Luận án Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRỊNH QUANG BẮC VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRỊNH QUANG BẮC VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 NGƯ

pdf166 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Trịnh Quang Bắc MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 7 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách của nhà nước 7 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài 11 1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 18 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 21 2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước và pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 21 2.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 34 2.3. Nội dung vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn ngân sách nhà nước 45 2.4. Các điều kiện bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 55 2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 59 2.6. Kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước của một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo cho Việt Nam 61 Chương 3: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN VÀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2014 76 3.1. Khái quát tình hình đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2010-2014 76 3.2. Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước giai đoạn từ năm 2010 - 2014 83 3.3. Nguyên nhân của thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay 99 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 109 4.1. Quan điểm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay 109 4.2. Các giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay 117 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CĐT : Chủ đầu tư ĐTXDCB : Đầu tư xây dựng cơ bản GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo GTVT : Giao thông vận tải HĐND : Hội đồng nhân dân KBNN : Kho bạc nhà nước KTNN : Kiểm toán nhà nước KTV : Kiểm toán viên KTVNN : Kiểm toán viên nhà nước KTTT : Kinh tế thị trường MTV : Một thành viên NSĐP : Ngân sách địa phương NSNN : Ngân sách nhà nước NSTW : Ngân sách trung ương TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TP : Thành phố TSCĐ : Tài sản cố định TW : Trung ương UBND : Ủy ban nhân dân XDCB : Xây dựng cơ bản XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Cấp thiết về lý luận Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, vấn đề đầu tư công, pháp luật đầu tư công và vi phạm pháp luật trong đầu tư công được nghiên cứu và tiếp cận ở dưới nhiều góc độ khác nhau như khoa học kinh tế học, khoa học chính trị, khoa học hành chính, khoa học pháp lý và khoa học xã hội. Ở các góc độ tiếp cận khác nhau và do các nhà nghiên cứu ở mỗi nước trên thế giới khác nhau nên các công trình nghiên cứu về đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn ngân sách nhà nước rất đa dạng và phong phú. Việc nghiên cứu được trải rộng từ nghiên cứu lý luận đến nghiên cứu thực tiễn và bất cứ công trình nào cũng hướng đến tìm ra giải pháp để phòng, chống các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư công, tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, hướng đến để có các công trình xây dựng cơ bản hữu ích, phục vụ cộng đồng và tiết kiệm nhất. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ở các nước trên thế giới và Việt Nam chưa thực sự tập trung vào một thực tiễn cần nghiên cứu có tính cấp bách. 1.2. Cấp thiết về thực tiễn Đó là ở Việt Namvi phạm pháp luật, tội phạm cũng ngày càng gia tăng, ở tất cả các lĩnh vực, trong đó vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước là hết sức nghiêm trọng. Thực tế cho thấy, tình trạng thất thoát tài sản nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản đã diễn ra phổ biến, làm tiêu huỷ các nguồn lực, phá vỡ quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, cả quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật, tạo ra áp lực tài chính lớn cho việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội môi trường đầu tư, làm hư hỏng một bộ phận đội ngũ cán bộ công chức gây bất bình trong dư luận xã hội. Trong bối cảnh đó, nhiều công trình nghiên cứu về đầu tư công trên thế giới và đầu tư công ở Việt Nam được phân tích, bình luận và đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng tại các diễn đàn hội thảo, hội nghị và ở các cấp 2 độ nghiên cứu chuyên sâu, chuyên ngành, cấp nhà nước và cấp bộ, cấp cơ sở. Nhiều đại biểu Quốc hội, trong nhiều kỳ họp đều có chung những trăn trở, suy nghĩ, trao đổi, kiến nghị với Đảng, Nhà nước nhiều giải pháp khắc phục. Nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho Quốc hội ban hành nghị quyết về chống thất thoát trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, ban hành và sửa đổi nhiều đạo luật quan trọng như luât Luật ngân sách nhà nước; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Phòng chống tham nhũng... đều có mục tiêu là nhằm phòng ngừa, xử lý nghiêm các vi phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Cố gắng của Quốc hội được chuyển hoá thành quyết tâm chính trị của cả hệ thống chính trị, với sự nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp song thực tế là những vi phạm vẫn không được ngăn chặn, ngày càng có nhiều đoàn thanh tra của Chính phủ, kiểm toán của Nhà nước hoạt động, phát hiện ra nhiều vi phạm điển hình, phổ biến trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn nhà nước, thậm chí các hành vi vi phạm ngày càng trở lên tinh vi và phức tạp hơn. Thực trạng ấy không chỉ cảnh báo tính hiệu quả của quản lý nhà nước, của mô hình và cơ chế thi hành pháp luật mà còn đặt ra như một tất yếu, phải có tư duy mới, với cách nhìn nhận và phương pháp mới trong xử lý các hiện tượng pháp luật nói chung, các vi phạm pháp luật nói riêng, trong đó có vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, cần phải tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể về các công trình nghiên cứu về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách của Nhà nước để có được cơ sở lý luận vững chắc, xây dựng nền móng tư duy pháp lý mới, làm rõ cả cơ chế hình thành từ đó đặt cơ sở khoa học cho việc đề xuất và thực hiện những giải pháp khả thi, vừa xử lý những vấn đề trước mắt vừa có tính lâu dài, vừa phòng ngừa, ngăn chặn, vừa xử lý hậu quả, vừa đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước, vừa hướng dẫn Từ thực trạng và yêu cầu về tư duy mới trên, việc nghiên cứu luận án “Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam" là hết sức cần thiết. 3 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Việc nghiên cứu luận án “Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam" nhằm mục đích tìm kiếm các giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn nhà nước mang tính khoa học và ứng dụng trong thực tiễn Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề án - Thống kê, tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học của nước ngoài và trong nước về đầu tư xây dựng cơ bản, pháp luật đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước và vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách của Nhà nước. Trên cơ sở đó xác định rõ những vấn đề đã được nghiên cứu cần kế thừa, phát triển; những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án - Phân tích, làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước như khái niệm, đặc điểm đầu tư xây dựng cơ bản có vốn nhà nước; khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật đầu tư xây dựng cơ bản có vốn nhà nước; nội dung vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, các điều kiện bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. - Hệ thống hoá thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước theo 3 giai đoạn của quá trình đầu tư xây dựng từ 2010-2014. - Tìm nguyên nhân chủ quan, khách quan của vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước - Phân tích, luận giải các quan điểm giải pháp bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứucủa luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, các quan điểm, giải pháp phòng chống loại vi phạm pháp luật này. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Chỉ nghiên cứu vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng sử dụng ngân sách nhà nước - Về thời gian: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này từ năm 2010-2014 - Về không gian: Nghiên cứu hoạt động vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước trên qui mô toàn quốc 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung, về đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài chú trọng những quan điểm, tri thức khoa học có tính phổ biến ở trong nước và nước ngoài về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước để tham khảo và phục vụ cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tác giả luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong chương 2, 3, 4 để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. - Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng trong các chương 2,3,4 để làm rõ nội dung, các điều kiện bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lô gíc được sử dụng ở chương 2, 3, 4: Luận án nghiên cứu từng vấn đề trong mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, giữa quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước với thực tiễn thực hiện pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Ba chương của luận án được nghiên cứu trong mối quan hệ lôgíc xuyên suốt từ 5 cơ sở lý luận đến thực trạng và quan điểm, giải pháp bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. - Phương pháp thống kê và xã hội học pháp luật được sử dụng trong chương 3 khi đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 để làm rõ tình hình nghiên cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng ở chương 3 để so sánh, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa học như sau: - Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, chỉ ra đặc điểm và hình thức vi phạm đồng thời, phân tích làm rõ các điều kiện đảm bảo phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung và làm giàu thêm những kiến thức lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; xây dựng cơ sở khoa học cho việc phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; xây dựng và hoàn thiện các yếu tố, điều kiện đảm bảo phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. 6 Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học và văn hóa pháp lý chuyên sâu về vi phạm pháp luật và phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm xã hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 14 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Công trình “Định nghĩa về toàn cầu về những so sánh và triển vọng cho các chương trình đầu tư” của Nayef R.F.Al-Rodhan tập trung viết về xu hướng đầu tư và triển vọng đầu tư, trong đó có một chương khắc hoạ về các hiểm hoạ đầu tư như tham nhũng, lãng phí, thất thoát và trên cơ sở đó, khẳng định các nước cần phải có giải pháp khắc phục và hành vi vi phạm pháp luật. Trong công trình do OECD công bố “Danh mục các từ khoá và định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài” các định nghĩa đầu tư và đầu tư nước ngoài được công bố một cách cụ thể, rõ ràng, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Công trình “Đầu tư trực tiếp nước ngoài và và phát triển các chính sách thường niên cho các nước có nền kinh tế phát triển” của Giáo sư Theodore H.Moan đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời có một mục phân tích về đầu tư trong xây dựng cơ bản. Các nội dung đầu tư, xu hướng đầu tư và lĩnh vực đầu tư bằng các nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và các vốn của các nhà đầu tư trong khối tư nhân cũng được tác giả phân tích thấu đáo, làm cơ sở cho các nghiên cứu, dự báo và quan điểm, giải pháp, bình luận cho các nước có nền kinh tế phát triển. Công trình “Các dự án Đầu tư: Sự thay đổi quan điểm chính trị đối với đầu tư đô thị” của tác giả David E.Lubroff đã đưa ra giả thiết thực tế từ những sự thất bại của những năm 1970 ở Mỹ trong các dự án đầu tư công cộng trong những thành phố ở Mỹ. Ở đó có một số lượng lớn các dự án trong khoảng thời gian từ năm 1960 đên năm 1970 là thời điểm các xung đột chính trị đã hình thành một thế hệ mới các siêu dự án đô thị. Bằng các nghiên cứu của mình, ông muốn chứng minh 8 vai trò của chính trị, các quyết sách của các đảng cầm quyền đối với việc thiết lập các dự án đầu tư. Quan trọng hơn cả là những dự án đầu tư đó phải được tổ chức thực hiện thực sự có hiệu quả, khắc phục tính phi thực tiễn, phục vụ cho chính con người ở đô thị. Đây là sự tiếp biến văn hoá đầu tư xây dựng, hướng đến con người và vì con người. Các nhà chính trị khi đưa ra các quyết sách của mình cần chú ý đến những yếu tố như quyết sách của chính quyền địa phương, quyết sách của chính quyền Trung ương. Người dân là người thụ hưởng các dự án đầu tư, nhất là dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng như nhà ở, chung cư trung và cao cấp. Thông qua tác phẩm của mình, tác giả nhấn mạnh các lý do của thực trạng của những dự án đầu tư không có hiệu quả. Một trong những lý do tác giả đưa ra là việc đánh giá tính khả thi của dự án xây dựng cơ bản chưa đảm bảo các yếu tố kỹ thuật và việc thực thi các dự án chưa tuân thủ các quy định của pháp luật. Cuốn sách “Thảm hoạ kế hoạch - Chuỗi các dự án phát triển đô thị ở California" tác giả Peter Hall tập trung phân tích một thực trạng được gọi tên là "bệnh lý quy hoạch”, tác giả đã đã phác hoạ lại lịch sử của năm thảm họa kế hoạch và hai gần như thảm họa, đồng thời phân tích các quyết định của các quan chức, các chuyên gia, các nhà hoạt động cộng đồng, và các chính trị gia tham gia vào quá trình lập kế hoạch. Ông dựa trên một cơ thể chiết trung của các lý thuyết khoa chính trị học, kinh tế, đạo đức, và dự báo trong tương lai dài hạn để đưa ra những biện pháp, giải pháp hữu hiệu ngăn chặn sai lầm lớn như vậy trong tương lai. Cuốn sách “Đầu tư công, tăng trưởng và những hạn chế tài chính: Những thách thức đối với các nước thành viên EU mới” tập trung vào tầm quan trọng của đầu tư công để tăng trưởng trong khi thực tế thì thâm hụt ngân sách lớn và nợ công tăng. Cuốn sách tập trung vào một chủ đề rất kịp thời, đưa ra các triển vọng tăng trưởng thấp và tài chính, chính sách phải đối mặt với các nước thành viên Châu Âu hiện tại và tương lai, đó khủng hoảng tài chính nghiêm trọng và tỷ lệ tăng trưởng sản lượng rất thấp. Do những hạn chế đặt trên chính sách tiền tệ của đồng tiền chung và mất tự chủ chính sách tiền tệ, vai trò của chính sách tài khóa, và đặc biệt, công đầu tư trong một khung cảnh khăn về ngân sách và tỷ lệ tăng trưởng thấp trở nên quan trọng. Các tài liệu trong cuốn sách rất hữu ích cho các học giả, 9 các nhà nghiên cứu và các học viên khi nghiên cứu đầu tư công, nhất là đầu tư xây dựng cơ bản. Cuốn sách: “Sức Mạnh của quản lý đầu tư công - Tài sản cho sự tăng trưởng” của tập thể tác giả biên tập: Anand Rajaram, Kai Kaiser, Tuấn Minh Lê, Jay-Hyung Kim và Jonas Frank đã tập trung phân tích nguồn lực đầu tư, nếu đầu tư có hiệu quả cho xây dựng cơ bản như cơ sở hạ tầng công cộng và các dịch vụ có thể làm mở ra một quá trình tăng trưởng và phát triển toàn diện. Nhưng thông thường các dự án công cộng thường được lựa chọn nhà đầu tư theo kiểu bảo trợ chính trị. Nhiều công trình đầu tư được thiết kế kém, thiếu thốn, trì hoãn, rất tốn kém, hoặc bị thực hiện, với rất ít lợi ích công. Đồng thời nhiều dự án đầu tư công mà người dân ít có khả năng dân biết. Đây là một thách thức quan trọng đối với nhiều nước, cả người giàu và người nghèo. Cuốn sách này đưa ra 8 giải pháp có tính hiệu quả quan trọng mà các nước cần phải áp dụng để đảm bảo rằng các khoản đầu tư công cộng hỗ trợ tăng trưởng và phát triển. Sức mạnh của quản lý đầu tư công cộng cung cấp một rõ ràng, không kỹ thuật về các phương pháp để cải thiện cho các khâu thường có vi phạm là thẩm định dự án, đồng thời xử lý kỷ luật những trường hợp can thiệp chính trị trong việc lựa chọn dự án, đối phó với sự không chắc chắn (một vấn đề đó là có khả năng tăng trưởng trong tầm quan trọng với các phản ứng của biến đổi khí hậu), tích hợp mua sắm kỹ năng vào thiết kế dự án, triển khai thực hiện và quản lý các quyết định về quan hệ đối tác công-tư. Cuốn sách có giá trị cho việc đề xuất một khung đơn giản nhưng toàn diện và kinh nghiệm toàn cầu, cung cấp các nhà hoạch định chính sách các biện pháp áp dụng nguyên tắc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản (quản lý đầu tư công) trong việc thiết kế các tổ chức để tăng cường quản lý đầu tư công. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn nhà nước 1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài về vi phạm pháp luật Cuốn sách: "Sự sai lệch chuẩn mực xã hội", nhóm tác giả là các nhà khoa học Xô viết nổi tiếng (V.N.Cudriasep, In.V.Cudriasep, V.X.Nerxêannet...) đã nghiên cứu các vi phạm các chuẩn mực pháp luật, đạo đức và các chuẩn mực xã hội khác, những thành phần, cơ chế, nguyên nhân và các tiếp cận trong đấu tranh với các vi 10 phạm đó. Điều có ý nghĩa là các tác giả cuốn sách đã mô tả sinh động, chính xác mối liên hệ bên trong và biểu hiện bên ngoài của các hành vi vi phạm cũng như mối quan hệ của chính cáchành vi đó. Đây là cơ sở khoa học tin cậy cho các tiếp cận các giải pháp hiệu quả trong phòng ngừa vi phạm. Báo cáo về vi phạm pháp luật và bạo lực, của Brent Teasdale - Eric Silver - John Monahan là 3 nhà khoa học đến từ Khoa Xã hội học, Đại học Akron, Khoa Xã hội học, Trường đại học Pennsylvania State, Hoa Kỳ và Trường đại học Virginia Hoa Kỳ đã chỉ ra các mối quan hệ giữa bạo lực và các chủ thể có liên quan đến vi phạm pháp luật. Các hành vi vi phạm pháp luật đều xuất phát từ các chủ thể được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý, giới tính và qua đó, chỉ ra rằng đàn ông có nhiều khả năng vi phạm pháp luật hơn nữ giới. Công trình “Pháp luật và quả cầu pha lê- dự đoán về hành vi hợp pháp và vi phạm pháp luật trước các phán quyết tư pháp” năm 1979 của Barbara D. Underwood, Giáo sư Đại học Luật Yale. Giáo sư Barbara tập trung nghiên cứu về hai đề tài đang có sự bàn cãi và không thống nhất về hành vi hợp pháp và không hợp pháp. Thông qua các phân tích của mình, Giáo sư Barbara đã chỉ ra rằng sự vi phạm pháp luật là hành vi có thể xảy ra thường xuyên hoặc không thường xuyên phụ thuộc vào ý chí của chủ thể, môi trường xã hội và sự kiểm soát có lợi ích từ phía nhà nước, nhà trường và xã hội. 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Jill trong nghiên cứu mang tên “Tham nhũng và thông đồng trong xây dựng - góc nhìn từ ngành công nghiệp” (Corruption and collusion in construction: a view from the industry) đã chỉ ra rằng: “Đầu tư vào các dự án là điều cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều hơn những bất cập trong việc đầu tư vào xây dựng” . Cụ thể tại các nước đang phát triển, đầu tư xây dựng đang tồn tại nhiều nhược điểm như dự án không phù hợp, giá cao, chất lượng kém, lãng phí quá nhiều thời gian và chi phí cho việc bảo trì và một bộ phận thu nhập thấp không thể tiếp cận với các dự án. Những tiêu cực này đã tác động đến vấn đề phát triển và xóa đói giảm nghèo và làm nảy sinh một thực trạng đó là nhà đầu tư tìm kiếm phương pháp giúp nâng cao "giá trị cho đồng tiền" từ ngành công 11 nghiệp xây dựng. Theo thống kê, ngành xây dựng được nhắc đến như là một trong những ngành xảy ra tham nhũng nhiều nhất trên toàn cầu; trong đó công trình xây dựng công cộng được nhắc đến như là một lĩnh vực liên tục đứng danh mục các lĩnh vực có nhiều khả năng xảy ra tham nhũng nhất của tổ chức minh bạch Quốc tế. Ước tính có khoảng 20%- 30% giá trị của các dự án xây dựng bị mất thông qua việc tham nhũng đang lan tràn. Trong một cuộc khảo sát của tổ chức CIOB về vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng ở Anh năm 2013 “Corruption in the UK Construction Industry, September 2013, The Charterer Institute of Building (CIOB)” kết quả khảo sát đã chỉ ra rằng có đến 49% số người được hỏi tin rằng có tồn tại vi phạm pháp luật (cụ thể là nạn tham nhũng) trong đầu tư xây dựng. Cuộc khảo sát cũng đưa ra một số con số thống kê về tình trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản, qua đó đưa ra một vài nguyên nhân lí giải cho thực trạng này như: do tính chất phức tạp, chia nhỏ giai đoạn, sự tham gia của nhiều đối tượng trong quá trình cung ứng đã tạo điều kiện hình thành tham nhũng. Như vậy, trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả tập trung phân tích về đầu tư công, đầu tư xây dựng cơ bản, các hành vi vi phạm pháp luật trong hợp đồng đầu tư xây dựng cơ bản, trách nhiệm của Nhà nước, Chính phủ và cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ nhà đầu tư, đưa ra các phán quyết căn cứ vào các hành vi vi phạm pháp luật, hệ thống pháp luật quốc tế và sự công bằng, công lý trong các phán quyết. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về đầu tư xây dựng cơ bản và pháp luật đầu tư xây dựng cơ bản Nợ công Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm châu Âu của PGS. TS. Đinh Công Tuấn là chủ đề chính của cuộc Hội thảo khoa học do Viện Nghiên cứu châu Âu (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức ngày 25-4-2013 tại Hà Nội, trong khuôn khổ Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.01.09/11-15 “Khủng hoảng nợ công ở một số nước Liên minh châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” do PGS. TS. Đinh Công Tuấn làm Chủ nhiệm đề tài. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đã làm bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ công ở các 12 nước thành viên EU, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của các nước trong EU. Khởi phát từ Hy Lạp, kéo theo hàng loạt các nước thành viên như Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia và hiện nay là Síp, các thành viên khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đang lún sâu vào nợ công, thâm hụt ngân sách nặng nề. Các nền kinh tế đầu tàu của châu Âu như Anh, Pháp, Đức cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nợ công cao xấp xỉ 100% GDP, thâm hụt ngân sách cao gấp 3-4 lần mức trần cho phép. Đây là công trình nghiên cứu quan trọng, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Nội dung sách gồm các bài viết của các chuyên gia, nhà nghiên cứu hàng đầu nghiên cứu sâu về lĩnh vực tài chính - kinh tế. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc cái nhìn mới, đầy đủ và rõ nét hơn về nợ công ở một số nước thuộc Liên minh châu Âu và liên hệ với nền kinh tế Việt Nam. Cuốn sách: Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh nghiệp của TS. Nguyễn Thị Lan Hương tập trung phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về vốn, tài sản; huy động vốn và tài sản; quản lý và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp và hoạt động giám sát tài chính doanh nghiệp... qua đó, giới thiệu những kiến thức cơ bản và tương đối có hệ thống về hoạt động tài chính của doanh nghiệp và pháp luật về tài chính doanh nghiệp, tập trung và chủ yếu trong hai loại hình công ty phổ biến nhất ở nước ta hiện nay là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Cuốn sách Phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế: Tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc gia [69] góp phần nhất định vào việc nhìn nhận vấn đề phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam vào những thập kỷ gần đây và giới thiệu kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới về phân phối nguồn lực. Cuốn sách Kinh tế khu vực công do TS. Trần Anh Tuấn - PGS, TS. Nguyễn Hữu Hải (đồng chủ biên) [70] phân tích, làm rõ ba mục tiêu cơ bản: Tìm hiểu những hoạt động mà khu vực công tham gia và việc tổ chức những hoạt động đó như thế nào; tìm hiểu và dự báo về những hậu quả kinh tế - xã hội có thể xảy ra trong hoạt động của khu vực công; tìm hiểu và đánh giá các phương án chính sách mà Chính phủ thực hiện và dự kiến thực hiện. Nội dung cuốn sách gồm sáu vấn đề cơ bản: Khu vực công và hoạt động kinh tế trong khu vực công; Vai trò của Chính phủ đối 13 với khu vực công trong nền kinh tế thị trường; Phân bổ nguồn lực cho phát triển trong nền kinh tế thị trường; Vai trò của khu vực công trong bảo đảm công bằng xã hội; Chi tiêu công; Lựa chọn công. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Ở Việt Nam vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật được tiếp cận từ nhiều góc độ nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Khoa học chính trị học nghiên cứu vi phạm pháp luật như là một biểu hiện của sự tha hoá quyền lực trong khi tâm lý học lại đi sâu nghiên cứu cấu trúc tâm lý của hành vi vi phạm. Các khoa học về quản lý, về thể chế học... đều có các tiếp cận riêng, phù hợp với đối tượng và phương pháp nghiên cứu của nó. Trong tất cả những ngành khoa học ấy, khoa học luật học, mà trực tiếp là bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật và khoa học luật chuyên ngành là những bộ môn khoa học nghiên cứu những khía cạnh pháp lý chung nhất về vi phạm pháp luật cũng như vi phạm pháp luật trong từng lĩnh vực xã hội cụ thể. Những kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học ấy như sau: Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luậ...ngay trước mắt hoặc lâu dài. Do đó trong quá trình thực hiện phải thường xuyên giám sát chất lượng và khối lượng công trình, đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích hiệu quả. Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều ngành nghề kinh tế, nhiều vùng địa phương, nhiều người sử dụng như các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, các cảng biển, hàng không. Do đó đỏi hỏi phải chú ý cân nhắc kỹ về chủ trương đầu tư nhằm hạn chế và tránh thất thoát, lãng phí, vi phạm pháp luật khi triển khai dự án. Thứ sáu, sản phẩm xây dựng mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa nghệ thuật và quốc phòng dẫn đến các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác trong quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình thi công. Do đó để khắc phục thất thoát, lãng phí có thể xảy ra chẳng những phải thận trọng về chủ trương, mà đòi hỏi có trình độ tổ chức, quản lý tốt ở các khâu từ công tác thẩm định dự án, thẩm định đấu thầu xây dựng, đấu thầu mua sắm thiết bị, kiểm tra chất lượng công trình trong quá trình thi công, nghiệm thu thanh toán, đến khi tổng nghiệm thu và quyết toán dự toán dự án hoàn chỉnh đưa vào khai thác, sử dụng. Hơn nữa, cần thấy rằng, hoạt động xây dựng chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc, ảnh hưởng này thường làm gián đoạn quá trình thi công từ đó ảnh hưởng đến sản phẩm dở dang, đến vật tư thiết bị thi công. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình đầu tư phải chính xác về thời tiết, lường trước các biện pháp, giải 28 pháp thi công phù hợp với điều kiện tự nhiên, lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu, giảm thời gian tổn thất do thời tiết gây ra, có chế độ cho người tham gia lao động sản xuất. Đồng thời phải tổ chức tốt hệ thống kho, bãi để đảm bảo vật tư, sản phẩm dở dang nhằm tránh hư hỏng, mất mát tài sản, vật tư thiết bị do thiên nhiên gây ra trong hoạt động đầu tư và xây dựng. Đây là đặc điểm quan trọng cần chú trọng trong quá trình quản lý công trình đầu tư xây dựng. Bởi nếu không chú trọng sẽ dễ bị lợi dụng đặc điểm chịu tác động của thiên nhiên để trục lợi hoặc vi phạm pháp luật. Công tác quá trình tổ chức sản xuất xây dựng rất phức tạp. Dự án đầu tư xây dựng cơ bản thường do nhiều đơn vị cùng tham gia thi công nên thường khó khăn trong khâu phối hợp tổ chức thi công. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có trình độ phối hợp cao trong sản xuất để đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình. Ngoài ra do sự chi phối của đặc điểm này nên không chỉ có giải pháp tổ chức giữa các đơn vị thi công mà còn phải nghiên cứu cả biện pháp kiểm tra, giám sát tốt hoạt động thi công của các đơn vị và sự phối hợp giữa các đơn vị nhằm đảm bảo chất lượng công trình và giảm tối đa thất thoát, lãng phí trong quá trình thực hiện dự án. 2.1.1.3. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ những chi phí để đạt được mục đích đầu tư bao gồm chi phí cho việc khảo sát thiết kế và xây dựng mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị khác được ghi trong tổng dự toán. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Vốn ngân sách nhà nước có được từ sự tích luỹ của nền kinh tế, vốn khấu hao cơ bản và một số nguồn khác giành cho đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn ngân sách nhà nước giành cho đầu tư xây dựng cơ bản có đặc điểm sau: Thứ nhất, vốn đầu tư xây dựng thuộc sở hữu nhà nước Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nên không có chủ đầu tư đích thực, việc quyết định sử dụng vốn nhà nước (quyết định đầu tư) được giao cho các cá nhân quyết định, do vậy từ chủ trương đầu tư, vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư, chủ đầu tư đều do các cá nhân quyết định. Tuy nhiên, tính 29 hiệu quả của đầu tư, sự thất thoát lãng phí trong quá trình đầu tư thì không có cá nhân nào phải chịu trách nhiệm do đó việc xẩy ra tiêu cực tham nhũng thất thoát lãng phí tài sản của Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước là điều tất yếu. Thứ hai, vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản rất lớn Hầu hết các công trình xây dựng đều đòi hỏi phải đầu tư với số lượng vốn lớn, đặc biệt là các công trình trọng điểm của Nhà nước về giao thông vận tải như xây dựng cầu đường, thủy điện, thủy lợi, xây dựng nhà máy, xí nghiệp, trường học, khu đô thị... Mặc dù, nguồn vốn trong xây dựng cơ bản được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng phần lớn từ ngân sách nhà nước (theo số liệu của Viện Quản lý kinh tế Trung ương, trong cân đối chi ngân sách năm 2010 vốn đầu tư phát triển có xây dựng là: 120.100 tỷ/125.500 tỷ chiếm 95,6%). Các đối tượng tham nhũng chủ yếu dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước vì công tác quản lý loại tài sản này còn nhiều sơ hở. Thực tế, hiện đang tồn tại nhiều loại vốn cho đầu tư xây dựng, nhưng xét cho cùng, chỉ có hai loại vốn là vốn nhà nước và vốn không phải của Nhà nước. Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý. Tình trạng vi phạm pháp luật, tham nhũng thường xảy ra đối với các nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước. Theo quan niệm chung, đây là vốn "cho không", vì trách nhiệm thanh toán không phải bằng tiền mà bằng chứng từ. Trong trường hợp thông đồng, việc tạo ra chứng từ khống không phải là chuyện khó khăn. Thứ ba, vốn đầu tư nhà nước hiện được cấp và sử dụng theo quy trình, thủ tục luật định Tuy nhiên trong thực tế để nhận được tiền, chủ đầu tư, đơn vị thi công thường phải xin (xin cấp phát, hỗ trợ vốn hoặc xin vay thông qua tín dụng ưu đãi). Có xin thì có cho. Mà thông thường, để xin được tiền thì phải chi tiền. Hối lộ nhiều được cấp phát nhiều, hối lộ ít được cấp phát ít. Chính vì thế, cơ chế xin - cho là mảnh đất màu mỡ để tham nhũng tồn tại và phát triển. 30 Thứ tư, công tác giám sát, quản lý việc thanh toán vốn trong đầu tư xây dựng là tổng thể các hoạt động đa dạng, phức tạp đòi hỏi tuân theo thủ tục chặt chẽ Để có một công trình xây dựng được triển khai thực hiện trong thực tế thường phải trải qua nhiều khâu, với những thủ tục phức tạp như: Lập dự án, khảo sát, thiết kế; đấu thầu, giải phóng mặt bằng, thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị; kết thúc xây dựng, nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng. Mặt khác, vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng rất phong phú, đa dạng và dễ thay thế. Thị trường vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng cơ bản rất đa dạng, nhiều chủng loại đáp ứng nhu cầu sử dụng trong xã hội và dễ tiêu thụ. Giá vật tư, thiết bị dùng trong xây dựng cơ bản phần lớn phụ thuộc vào giá thị trường và thường liên tục biến động. Hơn nữa, trong thực tế nhiều trường hợp rất khó kiểm soát chất lượng vì công trình nằm sâu trong lòng đất, khối bê tông... Bên cạnh đó, điều kiện bảo vệ an toàn cho tài sản ở các công trình còn nhiều sơ hở, nhiều nơi kho tàng, bến bãi không đảm bảo cho công tác bảo vệ an toàn tài sản. Lợi dụng tình hình đó, các đối tượng phạm tội đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản, hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt, thậm chí đổ lỗi cho khách quan để biện minh cho những thất thoát về tài sản trong quá trình đầu tư xây dựng. Thời gian xây dựng công trình, đặc biệt là công trình trọng điểm thường kéo dài, có nhiều đơn vị tham gia. Có công trình xây dựng kéo dài đến hàng chục năm như các công trình thủy điện, có công trình trải dài hàng ngàn km như công trình xây dựng giao thông. Có công trình vừa thiết kế, vừa xây dựng, vừa hoàn thiện bàn giao từng phần, vừa xây dựng, vừa sử dụng đan xen... Trên đây là một số đặc điểm cơ bản có tính chất đặc thù của đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật cần nắm vững những đặc điểm đó. Việc nắm vững những đặc điểm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định địa bàn trọng điểm, mối quan hệ giữa các khâu trong đầu tư xây dựng để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cơ bản, đảm bảo chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước. 31 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 2.1.2.1. Khái niệm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Xuất phát từ nhận thức chung về pháp luật, và những luận giải nêu trên về đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, có thể hiểu: pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý nhà nước đối với các loại hình đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn nhà nước, là cơ sở để xác định vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn ngân sách nhà nước. 2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Mặc dù có những đặc trưng riêng nhưng pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản không phải là một hệ thống pháp luật biệt lập mà chỉ là một nội dung cụ thể của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, có mối liên hệ chặt chẽ với các quy định về đầu tư, ngân sách, tài chính xây dựng, các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, về quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, với các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, hợp tác quốc tế Khi nghiên cứu pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có thể thấy rằng: - Đặc điểm về hình thức: Pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm các quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Có nhiều các thức thể hiện khác nhau các quy định pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản nhưng phổ biến nhất hiện nay là các quy định chung, các quy định có tính nguyên tắc, quy định về chủ trương được định ra trong nội dung của văn bản quy pháp pháp luật chuyên ngành như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Nhà ở, Luật Qui hoạch đô thị, Luật Ngân sách. Các quy định cụ thể như hình thức, thủ tục thực hiện, thẩm quyền được quy định cụ thể trong văn bản riêng, thường là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật. Có quy định một hoặc một nhóm vấn đề về đầu tư xây dựng cơ bản được quy định trong Nghị 32 quyết riêng của Quốc hội [54]. Do đầu tư xây dựng cơ bản là một đặc thù nên Luật Đầu tư được coi là luật gốc vì quy định về khái niệm đầu tư; tuy nhiên, do tính đa dạng của xây dựng cơ bản, các văn bản pháp luật khác lại thể hiện các quan điểm, biện pháp đầu tư, cách thức sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước mỗi loại hình theo mỗi lĩnh vực đầu tư khác nhau, nó có mối quan hệ ràng buộc, liên kết chặt chẽ với nhau. - Đặc điểm về nội dung: Pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản là những quy tắc hành vi cho các chủ thể tham gia vào việc đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ngoài ra còn bao gồm các nguyên tắc, các chủ trương, chính sách, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa bàn ở Việt Nam. Pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có thể chia thành hai nhóm nội dung chính là: Các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản và các quy định về quy trình thủ tục thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Các nội dung cụ thể của pháp luật gồm: Nguyên tắc đầu tư; hình thức thực hiện; các yêu cầu, điều kiện tiêu chí xác định đầu tư xây dựng công trình cơ bản có vốn nhà nước; quyền và nghĩa vụ các bên, thủ tục thực hiện; các quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự; về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Các nội dung của pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản là nhằm đảm bảo cho các công trình đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước được tiến hành đúng trình tự, thủ tục, có hiệu quả và phát huy mục đích sử dụng của công trình xây dựng. Pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản tập trung vào vai trò của các chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật cũng như các biểu hiện tham nhũng, lãng phí, thất thoát. - Đặc điểm về phạm vi tác động, đối tượng điều chỉnh: Pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản tác động đến các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cộng đồng và cá nhân sử dụng vốn ngân sách nhà nước để tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đối tượng tác động của pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản chia thành 3 nhóm cơ bản; Một là, các chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản; Hai là, các cơ quan các tổ chức liên quan đến việc xác định các công trình đầu tư xây dựng; Ba là, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa 33 phương như Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan hành chính bằng hành vi của mình đảm bảo cho việc đầu tư xây dựng cơ bản đúng pháp luật, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Tương ứng với sự tham gia của 3 nhóm chủ thể trên, những quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản gồm: Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước và quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể có trách nhiệm thi công các công trình đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước được quy định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật: Luật, nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, các văn bản của chính quyền địa phương. Chính điều này tạo nên sự không thống nhất của pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. 2.1.2.3. Trách nhiệm pháp lý trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước Trách nhiệm pháp lý trong đầu tư xây dựng cơ bản là một loại quan hệ đặc biệt giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt theo quy định của pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật, khiến chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần do hành vi của mình gây ra. Trách nhiệm pháp lý gồm có: - Trách nhiệm hành chính: Được xác định khi vi phạm thủ tục và trình tự đầu tư xây dựng, các quy định của quy hoạch đô thị, luật đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, bảo vệ môi trường, quy tắc đấu thầu, cấp sai hoặc gian dối tư cách hành nghề, chuyển nhượng hợp đồng kinh tế khi chưa được phép, tự ý thay đổi nội dung thiết kế chưa gây hậu quả nghiêm trọng, đưa nhận hối lộ chưa thành, vi phạm các quy tắc bảo đảm chất lượng thi công, an toàn lao động, phòng cháy nổ chưa gây hậu quả, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh... 34 - Trách nhiệm dân sự được xác định khi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tư vấn, khảo sát thiết kế, giao nhận thầu, cung ứng, không bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho các đối tác trong hợp đồng và những người khác trong khu vực lân cận công trường, không tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn lao động, phòng cháy nổ gây hậu quả lớn, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - Trách nhiệm hình sự: Được xác định khi các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng thực hiện các hành vi như: Tham nhũng, hối lộ, để chất lượng công trình kém, thiếu an toàn lao động và phòng cháy nổ gây hậu quả nghiêm trọng, lừa đảo, gian dối trong thanh toán, nghiệm thu, bàn giao công trình gây thiệt hại - Trách nhiệm công vụ được xác định khi các cơ quan công quyền và công chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính sai lầm, trái luật, gây thiệt hại cho công dân hay tổ chức như cấp phép sai, định giá đền bù sai - Trách nhiệm kỷ luật được xác định với công chức, viên chức vi phạm các quy tắc lao động, phân công lao động, kỷ luật công vụ gây cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức công khác. 2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN CÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước 2.2.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật Chuẩn mực xã hội là một yếu tố không thể thiếu được của việc quản lý xã hội, là một trong những phương tiện định hướng hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội trong những điều kiện nhất định và cũng là phương tiện để xã hội kiểm tra hành vi của con người. Trong xã hội có giai cấp, việc đánh giá các sai lệch chuẩn mực xã hội đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp, một tập đoàn xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì khuynh hướng xã hội và kết quả xã hội đạt được là tiêu chuẩn quyết định để đánh giá sự tiến bộ của chuẩn mực. Xã hội có nhiều hệ thống chuẩn mực khác nhau, nhưng lại đan xen với nhau (Chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực chính trị, chuẩn mực thẩm mỹ). Ngày nay, để nghiên cứu chuẩn mực xã hội và những sai lệch của chúng, phải có sự hợp tác của nhiều ngành khoa học như luật học, xã hội học, tâm lý học 35 Chỉ trên cơ sở sự hợp tác đó mới có thể xác định đúng đắn bản chất, nguyên nhân, nguồn gốc, cơ chế của những sai lệch xã hội để một mặt, có phương pháp thích hợp chống lại những tiêu cực xã hội và mặt khác để hoàn thiện các chuẩn mực đã lỗi thời. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Nhà nước ban hành nên được đại đa số nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên vi phạm pháp luật vẫn phát sinh, tồn tại, xâm hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, xã hội, đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vi phạm pháp luật khá đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau dựa theo các tiêu chí phân chia nhất định. Mặc dù mỗi loại vi phạm có những đặc điểm riêng xong chúng vẫn có những đặc điểm chung. Những điểm chung này đã được thống nhất cả trong lý luận và thực tiễn. Xét dưới góc độ của chủ nghĩa hành vi, vi phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản sau: Dấu hiệu thứ nhất: Vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi xác định của con người. Chỉ có thông qua hành vi của mình con người có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho xã hội. Những gì trong ý nghĩ, trong tư tưởng của con người nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa thể tác động tới xã hội. Vì vậy, để xác định được ý nghĩ hoặc tư tưởng của con người thì cũng phải thông qua cách sử xự bên ngoài, tức là qua hành vi của họ. Vi phạm pháp luật biểu hiện bằng hành vi cụ thể và đó chính là cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm. Ngay từ thế kỷ XVIII, khi đưa ra luận chứng chống lại việc truy tố hình sự đối với ý nghĩ, tư tưởng và quan điểm của con người, Montecxkiơ - luật gia nổi tiếng người Pháp, một trong nhà lý luận lớn nhất về Nhà nước pháp quyền giai đoạn đó đã viết: “Các đạo luật nhất thiết chỉ trừng phạt những hành vi bên ngoài” [28, tr.318]. Sang thế kỷ XIX nhận thức về vấn đề này có điểm phát triển nhất định, xuất phát từ quan điểm nhân đạo, tiến bộ đồng thời để bảo vệ các quyền tự do của con người bằng pháp luật, C.Mác đã viết: “Các đạo luật chống lại khuynh hướng, các đạo luật không đưa ra các quy phạm khách quan là các đạo luật khủng bố. Các đạo luật ấy không lấy hành vi mà lại lấy cách suy nghĩ con người để làm tiêu chuẩn cơ bản, điều đó không có gì khác, mà chẳng qua chỉ 36 là các chế tài đích thực của tình trạng vô pháp luật” vì “không ai có thể bị tù tội do quan điểm về đạo đức, chính trị và tôn giáo của mình” [28, tr.348]. Tư tưởng này của Mác ngày nay được thể hiện xuyên suốt trong các ngành luật hành chính, luật kinh tế, luật dân sự, luật hình sự Rõ ràng vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể, được thể hiện dưới dạng hành động hay không hành động. Chỉ những hành động, hoặc không hành động cụ thể của chủ thể nếu trái với pháp luật mới bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Các quy định pháp luật đặt ra là nhằm điều chỉnh hành vi xử sự của chủ thể, chứ không phải suy nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con người. Dấu hiệu thứ hai: Vi phạm pháp luật không những là hành vi xác định của con người mà hành vi đó phải trái với các quy định pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo hộ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với những quy định pháp luật, không thực hiện những gì mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền hạn quá giới hạn của pháp luật. Những gì mà pháp luật không cấm, không bảo vệ thì dù có làm trái cũng không bị coi là trái pháp luật, không phải là vi phạm pháp luật. Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở sự chống đối những quy định chung của pháp luật, tức là khi pháp luật quy định như thế này, nhưng con người lại hành động ngược lại hoặc không tuân theo. Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật là hành vi vi phạm những điều đã được pháp luật quy định. Dấu hiệu thứ ba: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật chưa đựng lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi đó. Có thể nói tất cả mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật đều chứa đựng yếu tố lỗi. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mới có thể bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt khách quan và chủ quan của hành vi, nghĩa là phải xác định trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi trái pháp luật đó (xác định lỗi của họ). Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ thể hành vi đó không thể ý thức được, không thể lựa chọn được cách xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật thì hành vi đó không thể coi là hành vi có lỗi và không thể bị coi là hành vi có lỗi và không thể bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ có 37 những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới xác định là hành vi vi phạm pháp luật. Dấu hiệu thứ tư: Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có tự do ý chí. Nói cách khác, người đó có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó. Vì vậy, những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do những người mất trí hoặc trẻ em (chưa đến độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý) thực hiện thì vẫn không thể coi là vi phạm pháp luật. Việc coi năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể thực hiện là dầu hiệu xác định hành vi vi phạm pháp luật là một quan điểm khá phổ biến trong khoa học pháp lý ở nước ta. Tuy nhiên, theo chúng tôi, không nên coi đây là dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật và dấu hiệu của pháp lý. Xét ở góc độ biểu hiện khách quan thì hành vi xâm hại đến các khách thể được pháp luật bảo vệ, do người không có năng lực thực hiện vẫn cấu thành nên hành vi phạm pháp luật. Chỉ có điều là người đó không chịu trách nhiệm pháp lý. Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu cơ bản nêu trên của hành vi vi phạm pháp luật, có thể đưa ra khái niệm vi phạm pháp luật như sau: Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. 2.2.1.2. Khái niệm vi phạm pháp luật trong xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm pháp lý. Không có vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước thì không có trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý liên quan tới việc áp dụng cưỡng chế nhà nước đối với những cá nhân hay tổ chức vi phạm pháp luật. Do đó, vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước cần có đầy đủ các dấu hiệu như hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể sử dụng nguồn vốn nhà nước. Đó phải là những hành động, hoặc không hành động trên cơ sở pháp luật về đầu tư xây dựng 38 mà không phải là những tư tưởng, ý nghĩ, ý niệm. Bên cạnh đó, hành vi hành động, không hành động trở thành vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng phải là những hành vi không tuân theo những quy định pháp luật. Nó vi phạm tới trật tự pháp luật, xâm phạm tới những quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản được Nhà nước và các chủ thể khác xác lập. Trong đó, việc vi phạm pháp luật phải gây ra những thiệt hại nhất định về vật chất hoặc phi vật chất. Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước phải là hành vi trái pháp luật, là những hành vi chống lại những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ. Hành vi trái pháp luật bị coi là hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước chỉ được xác định khi có sự biểu hiện ý chí của chủ thể thực hiện hành vi đó để trục lợi hoặc gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư vào việc xây dựng cơ bản đó. Như vậy, có thể hiểu vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế, xâm hại đến tài sản và các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và của công dân trong lĩnh vực đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước, là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể quản lý, sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 2.2.1.3. Đặc điểm vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước là hiện tượng mang tính phổ biến hiện nay. Đây là một dạng vi phạm pháp luật phức tạp. Vì vậy, để nhận diện được chúng cần phải nghiên cứu một số đặc trưng nhất định. Ngoài những đặc điểm chung của vi phạm pháp luật, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước còn có một số đặc điểm riêng xuất phát từ tính chất của các quan hệ xã hội bị chúng xâm hại. Việc tìm ra những đặc điểm về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước sẽ giúp chúng ta có thể đề xuất những giải pháp đấu tranh một cách có hiệu quả. Bởi vì các vi phạm pháp luật phát sinh trên thực tế không hoàn toàn giống nhau nên cách thức và biện pháp mà Nhà nước sử dụng để chống lại chúng là không thể giống nhau. Trên cơ sở nghiên cứu về vi phạm pháp luật nói 39 chung, có thể đưa ra các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước như sau: Thứ nhất, đặc điểm pháp lý Dấu hiệu đặc trưng của vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước được phân biệt bởi dấu hiệu khách quan của hành vi và chủ thể vi phạm: Về mặt khách quan, có thể nêu lên những những hành vi vi phạm pháp luật thường gặp trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước như sau: - Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình đang quản lý, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao như là một phương tiện để biến tài sản do mình trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý thành tài sản của mình hoặc người khác. - Hành vi vi phạm là có thể thực hiện không đúng hoặc vượt thẩm quyền được giao như lập dự toán vượt xa nhu cầu thực tế để lấy tiền chênh lệch, xác nhận, kê khai khống, sửa chữa hóa đơn, chúng từ về giá cả, khối lượng vật tư, đền bù, đo đạc, xác nhận thiệt hại sai về diện tích, chủng loại... - Là hành vi nhận hối lộ để thực hiện một việc thuộc trách nhiệm của mình vì lợi ích vật chất hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ như nhận hối lộ để quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế dự toán, xác nhận khống về diện tích, tình trạng tài sản trên diện tích đất bị thu hồi để nhận tiền đền bù hoặc nhận cao hơn mức qui định... Hay hành vi nhận hối lộ để không làm một việc mà theo qui định phải làm vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, như không lập biên bản vi phạm thiết kế trong quá trình thi công... - Hành vi làm trái với nhiệm vụ được giao bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Làm trái nhiệm vụ được giao ở đây là làm không đúng với nhiệm vụ được giao hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như quyết định đầu tư sai địa điểm gây lãng phí vì lý do cục bộ địa phương; thay cho đấu thầu thì chỉ định thầu cho công ty "sân sau"; làm ngơ khi phát hiện sai phạm trong quá trình thi công công trình vì anh em, người nhà... 40 - Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhận trực tiếp hoặc qua trung gian tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để thông qua chức vụ, quyền hạn của mình mà gây ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn khác, thúc đẩy người này làm hay không làm một việc thuộc trách nhiệm liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm theo yêu cầu của người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất. Cụ thể là dùng chức vụ, quyền hạn của mình để gây sức ép đối với người có trách nhiệm thẩm định, phê duyệt dự án, ký cấp vốn, cấp vốn, cấp phép... cho thắng thầu, nhận tiền, cho nghiệm thu, quyết toán... Như vậy, nhìn chung, những hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ...ế nào; công tác bảo vệ tài sản có vấn đề gì nổi lên; các sự cố công trình Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm kinh tế ở địa bàn xây dựng cơ bản, diễn biến và thủ đoạn hoạt động của tội phạm. Tình hình và kết quả thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an, mối quan hệ phối hợp với các lực lượng trong quản lý địa bàn. Trước khi tiến hành một hoạt động nghiệp vụ nào nhất thiết chúng ta phải có những thông tin trên. Do đó trong quản lý địa bàn xây dựng cán bộ điều tra, trinh sát phải tiến hành điều tra cơ bản theo những nội dung trên đồng thời tiến hành phân tích đánh giá tình hình một cách khoa học từ đó có biện pháp đấu tranh cho phù hợp. 145 Về phương pháp tiến hành điều tra cơ bản: Trước hết cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý địa bàn về xây dựng cần mở hồ sơ và xây dựng kế hoạch cho công tác điều tra cơ bản và tiến hành thu thập tình hình. Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu thông qua các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác, đặc biệt là công tác bảo vệ cơ quan, bảo vệ tài sản của đơn vị, của doanh nghiệp xây dựng. Nghiên cứu tài liệu thanh tra, kiểm tra, kiểm kê. Nghiên cứu nắm tình hình báo chí, đài phát thanh, truyền hình phản ánh về các hiện tượng tiêu cực, sự việc tiêu cực có liên quan đến tham nhũng trong xây dựng cơ bản. Chủ động đi sâu, đi sát quần chúng để nắm tình hình. Thu thập thông tin tổng hợp tình hình thông qua kết quả hoạt động nghiệp vụ của cán bộ phụ trách địa bàn với các hoạt động của các lực lượng khác có liên quan. Thường xuyên tiến hành điều tra cơ bản, thu thập bổ sung thông tin, tài liệu vào hồ sơ điều tra cơ bản xác định những vấn đề cần tập trung giải quyết ngay. 4.2.2.4. Đổi mới phương pháp thu thập và xử lý thông tin, tăng cường công tác điều tra khám phá tội phạm tham nhũng trong xây dựng cơ bản Về tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm: Trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, thu thập được những thông tin phản ánh hoạt động của các tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những cơ sở đề ra chương trình đấu tranh chống tội phạm có hiệu quản trong từng thời kỳ; ở phương diện phản ánh, những thông tin về tội phạm chính là kết quả phản ánh của những tội phạm đó trong hiện thực khách quan, sự tồn tại của những thông tin này mang tính quy luật. Tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là hoạt động của những cơ quan theo luật định, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự nhằm ghi nhận, kiểm tra những tin báo, tố giác về tội phạm và những vụ việc có tính chất hình sự do công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội chuyển đến hoặc được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên cơ sở đó ra quyết định khởi tố vụ án nếu có những tài liệu cần và đủ chỉ ra những dấu hiệu cơ bản của tội phạm trên thực tế đã xảy ra và những quyết định xử lý cần thiết khác. 146 Khi tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác về các tội phạm tham nhũng trong xây dựng cơ bản chúng ta phải làm rõ hai nhiệm vụ: + Xác định cơ sở và căn cứ để ra quyết định thanh tra xác minh xem xét vụ việc hoặc quyết định khởi tố vụ án. + Tiến hành những biện pháp cấp bách để ngăn chặn tội phạm, hậu quả của tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh tra, điều tra tiếp theo. Chúng ta phải đặc biệt chú ý đến nguyên tắc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm như: - Phải luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm. - Khai thác mọi thông tin hiểu biết của chủ thể của tin báo, tố giác về vụ việc xảy ra. - Ưu tiên tiến hành những biện pháp cấp bách có tính chiến đấu trước những công việc sự vụ hành chính. - Chấp hành nghiêm túc những yêu cầu của pháp luật về trình tự, thủ tục tiếp nhận, quyền và nghĩa vụ của những người có tin báo, tố giác về tội phạm. Chúng ta phải đặc biệt chú ý đến thời hạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Thực trạng hiện nay hầu như ở các đơn vị đều diễn ra tình trạng kéo dài, vi phạm thời hạn trong giải quyết đơn thư. Vụ án tham nhũng trong xây dựng cơ bản có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều lực lượng thì phải thành lập Ban chuyên án để tiến hành điều tra, đây là sự phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan để phục vụ công tác điều tra. Kết luận chương 4 Để phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay cần phải quán triệt đồng bộ các quan điểm: Của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng phát triển bền vững và bảo đảm hội nhập quốc tế và thực hiện đồng bộ các giải pháp chung: Nâng cao nhận thức về vai trò của công cuộc đấu 147 tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, bố trí, đề bạt sử dụng cán bộ làm công tác đầu tư xây dựng; hoàn thiện các chính sách, pháp luật về xây dựng tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực xây dựng nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các nội dung trong từng giai đoạn thực hiện đầu tư xây dựng và các giải pháp cụ thể: tăng cường hoạt động của lực lượng đấu tranh phòng, chống tội vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân và các đoàn thể quần chúng đối với vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; tăng cường công tác điều tra cơ bản bảo đảm chủ động phòng, chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước và đổi mới phương pháp thu thập và xử lý thông tin, tăng cường công tác điều tra khám phá vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. 148 KẾT LUẬN Đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trên qui mô toàn quốc cũng như ở từng địa phương. Do qui mô, tầm quan trọng của các công trình, do sử dụng vốn ngân sách của Nhà nước nên quá trình đầu tư đòi hỏi phải được qui định hết sức chặt chẽ đồng thời phải có các giải pháp đồng bộ phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả thất thoát, lãng phí tài nhà nước trong lĩnh vực này. Trong những năm đổi mới vừa qua do yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho xây dựng cơ bản có giá trị rất lớn, pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản đã từng bước hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, thiếu sót, sơ hở, việc quản lý vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lỏng lẻo và nhiều nguyên nhân khác nữa dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước có chiều hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp gây thất thoát, lãng phí với giá trị rất lớn ngân sách nhà nước. Việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản và đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước là yêu cầu khách quan, cấp bách. Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại các qui định của pháp luật về trật tự quản lý nhà nước về kinh tế, xâm hại đến tài sản và các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và của công dân trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể quản lý, sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng có vốn ngân sách nhà nước do nhiều chủ thể thực hiện bao gồm cả các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thực hiện các công việc ở các giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư; rất đa dạng về hành vi xâm hại, lĩnh vực xâm hại và mức độ hậu quả của hành vi xâm hại nhưng nhìn chung vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này đều xuất phát từ động cơ vụ lợi vật chất, gian dối trong đề xuất, thẩm định, phê duyệt dự án 149 tổ chức thực hiện và thanh quyết toán công trình nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tập thể, công dân. Hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này gây hậu quả rất lớn về chính trị- xã hội, kinh tế-kỹ thuật, thất thoát lãng phí lớn tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân và phần lớn là lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là tìm mọi cách chiếm đoạt tài sản của Nhà nước phục vụ cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân những người có chức có quyền. Về lý luận, vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có nguồn vốn ngân sách nhà nước, có thể xảy ra ở tất cả các các giai đoạn của quá trình đầu tư bao gồm giai đoạn chuẩn bị đầu tư (đề xuất dự án, chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư) giai đoạn tổ chức thực hiện đầu tư (đền bù giải phóng mặt bằng; khảo sát thiết kế lập dự toán; tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu; thi công xây dựng; bố trí và sử dụng vốn; kiểm tra giám sát thi công). Giai đoạn kết thúc đầu tư đưa công trình vào khai thác sử dụng (nghiệm thu thanh toán khối lượng, quyết toán, bàn giao công trình để khai thác sử dụng). Trên thực tế vi phạm pháp luật cũng xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư, ngày càng phổ biến, có lúc có nơi rất nghiêm trọng gây thất thoát, lãng phí rất lớn ngân sách nhà nước, tài sản của tập thể và công dân. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước ngày càng lớn, yêu cầu quản lý chặt chẽ, chống thất thoát, lãng phí càng trở nên cấp bách. Đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước, đòi hỏi phải quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng chống tham nhũng, lãng phí hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững bảo đảm hội nhập quốc tế. Đồng thời phải tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp chung về nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa, nhiệm vụ đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước; Hoàn thiện chính sách pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này gắn với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, thực hiện các nội dung trong từng giai đoạn đầu tư. Ngoài 150 các giải pháp chung nêu trên trong quá trình đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến các giải pháp cụ thể trực tiếp tác động đến cuộc đấu tranh này, đó là xây dựng, kiện toàn, tăng cường hoạt động của lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật như cơ quan thanh tra các cấp, kiểm toán nhà nước, cơ quan chuyên trách phòng chống tham nhũng trong lực lượng công an nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân và các đoàn thể tổ chức xã hội, công tác điều tra cơ bản bảo đảm chủ động phòng chống vi phạm pháp luật, đổi mới phương pháp thu thập, xử lý thông tin, tăng cường điều tra khám phá, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước. Các quan điểm giải pháp nêu trên, nhất là hoàn thiện pháp luật về đầu tư công, xử lý nghiêm túc kịp thời mọi vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước có ý nghĩa là những khâu đột phá bảo đảm kỷ cương trật tự, phòng chống có hiệu quả vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này./. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Trịnh Quang Bắc (2009), "Tham nhũng và phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng: Những vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (256), tr.16-24. 2. Trịnh Quang Bắc (2009), "Cải cách pháp luật về đầu tư xây dựng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước", Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.65-67; 73. 3. Trịnh Quang Bắc (2009), "Những vướng mắc trong việc thực hiện Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008 của Chính phủ: Nguyên nhân và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (259), tr.76-80. 4. Trịnh Quang Bắc (2015), "Thực trạng vi phạm pháp luật trong lựa chọn nhà thầu xây lắp, nguyên nhân và kiến nghị" Tạp chí Giáo dục lý luận, (232), tr.49-50. 5. Trịnh Quang Bắc (2015), "Nhận diện thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản có vốn ngân sách nhà nước", Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.100-103. 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Bộ Chính trị (2001), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội. 2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, vùng Đông nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 3. Bộ Tài chính (2013), Báo cáo số 5527/BTC-ĐT ngày 06/5/2013 báo cáo tình hình chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, Hà Nội. 4. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2010) Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2010 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011, Hà Nội. 5. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2011) Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2012, Hà Nội. 6. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2012) Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2012 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2013, Hà Nội. 7. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2013) Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2013 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2014, Hà Nội. 8. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2014) Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2014 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2015, Hà Nội. 9. Chính phủ (2010), Báo cáo số 142/BC-CP ngày 15/10/2010 tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2010 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2010, Hà Nội. 10. Chính phủ (2011), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2012, Hà Nội. 11. Chính phủ (2012), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2012 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2013, Hà Nội. 12. Chính phủ (2013), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2013 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2014, Hà Nội. 13. Chính phủ (2014), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển năm 2014 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển năm 2015, Hà Nội. 153 14. Bùi Mạnh Cường, Đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Cổng thông tin phòng chống tham nhũng, thamnhung.thanhtra.gov.vn, [truy cập ngày 21/10/2011]. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 17. Trần Ngọc Đường (Chủ biên)(1999), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Elimazu - Vũ Thành Tự Anh (2005), Luật Đầu tư chung và sự phân hoá giữa các vùng và địa phương ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội. 19. Nguyễn Quốc Hoàn (2001), Cơ chế điều chỉnh pháp luật, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. 20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài liệu học tập, nghiên cứu môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2 tập, Hà Nội. 21. Lê Thị Hương (2001), “Pháp luật - công cụ chủ yếu và có hiệu quả nhất để quản lý nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (12). 22. Kiểm toán Nhà nước (2010), Báo cáo kiểm toán năm 2010, Tài liệu họp báo, Hà Nội. 23. Kiểm toán Nhà nước (2011), Báo cáo kiểm toán năm 2011, Tài liệu họp báo, Hà Nội. 24. Kiểm toán Nhà nước (2012), Báo cáo kiểm toán năm 2012, Tài liệu họp báo, Hà Nội. 25. Kiểm toán Nhà nước (2013), Báo cáo kiểm toán năm 2013, Tài liệu họp báo, Hà Nội. 26. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, Tập 32, Nxb Sự thật, Hà Nội. 27. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 28. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, Tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Nguyễn Văn Mạnh (2008), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong quan hệ với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (9), trang 8. 154 30. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1981), Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, Nxb Sự thật, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Hồ Chí Minh (2008), Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, quan liêu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Mai Quỳnh Nam (2003), “Công khai để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, (20), trang 10. 38. Phạm Hữu Nghị (2009), "Các điều kiện của việc xây dựng cơ chế giám sát và phán quyết các hành vi vi phạm hiến pháp ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (5), trang 14. 39. Phùng Xuân Nhạ (1998), "Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (2), trang 9. 40. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 42. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. Tào Thị Quyên (2009), "Vi phạm pháp luật và vi phạm Hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (6), trang 15. 44. Quốc hội (2000), Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Quốc hội (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 155 46. Quốc hội (2009), Nghị quyết số 36/2009/QH12, ngày 6/11/2009 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, Hà Nội. 47. Quốc hội (2009), Nghị quyết số 37/2009/QH12 ngày 13/11/2009 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2010, Hà Nội. 48. Quốc hội (2010), Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 8/11/2010 về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011, Hà Nội. 49. Quốc hội (2010), Nghị quyết số 52/2010/QH12 ngày 10/11/2010 về dự toán Ngân sách nhà nước năm 2011, Hà Nội. 50. Quốc hội (2010), Nghị quyết số 53/2010/QH12 ngày 15/11/2010 về phân bổ Ngân sách trung ương năm 2011, Hà Nội. 51. Quốc hội (2011), Nghị quyết số 14/2011/QH13 ngày 10/11/2011 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, Hà Nội. 52. Quốc hội (2011), Nghị quyết số 16/2011/QH13 ngày 16/11/2011 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2012, Hà Nội. 53. Quốc hội (2011), Nghị quyết số 12/2011/QH13 ngày 9/11/2011 về kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 54. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 28/2012/QH13 ngày 21/6/2012 về bổ sung một số dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 55. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (2013), Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 56. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, Hà Nội. 57. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 57/2013/QH13 ngày 12/11/2013 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, Hà Nội. 58. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 61/2013/QH13 ngày 15/11/2013 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2014, Hà Nội. 59. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 về phát hành bổ sung và phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014- 2016, Hà Nội. 156 60. Quốc hội (2014), Nghị quyết số 736/NQ-UBTVQH13 ngày 17/3/2014 về phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung giai đoạn 2014-2016 cho các dự án dự kiến hoàn thành trong 2 năm 2014-2015 nhưng chưa bố trí đủ vốn, Hà Nội. 61. Phan Xuân Sơn (2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (9), trang 12. 62. Thanh tra Bộ Xây dựng (2014), Xử phạt vi phạm hành chính trong xây dựng 910 triệu đồng, xay-dung-910-trieu-dong/58/15921819.epi, [truy cập ngày 15/10/2014]. 63. Thanh tra Chính phủ (2013), Kết luận thanh tra về công tác quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Lai Châu; thực hiện quản lý đầu tư xây dựng một số dự án bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2013, Hà Nội. 64. Phạm Hồng Thái (2005), “Xu hướng chuyển dịch quyền lực trong bộ máy hành chính và vấn đề dân chủ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), trang 7. 65. Nguyễn Văn Thảo (Chủ biên) (1997), Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. V.N.Cudriasep, V.Xnerxêannet(đồng chủ biên) “Sự sai lệch chuẩn mực xã hội” (1987) Nhà xuất bản Thông tin lý luận. 67. Đinh Công Tuấn “Nợ công Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm châu Âu” (2013) Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. 68. Nguyễn Thị Lan Hương “Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh nghiệp” (2014) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 69. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia “Phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế: Tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc gia”. 70. Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải (đồng chủ biên) “Kinh tế khu vực công” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2015). 71. Công trình nghiên cứu về Luật Kiểm toán Nga của Viện Nghiên cứu thanh tra 72. Phạm Ngọc Đản (2006), Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng phí được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn ngừa tham nhũng trong đầu tư xây dựng ở nước ta, Đề tài nghiên cứu khoa học, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội. 157 73. Lê Hùng Minh (chủ nhiệm) (2006), Thực trạng và giải pháp chống thất thoát ngân sách trong hoạt động kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản của kiểm toán nhà nước Việt Nam. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp bộ, Kiểm toán nhà nước, Hà Nội. 74. Nghiên cứu cơ sở khoa học thực tiễn xử lý khiếu nại hành chính, do Thanh tra Bộ Nội vụ thực hiện (2003), Chủ nhiệm đề tài TS. Đỗ Xuân Đông. 75. Đề tài khoa học công nghệ cấp bộ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện năm 2005. 76. Đề tài nghiên cứu khoa học: Vai trò quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, Viện KTXD, Bộ Xây dựng, Mã RD05. 77. Viện Khoa học Công an (1997), Tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng. 78. Cục Cảnh sát kinh tế (1998), Thực trạng tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và giải pháp phòng ngừa đấu tranh. 79. Trần Quốc Nam (chủ nhiệm đề tài) (2000), Cơ sở lý luận và thực tiễn kiểm toán tuân thủ trong đầu tư xây dựng. 80. Phạm Khắc Xương (2002), Thực trạng về tham nhũng, lãng phí trong các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và những giải pháp đặt ra với kiểm toán nhà nước. 81. Lê Thế Tiệm và đồng nghiệp (2006), Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 82. Cục Cảnh sát kinh tế (1999), Thực trạng tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 83. "Vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật của NCS Xổm Thong Vi Lay Phôn, bảo vệ 2009. 84. Vương Ngọc Thịnh (2010) Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 85. Đặng Hữu Toàn (2005), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Khoa học xã hội, (9), trang 14. 158 86. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 87. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,(tái bản lần thứ 3 có sửa đổi), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 88. Đào Trí Úc (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 89. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Nghị quyết số 473/NQ-UBTVQH13 ngày 27/3/2012 về kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 90. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Nghị quyết số 522/NQ-UBTVQH13 ngày 10/8/2012 về kế hoạch phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011- 2015 cho các dự án bổ sung theo Nghị quyết số 28/2012/QH13, Hà Nội. 91. Võ Khánh Vinh (2003), “Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (2), trang 3. 92. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 93. Luật Xây dựng (2003). 94. Luật Đầu tư (2005). 95. Luật Đầu tư công (2014). 96. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (2005). 97. Luật Ngân sách nhà nước (2002). 98. Luật Đấu thầu (2005). 99. Luật Đấu thầu (2013). II. Tài liệu tiếng Anh 100. "The global definition of comparision and potentials for investment programmes", by Nayef R.F.AL-Rodhan (2006) 101. "The list of keywords and definition of foreign direct investment", launched by OECD(2008). 159 102. "The foreign direct investment and annual policies for developed countries", by professor Theodore H.Moan 103. "the investment projects: the politic attitude changes about urban investment", by David E.Lubroff (2003). 104. "the plan disaster- a chain of urban development projects in California", by Peter Hall 105. " state investment, growth and financial limitation: the challenges for new EU member countries ", editted by Massimo Florio Edward Elgar 106. "The power of management of state investment- the property for growth", by editorial group: Anand Rajaram, Kai Kaiser, Tuấn Minh Lê, Jay - Hyung Kim and Jonas Frank 107. "Corruption and collusion in construction: a view from industry", by Jill Wel 108. “Corruption in the UK Contruction Indutry, September 2013, The Charterer Institute oF Building (CIOB)” 109. Allan R. Brewer - Carías (1989), Judicial Review in comparative law - Cambridge University Press Evist Published. 110. B.Chwartz (1955), American Constitutional Law, Cambridge, p.129. 111. Cf. B.O. Nwabueze (1984), "Judicial Control of Legislative Action and its Legitimacy - Recent Developments", African Regional Report, International Association of Legal Sciences, Uppsala Colloquium, p.3.) 112. C.H.Mcilwain (1920), The High Court of Parliament and its supremacy, Yale, p. 286-301. 113. Coke quoted by Corwin (1966), op. cit, p.38. "Regarding the inconsistency of Coke’s views" See w. Holds worth, A History of English Law. Vol V, London, p.475. 114. Constitution of Germany 1949. 115. Constitution of France of 1958. 116. Constitution of Portugal 1982. 117. C.P.Patterson (1938), The development and evaluation of Judicial Review, 13 Washington Law Review, pp 75, 171, 353. 160 118. Decision of Constitutional Cours and equivalent bodies and their execution (www.venice.coe.int) 119. Donald P. Kommers, Comparative Judicial Review and Constitutional Politics, World Politics, Vol.27, No.2 (Jan.1975), 282-297. 120. E.S. Corwin (1914), Marbury v. Madison and the doctrine of judicial review, Michigan Law Review. 121. Hamilton (1961), The Federalist, BF. Wright, ed, Cambridge, Mass, pp. 491, 3. 122. Hans Kelsen (1942), Judicial Review of Legislation: A comparative study of the Austrian and the American Constitution, The Journal of Politics, Vol.4, No.2, 183-200. 123. H.Kelsen (1989), quoted by Allan R. Brewer - Carias Judicial Review in comparative law - Cambridge University Press, p.82. 124. Host-State "cam kết" và những ẩn số của sự ổn định trong Luật pháp Quốc tế, 24 Am. Rev. của Int'l ARB. 361 (2013); Sanz v. Mỹ Sec. Ins. Công ty 328 F.3d 1314 Cir. 2003 11 125. 126. Hy Lạp Town Mall, LP v New York, 964 NYS2d 277 (25 tháng 4 2013) (giải quyết vấn đề theo luật tiểu bang New York).. DRFP, LLC v Republica Bolivariana de Venezuela, Case số 2: 04-CV-00.793 (SD Ohio, ngày 14- 5-2013). 127. J.A.C.Grant (1934), Judicial Review of Legislation under the Austrian Constitution of 1920, The American Political Science Review, Vol.28, No.4, 670-676. 128. Kardassopoulos v. Georgia, ICSID Trường hợp số ARB / 05/18, giải thưởng, 3-3-2013 129. Megan Nichols, Marbury v. Madison and the establishment of judicial review, 130. M.Cappelletti (1971), Judicial Review in Contemporary World, Indianapolis, pp. 38-40. 161 131. P.G.Kauper (1989), Judicial Review of constitutional issues in the United State, in Allan R. Brewer - Caria’s. “Judicial Review in comparative law” - Cambridge University Press Evist Published,. 132. Random Unabridged Dictionary, Random House, Ins.2006. 133. Saikrishna B. Prakash - John C. Yoo (2003), The Origin of Judicial Review, See 134. The Supreme Court and the Constitution (1984), Readings in American Constitutional History, New York, pp. 7-13. 135. The Federal Constitution Tribunal Law of Germany (FCT) was puplished on 12 March 1951. 136. The Federal Constitution Tribunal Law of Germany. The interior regulation of the Tribunal was published in 1975 and reformed in 1978. 137. United States Code 297. 138. United States Code 1254.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_vi_pham_phap_luat_trong_dau_tu_xay_dung_co_ban_co_vo.pdf
  • pdftrang thong tin Viet-Anh.pdf
  • pdfTT _T.Anh_ _ Trinh Quang Bac.pdf
  • pdfTT _Trinh Quang Bac _nop QD.pdf
Tài liệu liên quan