã về với nguồn gốc xuất thân của mình là các địa chủ, đại địa chủ, kinh doanh về ruộng đất và bóc lột nông dân theo kiểu phong kiến và gắn với chế độ thuộc địa. Cũng trong bối cảnh đó, giai cấp tiểu tư sản hình thành, cùng với sự bổ sung về số lượng và sự trưởng thành về ý thức giai cấp. Là một bộ phận gắn với hệ thống hành chính và các thiết chế của bộ máy chính quyền thuộc địa, nhưng giai cấp tiểu tư sản có tinh thần dân tộc, căm ghét chế độ thực dân. Bao gồm phần lớn là các trí thức, đại trí thức Đông - Tây học, đây cũng là giai cấp nhạy cảm nhất trong xã hội và dễ tiếp thu những tư tưởng mới. Vì vậy, họ luôn luôn là những người đi đầu trong các hoạt động cách mạng. Về chính trị, giai cấp tiểu tư sản thực hành chủ nghĩa quốc gia cách mạng. Về tổ chức, họ đã có các đảng phái, nhưng lại không lập ra được một chính đảng bền vững, có tôn chỉ mục đích rõ ràng, có đường lối tập hợp quần chúng đúng đắn. Cuối cùng, do yếu ớt và thiếu kiên định, không có khả năng tập hợp quần chúng, tất cả mọi hoạt động mang tính đảng phái của giai cấp này đều rơi vào tình trạng thất bại hoặc bị phân hóa, đi đến tan rã bởi sự đàn áp của kẻ thù, hoặc cũng là bởi sự cảm hóa của phong trào cộng sản. Giai cấp công nhân phát triển thêm một bước về số lượng do sự mở rộng quy mô của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở trong nước, cùng với số công nhân hết hạn hợp đồng từ chính quốc và từ các thuộc địa khác trở về. Số lượng hơn 20 vạn công nhân trong các hầm mỏ, xí nghiệp, nhà máy, đồn điền... lớn gấp hơn 2 lần so với trước chiến tranh và hơn 4 lần so với thời gian đầu thế kỷ. Con số này mới chỉ tính đến những công nhân chuyên nghiệp và cũng chỉ là công nhân trong các cơ sở kinh tế của tư bản Pháp, mà chưa kể đến công nhân của các cơ sở kinh tế của tư sản dân tộc và tư sản ngoại quốc khác. Về số lượng, đây thực sự là sự tăng lên đáng kể, mặc dù so với dân số, công nhân mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Vẫn như từ trước, công nhân được bổ sung chủ yếu từ giai cấp nông dân, nên họ càng dễ dàng trong việc lôi kéo khối quần chúng nông dân đông đảo và liên minh chống đế quốc, phong kiến với mình. Ở giai đoạn trước, mặc dù đã hình thành một giai cấp, nhưng phong trào công nhân vẫn trong giai đoạn “tự phát”, tức là giai cấp công nhân chưa trở thành lực lượng chính trị độc lập. Thế nhưng sau chiến tranh, với số lượng được bổ sung đông đảo, sự tác động của những yếu tố bên ngoài, sự tích cực hoạt động của các chiến sĩ cách mạng đã làm cho giai cấp công nhân Việt Nam trưởng thành, phong trào công nhân chuyển sang giai đoạn tự giác. 1.1.3. Các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc và sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương Sự phân hóa sâu sắc bên trong xã hội Việt Nam, trong cơ cấu nền kinh tế cũng như cơ cấu xã hội đã ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin - vũ khí cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế, cũng như những ảnh hưởng mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới thắng lợi, mở ra một thời đại mới cho lịch sử loài người - thời đại phong trào giải phóng dân tộc chuyển hẳn sang phạm trù vô sản. Sự ra đời của các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên thế giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa tạo ra những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng tiến bộ vào Việt Nam. Phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh đạo chung của Quốc tế cộng sản. Đây là thời kỳ phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sôi nổi cả ở trong và ngoài nước, dưới những hình thức khác nhau, in đậm dấu ấn của những giai cấp, những tầng lớp xã hội tiến hành những cuộc đấu tranh đó. Ở nước ngoài, đó là những hoạt động xuất sắc và công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên xô cũng như tại các nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin - lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt Nam cũng như đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh đạo chung của Quốc tế cộng sản. Bên cạnh đó, là những hoạt động rất đa dạng tại nhiều quốc gia của các cá nhân cũng như những nhóm người Việt Nam yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Mai Lão Bạng, Nguyễn Thượng Hiền...; hoạt động sôi nổi đầy nhiệt huyết trong nhóm Tâm Tâm xã ở Quảng Châu mà tiêu biểu là tấm gương hy sinh lẫm liệt của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, trong các tổ chức yêu nước của người Việt Nam ở Pháp (Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền....), cũng như ở trong nước của các trí thức tiểu tư sản: Nguyễn An Ninh, Trần Huy Liệu... Đó cũng còn là phong trào do giai cấp tư sản chủ trương, đòi những quyền lợi cụ thể về kinh tế, chính trị. Phong trào do giai cấp tiểu tư sản, học sinh, sinh viên tiến hành đòi những quyền tự do dân chủ: Tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi được bình đẳng với các viên chức và trí thức Pháp về đãi ngộ cũng như về bằng cấp... Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lan rộng, phát triển cả về số lượng và chất lượng: Từ những đòi hỏi quyền lợi hàng ngày về kinh tế, tiến tới đòi hỏi đáp ứng những khẩu hiệu về chính trị. Từ sự cố gắng của các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức Công đoàn đã được thành lập. Phong trào đấu tranh của thanh niên cũng phát triển rầm rộ ở khắp nơi, chống địa chủ, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt lính. Tuy nhiên, giai đoạn này, mặc dù, phong trào dân tộc diễn ra sôi nổi, nhưng vẫn chưa thống nhất được lực lượng, chưa có đường lối đấu tranh chung, tức là vẫn khủng hoảng về lãnh đạo. Giai cấp địa chủ phong kiến đã hết vai trò lịch sử, chủ nghĩa cải lương Pháp - Việt đề huề đã nhanh chóng bị giới thực dân phản đối cũng như bị các trào lưu cách mạng lấn át. Giai cấp tư sản non yếu không thể trở thành giai cấp lãnh đạo phong trào. Giai cấp tư sản không kiên định, không có đường lối cách mạng rõ ràng nên không thành lập được một chính đảng riêng, có đủ khả năng tập hợp quần chúng để làm cách mạng. Từ 1925 đến năm 1927, các tổ chức cách mạng, đại diện cho các giai cấp, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức lần lượt ra đời ở Việt Nam, nhưng cuối cùng thì hoặc là tan rã, hoặc là bị phân hóa. Trong các giai cấp cần lao, giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của phong trào dân tộc, bị bóc lột nhiều, nhưng chưa bao giờ là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Trong khi đó, là con đẻ của nền kinh tế hiện đại, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất. Đây cũng là giai cấp chịu nhiều ách áp bức bóc lột nhất, đói khổ nhất, vì vậy là giai cấp kiên định nhất. Với những lý do đó, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo được phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Được sự dìu dắt của Quốc tế Cộng sản, của các chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc, giai cấp công nhân Việt Nam dần dần trưởng thành và vào những năm cuối thập niên 20 thế kỷ XX đã sẵn sàng thực hiện sứ mạng chính trị của mình. Đó là khi tất cả các tổ chức đảng phái của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội bị thất bại hoặc bị phân hóa triệt để theo hướng vô sản thì các tổ chức cộng sản ra đời và Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng của phong trào yêu nước của nhân dân ta trong những năm đầu thế kỷ đó. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng lãnh đạo bị thất bại, giai cấp công nhân độc tôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thông qua chính đảng của mình. Có thể nói, 30 năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử mang tính bản lề quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam cận - hiện đại. Đây chính là giai đoạn quyết định chiều hướng phát triển của Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo, tạo ra những tiền đề tư tưởng, tổ chưc và lực lượng cho sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở những giai đoạn sau, mà sớm nhất là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo [134, tr.11]. 1.2. Sự phát triển báo chí đầu thế kỷ XX 1.2.1. Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ Nhất 1.2.1.1. Bối cảnh Đây là thời kỳ phát triển các phong trào dân tộc như Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục và cũng là thời điểm xuất hiện nền văn học yêu nước và cách mạng. Giai đoạn này, mặc dù báo chí hoàn toàn nằm trong tay chính quyền thực dân, nhưng những người cầm bút yêu nước vẫn tìm mọi cách để có thể đưa tiếng nói của mình ngay trên mặt báo của kẻ thù. Những bài báo của một số nhà nho yêu nước trên các tờ Lục Tỉnh Tân văn, Nông Cổ Mín Đàm hay Đăng Cổ Tùng Báo tuy ít ỏi, tiếng nói phản kháng còn yếu ớt nhưng có thể được xem là sự khởi đầu cho những tiếng nói mạnh mẽ vào thời kỳ tiếp theo. Ở hải ngoại, Phan Bội Châu dùng báo chí để tuyên truyền yêu nước. Trong tay không có báo chí, Cụ đã mượn báo chí cách mạng Trung Hoa như các tờ Binh Sự Tạp chí (Hàng Châu), Vân Nam Tạp chí, Tân Dân Tùng báo làm phương tiện vận động cách mạng và coi đó là sự viện trợ về phần văn tự của bạn. Trước tình hình này, bên cạnh việc huy động quân đội và nhà tù để đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng của dân tộc ta, thực dân Pháp còn tiến hành tập hợp lực lượng để phản kích lại các lực lượng cách mạng và yêu nước trên mặt trận văn hóa tư tưởng, trong đó có báo chí. Mục tiêu của chúng là giành lại sự thống trị tuyệt đối về mặt tinh thần. Đối với báo chí, chính quyền thực dân áp đặt chế độ kiểm duyệt gắt gao hòng ngăn chặn những tư tưởng tiến bộ, sách báo cách mạng từ ngoài gửi về. Trong điều kiện đó, báo chí Bắc Kỳ hầu như không hoạt động, chỉ có duy nhất tờ Công báo của phủ Toàn quyền. Mặt khác, chính quyền thực dân khẩn trương vạch ra và thực hiện một đường lối báo chí có hiệu lực nhằm chống lại những tư tưởng yêu nước. 1.2.1.2. Một số tờ báo tiêu biểu: Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo và Đại Việt Tân Báo: Ra đời vào khoảng năm 1891, do chủ nhà in Scheider sáng lập, nhưng thực tế là do Nha Kinh lược chủ trì với hai cây bút chính là Đào Nguyên Phổ và Hàn Thái Dương. Báo được phát hành khắp Bắc và Trung Kỳ. Đây là công cụ ngôn luận của nhà nước bảo hộ, trực tiếp là Nha Kinh lược Bắc Kỳ (Lúc này do Hoàng Cao Khải nắm giữ). Đối tượng chính là các nhà nho và chỉ phát hành trong giới quan lại. Đại Việt Tân báo ra mỗi tuần 2 số, in cả bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Đây được xem là một bước tiến về mặt ngôn ngữ để báo chí có thể xâm nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại người bản xứ. Về danh nghĩa, đây là tờ báo tư nhân, nhưng thực chất là được chính quyền bảo hộ đỡ đầu. Đăng Cổ Tùng báo: Số 793 của tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật báo chính là số đầu tiên của tờ Đăng Cổ Tùng báo (số 01). Đăng Cổ được tách ra gắn với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. “Mang hơi thở của phòng trào Đông kinh Nghĩa Thục tờ báo có những lời hô hào thực nghiệp, chống những thói hủ tục, mê tín dị đoan, kêu gọi hợp tác. Đó là nét mới của tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội” [40, tr.45]. Về nghệ thuật báo chí, Đăng Cổ Tùng báo là một bước tiến đáng kể trong nghề làm báo. Trong 9 tháng liền, Đăng Cổ Tùng báo ra được 34 số. Phát hành qua số 826, ngày 14-11-1907 thì tiếng trống Đông Cổ đột nhiên ngừng bặt. Đó cũng chính là lúc Đông Kinh Nghĩa Thục đang trải qua cơn khủng bố. Các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... lần lượt bị bỏ ngục. Tờ báo không thể tồn tại cũng như cơ sở xuất bản (Ban Tu thư) của Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, sách vở bị tịch thu... [40, tr.47]. Đông Dương Tạp chí: tuần báo ra số đầu tiên vào ngày 15-5-1913, ở Hà Nội. Đây là tờ báo quan trọng bậc nhất trong việc tuyên truyền cho văn minh phương Tây, văn minh Pháp. Đông Dương Tạp chí luôn có chuyên mục dạy, phổ biến chữ quốc ngữ, dịch (“diễn nôm”) các văn phẩm nổi tiếng, chủ yếu là văn học Pháp, đăng tải các diễn văn, tin tức quan trọng của Phủ toàn quyền (bằng cả hai thứ tiếng Pháp - Việt) và quảng cáo rao vặt... Trong suốt những năm Chiến tranh thế giới thứ Nhất, đây thực sự là tờ báo quan trọng bậc nhất của giới thực dân. Mặt khác, tờ báo này với nghệ thuật báo chí tiên tiến đã trở thành cơ quan báo chí đi đầu trong việc truyền bá văn minh phương Tây, phê bình lối sống phong kiến, các hủ tục còn rơi rớt lại. 1.2.2. Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ Nhất 1.2.2.1. Bối cảnh Tháng 08 năm 1914, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa này đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị và văn hóa ở các nước thuộc địa do chính sách vơ vét sức người, sức của của thực dân. Về chính trị, thực dân Pháp tiến hành các hoạt động: “Chấn chỉnh quan trường”, bố trí cho “Hoàng thượng ngự giá Bắc tuần”, ban hành “Hoàng Việt Tân luật”, “chính sách thuế mới”, củng cố “Hội đồng tư vấn”... “Trên lĩnh vực văn hóa giáo dục, một chính sách thực dân bằng sách vở được đem ra thực hiện. Bọn thống trị ra sức đào tạo từ trong lớp người “đã sống nhờ vào chúng ta (thực dân) và ở bên cạnh chúng ta nhưng mù tịt về truyền thống của giống nòi và xa lạ với môi trường sống của mình” ... “một đội ngũ những tên tay sai trợ lực cho công cuộc cai trị thuộc địa và phục vụ cho “chiến thắng của mẫu quốc” [40, tr.51]. Ngược lại với “một nền thịnh vượng chung” mà bọn chúng mong ước, chiến tranh vừa bùng nổ, các nhà cách mạng chỉ trông ở thời cơ này để hô hào và hành động nhằm nêu cao quốc kỳ Việt Nam trên thế giới. Hàng loạt các hoạt động vũ trang liên tiếp nổ ra ở biên giới phía Bắc, cuộc khởi nghĩa của Vua Duy Tân, vụ phá Khám Lớn ở Sài Gòn khiến bọn thực dân không yên. Để đối phó, thực dân Pháp vừa thẳng tay đàn áp, vừa ráo riết thi hành chủ thuyết “Pháp Việt đề huề”. Nằm trong toàn bộ chính sách văn hóa và tư tưởng, báo chí một lần nữa được bọn thực dân tận dụng như một thứ vũ khí lợi hại. 1.2.2.2. Một số tờ báo tiêu biểu Đầu năm 1915, báo chí ở Bắc Kỳ có bước phát triển với sự phân thân của Đông Dương Tạp chí: có thêm phụ chú là “Học báo” ra ngày Chủ nhật hàng tuần chuyên sâu vào khảo cứu, học thuật và sư phạm. Tiếp theo đó là sự xuất hiện của hai tờ Trung Bắc Tân văn và Công thị báo. Sau khi đặt chân lên Đông Dương với những nhiệm vụ mới của tình hình thời chiến, Toàn quyền Raume tức tốc triển khai một kế hoạch toàn diện cho công cuộc cai trị thuộc địa. Tháng 6 - 1915 “Thư viện truyền bá được thành lập” thu hút toàn bộ công việc xuất bản sách báo ở Đông Dương, dưới sự cai quản của Cơ quan mật thám Đông Dương cùng với Nha các vấn đề chính trị và bản xứ thuộc Phủ toàn quyền. Thư viện truyền bá thông qua 2 ấn phẩm: Đông Dương Tạp chí - tuần báo văn chương, khoa học và giáo dục và Trung Bắc Tân văn - thời báo chính trị, kinh tế. Tờ báo lớn nhất thời kỳ này là Nam Phong Tạp chí, gắn liền với tên tuổi Phạm Quỳnh, ra số đầu tiên vào tháng 7-1917. Tính đến số cuối cùng, ra ngày 16-12-1934, bộ sưu tập Nam Phong gồm 210 số báo, chia làm 3 thời kỳ: Thời kỳ đầu (1917-1925) hoạt động trong khuôn khổ Hội khai trí tiến đức; giai đoạn (1925 - 1932), bên cạnh xu hướng chính trị quốc gia cải lương, Nam Phong còn phát triển nghiên cứu học thuật, hướng theo Âu Tây tư tưởng - văn hóa, tạo ra một thế lực chính trị theo chủ thuyết lập hiến do chính Phạm Quỳnh đứng đầu; thời kỳ cuối (1932-1934) Phạm Quỳnh bỏ vào Huế làm quan thượng thư cho Nam Triều, Nguyễn Tiến Lãng đứng làm chủ bút. Từ đây, tờ báo suy giảm chất lượng, mất dần bạn đọc và phải tự đình bản. 1.2.3. Báo chí Việt Nam thời kỳ 1919 - 1930 1.2.3.1. Giai đoạn 1919 - 1924 Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, thực dân Pháp tập trung khôi phục nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá trong chiến tranh và tiến hành khai thác các thuộc địa với quy mô lớn và có chiều sâu. Đi đôi với các chính sách kinh tế mới, thực dân Pháp có những chủ trương thích ứng nhằm củng cố và tăng cường bộ máy cai trị ở các thuộc địa, từ đó làm nảy sinh những cơ cấu giai cấp mới và quan hệ xã hội mới (như đã phân tích ở phần 1). Thời kỳ này, cùng với những biến đổi về kinh tế và chính trị là sự chuyển hướng về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao nhằm mục đích phục vụ cho những chính sách cai trị mới của thực dân Pháp trong tình hình mới. Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định lập “Hội khai trí tiến đức” do tên trùm mật thám L.Mácty làm chủ tịch nhằm tập hợp tầng lớp trí thức thượng lưu tuyên truyền học thuật và tư tưởng của chính quyền thực dân, khuyến khích người dân làm việc đạo đức cũng là bảo trì cho quyền lợi người Pháp, người Nam trong trường kinh tế. Việc Quốc tế cộng sản ra đời, giương cao ngọn cờ tập hợp các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc bị báo chí trong nước làm ngơ, báo chí từ Pháp sang, trừ báo chí phe tả, còn lại đều cùng một luận điệu chống cộng, chống chủ nghĩa Bôn-sê-vích. Tháng 01-1924, Quốc tế cộng sản có lời kêu gọi gửi tới nhân dân Việt Nam in bằng tiếng Việt được bí mật truyền tay nhau đã trở thành nỗi lo của chính quyền thực dân. Sau Yêu sách tám điểm gửi Hội nghị quốc tế họp ở Véc-xay, ký tên Nguyễn Ái Quốc, việc Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Tua tháng 12-1920, bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, rồi tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, là những nguồn kích thích mạnh mẽ tinh thần yêu nước và lòng tin của những người yêu nước vào Người dẫn đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những hoạt động của các nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái... từ nước ngoài vọng về trong nước, hòa vào xu hướng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc, hun đúc thêm khí thế dân tộc chống ngoại xâm. Bối cảnh lịch sử cùng với những vấn đề mới xuất hiện trong tình hình xã hội Việt Nam trên đây có quan hệ đến những đặc điểm của sự phát triển báo chí. Những tờ báo, tạp chí xuất hiện từ thời kỳ trước còn tiếp tục xuất bản trong thời kỳ này, như Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân văn, Nam Kỳ địa phận, Nam Trung Nhật báo, Công luận báo, Nam Phong... hầu hết là ở Sài Gòn, chỉ có báo Trung Bắc Tân văn và Tạp chí Nam Phong xuất bản ở Hà Nội, trong đó có 2 tờ kinh tế, 6 tờ chính trị và 1 tờ tôn giáo [40, tr.68]. Tình thế thay đổi, đòi hỏi những tờ báo và tạp chí này cũng có những thay đổi cần thiết để thích ứng, về mặt thể loại bài, đưa tin, phong cách... mặc dù vẫn bám sát tôn chỉ, mục đích kể từ khi ra số 1 và trong quá trình xuất bản từ trước đến nay. Về nội dung, ngoài những loại báo chính trị, kinh tế, tôn giáo như thời kỳ trước, tuy cơ cấu có thay đổi, báo kinh tế có xu hướng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc. Có tờ báo kinh tế kết hợp chặt chẽ với tính chất chính trị, hoặc xuất hiện thể loại mới về văn hóa, giáo dục, khoa học và thể dục thể thao mà trước kia chưa có. Có 6 tờ báo tiếng Pháp do người Việt chủ trương phát triển theo hai xu hướng chính trị khác hẳn nhau, 5 tờ theo khuynh hướng phát ngôn quyền lợi và yêu cầu của giai cấp tư sản Việt Nam, mang tính chất thỏa hiệp với thực dân Pháp; 01 tờ có khuynh hướng dân tộc và xã hội chủ nghĩa chống chủ nghĩa thực dân. Những tờ báo tiêu biểu nhất của thời kỳ này có thể được nói đến là: - Thực nghiệp dân báo, ra số đầu tiên vào ngày 12-02-1920. Chủ nhiệm kiêm quản lý là Bùi Huy Tin, rồi Mai Du Lân. Chủ bút là Trần Văn Quang rồi Bùi Đình Tá. Thời kỳ đầu thường đăng những bài về kỹ thuật trồng trọt và kỹ thuật tiểu công nghiệp, hô hào mọi người đi vào con đường “thực nghiệp”, phản ánh tình hình “đói khát về công nghiệp”...; tiếp đến là đòi cho giai cấp tư sản Việt Nam được phép xây dựng nhà máy, góp cổ phần lập xí nghiệp sản xuất, phát triển kinh tế để có hàng xuất khẩu và mua hàng nước ngoài về. - Khai Hóa: Người sáng lập là Bạch Thái Bưởi, ra số 1 ngày 15-7-1921. Đây là nhật báo, xuất bản hàng ngày. Cũng như Thực nghiệp dân báo, Khai Hóa là tiếng nói của giai cấp tư sản xứ Bắc Kỳ đang lên. Từ giữa năm 1925 trở đi, Khai Hóa đề cập trực tiếp hơn nữa những vấn đề kinh tế và chính trị. Xét về thái độ với thực dân Pháp, Khai Hóa có phần yếu đuối hơn Thực nghiệp dân báo. Sau khi ra số 1762, tháng 6-1928, Khai Hóa ngừng xuất bản. - La Cloche fêlée (Chuông rạn), người sáng lập là nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh, ra số 1 ngày 10-12-1923, xuất bản hàng tuần. Sau khi ra số 62, ngày 3-5-1926, báo đổi tên là L’Annam, đánh số 63, ngày 06-6-1926, cho đến khi báo ra số 182, ngày 02-02-1928 thì đình bản. Báo kịch liệt công kích chế độ thực dân tàn bạo, gây lòng căm thù sâu sắc của nhân dân ta đối với bọn thực dân Pháp đồng thời lên án nhà vua bù nhìn ở Huế. Mặt khác, báo kêu gọi lòng yêu nước, đề cao ý thức độc lập, tự chủ của dân tộc ta bắt nguồn từ truyền thống lịch sử kết hợp với tinh thần đương đại, phấn đấu cho một tương lai tươi đẹp hơn. Báo đả kích kịch liệt chủ nghĩa “Pháp-Việt đề huề”. Có thể nói, tờ Chuông rạn thực sự là một dấu son trong lịch sử báo chí nước nhà. 1.2.4. Thời kỳ 1925-1930 Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đi dần vào chiều sâu. Nhiều nhà máy, hầm mỏ, đồn điền mở rộng quy mô sản xuất khá nhanh, đem lại những khoản lợi nhuận lớn, càng thúc đẩy tư bản Pháp đầu tư mạnh hơn. Trong bối cảnh kinh tế mới, tư sản bản xứ cũng có điều kiện phát triển khá nhanh, tuy rằng tốc độ chậm hơn tư sản Pháp vì vốn liếng không nhiều, khả năng quản lý và kỹ thuật hạn chế, nhất là những chính sách nâng đỡ tư sản Pháp, chèn ép tư sản bản xứ. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn giữa tư sản Việt Nam và tư sản Pháp vốn có lại tăng lên và kích thích ý thức dân tộc phát triển trong tư sản Việt Nam. Để mong ổn định tình hình chính trị, xoa dịu mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp, nhằm phục vụ cho việc triển khai các chính sách kinh tế, Bộ Thuộc địa Pháp cử Varen sang làm Toàn quyền Đông Dương, thực hiện đường lối Pháp - Việt đề huề nhằm mê hoặc nhân dân, các phái chính trị cùng bộ phận trí thức đang có ý chống đối bằng những thủ đoạn xảo quyệt hơn. Các phong trào yêu nước và dân chủ phát triển khá mạnh trong trí thức, tư sản. Đặc biệt là xu hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu xâm nhập phong trào dân tộc và giai cấp công nhân. Những cuộc vận động đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh sôi nổi trong cả nước. “Nhiều cuốn sách chứa chan lòng yêu nước của các tác giả Việt Nam sáng tác cùng với các sách dịch của nước ngoài của Nam Đồng thư xã ở Hà Nội, Cường học thư xã ở Sài Gòn... được phổ biến rộng rãi và người đọc hoan nghênh” [40, tr.77]. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lập Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội) ở Quảng Châu. Những thanh niên Việt Nam yêu nước từ trong nước, từ Thái Lan cùng vớ...ến với Đuốc nhà Nam, sau đó là loạt bài "Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi" và loạt bài nói về Đảng Lập Hiến ở Nam Kỳ, xen kẽ còn có thêm các bài nhỏ thể hiện các đối đáp với báo Đuốc nhà Nam, Phan Khôi (bút danh Trung Lập). Những bài chuyên luận này đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (các nghị viên Hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia Đảng Lập hiến) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng. Chuỗi bài này được bắt đầu từ bài Ý kiến Trung lập: “Phải nói minh bạch” (Trung lập, Sài Gòn, ngày 20-6-1930), qua một loạt bài: “Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử?” [111]; “Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu” [112]; “Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào?” [113]; và 4 bài nhỏ đều đăng trên Trung lập ngày 25 - 6 - 1930: “Ai nói dối?”; “Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long”; “Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ”; "Kiến hiền tư tề yên" Tiếp đó, đến loạt bài về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi (kỳ I - IV) từ 26-6- 930 đến 30-6-1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của Đảng Lập hiến Nam Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2-7-1930, đến kỳ XIII, 25-7-1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...). Năm 1929, trên báo Thần chung, Phan Khôi đã có bài luận về bút chiến. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12 - 7 - 1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài "Viếng mộ ông Lê Chất" của Phan Khôi rồi viết rằng "người mình có cái tật "vì người mà bỏ lời nói" nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến", tức là mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi). Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám, đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ, ông buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường ngôn luận" (Trung lập, Sài Gòn, ngày 19-7-1930); "Một sự buồn trong báo giới” (Trung lập, ngày 21-7; 24-7; 01-8-1930). Một bài bình luận cũng rất quan trọng nữa là bài báo đăng 4 kỳ, có nhan đề "Vấn đề cải cách" (Trung lập các số ra ngày 9-8; 12-8; 13-8; 18-8-1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước", đó là một chủ kiến có không ít căn cứ. Ngay trong "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần của tờ Trung lập, ngoài những mục như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, mục "Giấy thừa mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn và lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam, Phan Khôi cũng có những bài chuyên luận, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như "đạo văn". Cụ thể là, trên Phụ trương văn chương số 41, ngày 13-2-1932Cao Minh Chiếm đã "tố giác cái án đạo văn" nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác. Tác giả Mai Lan Quế nhận thấy sự vô lý này, trên Phụ trương văn chương số 47, ngày 26-3-1932, đã đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi trên Phụ trương văn chương số 48, ngày 02-4-1932 giải rõ thế nào là "đạo văn" và xác định những trường hợp ấy không phải là "đạo văn", hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá. Tiểu kết chương 4 Trong thời gian đầu khá dài, tính không chuyên nghiệp là một đặc điểm lớn đã chi phối tất cả mọi hoạt động của nền báo chí non trẻ nước ta. Chúng ta chưa có một đội ngũ nhà báo thực thụ, phần lớn các nhà báo xuất thân từ nhà văn, họ viết báo bằng những kinh nghiệm của viết văn và hầu như không có khái niệm rõ ràng về các thể loại báo chí. Qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi đã có những đóng góp quan trọng trọng phát triển thể loại tác phẩm báo chí và kỹ năng làm báo: Một là, những năm đầu thế kỷ XX diễn ra sự chuyển dịch từ văn học sang báo chí, chính là các thể loại vốn có ranh giới mong manh giữa hai loại hình lấy văn tự làm phương tiện này: tiểu phẩm, ký sự, phóng sự, phóng sự điều tra, thường được "rút gọn" thành hai thể loại tiểu phẩm và phóng sự. Đến cuối những năm 20 và những năm 30 của thế kỷ XX, các thể loại báo chí Việt Nam đã định hình khá rõ nét, có phần được chiếu theo những tiêu chí của báo chí phương Tây. Bên cạnh những thể loại cũ, một số thể loại mới xuất hiện, trong đó có hài đàm (một loại tiểu phẩm báo chí). Tiểu phẩm có gốc gác từ thể loại tạp văn của văn học, một thể loại vốn được các nhà văn, đặc biệt là các nhà văn phương Đông ưa chuộng. Các thể loại "nhỏ" của văn học thường được xếp vào khu vực này: nhàn đàm, nhàn tưởng, thư từ, sổ tay... với đặc điểm chung là dung lượng nhỏ và có yếu tố ngẫu hứng. Đặc điểm này ngay lập tức được phát huy trên báo chí để đáp ứng nhu cầu cập nhật thông tin của xã hội. Chỉ cần nhìn vào tên của các chuyên mục dành cho tiểu phẩm trên mặt báo sẽ thấy ngay điều này: Nói hay đừng, Guồng trần xoay máy, Câu chuyện hàng ngày, Câu chuyện hàng tuần... Cùng với việc diễn ra các cuộc tranh luận về các vấn đề về học thuật, về đời sống xã hội (như đề cập trong chương 3), là sự xuất hiện của các bài báo thuộc thể loại bình luận, chuyên luận nhằm làm sáng tỏ những nội dung tranh luận. Bằng lao động sáng tạo của mình, trong vai trò người viết chính của chuyên mục Câu chuyện hàng ngày trên Thần chung, Trung lập và vai trò trung tâm của các cuộc tranh luận trên báo chí đầu thế kỷ XX, Phan Khôi đã có những đóng góp quan trọng trong việc định vị và phát triển thể loại tiểu phẩm báo chí, bình luận, chuyên luận nói riêng và phát triển thể loại tác phẩm báo chí nói chung trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Đây chính là một trong những bước tiến, đưa hoạt động báo chí nói riêng, diện mạo báo chí Việt Nam mang tính chuyên nghiệp, đến gần hơn với những tiêu chí phát triển của báo chí thế giới. Hai là, tinh thần “nhập cuộc”, sự trau dồi kiến thức uyên thâm, sự phong phú trong ý tưởng, sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp, về vai trò và trách nhiệm của nhà báo trong việc tác động vào xã hội thông qua hoạt động nghề nghiệp đã tạo nên một phong cách Phan Khôi của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc đời hoạt động báo chí của Phan Khôi đã để lại những bài học kinh nghiệm còn nguyên giá trị mang tính thời sự đối với những người làm công tác nghiên cứu cũng như hoạt động thực tiễn báo chí ngày nay. KẾT LUẬN Phan Khôi là một trong những người đầu tiên thuộc thế hệ đa tài giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, thế hệ được sinh ra và sống trong thời kỳ lịch sử mang tính bản lề quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam cận - hiện đại. Có thể nói, đây chính là giai đoạn quyết định chiều hướng phát triển của Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo, tạo ra những tiền đề tư tưởng, tổ chức và lực lượng cho sự phát triển của các phong trào giải phóng dân tộc và thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây cũng là thời kỳ nền văn hóa Nho học và Tây học cùng lúc ảnh hưởng đến nền văn hóa Việt nam. Trong điều kiện lịch sử ấy, Phan Khôi đã lựa chọn cho mình con đường để cống hiến, đó là tham gia hoạt động báo chí: quản lý cơ quan báo chí khi ông sáng lập và làm chủ nhiệm tờ Sông Hương; là cây bút chính của nhiều tờ báo, nhất là thời gian ông tham gia hoạt động báo chí ở Sài Gòn; cộng tác, viết bài cho hàng chục tờ báo khắp hai miền Nam - Bắc. Qua nghiên cứu di sản khổng lồ các tác phẩm cũng như cuộc đời hoạt động báo chí của Phan Khôi, trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cùng với kế thừa những đánh giá, nghiên cứu về ông, có thể thấy, trong suốt cuộc đời làm báo của mình, Phan Khôi đã có những đóng góp to lớn thúc đẩy sự phát triển của báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: 1. Với tư cách của một nhà báo - học giả, Phan Khôi có những đóng góp quan trọng trong phát triển báo chí Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, từ tổ chức tòa soạn (là những lúc ông trong vai trò người sáng lập tờ báo, chủ nhiệm một cơ quan báo chí, chủ bút của một tờ báo), đến định vị và phát triển thể tài, thế loại báo chí mới (tiêu biểu là tiểu phẩm báo chí - thời của ông gọi là hài đàm, nhàn đàm, bình luận, chuyên luận), góp phần đưa báo chí Việt Nam có những bước chuyển, từ chỗ văn - báo bất phân, có thể đến gần hơn với những tiêu chí phát triển của báo chí thế giới. Ngòi bút tài năng của ông đã hướng vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội với một niềm say mê và lòng nhiệt huyết yêu nghề, nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn cuộc sống. Văn phong báo chí của ông là tiếng nói sắc sảo, thẳng thắn và rất hoạt. Ông là một trong những nhà báo tiên phong trong lĩnh vực văn xuôi báo chí. Với kiến thức uyên thâm, tiếp thu những tiến bộ của văn minh phương Tây, Phan Khôi thổi hồn hiện đại vào các tác phẩm báo chí của mình, xây dựng phong cách làm việc của một nhà báo chuyên nghiệp. Vị trí "ngôi sao" (từ dùng của nhà văn Thiếu Sơn) của Phan Khôi trong nghề, sức hấp dẫn của các tác phẩm báo chí của Phan Khôi trong lòng công chúng và khả năng tạo nên sức hút đặc biệt, sự quan tâm của xã hội đối với các tờ báo ông tham gia hoặc trực tiếp sáng lập, làm chủ bút đã khẳng định những giá trị, những đóng góp không nhỏ của ông vào sự phát triển của báo chí nửa đầu thế kỷ XX. Những đóng góp tiêu biểu: Một là, qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi đã có phát triển nhận thức mới về nghề báo, kỹ năng làm báo. Vốn kiến thức uyên thâm cùng sự phong phú trong ý tưởng, sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức rõ vai trò, trách nhiệm của nhà báo trong việc tác động vào xã hội thông qua hoạt động nghề nghiệp và sự ý thức sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp chính là những yếu tố tạo nên một phong cách Phan Khôi của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Hai là, bằng lao động sáng tạo của mình, trong vai trò người viết chính của chuyên mục Câu chuyện hàng ngày trên Thần chung, Trung lập và vai trò trung tâm của các cuộc tranh luận trên báo chí đầu thế kỷ XX, Phan Khôi đã có những đóng góp quan trọng trong việc định vị và phát triển các thể loại tiểu phẩm báo chí, bình luận, chuyên luận nói riêng và phát triển thể loại tác phẩm báo chí nói chung trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Đây chính là một trong những bước tiến, đưa hoạt động báo chí nói riêng, diện mạo báo chí Việt Nam mang tính chuyên nghiệp, đến gần hơn với những tiêu chí phát triển của báo chí thế giới. 2. Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi bộc lộ khả năng của một nhà tư tưởng sớm biết đặt ra những vấn đề giá trị di sản Nho giáo cổ truyền trước thời đại mới, trực tiếp đưa ra những quan niệm mới về luân lý, bình đẳng và dân chủ, tiếp nhận tư tưởng Tây Âu để đổi mới xã hội. Với vốn kiến thức uyên thâm cả Nho học và Tây học, ông có điều kiện đối chiếu, sàng lọc để chắt lấy những tinh hoa của từng phía, nhằm cổ vũ, truyền bá một mô hình văn hóa Việt mới, trong đó, chú trọng chuyển đổi nhận thức, tư duy, như đầu mối của công cuộc cải cách. Trong môi trường hoạt động nghề nghiệp, thực tiễn sinh hoạt, ông tiếp cận, cập nhật tri thức và các sự kiện thế giới, cũng như giao lưu, tiếp xúc với nhiều đối tượng, tầng lớp; qua đó, thường xuyên được học hỏi, tiếp nhận đa dạng các thực tiễn, tích lũy nhiều kinh nghiệm... Trên cơ sở đó, ông có điều kiện phát triển một nhận thức và tư duy dân chủ, hiện đại; với cách nhìn, cách nghĩ cởi mở, khoáng đạt... là tiền đề cho các tư tưởng và quan niệm nhân sinh tiên tiến, đậm chất nhân bản. Không đáng ngạc nhiên khi tác giả của những bài báo kịp thời, hữu ích, đáp ứng được nhu cầu đời sống thường nhật của quần chúng ấy, ông trở thành người hướng đạo về tinh thần cho người đọc, vừa là thày khi truyền đạt tri thức, vừa là bạn khi tranh luận... Những giá trị này dựng nên chân dung ông - nhà báo - học giả. Những đóng góp tiêu biểu: Một là, những quan điểm chính trị - xã hội tích cực trong các tác phẩm báo chí của Phan Khôi là những đóng góp quan trọng góp phần nâng cao nhận thức chính trị, xã hội của công chúng, đem lại cho công chúng những kiến thức, những hiểu biết có chiều sâu về những giá trị lịch sử của dân tộc. Đây là những kiến thức quan trọng, trong bối cảnh đất nước đang bị đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Hai là, với tinh thần yêu nước, đứng về phía nhân dân, thông qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi đã thẳng thắn phê phán thể chế chính trị đương thời, cụ thể là phê phán chủ trương “Pháp - Việt đề huề” của Đảng Lập hiến. Ba là, với vốn kiến thức sâu rộng, uyên bác, Phan Khôi đã đưa ra những quan điểm về con đường phát triển đất nước - muốn phát triển phải thực hiện cải cách theo tư tưởng tiến bộ của Phương Tây. 3. Cũng từ hoạt động báo chí, Phan Khôi thể hiện được vai trò của một nhà văn hóa lỗi lạc. Ông là một trong những người đầu tiên đưa sự giao lưu, gặp gỡ giữa hai nền văn hóa, văn minh phương Đông và phương Tây, rõ nhất là xây dựng quan niệm mới về người phụ nữ trong sự bình đẳng giới, xem đổi mới vị trí người phụ nữ là góp phần đổi mới xã hội. Nổi tiếng là cây bút phê phán thói hư, tật xấu của bọn quan lại nhà Nguyễn và thực dân Pháp một cách công khai, tìm kiếm sự công bằng, lẽ phải cho nhân dân, ông giới thiệu những cách hiểu và đem lại những cách tiếp cận mới về nền văn hóa của các nước trên thế giới với mong muốn dân ta được mở mang tầm mắt cũng như tự biết trang bị cho mình vốn kiến thức để nâng cao hiểu biết. Trong hoạt động nghề nghiệp, ông vừa sử dụng tiếng Việt, vừa nghiên cứu tiếng Việt như một nhà Việt ngữ học và có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển báo chí tiếng Việt nói riêng, phát triển tiếng Việt trong thời hiện đại nói chung. Với những đóng góp trong phát triển tiếng Việt và mở mang giáo dục thông qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi xứng đáng với vai trò của một trong những nhà văn hóa có công trong khai hóa dân trí đối với dân tộc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Những đóng góp tiêu biểu: Một là, các bài viết mang chức năng thông tin, giới thiệu tri thức mới, bàn luận, lý giải các vấn đề nhân sinh thiết thực, nhận định về các sự kiện thời sự..., việc gợi mở, khai hỏa các cuộc tranh luận về chủ đề, trong đó có các vấn đề về nữ giới, mang lại những tác động tích cực, sâu sắc đối với sự chuyển biến các quan niệm, tập quán văn hóa. Hai là, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi đóng góp những nghiên cứu phát triển góp phần hoàn thiện tiếng Việt về các phương diện ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng; đặt ra những yêu cầu về sự phát triển cách diễn đạt hiện đại vào ngôn ngữ báo chí, nhằm đưa hoạt động báo chí vào chuyên nghiệp. Ông đặt ngôn ngữ trong mối quan hệ của văn hóa, xã hội, và khẳng định yêu cầu như một tất yếu để đất nước phát triển, đó là phổ biến và phát triển tiếng Việt trong nhân dân, trong xã hội. 4. Bên cạnh những đóng góp quan trọng trên, ông cũng có những hạn chế. Là người mang đậm tư duy trọng lý, có những lúc, trong nhìn nhận vấn đề, ông trọng lý đến mức cực đoan, để rồi thiếu đi sự linh hoạt và tính biện chứng trong phân tích, đánh giá các sự việc, hiện tượng của đời sống xã hội. Tinh thần nhập thế, ưa phản biện, có những lúc ông đưa ra những quan điểm, nhận định về đời sống chính trị, văn hóa, xã hội chưa thực sự phù hợp, và cũng vẫn theo góc nhìn nhận, đánh giá có phần cực đoan. Tuy nhiên, những hạn chế này, trong thời điểm lịch sử cụ thể đối với một người gắn bó với nghiệp viết, một trong những người thuộc thế hệ xuất chúng giai đoạn chót của thời kỳ cận đại chuyển sang hiện đại - rất ủng hộ cách tân, đổi mới - chúng ta hoàn toàn có thể hiểu và chia sẻ.  Với việc phân tích, làm sáng tỏ được những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX - một nội dung mà do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa đề cập và nghiên cứu một cách đầy đủ, đã một mặt khẳng định vai trò của ông - một trong những nhà báo tiêu biểu hàng đầu góp phần tạo nên diện mạo của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, mặt khác, đây cũng là sự bổ sung một cách nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu góp một cách nhìn mới, đánh giá công bằng hơn đối với sự nghiệp báo chí của Phan Khôi, bên cạnh những hạn chế của ông trong quan điểm chính trị ở những thời điểm lịch sử cụ thể. Có thể nói, tinh thần “nhập cuộc”, sự trau dồi kiến thức uyên thâm cộng với ý tưởng và sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp, về vai trò và trách nhiệm của người làm báo vẫn là những bài học kinh nghiệm còn nguyên giá trị và mang tính thời sự đối với những người làm công tác nghiên cứu cũng như hoạt động thực tiễn báo chí ngày nay. Thiết nghĩ, cần tiếp tục có những nghiên cứu thêm về các nội dung: quan điểm chính trị gắn liền với ý thức dân tộc trong các tác phẩm báo chí của Phan Khôi; nghệ thuật viết báo của Phan khôi; những đóng góp của Phan Khôi trong sử dụng tiếng Việt, phát triển lối diễn đạt hiện đại vào báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX; Bài học cho những người làm báo ngày nay. Đây sẽ là những nghiên cứu để có những kết luận đầy đủ hơn về một nhà báo tài năng có rất nhiều đóng góp vào sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, khắc họa chân dung Nhà báo - học giả Phan Khôi trong bức tranh tổng thể của nền báo chí Việt Nam. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Phạm Thị Thành (2014), "Những đóng góp của Phan Khôi đối với phát triển tiếng Việt trong báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX", Tạp chí Lý luận chính trị & truyền thông, (8). 2. Phạm Thị Thành (2014), "Những đóng góp về quan điểm chính trị - xã hội trong các tác phẩm báo chí của Phan Khôi", Tạp chí Người làm báo - Hội nhà báo Việt Nam, (75). DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt Lại Nguyên Ân (2003), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1928, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Lại Nguyên Ân (2005), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1929, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Lại Nguyên Ân (2006), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1930, Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Lại Nguyên Ân (2006), “Liệu có thể xem Phan Khôi (1887 - 1959) như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?” (Tham luận tại Hội thảo khoa học “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945” tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26-5-2006). Lại Nguyên Ân (2007), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1931, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2007), Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2007), “Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920 - 1930)”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (số 8-2007). Lại Nguyên Ân (2008), Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng Phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi, Hội thảo khoa học: Lý luận văn học Việt Nam thế kỷ XX, do Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức, ngày 07-6-2008. Lại Nguyên Ân (2009), “Đông Hồ bàn về quốc văn”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2009), “Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên Đông Pháp thời báo”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2009), “Một cuộc thảo luận về sách giáo khoa tiếng Việt trên báo chí Sài Gòn 1929 - 1930”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2009), “Suy nghĩ từ hành trình khai quật quá khứ”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Lại Nguyên Ân (2010), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1932, Nxb Tri thức, Hà Nội. Báo Quân đội nhân dân (2007), "Tọa đàm tưởng niệm cố nhà văn, nhà báo Phan Khôi", ngày 07-10-2007. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Sách Giáo khoa Hà Nội. Phan Cừ và Phan An (1996), Phan Khôi niên biểu, Chương dân di thoại, Nxb Đà Nẵng. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2010), Tác phẩm báo chí (tập Hai), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (Chủ biên), TS Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Đông Pháp thời báo, các số năm 1924, 1925, 1926, 1927, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 714), ngày 1-5-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, ngày 10-7-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 751), ngày 02-8-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 762), ngày 30-8-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, ngày 19-5-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 771), ngày 20-9-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 774), ngày 27-9-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, ngày 27-9 và 02-10-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, ngày 11-10-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 785), ngày 23-10-1928, Sài Gòn. Đông Pháp thời báo, (số 807), ngày 18-12-1928, Sài Gòn. GS Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí: đặc tính chung và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Vu Gia (2003), Phan Khôi, Tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Kiều Xuân Bá (1963), Lịch sử cận đại Việt Nam, tập 4 (1919 - 1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập I: “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập II: “Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Hùng (1980), Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Đỗ Quang Hưng (Chủ biên) (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 - 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Văn Khang (2007), “Học giả Phan Khôi với Việt ngữ nghiên cứu”, Tạp chí Xưa và nay, (292). Phan Thị Mỹ Khanh (1960), “Cha tôi - ông Phan Khôi” (kỳ 1 và 2), Tạp chí Phổ thông, (số 29, ngày 01-3-1960) và (số 30, ngày 15-3-1960). Phan Thị Mỹ Khanh (2001), Nhớ cha tôi Phan Khôi, Nxb Đà Nẵng. C.D (Phan Khôi) (1928), “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu”, Đông Pháp thời báo, (số 748), ngày 26-7-1928, Sài Gòn. C.D (Phan Khôi) (1928), “Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát”, Đông Pháp thời báo, (số 769), ngày 15-9-1928, Sài Gòn. C.D (Phan Khôi) (1928), “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”, Đông Pháp thời báo, (số 774), ngày 27-9-1928, Sài Gòn. C.D (Phan Khôi) (1928), “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”, Đông Pháp thời báo, (số 776), ngày 02-10-1928, Sài Gòn. Phan Khôi (1929), Phụ nữ Tân văn, (số 22), ngày 03-10-1929, Sài Gòn. Phan Khôi (1930), “Cuốn sách Nho giáo gợi ý cho chúng tôi”, Phụ nữ Tân văn, (số 56), ngày 12-6-1930, Sài Gòn. Phan Khôi (1930), “Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long chủ nhiệm Đuốc Nhà Nam”, Trung lập, (số 6200), ngày 19-7-1930, Sài Gòn. Phan Khôi (1930), “Ý kiến chúng tôi về Đảng Lập Hiến nay sắp sau”, Trung lập, (số 6205), ngày 25-7-1930, Sài Gòn. Phan Khôi (1930), “Luận lý học cai trị cả mọi sự ở đời”, Trung lập, (số 6217), ngày 08-8-1930, Sài Gòn. Phan Khôi (1930), Phần IV bài “Vấn đề cải cách”, Trung lập, (số 6220), ngày 18-8-1930, Sài Gòn. Thông Reo (Phan Khôi) (1931), “ Giấc mộng kỳ khôi”, Trung lập, ngày 10-2-1931, Sài Gòn. Phan Khôi (1931), “Đôi điều nên biết về Nho giáo”, Đông Tây, (số 100 ngày 26-8-1931, số102 ngày 02-9-1931, số 103 ngày 05-9-1931; số 108 ngày 23-9-1931), Hà Nội. Thông Reo (Phan Khôi) (1931), “Có phải văn chương quốc ngữ không đắc dụng đâu”, Trung lập, (số 6559), ngày 07-10-1931, Sài Gòn. Phan Khôi (1931), “Quyền ngôn luận tự do ở nước văn minh”, Đông Tây, (số 125), ngày 21-11-1931, Hà Nội. Phan Khôi (1931), “Quyền ngôn luận của ta nếu có chăng sẽ sản sinh sau khi lập hiến”, Đông Tây, (số 131), ngày 12-12-1931, Hà Nội. Phan Khôi (1936), “ Cái ác ý bởi nghề nghiệp”, Hà Nội báo, (số 23), ngày 10-6-1936, Hà Nội. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Văn nghệ. Phan Khôi (1998), Chương dân di thoại, Nxb Đà Nẵng, Phan Khôi (2003), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng. G.V Lazutina (2004), Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo, Nxb Thông tấn, Hà Nội. G.V Lazutina (2004), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Sài Gòn. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam. Một số vấn đề nghiên cứu, Nxb Thế giới, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1959), Lên án chủ nghĩa thực dân, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nam Phong tạp chí, các số năm 1917, 1918, 1919, 1920, 1921, 1922, 1923, 1924, 1925, 1926, 1927, 1928, 1929, 1930, 1931, 1932, 1933, 1934. Phan Thị Nga (1936), “Lối tự học của những bực đàn anh nước ta”, kỳ 1: Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận lý”, Hà Nội báo, (số 10), ngày 11-3-1936, Hà Nội. Võ Văn Nhơn (2006), “Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 9 (số 3). Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb Khai Trí/Thăng long, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, các số năm 1929, 1930, 1931, 1932, 1933, 1934, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 28), ngày 07-11-1929, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 54), ngày 29-5-1930, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 56), ngày 12-6-1930, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 62), ngày 24-7-1930, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 69), ngày 11-9-1930, Sài Gòn. Phụ nữ Tân văn, (số 22), ngày 03-10-1930, Sài Gòn. Nguyễn Quân (2010), “Hai cuộc phục chế”, Báo Lao động cuối tuần, ngày 09-7-2010. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Ái Quốc (1975), Bản án chế độ Thực dân Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội. RFI, ngày 15-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về Phan Khôi: người xa lạ. RFI, ngày 05-01-1997: Thụy Khuê giới thiệu những nét chính trong tư tưởng Phan Khôi và vĩnh biệt Tạ Trọng Hiệp. RFI, ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân: Hoạt động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ. RFI, ngày 13-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân: Hoạt động của Phan Khôi trên các báo Thần chung, Phụ nữ Tân văn và Trung lập. RFI, ngày 15-12-2007: Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về sự nghiệp của Phan Khôi. Thiếu Sơn (2003), "Bài học Phan Khôi", Thiếu Sơn, Toàn tập, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. Sông Hương - Huế, các số năm 1936, 1937. Tạp chí Tia sáng điện tử (2007), “Suy nghĩ từ hành trình khai quật quá khứ", www.tiasang.com.vn, ngày 18-10-2007. Văn Tâm (2004), “Phan Khôi”, Tự điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tân Việt (1928), “ Thơ viện với nhà làm báo”, Đông Pháp thời báo, (số 768), ngày 13-9-1928, Sài Gòn. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 67), ngày 10-4-1929, Sài Gòn. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 69), ngày 12-4-1929, Sài Gòn. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 76), ngày 20-4-1929, Sài Gòn. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 174), ngày 18 và 19-8-1929), Sài Gòn. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2009), Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Nxb Văn học, Hà Nội. Nguyễn Thành (1984), Báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Thần Chung, các số năm 1929, 1930, Sài Gòn. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và Thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm Xuân Nam, Bùi Đình Thanh (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Tràng An báo, các số năm 1935, 1936, 1937, 1938, 1939, 1941, Huế. Trung Lập báo, các số năm 1924, 1925, 1926, 1927, 1928, 1929, 1930, 1931, 1932, 1933, Sài Gòn. Trung Lập, (số 187) ngày 24-5-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6176), ngày 20-6-1930, Sài Gòn. Trung Lập, (số 6177), ngày 21-6-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6178), ngày 23-6-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6179), ngày 24-6-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6186), ngày 02-7-1930, Sài Gòn. Trung lập, ngày 25-7-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6218), ngày 09-8-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6220), ngày 12-8-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6223), ngày 18-8-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 236), ngày 30-8-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 247), ngày 12-9-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6305), ngày 24-11-1930, Sài Gòn. Trung lập, (số 6338), ngày 03-01-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6340), ngày 06-01-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6347), ngày 15-01-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6351), ngày 20-01-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6352), ngày 21-01-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6377), ngày 26-02-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6385), ngày 07-3-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6393), ngày 17-3-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6481), ngày 04-7-1931, Sài Gòn. Trung lập, (số 6559), ngày 07-10-1931, Sài Gòn. Hoàng Tuệ (2003), Tâm hồn và trí tuệ của Phan Khôi trong Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập VII (1897 - 1918), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập VIII (1919 - 1930), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập IX (1930 - 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. II. Website: của nhà báo Thụy Khuê (RFI). của Trần Hữu Dũng, giáo sư kinh tế đại học Wright State University tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_nhung_dong_gop_cua_phan_khoi_doi_voi_bao_chi_viet_na.doc
Tài liệu liên quan