Luận án Xu hướng phát triển thông tin Chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN TRI THỨC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY (Khảo sát chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao Động cuối tuần, báo An ninh thế giới cuối tháng, trong 3 năm, 2012 - 2014) NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC MÃ SỐ: 62.32.01.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI – 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC

docx200 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Xu hướng phát triển thông tin Chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN TRI THỨC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY (Khảo sát chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao Động cuối tuần, báo An ninh thế giới cuối tháng, trong 3 năm, 2012 - 2014) NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC MÃ SỐ: 62.32.01.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM TẤT THẮNG PGS, TS. HÀ HUY PHƯỢNG HÀ NỘI – 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Tất Thắng, PGS, TS. Hà Huy Phượng. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu, phát hiện mới của luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận án có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu... liên quan đến nội dung đề tài. Tác giả luận án Nguyễn Tri Thức MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ viết tắt Danh mục biểu đồ, bảng, ảnh MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 1.1. Khái quát về vấn đề nghiên cứu 11 1.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài 13 1.3. Các nghiên cứu trong nước 24 Chương 2: THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ TRÊN BÁO CHÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 37 2.1 Các khái niệm cơ bản 37 2.2. Vai trò của thông tin chuyên đề báo chí 46 2.3. Đặc điểm của thông tin chuyên đề báo in 54 2.4. Phân loại thông tin chuyên đề 62 2.5. Những yêu cầu đối với việc tổ chức thông tin chuyên đề 72 Chương 3: THỰC TRẠNG THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ TRÊN BÁO IN VIỆT NAM 83 3.1. Tổng quan về các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát 83 3.2. Thực trạng nội dung thông tin chuyên đề trên các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát 92 3.3. Thực trạng hình thức tổ chức thông tin chuyên đề trên các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát 111 Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC TỔ CHỨC THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ BÁO IN 127 4.1. Đánh giá về việc tổ chức thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam 127 4.2. Những yếu tố tác động đến xu hướng phát triển thông tin chuyên đề ở Việt Nam hiện nay 135 4.3. Thực tiễn, bài học kinh nghiệm tổ chức thông tin chuyên đề trên thế giới 140 Chương 5: DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ 150 5.1. Xu hướng phát triển thông tin chuyên đề trên báo in 150 5.2. Các xu hướng phát triển nội dung thông tin chuyên đề 152 5.3. Các xu hướng tổ chức hình thức thông tin chuyên đề 160 5.4. Giải pháp, khuyến nghị nhằm phát triển thông tin chuyên đề báo in Việt Nam hiện nay 166 KẾT LUẬN 177 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 181 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Xu hướng phát triển: XHPT Thông tin chuyên đề: TTCĐ Báo in Việt Nam: BIVN Cơ quan báo chí: CQBC Báo chí – Truyền thông: BCTT Mạng xã hội: MXH DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG, ẢNH TRONG LUẬN ÁN STT Tên biểu đồ, bảng, ảnh Trang 1 Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ chủ đề thông tin chuyên đề trên Báo Lao Động cuối tuần 94 2 Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ dung lượng thông tin chuyên đề trên chuyên san Hồ sơ sự kiện 95 3 Biểu đồ 3.3. Đánh giá của bạn đọc về thông tin chuyên đề trên Hồ sơ sự kiện 96 4 Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ dung lượng thông tin chuyên đề trên Tạp chí Xây dựng Đảng 98 5 Biểu đồ 3.5. Số lượng bài trong chuyên đề trên An ninh thế giới 100 6 Bảng 3.6. Tỷ lệ thông tin chuyên đề phản ánh theo lĩnh vực trên Hồ sơ sự kiện 101 7 Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ lĩnh vực phản ánh của thông tin chuyên đề trên Lao động cuối tuần 102 8 Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ các bài chính có hộp dữ liệu trên Lao động cuối tuần 115 9 Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ sử dụng thể loại báo chí trên Hồ sơ sự kiện 117 10 Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ thể loại báo chí dùng trên Tạp chí Xây dựng Đảng 118 11 Biểu đồ 3.11. Tỷ lệ thể loại báo chí dùng trên Lao động cuối tuần 119 12 Bảng 3.1. Tỷ lệ số người hài lòng về việc trình bày của Hồ sơ sự kiện 121 13 Biểu đồ 3.12. Tỷ lệ giới thiệu thông tin chuyên đề trên Báo Lao động cuối tuần ở trang bìa 123 14 Biểu đồ 3.13. Tỷ lệ sử dụng ảnh chân dung trên Báo An ninh thế giới 124 15 Ảnh 4.1. Sinh viên năm thứ tư Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền thảo luận về thông tin chuyên đề 172 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Đề tài “Xu hướng phát triển thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay” (Khảo sát Chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần, Báo An ninh thế giới giữa tháng - cuối tháng, trong 3 năm, 2012-2014) được thực hiện vì những lý do chính sau đây: Thứ nhất, sự bùng nổ của truyền thông trong thời gian qua đã và đang tạo ra môi trường giúp báo chí có những bước phát triển mạnh mẽ, với những khác biệt rõ ràng so với trước đây, cả về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin. Với sự trợ giúp của những thành tựu khoa học kỹ thuật, TTĐC dần chiếm lĩnh, chi phối được quá trình tiếp nhận thông tin của cộng đồng. Việc chuyển tải thông tin không còn là một chiều nữa, đặc biệt khi truyền thông xã hội giúp công chúng không chỉ có nhiều cơ hội lựa chọn thông tin, mà còn khiến họ chính là những người chuyển tải thông tin. Thậm chí, họ còn là những người đưa thông tin trực tiếp, nhanh chóng tại nơi sự kiện diễn ra, ở mọi lúc, mọi nơi bằng các thiết bị thông tin cầm tay có kết nối Internet... Trong “biển thông tin” đa dạng, nhiều chiều ấy, không phải công chúng nào cũng đủ điều kiện để lựa chọn và tiếp nhận thông tin chính xác, khách quan, cần thiết. Vấn đề đặt ra là các CQBC sẽ có những đường hướng, sách lược phát triển như thế nào để phù hợp với điều kiện thực tiễn? Mỗi loại hình báo chí sẽ có sự biến đổi như thế nào để không chỉ tồn tại, mà còn cùng phát triển, phát huy hết khả năng của mỗi loại hình trong hệ thống BCTT thời đại toàn cầu hóa. Đó là câu hỏi đặt ra cần có lời giải đáp một cách thỏa đáng. Thứ hai, thực tế những năm qua cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng điện tử và truyền hình khiến báo in gặp nhiều khó khăn. Số lượng phát hành các tờ báo hàng đầu trên thế giới sụt giảm đáng kể. Nhiều tờ báo thị trường phải giảm kỳ, thậm chí tự đình bản, do không thể cân đối được nguồn tài chính để duy trì hoạt động. Nhưng, loại hình báo in không thể “chết”, bởi nó vẫn có những giá trị với những đối tượng, mục đích, phân khúc bạn đọc khác nhau. Vấn đề đặt ra là báo in sẽ phải thay đổi như thế nào về nội dung thông tin và hình thức trình bày để duy trì được bạn đọc và nguồn thu? Đây là câu hỏi đặt ra cần có lời giải đáp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thứ ba, TTCĐ, dưới nhiều hình thức khác nhau, đã được thế giới thực hiện từ lâu, với lợi thế về sự phân tích, bình luận, lý giải chuyên sâu, thể hiện tầm khái quát vấn đề. Việc tổ chức TTCĐ nhằm nêu bật, chỉ rõ bản chất của vấn đề, sự kiện với những thông tin đa chiều, khách quan, sự phân tích, bình luận, kiến giải thông tin giàu hàm lượng trí tuệ, khoa học, tạo sức thuyết phục cao cho công chúng. Việc làm rõ sự cần thiết của XHPT TTCĐ cùng những yêu cầu cụ thể về nội dung, hình thức cho phù hợp với mỗi mô thức thông tin khác nhau... là những câu hỏi đặt ra cần có sự nghiên cứu và giải đáp. Thứ tư, hiện nay còn rất ít công trình nghiên cứu hệ thống về TTCĐ trên báo in. Một số tác giả các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề tổ chức TTCĐ trên báo chí, nhưng còn ở dạng riêng lẻ, tính khái quát chưa cao. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống về TTCĐ trên báo chí nói chung, trên báo in nói riêng, vì thế là có ý nghĩa. Thứ năm, thực tiễn hoạt động báo chí ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, đã xuất hiện những hình thức lợi dụng tính chất của việc tổ chức các chuyên đề nhằm mục đích “ép” các đơn vị đăng quảng cáo trá hình, làm ảnh hưởng không nhỏ tới diện mạo nền báo chí nước nhà. Thứ sáu, trong quá trình tìm hiểu, tham gia giảng dạy ở các trung tâm đào tạo báo chí khác nhau, nghiên cứu sinh nhận thấy TTCĐ dù đã được đưa vào chương trình giảng dạy, nhưng chưa được thực sự coi trọng như những nội dung chính, trọng tâm. Thực tế, việc tổ chức TTCĐ không đơn giản chỉ là những kỹ năng đơn thuần, mà rất cần thiết được tổ chức một cách bài bản, từ lý thuyết đến thực tiễn, cho phù hợp với các mô thức TTCĐ khác nhau. Sáu lý do chính kể trên cho thấy sự cấp thiết, cả về lý luận và thực tiễn của việc thực hiện đề tài “Xu hướng phát triển thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay” (Khảo sát Chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần, Báo An ninh thế giới giữa tháng - cuối tháng, trong 3 năm, 2012-2014). 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài nhằm xác định XHPT TTCĐ trên BIVN, thông qua việc hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về TTCĐ, phân tích việc tổ chức TTCĐ trên các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát, làm rõ bản chất và xu hướng vận động của TTCĐ, những vấn đề đặt ra đối với XHPT TTCĐ trên BIVN cũng như dự báo XHPT TTCĐ hiện nay, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm phát triển, nâng cao chất lượng TTCĐ trên báo in. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu; xây dựng, hình thành khung lý thuyết về TTCĐ trên báo in hiện nay. Cụ thể: Làm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài, như: xu hướng, XHPT, thông tin, chuyên đề, TTCĐ, báo in; nêu bật vai trò của TTCĐ; những đặc điểm của TTCĐ báo in, như: Thông tin bám sát, đi cùng sự kiện thời sự; thông tin khái quát, toàn cảnh, đa chiều; thông tin có chiều sâu, chi tiết; thông tin sự kiện, vấn đề có hệ thống, tác động xã hội mạnh mẽ; thông tin có giá trị học thuật, lưu trữ, tham khảo; thông tin thuộc thể loại chính luận báo chí; thông tin được tổ chức khoa học; thông tin được tổ chức hiện đại, nhiều “cửa sổ”. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh có cơ sở phân loại TTCĐ, dựa vào loại hình báo chí, đối tượng thông tin, lĩnh vực phản ánh, quy mô tổ chức thông tin và chỉ ra những loại TTCĐ phổ biến. Đồng thời, nghiên cứu sinh đưa ra những yêu cầu đối với việc tổ chức TTCĐ báo in về mặt nội dung và hình thức. - Thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng sản phẩm TTCĐ trên báo in hiện nay qua một số tờ báo, tạp chí trong diện khảo sát; làm rõ đặc điểm, vai trò của sản phẩm TTCĐ cũng như những yếu tố tác động đến sản phẩm TTCĐ báo in hiện nay. Cụ thể, thông qua khảo sát TTCĐ trên Chuyên san Hồ sơ sự kiện (Tạp chí Cộng sản), Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần và Chuyên đề An ninh thế giới giữa tháng – cuối tháng (Báo Công an nhân dân), nghiên cứu sinh chỉ rõ các loại TTCĐ, đánh giá thực trạng nội dung, hình thức TTCĐ trên các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát phù hợp với khung lý thuyết đã xây dựng ở phần trước đó. - Thứ ba, nghiên cứu sinh nêu ra những yếu tố tác động đến XHPT TTCĐ ở Việt Nam hiện nay; chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc tổ chức TTCĐ trên BIVN. Đồng thời, nghiên cứu sinh đưa ra khái quát tình hình thực tiễn, bài học kinh nghiệm tổ chức TTCĐ trên thế giới thông qua nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, phù hợp với đề tài của luận án. - Thứ tư, đề xuất những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng TTCĐ trên BIVN, đặc biệt là các báo, tạp chí thuộc diện khảo sát. Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng sản phẩm TTCĐ trên BIVN hiện nay, nghiên cứu sinh dự báo XHPT TTCĐ trên BIVN cùng một số XHPT TTCĐ về nội dung, hình thức. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị nhằm phát triển TTCĐ trên BIVN trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc tổ chức TTCĐ trên BIVN hiện nay về mặt nội dung, hình thức, cách thức tổ chức thực hiện. Từ đó, có cơ sở đưa ra một số dự báo về XHPT TTCĐ báo in trong tương lai. 3.2. Đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng khảo sát:Luận án khảo sát TTCĐ trên các ấn phẩm báo in cụ thể là:Chuyên san Hồ sơ sự kiện (Tạp chí Cộng sản), Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần, Báo An ninh thế giới giữa tháng - cuối tháng. Đây là các ấn phẩm báo in tiêu biểu về việc tổ chức TTCĐ theo quy mô tổ chức thông tin là: trang chuyên đề, nhóm bài chuyên đề và số chuyên đề mà nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu. Đồng thời, từ các đối tượng khảo sát, nghiên cứu điển hình này, cùng những nghiên cứu về lý luận trên thế giới, trong nước mà nghiên cứu sinh kế thừa, phát triển, xây dựng mới, sẽ là cơ sở để các CQBC có thể nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn tổ chức các dạng TTCĐ khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, thời điểm tiến hành, cũng như việc tổ chức các mô hình thông tin chuyên đề khác nhau, như thông tin sự kiện, vấn đề, chỉ dẫn, giải trí, lý luận - Phạm vi nghiên cứu:Luận án đánh giá thực trạng tổ chức TTCĐ, tác động, hiệu quả của nó trên các ấn phẩm báo in thuộc diện khảo sát, thời gian khảo sát,trong 3 năm, 2012-2014. 4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 4.1. Câu hỏi nghiên cứu - Báo chí sẽ có những biến đổi mạnh mẽ trong thời gian tới, bởi tác động của các thành tựu khoa học kỹ thuật có liên quan đến BCTT ? - Các loại hình báo chí sẽ có nhiều biến đổi, tiếp tục cạnh tranh gay gắt trong thời gian tới ? - Báo in Việt Nam tiếp tục gặp nhiều bất lợi trong quá trình cạnh tranh ở thời đại số, và buộc phải tìm nhiều giải pháp phù hợp để tồn tại cùng các loại hình báo chí khác? - Việc phát triển TTCĐ sẽ là một trong những thế mạnh, là sự lựa chọn của báo in khi không còn thế mạnh về việc đưa tin so với các loại hình báo chí khác, bởi tính định kỳ, quy trình xuất bản? 4.2. Giả thuyết nghiên cứu Đề tài “Xu hướng phát triển thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay” (Khảo sát Chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần, Báo An ninh thế giới giữa tháng - cuối tháng, trong 3 năm, 2012-2014) được thực hiện nhằm kiểm chứng giả thuyết cho rằng báo in sẽ tiếp tục phải đương đầu với nhiều thách thức trong tương lai và XHPT TTCĐ là một trong những sự lựa chọn quan trọng của BIVN hiện đại, nhằm thích ứng với sự vận động, biến đổi của xã hội nói chung, báo chí nói riêng, để tiếp tục phát triển, cùng tồn tại với các loại hình báo chí mới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề lý luận về triết học, chính trị học, báo chí học (chức năng và đặc thù loại hình báo in, kinh tế báo chí truyền thông, công chúng báo chí truyền thông hiện đại, tâm lý học báo chí, đặc thù và tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo in),các khoa học liên quan như: kinh tế học, xã hội học, logic học, toán học... kết hợp phân tích lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ nội dung, nhiệm vụ của đề tài. 5.2.Phương pháp nghiên cứu Tác giả luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu công cụ chính sau đây để thực hiện đề tài: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được tiến hành thông qua việc sưu tầm, tuyển chọn, nghiên cứu các tài liệu, như: sách, báo, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về báo chí, văn bản pháp luật liên quan đến đề tài, giúp nghiên cứu sinh hiểu, hệ thống hóa luận điểm, so sánh, minh họa cùng các kết qua khảo sát của mình, từ đó đưa ra quan điểm của cá nhân để khẳng định khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp khảo sát: Phương pháp này được tiến hành thông qua việckhảo sát, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, chứng minh... các thông số thu được, nhằm có được kết quả khảo sát thực tiễn, cả định tính và định lượng nhằm sử dụng để chứng minh giả thuyết đã đặt ra. Việc khảo sát được nghiên cứu sinh tiến hành chặt chẽ, kỹ lưỡng, bảo đảm sự khoa khọc, tính chính xác, đáng tin cậy. - Phương pháp nghiên cứu bảng hỏi (an-két): Phương pháp này được tiến hành thông qua việc lập bảng hỏi, phiếu điều tra nhằm thu nhận các ý kiến, đánh giá của công chúng về đối tượng nghiên cứu của đề tài. Phương pháp này chỉ tiến hành riêng cho chuyên san Hồ sơ sự kiện, kết quả cũng chỉ phù hợp với rất ít nội dung có liên quan đến thực trạng việc tổ chức TTCĐ trên chuyên san Hồ sơ sự kiện. - Phương pháp phỏng vấn sâu (phương pháp chuyên gia): Phương pháp này được tiến hành thông qua việc phỏng vấn sâu những nhà khoa học, các chuyên gia, nhà báo có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án, nhằm có cái nhìn về thực trạng tổ chức TTCĐ trên BIVN, chỉ ra những thế mạnh, hạn chế của nó đồng thời đưa ra những dự báo khách quan về XHPT TTCĐ trên BIVN trong tương lai. - Phương pháp tọa đàm, thảo luận nhóm: Để có được kết quả khách quan, tác giả luận án tiến hành tọa đàm, thảo luận nhóm giữa một số nhà báo, sinh viên báo chí tại tòa soạn, trường đại học... về các vấn đề chính liên quan đến TTCĐ trên BIVN. Đặc biệt, buổi tọa đàm tại chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Cộng sản thu hút đông đảo biên tập viên, cộng tác viên thường xuyên của Hồ sơ sự kiện, những người am hiểu nghiệp vụ báo chí, đặc biệt là báo in và trực tiếp thực hiện các chuyên đề nên có những nhận xét xác đáng về các vấn đề liên quan như: thực trạng việc tổ chức TTCĐ, những ưu điểm, hạn chế, giải pháp nâng cao chất lượng TTCĐ trong thời gian tới. - Phương pháp dự báo: Nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp dự báo định đính và dự báo định lượng. Với phương pháp dự báo định tính, nghiên cứu sinhphân tích định tính dựa vào suy đoán, cảm nhận về thực tiễn cũng như dự báo XHPT TTCĐ dựa trên kinh nghiệm nghiên cứu và thực tiễn của cá nhân. Với phương pháp dự báo định lượng, nghiên cứu sinh dựa vàoviệc phân tích khoa học về các dữ liệu thống kê đã thu thập được, dựa trên cơ sở lý thuyết khung đã được xây dựng, làm cơ sở để dự báo XHPTTTCĐ trong tương lai Với phương pháp dự báo, nghiên cứu sinh sử dụng 3 phương pháp phổ biến hiện nay là: (1). Phương pháp ngoại suy; (2). Phương pháp chuyên gia và (3). Phương pháp mô hình hóa. - Phương pháp nghiên cứu đồng đại - lịch đại: Nghiên cứu sinh dựa vào đặc tính so sánh theo chiều cạnh thời gian – không gian của việc tổ chức, phát triển TTCĐ trên báo in để tiến hành nghiên cứu. Đó là việc thu thập và phân tích thông tin theo thời gian (nghiên cứu lịch đại), trong một thời điểm, hay một khoảng thời gian ngắn (nghiên cứu đồng đại). Từ những sự phát triển, biến đổi của việc tổ chức TTCĐ trên báo in trong khoảng thời gian ngắn, cũng như việc phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức TTCĐ tại thời điểm hiện tại, nghiên cứu sinh có cơ sở đưa ra những nhận xét về quá trình phát triển, cũng như dự báo XHPT TTCĐ trong thời gian tới. 6. Đóng góp mới của đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài của luận án góp phần: - Làm rõ và mới hơn về nhận thức, cách tiếp cận, đánh giá về vai trò của thông tin chuyên đề trên báo in nước ta trong điều kiện và yêu cầu mới; Luận án cũng góp phần làm phong phú, sinh động hơn về lý luận và thực tiễn của báo in trong bối cảnh cạnh tranh và khó khăn của báo in hiện nay, với các kết quả nghiên cứu định tính và định lượng đáng tin cậy. - Kết quả khảo sát, phân tích, đánh giá về thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam thông qua việc khảo sát các ấn phẩm tiêu biểu cho loại hình thông tin chuyên đề theo quy mô tổ chức thông tin, là: Báo Lao động cuối tuần, Chuyên đề An ninh thế giới giữa tháng – cuối tháng (trang chuyên đề); Tạp chí Xây dựng Đảng (nhóm bài chuyên đề) và Chuyên san Hồ sơ sự kiện (số chuyên đề), cùng việc nghiên cứu lý thuyết khẳng định rõ thế mạnh, hạn chế của thông tin chuyên đề trên báo in. - Trên cơ sở phân tích các cấp độ của thông tin chuyên đề theo quy mô tổ chức thông tin, với việc phân tích chuyên sâu, đáp ứng hiểu biết sâu sắc về vấn đề, sự kiện nào đó; luận án khẳng định đây là lợi thế của báo in trong việc phát huy thế mạnh của mình trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo chí khác, và truyền thông xã hội trong tương lai. - Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa lý thuyết về thông tin chuyên đề trên báo in, khảo sát, đánh giá thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam, luận án là sự tổng hợp làn đầu tiên trong nghiên cứu về tính chất, hiệu quả của phương thức thông tin chuyên đề ở Việt Nam. - Luận án là cơ sở có tính thuyết phục để khẳng định rằng báo in sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức trong tương lai và buộc phải tìm những “thị trường ngách” để tồn tại, thông qua việc duy trì, phát huy những thế mạnh chuyên sâu, đa chiều, phản biện của mình. - Những kết quả nghiên cứu mới của luận án là cơ sở lý luận cho việc định hướng hoạt động báo chí trong thực tiễn. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà báo, giảng viên và sinh viên báo chí về thông tin chuyên đề trên báo in, cũng như các loại hình báo chí khác. 7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài Đề tài “Xu hướng phát triển thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam hiện nay” (Khảo sát Chuyên san Hồ sơ sự kiện, Tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Lao động cuối tuần, Báo An ninh thế giới giữa tháng - cuối tháng, trong 3 năm, 2012-2014) là một đề tài có những ý nghĩa cụ thể sau: +Ý nghĩa lý luận: - Đề tài ban đầu xây dựng được cơ sở lý luận, khung lý thuyết về TTCĐ, với những đóng góp mới khi xác định rõ vai trò của TTCĐ, đặc điểm của chúng, cơ sở phân loại và các yêu cầu liên quan đến việc tổ chức TTCĐ, cũng như dự báo XHPT TTCĐ báo in trong tương lai. Những điểm này khá mới, hầu hết các tài liệu báo chí học chưa bàn nhiều, bàn sâu về vấn đề này. - Luận án góp phần làm rõ và mới hơn về nhận thức, cách tiếp cận, đánh giá về vai trò của TTCĐ trên báo in nước ta trong điều kiện và yêu cầu mới; - Luận án góp phần làm phong phú, sinh động hơn về lý luận và thực tiễn của báo in trong bối cảnh cạnh tranh và khó khăn của báo in hiện nay. +Ý nghĩa thực tiễn: - Là tài liệu để lãnh đạo các cơ quan báo chí, trong đó có báo in, tham khảo, đưa ra những quyết sách đúng, phù hợp với xu hướng phát triển của TTCĐ trên báo in và các loại hình báo chí khác. - Là tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến TTCĐ trên báo chí nói chung, trên báo in nói riêng; làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo báo chí, cho cán bộ, giảng viên, người học ngành báo chí. - Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà báo viết chuyên đề, những biên tập viên, những ai quan tâm tới chủ đề này. - Có thể làm tài liệu tham khảo để các cơ sở đào tạo báo chí giảng dạy môn các chuyên đề báo chí, hoặc báo chí chuyên biệt, báo chí dữ liệu... - Đóng góp số liệu, thông tin cho hệ thống thư viện, phòng lưu trữ, nhà văn hoá, cũng như cho báo chí khu vực và thế giới... 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài gồm 5 chương,18tiết, 191 trang, 15hình minh họa. Cụ thể: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2: Thông tin chuyên đề trên báo chí – những vấn đề lý luận cơ bản Chương 3: Thực trạng thông tin chuyên đề trên báo in Việt Nam Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với việc tổ chức thông tin chuyên đề báo in Chương 5: Dự báo xu hướng phát triển thông tin chuyên đềở Việt Nam và một số giải pháp, khuyến nghị Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái quát về vấn đề nghiên cứu Thời đại bùng nổ truyền thông, với sự hỗ trợ tích cực của các thành tựu về khoa học công nghệ, đặc biệt là thiết bị di động thông minh và mạng Internet giúp báo chí phát triển mạnh mẽ, với những khác biệt rõ ràng so với trước đây, cả về nội dung lẫn hình thức chuyển tải thông tin. Công chúng không chỉ có nhiều cơ hội lựa chọn thông tin, mà họ còn là những người chuyển tải thông tin, hình ảnh đầu tiên tại nơi sự kiện diễn ra bằng các thiết bị di độngthông minh có kết nối Internet... Nói như tác giả Mitchell Stephens, trong cuốn “Hơn cả tin tức – tương lai của báo chí”, đó là: “Mạng Internet khiến ai cũng có thể ra một “tờ báo” của riêng mình. Khi luôn có cơ hội rằng điều ta “đăng lên mạng” có thể tiếp cận được một lượng khán giả cực kỳ lớn, khi điều ta chọn để chia sẻ trên mạng có thể quan trọng hơn những chuyện riêng tư tầm phào, viễn cảnh về tự do báo chí dường như một lần nữa được mở rộng, vượt khỏi giới hạn của những nhà xuất bản giàu có. Tất nhiên, mạng Internet cũng thêm vào vô số thứ cho “những ồn ào vô tận trên đời”. Vì vậy, tìm được “điểm nhấn quan trọng cũng không hề đơn giản” [99, tr.283]. Mạng xã hội sẽ còn thay đổi mạnh mẽ, với nhiều tính năng mới. Báo chí cũng sẽ phải chuyển mình theo sự vận động chung của xã hội, của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, để đáp ứng đúng, trúng, kịp thời nhu cầu, thị hiếu của bạn đọc. Vào đầu tháng 5-2015, thông báo từ Facebook cho biết - trang MXH có số người sử dụng lớn nhất thế giới, với hơn 1,44 tỷ người dùng - sẽ trực tiếp cung cấp nội dung từ báo chí một cách rộng rãi. Thay vì phải bấm vào liên kết để đến trang tin gốc, người sử dụng Facebook có thể đọc trực tiếp nội dung từ các CQBC ngay trên MXH này. Facebook sẽ áp dụng tính năng Instant Articles nhằm tăng tốc độ tải nội dung từ những luồng báo chí mà họ hợp tác. Bước đầu, MXH này “bắt tay” với BuzzFeed, The New York Times, National Geographic và một số nhà xuất bản khác để lưu trữ tin tức, video trực tiếp trên Facebook từ tháng 5-2015. Ở thời điểm “bắt tay” giữa MXH và báo chí, có những phản ứng trái chiều khác nhau khi một số CQBC, nhà xuất bản tỏ ra hào hứng thì không ít cơ quan thuộc lĩnh vực này lại lo ngại mất đi tính chủ động trong việc cung cấp thông tin đến người đọc. Nhưng thống kê cho thấy, hiện nay trung bình có khoảng 60% lưu lượng truy cập các báo, trang tin điện tử đến từ người dùng Facebook. Trong khi đó, kết quả khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pow vào năm 2014 cho thấy, 48% số người được hỏi nói rằng họ đọc tin tức về chính trị và xã hội từ MXH... Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, đặc biệt là vấn đề chia sẻ lợi nhuận từ nguồn quảng cáo trên Facebook đối với những thông tin mà báo chí, các nhà xuất bản cung cấp... Tuy nhiên, “sự bắt tay” giữa MXH này và các CQBC sẽ tác động không nhỏ đến sự phát triển của báo chí trong tương lai. Vào tháng 3-2016, Facebook cho ra đời tính năng truyền hình trực tiếp (live) từ Facebook cá nhân cho tất cả người dùng, khiến mỗi chủ tài khoản của MXH này đều có thể làm truyền hình trực tiếp. Điều này tác động mạnh đến các loại hình báo chí, và cần có những sự đổi thay về luật pháp, sự hành nghề của cơ quan quản lý báo chí và các CQBC, nhà báo. Vấn đề đáng chú ý khác, sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng điện tử, truyền hình khiến báo in đã, đang và sẽ còn bị chao đảo dữ dội. Số lượng phát hành các tờ báo hàng đầu đều sụt giảm, thậm chí giảm tới gần 50% so với thời hoàng kim. Nhiều tờ báo phải giảm kỳ, thậm chí đình bản, do không thể tự cân đối được tài chính để duy trì sự hoạt động. Mới đây nhất, ngày 26-3-2016, The Independent - một trong những tờ báo uy tín nhất ở Anh - đã ra mắt ấn phẩm cuối cùng để ngừng xuất bản báo giấy, chỉ còn tập trung vào phát triển phiên bản điện tử, bởi trực tuyến sẽ là xu hướng của tương lai. Tại Việt Nam, kể từ ngày 1-4-2016, tờ Thể thao 24h thông báo tạm ngừng xuất bản trong 3 tháng để cơ cấu lại hoạt động Trong những sự chuyển hướng, thích ứng đầy khó khăn của báo in, việc tổ chức TTCĐ theo các hình thức khác nhau, nhằm phục vụ các đối tượng bạn đọc riêng biệt, đặc biệt là việc tổ chức TTCĐ theo quy mô về nội dung thông tin chuyên sâu về một chủ đề, đề tài nào đó, với những lợi thế về sự phân tích, bình luận, lý giải một cách đa chiều, khái quát, giàu hàm lượng trí tuệ, mang định hướng vấn đề được sử dụng, coi đó là thế mạnh của mình, giúp bạn đọc thấy được những thông tin bản chất, tổng quan về các vấn đề được đề cập, chuyển tải. Có thể khẳng định rằng, đây là điều có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp nhận thông tin của những nhóm công chúng khác nhau. Qua tìm hiểu của nghiên cứu sinh, việc tổ chức TTCĐ được tiến hành từ lâu, nhưng vai trò, vị trí, thế mạnh của dạng thức thông tin này gần như là sự mặc định, nên không có những nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt, hệ thống. Vì vậy, trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu tài liệu phục vụ luận án, nghiên cứu sinh gặp nhiều khó khăn bởi trên thế giới chưa có nhiều công trình khoa học bàn sâu, hệ thống về TTCĐ báo in theo quy mô tổ chức thông tin, mà chỉ đề cập từng khía cạnh, lĩnh vực của TTCĐ cũng như tầm quan trọng của nó. Trong khi đó, các nghiên cứu ở trong nước còn rất ít, riêng lẻ, mặc dù việc tổ chức chuyên đề được thực hiện từ lâu. Một số tác giả công trình luận văn, một số nhà báo có những nghiên cứu, đề cập đến TTCĐ báo in, nhưng còn ở dạng cá biệt, riêng lẻ, chứ chưa mang tính khái quát, hệ thống. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về TTCĐ báo in theo quy mô tổ chức thông tin là có ý nghĩa, mang tính lý luận và thực tiễn cao. 1.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài 1.2.1. Khái quát chung Theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh, việc tổ chức TTCĐ báo in theo các hình thức khác nhau, đặc biệt là theo lĩnh vực phản ánh xuất hiện từ lâu, vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII ở châu Âu. Sự manh nha về TTCĐ, theo lĩnh vực phản ánh (chủ yếu là các vấn đề chính trị, chiến tranh), phạm vi phản ánh (đề cập chủ yếu đến tin tức ở châu lục) dần xuất hiện trên báo chí châu Âu ngày một nhiều, rõ nét hơn... Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, báo in xuất hiện trên hầu khắp thế giới, trở thành phương tiện thông tin cơ bản và hữu ích của con người. Báo chí ở Mỹ ra đời muộn hơn, nhưng nhanh chóng có những bước phát triển, sớm tạo ra những hướng đi độc đáo, phù hợp với yêu cầu của bạn đọc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của báo chí trong đời sống chính trị-xã hội. Báo chí Mỹ nhanh chóng vượt qua việc thông tin kiểu tường thuật, mạnh dạn đột phá vào việc cung cấp những thông tin chuyên sâu, mang tính lý giải, bình luận, định hướng cho công chúng. Có thể khẳng định rằng, sau khi xuất hiện không lâu, báo in đã tổ chức TTCĐ theo những lĩnh vực, phạm vi phản ánh khác nhau, như chính trị, kinh tế, xã hội, quốc gia, khu vực, thế giới... Tiếp đến, các dạng TTCĐ cho lứa tuổi, giới tính, ngành nghề... dần xuất hiện, phục vụ những đối tượng công chúng khác nhau. Thực tế, nhiều thập niên qua có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các vấn đề của báo chí hiện đại; sự tác động của toàn cầu hóa đến các phương tiện truyền thông đại chúng; những xu hướng phát triển của báo chí hiện đại; cách tổ chức thông tin, trình bày báo chí; những vấn đề liên quan đến tương lai của báo in trong kỷ nguyên số... Theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh, các cuốn sách, những công trình nghiên cứu, các bài viết, bài nghiên cứu đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng có liên quan trực tiếp đến TTCĐ thường chỉ mổ xẻ một khía cạnh, bộ phận nào đó ...hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với chủ trương, đường lối là Đảng và Nhà nước lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện nền báo chí cách mạng. Từ đó, nghiên cứu sinh rút ra một số vấn đề cơ bản, quan trọng sau: - Thứ nhất, nghiên cứu sinh có được những kiến thức cơ bản, nền tảng về lý luận báo chí của Việt Nam, kế thừa và làm cơ sở để phát triển những vấn đề liên quan đến việc xây dựng khung lý thuyết phù hợp với đề tài nghiên cứu của luận án. - Thứ hai, nghiên cứu sinh có được những kiến thức cơ bản về các loại hình báo chí, tác phẩm, thể loại báo chí để có thể dựa vào đó khảo sát, phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề liên quan đến đề tài của luận án. - Thứ ba, nghiên cứu sinh nắm được những kiến thức cơ bản, khái quát, căn cốt về trình bày báo để có thể kế thừa, phát huy nhằm đánh giá việc trình bày TTCĐ các ấn phẩm thuộc diện khảo sát, dự báo những xu hướng trình bày báo in trong tương lai. - Thứ tư, nghiên cứu sinh có được những XHPT của báo chí Việt Nam thời gian qua, những kỹ năng thực hành, tác nghiệp, tổ chức các sản phẩm báo chí..., từ đó kế thừa, phát triển trong việc phân tích, đánh giá, dự báo XHPT TTCĐ báo in trong tương lai. - Thứ năm, nghiên cứu sinh thấy được những mặt trái, hạn chế của loại hình TTCĐ để từ đó phân tích, đánh giá thực trạng TTCĐ trên BIVN, đồng thời đưa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm khắc phục tình trạng này. 1.3.2. Những bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến thông tin chuyên đề - Tại Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác báo chí năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015 do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ngày 31-12-2014, đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư cho rằng: “Một số cơ quan báo chí còn xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu, chạy theo lối làm báo thiếu tính chuyên nghiệp, nặng về thông tin những mặt trái, tiêu cực; thông tin giật gân, câu khách, nhất là trong các ấn phẩm phụ, số chuyên đề, một số báo điện tử, trang thông tin điện tử”... “Số chuyên đề” trong sự đề cập này đó là những số chuyên đề, chuyên san, những ấn phẩm phụ của một số cơ quan báo chí được phát hành rộng rãi trên thị trường, dưới dạng đa phần là những thông tin mặt trái, giật gân, câu khách... khiến người đọc khi tiếp thu sản phẩm báo chí ấy có cái nhìn phiến diện về đời sống xã hội của đất nước, tác động tiêu cực đến nhiều mặt, thậm chí còn “vẽ đường cho hươu chạy”, gây những nhiễu loạn nhất định cho xã hội, không những phản tác dụng mà thậm chí còn hướng dẫn một bộ phận nhỏ đối tượng độc giả thiếu bản lĩnh, sự phân tích, nhìn nhận, dễ kích động... làm theo những điều trái, những mặt xấu đáng phê phán, lên án trong xã hội. - Bài báo Tổ chức nội dung các trang thông tin chuyên đề trên Báo Lao động (Tạp chí Người làm báo, số tháng 11-2014), tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền cho rằng, Báo Lao động duy trì đều đặn các trang TTCĐ: Hà Nội, Tiền tệ - Đầu Tư, Nhân lực - Việc Làm, Sống khỏe - Sống sạch, Đời sống - Thị trường, Doanh nghiệp - Doanh nhân, Giao thông - An toàn được in kèm như những món quà ý nghĩa dành tặng độc giả.Tuy nhiên, những trang TTCĐ mà bài báo đề cập là các trang chuyên đề về địa phương hoặc lĩnh vực phản ánh, cũng giống như các trang Kinh tế - Xã hội, Văn hóa - Thể thao, Quốc tế, Phóng sự - Ghi chép... của tờ báo chính. Đó là dạngTTCĐ theo lĩnh vực, là những thông tin thời sự về địa phương, ngành nghề, lĩnh vực; chứ không phải chuyên đề theo quy mô tổ chức thông tin về một chủ đề, đề tài cụ thể nào đó ở mỗi số. Vì thế, chất lượng nội dung của thông tin trên các chuyên trang này không được xem trọng như các trang của báo chính... - Nghiên cứu sinh có 4 bài báo khoa học đề cập cụ thể đến TTCĐ, đó là: Thông tin chuyên đề - hướng đi mới của báo in (Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 6-2012); Thông tin chuyên đề - “đặc sản” của báo Tết (Tạp chí Người làm báo, số tháng 2-2015); Thông tin chuyên đề - thế mạnh, hạn chế và mặt trái (Tạp chí Người làm báo, số tháng 12-2015); Loạt bài chuyên đề - sức nặng của “những cú đấm” (Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, số tháng 5-2016). Bốn bài báo đều nhận diện rõ TTCĐ, đề cập khái quát về các loại hình TTCĐ trên báo in hiện nay cũng như những ưu điểm và những hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong việc tổ chức TTCĐ... - Nghiên cứu sinh tổ chức 1 số chuyên đề với chủ đề Thông tin chuyên đề - thế mạnh và hạn chế (chuyên san Hồ sơ sự kiện, số ra ngày 10-6-2015). Số chuyên đề gồm 11 bài độc lập thuộc các chuyên mục “Vấn đề và bình luận” và “Bên lề sự kiện” và 5 bài thuộc phần “Hồ sơ”. Trong đó, nghiên cứu sinh viết 3 bài là: “Thông tin chuyên đề “xưa” và nay”, “Những hạn chế và mặt trái”và “Thế mạnh, cũng là hạn chế”. Bên cạnh đó, là các bài có liên quan trực tiếp đến TTCĐ, như: “Sự gặp gỡ giữa cung và cầu”, “Pulitzer – “vòng nguyệt quế” dành cho TTCĐ?”, “Một số kinh nghiệm tổ chức TTCĐ”, “Rất cần tái cấu trúc báo chí”, “Những khó khăn phải vượt qua”, “Chuyên sâu và quảng cáo”, “Đơn giản hóa những vấn đề phức tạp”, “Đừng vội nói đến “cái chết”... Với 33 trang chuyên san Hồ sơ sự kiện, TTCĐ đã được đề cập một cách khá khái lược, toàn cảnh, tiếp cận ở nhiều góc độ, chiều kích khác nhau... Tuy nhiên, ấn phẩm này cũng chưa đề cập chuyên sâu, hệ thống về việc tổ chức TTCĐ dựa vào quy mô thông tin... - Những năm qua, có một số công trình đề cập đến TTCĐ trên BIVN. Đó là luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng với chủ đề: Mô thức thông tin trên chuyên san Hồ sơ sự kiện (Khảo sát từ tháng 1-2007 đến hết tháng 6-2008),của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương (bảo vệ thành công tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm 2008); luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng với chủ đề: Thông tin chuyên đề trên chuyên san Hồ sơ sự kiện (khảo sát từ năm 2006 đến hết tháng 3-2011) của tác giả Nguyễn Tri Thức (bảo vệ thành công tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2011). Cả 2 luận văn mới dừng lại ở việc khảo sát, phân tích thực trạng tổ chức thông tin trên chuyên san Hồ sơ sự kiện ở những thời điểm khác nhau. Luận văn mới chỉ dừng lại trong việc nghiên cứu sâu về mô thức thông tin trên chuyên san Hồ sơ sự kiện - một điển hình của số chuyên đề, chưa đưa ra cái nhìn toàn cảnh về TTCĐ trên BIVN, để từ đó có cái nhìn bao quát về TTCĐ, nhằm chỉ ra những bất cập, tồn tại cũng như hiệu quả của việc tổ chức TTCĐ để từ đó làm cơ sở cho những giải pháp thấu đáo, hợp lý cho mỗi loại TTCĐ phổ biến trên báo in hiện nay và trong tương lai. - Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng với chủ đề: Tổ chức chiến dịch truyền thông trên báo Tuổi trẻ của tác giả Đỗ Thị Ngọc Hà (bảo vệ thành công tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2008) có đề cập đến một dạng TTCĐ khác, như một loạt bài quy mô, tầm vóc về chủ đề nào đó. Luận văn đề xuất quy trình tổ chức chiến dịch thông tin, từ nắm bắt nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng đến khả năng khơi nguồn, dẫn dắt dư luận xã hội của báo chí hiện đại, qua thực tiễn khảo sát tại báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh - Luận văn thạc sĩ báo chí học với chủ đề: Tổ chức nội dung các trang thông tin chuyên đề trên Báo Lao động (khảo sát năm 2013) của tác giả NguyễnThị Thu Huyền (bảo vệ thành công tại Học viện Báo chí và Tuyên Truyền, Hà Nội, năm 2015) có đề cập đến việc tổ chức nội dung các trang TTCĐ trên Báo Lao động. Luận văn nghiên cứu vai trò của phóng viên báo in nói chung, phóng viên Báo Lao Động nói riêng trong hoạt động tác nghiệp tại các trang chuyên đề; cách thức tổ chức, những thế mạnh, hạn chế và giải pháp đề ra để phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế Luận văn có kế thừa một phần khung lý thuyết luận văn thạc sĩ của nghiên cứu sinh, và chỉ tập trung vào việc tổ chức nội dung các trang TTCĐ – những trang được phân chia theo địa phương, lĩnh vực phản ánh, chứ không phải chuyên đề theo quy mô tổ chức thông tin về một chủ đề, đề tài cụ thể nào đó... - Ngoài ra, còn một số chiến dịch thông tin, đợt TTCĐ, hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp có liên quan, đề cập đến TTCĐ dưới các dạng chuyên đề về lĩnh vực phản ánh được khu biệt rõ ràng, đó là: Tạp chí Cộng sản với việc tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban Đảng, do TS Nguyễn Thúy Anh làm chủ nhiệm, công bố năm 2007); Nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo Đảng về tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu trong thời kỳ hiện nay (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban Đảng, do TS Phạm Việt Dũng làm chủ nhiệm, nghiên cứu sinh là thành viên Ban Chủ nhiệm Đề tài, công bố năm 2008); Nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại trên các ấn phẩm của Tạp chí Cộng sản trong thời kỳ mới (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban Đảng, do TS Nguyễn Thành Lợi làm chủ nhiệm đề tài, nghiên cứu sinh là thành viên Ban Chủ nhiệm Đề tài, công bố năm 2011); Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Tạp chí Cộng sản Chuyên đề cơ sở (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban Đảng, do ThS Lê Hải làm chủ nhiệm, công bố năm 2012); Phát huy vai trò của báo chí Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban Đảng, do PGS.TS Nguyễn Linh Khiếu làm chủ nhiệm, nghiên cứu sinh là thành viên Ban Chủ nhiệm Đề tài, công bố năm 2015) Các công trình khoa học kể trên đều là việc khảo sát thực tiễn, phân tích, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, đề ra một số giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả, chất lượng sản phẩm TTCĐ trên một lĩnh vực tuyên truyền nào đó của bộ, ngành, CQBC cụ thể Tóm lại, các công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong nước đã có những đề cập đến TTCĐ, tuy nhiên mới dừng lại ở khía cạnh, lĩnh vực, chiều kích nào đó, hoặc khái quát, hoặc bàn về nội dung, hình thức, vai trò, tầm quan trọng của TTCĐ; chứ chưa có công trình nào bàn vềXHPT TTCĐ cũng như bàn chuyên sâu, hệ thống về TTCĐ theo quy mô tổ chức thông tin. Vì vậy, đề tài của nghiên cứu sinh về XHPT TTCĐ trên BIVN hiện nay là mới, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Tiểu kết chương 1 Quá trình tìm hiểu các công trình khoa học trong nước và trên thế giới có đề cập đến lý luận và thực tiễn báo chí, đến TTCĐ; nghiên cứu sinh rút ra một số điểm cơ bản sau: Thứ nhất, hệ thống các cuốn sách về cơ sở lý luận báo chí, loại hình, thể loại báo chí, về tổ chức nội dung và hình thức báo in, về những XHPT của báo chí hiện đại... giúp nghiên cứu sinh có được nền tảng kiến thức lý luận cơ bản về báo chí, đặc biệt là báo in; qua đó có thể xây dựng khung lý thuyết để phục vụ yêu cầu mà luận án đặt ra. Thứ hai, TTCĐ là một hình thức thông tin không mới, với nhiều loại hình, mô thức khác nhau. Trên thế giới, TTCĐ xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII, khi báo chí châu Âu bắt đầu lớn mạnh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về TTCĐ còn chưa được chú ý. Hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách tham khảo... có đề cập đến TTCĐ chỉ dừng lại ở sự nhận diện, khái quát, coi như là đương nhiên trong tổ chức nội dung của báo chí, chứ chưa được chú trọng nghiên cứu như các thể loại, vấn đề, loại hình báo chí... Thứ ba, mặc dù việc tổ chức TTCĐ ngày càng được chú trọng, coi đó là thế mạnh thực sự của báo chí, đặc biệt là báo in, với khối lượng kiến thức lớn, sự phân tích, lý giải, bình luận khách quan, đa chiều, tin cậy; nhưng các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến vai trò, thế mạnh, kỹ năng viết bài chuyên đề chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống. Thứ tư, tại Việt Nam, trong những năm gần đây đã có những nghiên cứu ban đầu về TTCĐ, nhưng các nghiên cứu mới còn ở dạng sơ lược, khái quát và thường tập trung vào các vấn đề về mô thức tổ chức TTCĐ; nhận diện các loại TTCĐ; tập trung vào các trang chuyên đề theo lĩnh vực phản ánh, theo phạm vi về không gian phản ánh (địa lý, trang địa phương, vùng miền); các số chuyên đề - ấn phẩm phụ của cơ quan báo chí; mặt trái của TTCĐ khi bị một số nhà báo, cơ quan báo chí lợi dụng làm biến tướng, phục vụ việc “ép” cơ sở để “moi” tiền tài trợ, quảng cáo... Thứ năm, có thể khẳng định rằng, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về TTCĐ theo quy mô tổ chức thông tin chuyên sâu, độc lập về một chủ đề, đề tài cụ thể nào đó; có ít sự nghiên cứu về việc tổ chức TTCĐ một cách độc lập, tương tự như một phần cấu thành của lý thuyết nghiệp vụ báo chí, chứ không phải là kỹ năng làm báo của nhà báo, CQBC. Việc tổ chức TTCĐ dựa vào quy mô tổ chức thông tin, thông qua các hình thức phổ biến trên báo in, như: trang chuyên đề, loạt/nhóm bài chuyên đề và số chuyên đề chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Với những điều khái quát kể trên, tổng quan vấn đề nghiên cứu TTCĐ trên BIVN hiện nay giúp nghiên cứu sinh thấy được cái nhìn toàn cảnh về các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến XHPT báo chí, vai trò, tầm quan trọng của TTCĐ, XHPT TTCĐ trên báo in ở trong nước và trên thế giới. Kết quả nghiên cứu giúp nghiên cứu sinh có được cái nhìn, dự báo khái quát về xu hướng vận động, biến đổi, phát triển của báo chí hiện nay, đặc biệt là XHPT TTCĐ báo in trong thời gian tới, cũng như những XHPT cụ thể về nội dung và hình thức của TTCĐ BIVN trong tương lai. Chương 2 THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ TRÊN BÁO CHÍ – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.1.1. Khái niệm về xu hướng và xu hướng phát triển + Xu hướng Theo Đại từ điển Tiếng Việt, xu hướng là “hướng đi tới, thể hiện khá rõ thực chất của nó: xu hướng chính trị; xu hướng tiến bộ” [68, tr.1873]. Theo Từ điển Tiếng Việt, xu hướng là “sự thiên về một hướng nào đó trong quá trình hoạt động” [67, tr.1479], đồng nghĩa với khuynh hướng và thiên hướng. Nếu triết tự từng từ một, xu nghĩa là xu thế, hướng là hướng theo, chúng ta có thể cho rằng, xu hướng là hướng theo xu thế nào đó. Trong thực tế, danh từ “xu hướng” thường được sử dụng kết hợp với một danh từ khác, hoặc tính từ để chỉ XHPT, vận động và thay đổi trong những lĩnh vực tương ứng, như xu hướng xã hội, xu hướng thời trang, XHPT kinh tế... Những xu hướng này được dự báo sẽ hình thành, phát triển trong tương lai, thông qua những điều kiện khách quan, chủ quan của hiện tại cùng việc dự báo những vấn đề có thể diễn ra phù hợp với tình hình phát triển, sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng, vấn đề, lĩnh vực cụ thể nào đó.Đơn cử như dựa trên điều kiện thực tại của báo mạng điện tử, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, có thể dự báo XHPT báo mạng điện tử trong tương lai sẽ thay đổi như thế nào, khi các thiết bị thông tin di động ngày càng có nhiều tính năng mới, tiện ích trong khi giá cả ngày càng giảm, phù hợp với số đông công chúng. Trong tiếng Anh, các từ “trend”, “tendency” có ý nghĩa tương đương danh từ “xu hướng”, “chiều hướng” trong tiếng Việt. Từ những định nghĩa trong từ điển, cách sử dụng trong thực tế có thể khái quát rằng, xu hướng là chiều hướng, cách thức vận động, biến đổi, sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai hướng theo một xu thế nào đó, có thể trong ngắn hạn hoặc dài hạn, là xu hướng chính hay xu hướng phụ. + Phát triển Theo Từ điển mở Tiếng Việt, “Phát triển là (1): Mở mang từ nhỏ thành to, từ yếu thành mạnh; ví dụ: Phát triển sản xuất nông nghiệp; (2) Diễn biến, ví dụ: Tình hình phát triển”. Theo Từ điển Tiếng Việt, phát triển là “biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [67, tr. 991]. Thực tế, phát triển là quá trình lớn lên, mở rộng, tăng tiến về một số mặt, hoặc toàn bộ sự việc, ngành nghề... nào đó so với mốc ở thời điểm gốc được tính đến. Trong phát triển kinh tế, bao gồm sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Ví dụ, sự phát triển của con người là sự lớn lên, trưởng thành về chiều cao, cân nặng, thể lực, trí tuệ... từ khi còn bé đến lúc lớn. Phát triển là đạt đến một dấu mốc nào đó cao hơn, tiến bộ hơn, cả về chất lượng nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng, lĩnh vực, ngành nghề... nào đó trong xã hội. Trong tiếng Anh, các từ “develop”, “expand” có nghĩa là phát triển, có nghĩa nói về quá trình biến đổi, mở rộng, thay đổi đi lên theo chiều hướng tích cực nào đó của vấn đề, cá nhân con người hay lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, xã hội cụ thể nào của quốc gia, khu vực... Theo Từ điển Cambridge, “develop” là tăng trưởng hay chuyển đổi sang dạng thức tiên tiến, tốt đẹp hoặc to lớn hơn [119]. Như vậy, phát triển là quá trình biến đổi, thay đổi theo chiều hướng tích cực, tăng lên cả về chiều rộng, chiều dài, chiều cao lẫn chiều sâu; cả về nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng nào đó. + Xu hướng phát triển “Xu hướng phát triển” là cụm từ, ghép từ nội hàm của 2 khái niệm “xu hướng” và “phát triển”. Qua sự phân tích các khái niệm về xu hướng và phát triển kể trên, có thể đưa ra quan niệm về XHPT như sau: Xu hướng phát triển là sự biến đổi, thay đổi về chất lượng và số lượng theo chiều hướng nào đó của một vấn đề, lĩnh vực cụ thể nào đó trong tương lai. Xu hướng phát triển được dự báo trước, dựa trên cơ sở phân tích những gì của thực tế hiện tại một cách có cơ sở khoa học, cùng những tiên liệu về diễn biến của sự vận động, phát triển theo chiều hướng đi lên trong tương lai, dưới tác động của các điều kiện khách quan và chủ quan. 2.1.2. Khái niệm về thông tin, chuyên đề, thông tin chuyên đề và chuyên biệt + Thông tin Theo Đại từ điển Tiếng Việt, thông tin là “I. Động từ: Truyền tin, đưa tin báo cho nhau biết: thông tin bằng điện thoại; có gì thông tin cho nhau biết. II. Danh từ: 1. Tin tức được truyền đi cho biết: theo thông tin mới nhận được. 2. Tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh: Bài viết có nhiều thông tin mới; khắc phục tình trạng thiếu thông tin” [68, tr.1587]. Theo Từ điển Tiếng Việt, thông tin là “truyền tin, báo tin cho người khác biết” (động từ); “điều hoặc tin được truyền đi cho biết (nói khái quát); sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó” (danh từ) [67, tr.1.228]. Tác giả Tạ Ngọc Tấn định nghĩa ngắn gọn, khái quát rằng “Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo”, và “Thông tin được dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói chung” [59, tr.22]. Theo tài liệu nghiệp vụ báo chí thế giới, thông tin xuất phát từ một từ trong triết học cổ Hy Lạp, với nghĩa “tạo ra một hình thái” (form), dùng để chỉ những yếu tố có thể giúp cho sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại dưới một hình thái nhất định.Trong khi đó, hai tác giả Philippe Breton, Serge Proulx giải thích rằng: Từ Latin informatio, gốc của từ hiện đại “information” (thông tin), có hai hướng nghĩa. Một, nó chỉ hành động rất cụ thể là tạo ra một hình dạng (forme). Hai, tùy theo trạng huống, nó có nghĩa sự truyền đạt hoặc một ý tưởng, khái niệm hay biểu tượng. Sự cùng chung sống của hai hướng nghĩa ấy, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt, có vẻ tiêu biểu cho sự phát minh của tiếng Latin [85, tr.38 - tr.39]. Theo Từ điển Báo chí và Truyền thông Webster, thông tin (information) chỉ “kiến thức được thu thập thông qua các cách thức khác nhau; ý tưởng và dữ kiện được truyền tải thông qua các phương thức khác nhau” hoặc bao hàm “tin tức” [117]. Theo Từ điển Oxford, thông tin (information – danh từ) là “dữ kiện hoặc chi tiết về sự vật, hiện tượng nào đó” trong khi thông tin (inform – động từ) là “cung cấp dữ kiện hoặc thông báo về sự vật, hiện tượng nào đó” [120]. Xã hội càng phát triển, những khái niệm về thông tin ngày một phong phú, cập nhật hơn. Trong mỗi lĩnh vực, thuật ngữ thông tin có thể được hiểu theo cách khác nhau. Cách chung nhất là, thông tin là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Thông qua việc cảm nhận thông tin, con người làm tăng hiểu biết cho mình và tiến hành những hoạt động có ích cho cộng đồng. Có thể khẳng định rằng, thông tin là nền tảng của báo chí, là đặc trưng của truyền thông đại chúng so với các ngành nghề khác. Trong lý luận báo chí, có ít nhất 2 khái niệm thông tin, một là tư tưởng, văn phong do nhà báo tái tạo, sáng tạo từ hiện thực cuộc sống và hai là, sự loan báo cho công chúng biết. Ở cách hiểu thứ nhất, đó chính là đặc trưng cơ bản của báo chí, bởi đó chính là tính chất khởi đầu, khởi điểm của nguồn tin. Trong khi đó, theo cách hiểu thứ hai, đó đơn thuần chỉ là về phương diện sử dụng các phương tiện kỹ thuật để chuyển tải kết quả lao động sáng tạo của nhà báo ra công chúng xã hội. Và đó cũng chính là một trong những chức năng của báo chí. Như vậy, có thể hiểu khái niệm thông tin như sau: Thông tin là việc chuyển tải thông báo, kiến thức đến nhiều người thông qua các phương tiện kỹ thuật, các loại hình chuyển tải khác nhau nhằm tác động đến những hành vi của công chúng trong xã hội, định hướng dư luận xã hội, thực hiện chức năng giám sát, quản lý để góp phần hoàn thiện, phát triển xã hội. + Chuyên đề Theo Đại Từ điển tiếng Việt, chuyên đề là “đề tài, đề mục riêng: thảo luận chuyên đề; sinh viên năm cuối học nhiều chuyên đề; bàn chuyên đề về cấp nước ở đô thị” [68, tr.406]. Theo Từ điển Tiếng Việt, chuyên đề là “vấn đề chuyên môn (được nghiên cứu hoặc thảo luận)” [67, tr.255]. Trong tiếng Anh, cụm từ “special subject” được gọi là chuyên đề, nó là từ ghép của hai từ “special”, có nghĩa chính là đặc biệt và “subject”, có nghĩa gần với phạm vi báo chí là chủ đề, đề tài. Như vậy, TTCĐ trong tiếng Anh có thể được coi là thông tin về những chủ đề, đề tài đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều người chuyên về một lĩnh vực nào đó mà các thông tin được cung cấp tới bạn đọc.Cũng cótừ khác để chỉ mục đặc biệt, chương trình đặc biệt (trên báo, tivi), đó là “feature”. Từ “feature” được dùng khá phổ biến trong báo chí Mỹ, và có khá nhiều công trình bàn về chuyên đề, nhưng chủ yếu dừng lại ở việc nhận diện loại hình, bàn về thể loại coi trọng như tin, phóng sự, cũng như những kinh nghiệm, cách viết bài chuyên đề“Feature” nhấn mạnh mức độ sâu sắc hay chuyên sâu của bài viết. Các bài chuyên đề thường được coi là thế mạnh của báo in nhằm cung cấp thông tin sâu hơn tin tức. Từ “column” trong tiếng Anh cũng được hiểu với ý nghĩa “chuyên đề”. Theo đó, đây là chuyên mục định kỳ trên báo hoặc tạp chí, trong đó tác giả viết về một lĩnh vực hoặc một nhóm chủ đề và có thể bày tỏ quan điểm hoặc ý kiến của mình về chủ đề đó. Người phụ trách chuyên đề được gọi là “columnist” hay “nhà báo chuyên đề”. Theo Từ điển Báo chí và Truyền thông Webster, “column” là “một loạt bài báo hoặc bài viết chuyên đề xuất hiện định kỳ trên báo hoặc tạp chí, do một nhà báo cụ thể (nhà báo chuyên đề) chịu trách nhiệm hoặc về một chủ đề nhất định” [117]. Theo đó, các nhà báo chuyên đề là người chuyên viết cho chuyên mục hoặc chuyên viết về một chủ đề nhất định. Có thể cho rằng, thuật ngữ chuyên đề được ghép từ 2 từ chuyên và đề. Chuyên có thể hiểu là chuyên sâu, chuyên biệt, chuyên về... Còn từ đề trong phạm vi nghiên cứu này, có nghĩa là và vấn đề, đề tài, chủ đề Như vậy, chuyên đề là việc tổ chức một đề tài chuyên sâu, chuyên biệt nào đó, hoặc là việc bàn chuyên sâu chỉ về một đề tài nào đó, trong phạm vi thời gian, không gian nhất định, đặc biệt là các vấn đề mới, thu hút sự quan tâm của công chúng mà còn nhiều điều khúc mắc, cần được tuyên truyền, bàn luận kỹ lưỡng, tập trung. Ví dụ, hội nghị chuyên đề có nghĩa là sẽ tổ chức một hội nghị để các đại biểu tham dự bàn luận, góp ý, làm rõ, gợi mở... về một chủ đề, vấn đề, đề tài cụ thể nào đó, dưới nhiều góc độ, lăng kính nhìn nhận hiện tượng, bản chất khác nhau. Tại hội thảo về vấn đề y đức, các đại biểu tham dự sẽ chỉ tham luận, bàn thảo tập trung, xoay quanh vấn đề y đức, ở các góc độ tiếp cận khác nhau, từ nhà quản lý, người trực tiếp hành nghề y đến các nhà nghiên cứu xã hội, những đối tượng chịu sự tác động của ngành. Hay như chuyên đề năm 2015 về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với chủ đề “về trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”... Nhiều lớp học chuyên đề cũng được tổ chức, phục vụ cho mục đích tuyên truyền, giáo dục cho những đối tượng cụ thể nào đó và một chủ đề nhất định được lựa chọn... Từ phân tích trên có thể cho rằng, chuyên đề là những vấn đề chuyên môn, chuyên sâu, chuyên biệt về một chủ đề, vấn đề, đề tài nào đó, được biểu hiện thông qua nhiều góc độ, lăng kính khác nhau, nhằm làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng được nêu ra, tùy theo mục đích của nghiên cứu. + Thông tin chuyên đề Từ những quan niệm về thông tin và chuyên đề đã phân tích ở trên, có thể hiểu rằng TTCĐ là thông tin chuyên sâu, chuyên biệt về một chủ đề, vấn đề, đề tài chuyên môn nào đó, trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được phản ánh, chuyển tải dưới các góc độ, cách thức, phương pháp, phương tiện kỹ thuật tiếp cận khác nhau, nhằm cung cấp một khối lượng thông tin lớn, chuyên về một chủ đề nào đó, dưới nhiều hình thức, góc độ cho những đối tượng tiếp nhận khác nhau.Thực tế, có không ít cách tiếp cận về TTCĐ đối với từng lĩnh vực khác nhau, tùy theo chức năng, nhiệm vụ, mục đích của chủ thể truyền phát thông tin. Ví dụ, trong các TTCĐ về dịch bệnh, hỏa hoạn, thảm họa động đất, tai nạn hầm mỏ, cải tiến phương pháp giảng dạy bậc tiểu học, đổi mới giáo dục đại học, kinh tế đối ngoại, sự chuyên nghiệp của báo chí thì chỉ bao gồm những thông tin liên quan đến các chủ đề, đề tài đã được xác định, bằng các hình thức, phương thức thông tin khác nhau, như qua văn bản, tham luận, phim ảnh, báo cáo nhằm chuyển tải một cách hiệu quả nội dung thông tin cần thiết đến đối tượng công chúng tiếp nhận. Từ đó, có thể quan niệm về TTCĐ như sau: Thông tin chuyên đề là những thông tin chuyên sâu, đa dạng, nhiều chiều tập trung phản ánh, tuyên truyền về một vấn đề, chủ đề, đề tài cụ thể, xác định, dưới các hình thức, nội dung chuyển tải thông tin khác nhau nhằm làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng, tùy theo mục đích của nghiên cứu. Thông tin chuyên đề cung cấp cho người tiếp nhận thông tin khối lượng kiến thức tổng quan, đa chiều, sâu sắc, khách quan, chân thật xung quanh một hay nhiều chủ đề, đề tài cụ thể. + Chuyên biệt Hiểu một cách đơn giản, thuật ngữ chuyên biệt là chuyên sâu và riêng biệt. Với báo chí chuyên biệt, có thể hiểu ngắn gọn rằng, đó là những sản phẩm báo chí bàn chuyên sâu về một lĩnh vực, phạm vi nào đó nhằm phục vụ các đối tượng công chúng riêng biệt, ví như: báo chí thể thao, báo chí kinh tế, báo chí công nghệ, báo chí văn học-nghệ thuật, báo chí khoa học... Điều này đồng nghĩa với việc phân chia báo chí chuyên đề theo lĩnh vực phản ánh Đối với riêng tạp chí, có thể phân loại thành tạp chí chuyên ngành/tạp chí chuyên môn/tạp chí chuyên biệt (Journal, Trade magazine, Professional magazine) và tạp chí phổ thông (Magazine). Nếu tạp chí phổ thông là ấn bản định kỳ hướng tới công chúng, thể hiện tin tức, quan điểm và cách diễn giải cá nhân của người viết thì tạp chí chuyên ngành là ấn bản của học giả hướng tới các nhà nghiên cứu hoặc chuyên gia. Tuy nhiên trong thực tế, có những tạp chí là sự dung hòa của 2 loại hình này. Theo [135], có 3 đặc điểm cơ bản để phân biệt tạp chí chuyên ngành và phổ thông, đó là: (1). Tạp chí chuyên ngành hướng tới học giả và những chuyên gia; tạp chí phổ thông hướng tới công chúng; (2). Tạp chí chuyên ngành in các bài viết nghiên cứu gốc; tạp chí phổ thông in bài viết thời sự và các chủ đề cùng quan tâm và (3). Tạp chí chuyên ngành xuất bản hàng tháng, hàng quý; tạp chí phổ thông xuất bản hàng tuần hoặc hàng tháng. 2.1.3. Khái niệm báo in Báo in là loại hình báo chí xuất hiện đầu tiên trên thế giới. Theo tác giả Mitchell Stephens: Nếu lật lại quá khứ đủ lâu, có thể truy nguyên nguồn gốc của mọi tờ báo ngày nay đều bắt nguồn từ châu Âu. Và tờ báo in đầu tiên ở châu Âu, đâu như vào những thập niên đầu của thế kỷ 17, hầu như chỉ là tập hợp các mục tin tức ngắn, mỗi tin chỉ dài vẻn vẹn một đoạn văn. Tờ báo lâu đời nhất còn sót lại viết bằng tiếng Anh và được phát hành ở London và được in (ở một nơi tự do hơn và phát triển sớm hơn là Amsterdam) vào ngày 2-12-1620 [100, tr. 38]. Trải qua những biến động lịch sử, báo in đứng trước những thách thức rất lớn, đặc biệt mỗi khi có loại bình BCTT mới xuất hiện. Nhưng báo in hiện vẫn có số lượng bạn đọc rất lớn trên toàn cầu, đặc biệt là các đối tượng bạn đọc từ lứa tuổi trung niên trở lên. Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, “báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, thuật ngữ báo in dùng để chỉ hai bộ phận: báo và tạp chí” [58, tr.78]. Tác giả Nguyễn Văn Dững quan niệm, “báo in là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, bằng ký hiệu chữ viết, hình ảnh và các ngôn ngữ phi văn tự, thông tin về các sự kiện và vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi và định kỳ nhằm phục vụ công chúng – nhóm đối tượng nào đó với mục đích nhất định” [15, tr.102]. Từ điển Báo chí và Truyền thông Webster định nghĩa ngắn gọn, “báo in là ấn phẩm được xuất bản hằng ngày, hằng tuần hoặc theo một định kỳ nhất định, đăng tải tin tức và quảng cáo” [117]. Theo hai nhà nghiên cứu Werner Faulstich và Margarete Rehm, một ấn phẩm được gọi là báo in nếu nó đáp ứng được 4 tiêu chí: (1). Đại chúng: các nội dung của nó phù hợp với công chúng; (2). Định kỳ: được xuất bản theo một quy luật thời gian xác định; (3). Thời sự: thông tin được cập nhật sát với lịch phát hành và (4). Toàn diện: nó đề cập các chủ đề khác nhau. Với lịch sử hình thành, phát triển lâu đời, báo in có những sự đổi thay liên tục cả về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin, để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc, cả về thị hiếu tiếp nhận thông tin cũng như nội dung thông tin cần có. Chắc chắn, báo in sẽ còn có những thay đổi phù hợp với các điều kiện khách quan về sự phát triển kinh tế-xã hội, thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của công chúng ở từng thời điểm khác nhau... Có thể hiểu rằng, báo in là loại hình báo chí truyền thống, xuất hiện đầu tiên trên thế giới, bao gồm báo và tạp chí. Đó là những ấn phẩm được xuất bản định kỳ, bằng các loại chữ viết khác n...ại các cơ sở đào tạo báo chí, mà còn cần thiết cho các nhà báo đang trực tiếp hành nghề, các CQBC. Cũng có ý kiến cho rằng: “Kỹ năng tổ chức TTCĐ được xem là nhóm kỹ năng “bếp núc tòa soạn”, nhóm kỹ năng tổng hợp, thiên về tổ chức thông tin hơn là tác nghiệp. Có thể xây dựng thành lý thuyết để bồi dưỡng cho nhà báo hoặc đưa vào trong nhà trường” [phỏng vấn sâu, trường hợp 1.3, nam, giảng viên, Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh]. Thứ hai, qua giảng dạy, khảo sát 6 lớp báo chí năm thứ tư (các khóa 31 và 32, Học viện Báo chí và Tuyên truyền), và lớp báo chí K34 (văn bằng 2), đa số các sinh viên đều thiếu kiến thức lý luận về TTCĐ, không biết tiếp cận môn học nên lúng túng, thụ động trong học tập. Mặc dù với đặc thù là thiên về các kỹ năng trong tác nghiệp, trong việc tổ chức thực hiện các chuyên đề; nhưng khi có nền tảng lý luận soi chiếu, sinh viên sẽ dễ dàng nhận biết được những yêu cầu chính của việc tổ chức TTCĐ, qua đó có thể tích lũy để không quá bỡ ngỡ khi được giao làm chuyên đề, đặc biệt là nếu vững vàng có thể chủ động tự thực hiện chuyên đề khoa học, đạt hiệu quả tuyên truyền tốt. Ảnh 4.1: Sinh viên năm thứ tư Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền thảo luận về thông tin chuyên đề. Thứ ba, thực tế việc giảng dạy môn “Các chuyên đề báo chí” ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, hiện vẫn chỉ là mời các nhà báo có kinh nghiệm về lĩnh vực nào đó vào nói chuyện về kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình hoạt động thuộc lĩnh vực nào đó. Ví dụ, mời phóng viên theo dõi kinh tế nói chuyện về làm báo kinh tế, kinh nghiệm của phóng viên bằng những ví dụ cụ thể, những bài học và lời khuyên; mời phóng viên chuyên về điều tra nói chuyện về lĩnh vực mà họ được phân công theo dõi, chuyên trách... Đó là các buổi nói chuyện chuyên về một vấn đề, lĩnh vực cụ thể nào đó, chủ yếu là sự nhận diện phóng viên theo dõi ngành, những bài học kinh nghiệm trong quá trình làm báo của các nhà báo, không có sự khái quát, khó áp dụng chung được cho sinh viên sau khi ra trường. “Hiện tại việc giảng dạy về tổ chức các chuyên đề báo chí, dù đã được giảng dạy nhiều năm trong Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhưng nếu so sánh với những nội dung khác thì vẫn cần phải đầu tư nhiều hơn, với chất lượng cao hơn” [phỏng vấn sâu, trường hợp 1.1, nữ, Phó Trưởng khoa, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền]. Giải pháp đưa ra là xây dựng, cơ cấu lại khung chương trình đào tạo môn “Các chuyên đề báo chí”, với việc đưa phần lý thuyết về tổ chức TTCĐ vào giảng dạy, thời lượng khoảng 75% khung chương trình, còn lại là thực hành và mời các nhà báo đến nói chuyện chuyên đề về các lĩnh vực khác nhau, như kinh tế, văn hóa, xã hội, điều tra... 5.4.4. Tăng cường đầu tư nhân lực, vật lực cho việc tổ chức thông tin chuyên đề Từ kết quả khảo sát cũng như thực tế công tác, những nghiên cứu có liên quan, có thể thấy rằng việc tổ chức TTCĐ còn chưa được chú trọng đầu tư cả về nhân lực cũng như vật lực. Và đây là điều cần khắc phục, để có thể cho ra đời những sản phẩm báo chí bảo đảm chất lượng, là “món đặc sản”, thậm chí gắn liền với thương hiệu của CQBC. - Thứ nhất, việc tổ chức TTCĐ đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, trong nhiều bộ phận của một CQBC; nếu nguồn nhân lực không bảo đảm, chắc chắn sẽ có người phải gánh vác thêm công việc của người khác, nên có thể không bảo đảm về chất lượng, hiệu quả đồng thời làm chậm tiến độ, sản phẩm ra đời khi nhu cầu của công chúng đã “giảm nhiệt”. Việc bố trí đủ, đúng nguồn nhân lực chất lượng là khâu quan trọng, quyết định đến chất lượng sản phẩm TTCĐ, nên cần phải được coi trọng và đầu tư hơn nữa, bởi “cứ giao cho người giỏi làm thì sẽ tốt. Người kém làm thì kết quả kém...” [phỏng vấn sâu, trường hợp 2.2, nam, Tổng Biên tập, Báo Đại đoàn kết]. Vì vậy, việc tuyển chọn được những phóng viên viết chuyên đề giỏi, tinh thần trách nhiệm cao, dũng cảm, trung thực là điều rất quan trọng. Bên cạnh đó là có được đội ngũ biên tập viên, họa sĩ trình độ năng lực tốt, thạo việc - Thứ hai, TTCĐ là sản phẩm tập thể, huy động nhiều người tham gia, ở các khâu, những bộ phận khác nhau. Để có được một chuyên đề, từ sự phát hiện ý tưởng, chủ đề, bàn thảo, lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện nội dung, hình thức, đòi hỏi số lượng lớn người tham gia. Vì vậy, nếu không đầu tư đủ cho một dây chuyền sản xuất khép kín, không có sự chỉ đạo, phối hợp nhịp nhàng giữa các “mắt xích”, các khâu trong quá trình sản xuất thì rất khó có được một sản phẩm đạt chất lượng, thực sự là “món đặc sản” cho công chúng. - Thứ ba, vì TTCĐ là sản phẩm tập thể, nên không chỉ việc bố trí những người làm trực tiếp dựa trên năng lực, sở trường, thế mạnh của từng cá nhân, mà cần thiết phải có đội ngũ những người lãnh đạo trực tiếp, sâu sát mọi quá trình để sản phẩm hình thành. Người lãnh đạo giỏi, sâu sát không chỉ định hướng, chỉ đạo mà còn hỗ trợ, quyết đoán trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đầu tư nhân lực, vật lực cho quá trình tiến hành thực hiện TTCĐ, đặc biệt là đối với các vấn đề “gai góc” đòi hỏi sự nhạy bén, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. “Cần đề cao vai trò của người phụ trách trang, hay phụ trách số, họ phải là “nhạc trưởng” có ý tưởng hay, và biết phối hợp với các bộ phận chức năng tổ chức tốt trong quá trình sản xuất nội dung. Mặt khác, “nhạc trưởng” cần phải có cái nhìn tổng thể, dài hơi, song lại rất cụ thể và sâu sát đến cả việc đặt tin, bài, chọn ảnh, làm đồ họa thông tin...” [phỏng vấn sâu, trường hợp 1.2, nam, Phó Giám đốc thường trực, Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Hội Nhà báo Việt Nam]. Có thể khẳng định rằng, con người và kinh phí luôn là hai vấn đề cốt lõi, quyết định của mọi công việc có thể dẫn đến thành công hay thất bại. Vì vậy, lựa chọn được những nhân sự có chất lượng, phù hợp với công việc cùng sự đầu tư thích đáng về vật chất sẽ quyết định tới việc tổ chức TTCĐ thành công hay không, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nội dung, uy tín cũng như vị thế của CQBC trong xã hội. Tiểu kết chương 5 Từ những kết quả nghiên cứu ở các chương trước, trong chương 5, nghiên cứu sinh chỉ rõ XHPT TTCĐ trên báo in sẽ được nhiều CQBC tổ chức thực hiện trong thời gian tới cùng những xu hướng cụ thể về tổ chức nội dung và hình thức của TTCĐ..., nghiên cứu sinh rút ra một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, trên cơ sở những vấn đề đặt ra, kết hợp phân tích thực tiễn ở chương 4, nghiên cứu sinh chỉ rõ xu hướng phát triển TTCĐ là tất yếu trong tương lai, trở thành một trong những “đặc sản” của báo in, ngay cả đối với các tờ báo xuất bản hàng ngày, mỗi khi có sự kiện, vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người. Thứ hai, nghiên cứu sinh dự báo một số xu hướng tổ chức nội dung TTCĐ, đó là: (1). Xây dựng kế hoạch tuyên truyền khoa học, sát hợp; (2). Lựa chọn chủ đề thời sự, phù hợp, đa dạng; (3). Thu hút cộng tác viên chuyên ngành; (4). Tăng cường thông tin phản biện, điều tra; (5). Hạn chế tổ chức chuyên đề dễ dãi, mang tính thương mại Thứ ba, dự báo một số xu hướng tổ chức hình thức TTCĐ, đó là: (1). Tổ chức thông tin theo hướng hiện đại, mô thức thông tin hợp lý; (2). Tổ chức thông tin theo hướng đa dạng, nhiều “cửa sổ”; (3). Linh hoạt trong trình bày; (4). Tăng cường sử dụng ảnh báo chí, thông tin đồ họa. Thứ tư, nghiên cứu sinh đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị để phát triển TTCĐ trên BIVN, đó là: (1). Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý báo chí; (2). Coi thông tin chuyên đề là hạng mục của giải báo chí quốc gia; (3). Cần giảng dạy môn tổ chức thông tin chuyên đề và (4). Tăng cường đầu tư nhân lực, vật lực cho việc tổ chức TTCĐ. Có thể khẳng định rằng, việc nhận định XHPT TTCĐ báo in là tất yếu trong tương lai, chỉ rõ các xu hướng phát triển TTCĐ cụ thể cả về nội dung và hình thức; đồng thời đưa ra các giải pháp, khuyến nghị cụ thể trên cơ cơ sở phân tích những vấn đề đặt ra có thể là cơ sở để các CQBC áp dụng vào thực tiễn của mình, tăng cường chất lượng TTCĐ, tăng thêm “món đặc sản” cho công chúng. Việc phát triển TTCĐ nếu được quan tâm hơn nữa, tổ chức thực hiện một cách khoa học, sát hợp... trong thời gian tới sẽ thu được hiệu quả, tích cực, góp phần tăng uy tín, vị thế của các tòa soạn có ấn phẩm thuộc diện khảo sát nói riêng, các CQBC ở nước ta nói chung, cũng như các cơ sở đào tạo báo chí trong giảng dạy việc tổ chức TTCĐ báo chí. Đây cũng là một trong những lựa chọn quan trọng để BIVN tìm thị trường ngách nhằm phát triển, cùng tồn tại với các loại hình báo chí khác, đặc biệt khi báo in ngày càng gặp bất lợi trong việc chuyển tải thông tin thời sự, cập nhật. KẾT LUẬN Từ khi loại hình báo mạng điện tử ra đời, đặc biệt trong những năm gần đây, khi MXH phát triển bùng nổ, nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật vượt bậc, thường xuyên; báo chí đã có những sự biến động, đổi thay không ngừng nghỉ. Thời đại toàn cầu hóa truyền thông, việc tiếp cận các nguồn thông tin khổng lồrất dễ dàng, đặc biệt với những người biết ngoại ngữ. Vì vậy, các sự kiện lớn xảy ra trên thế giới, trong nước luôn thu hút được sự quan tâm chú ý của đông đảo người dân mọi quốc gia, chứ không chỉ bản thân nước, khu vực xảy ra sự kiện đó. Sức lan tỏa, tác động của sự kiện, vấn đề là vô cùng mạnh mẽ. Trước những tác động như vậy, mỗi loại hình báo chí cũng đều có những sự phát triển mạnh mẽ, biến đổi nhanh chóng. Trong cuộc cạnh tranh thông tin gay gắt hiện nay, không chỉ giữa các CQBC, các loại hình báo chí mà còn với cả MXH, báo chí công dân; mỗi loại hình báo chí đều có những sự chuyển hướng hoạt động, đổi thay để theo kịp thời đại, phục vụ ngày càng tốt nhất yêu cầu của bạn đọc. Và BCTT Việt Nam không nằm ngoài dòng chảy chung của thời đại. Trong bối cảnh của tình hình mới, việc chuyển hướng hoạt động, thay đổi các hình thức truyền thông tới công chúng là bắt buộc, để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng, giữ chân họ và thu hút, phát triển những đối tượng công chúng mới. Chính vì vậy, mỗi loại hình báo chí, CQBC đều luôn cố gắng đầu tư, tìm tòi, đổi mới, sáng tạo... trong hoạt động để vừa thực hiện tốt chức năng, tôn chỉ, mục đích của CQBC, vừa có thể trụ vững trong vòng xoáy cạnh tranh thông tin không chỉ giữa các cơ quan, loại hình báo chí mà còn với cả truyền thông xã hội, báo chí công dân. Với những bất lợi vì tính định kỳ trong xuất bản, báo in không thể chạy đua với các loại hình báo chí khác trong việc “đưa tin”, nên buộc phải khai thác, phát huy những thế mạnh riêng có của mình đó là thông tin chính luận, chuyên sâu, lý giải, phân tích, khách quan, trung thực, tin cậy. Và việc tổ chức TTCĐ là một trong những hướng đi quan trọng, với các loại hình phổ biến là: Trang chuyên đề, loạt bài, nhóm bài chuyên đề và số chuyên đề. Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài, nghiên cứu sinh đã đầu tư nhiều công sức, thời gian để có được cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu, xây dựng được khung lý thuyết về TTCĐ một cách phù hợp, bảo đảm làm nền tảng để khảo sát, đánh giá thực trạng TTCĐ trên BIVN. Với những luận cứ, luận điểm đã nêu trong các chương, luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về TTCĐ trên báo chí nói chung, đặc biệt là trên báo in. Thông qua khảo sát 4 ấn phẩm tổ chức thường xuyên hình thức TTCĐ trong 3 năm là chuyên san Hồ sơ sự kiện (số chuyên đề), Tạp chí Xây dựng Đảng (nhóm bài chuyên đề), Báo Lao động cuối tuần và Báo An ninh thế giới giữa tháng-cuối tháng (trang chuyên đề), nghiên cứu sinh khái quát được những đóng góp của TTCĐ vào công tác thông tin tuyên truyền, cũng như công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Luận án chỉ ra những hạn chế của TTCĐ báo in nói chung và các ấn phẩm thuộc diện khảo sát nói riêng; cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức TTCĐ cùng những khó khăn, thách thức mà các CQBC đã, đang và sẽ phải đối mặt. Có thể khái lược rằng, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ và mới hơn về nhận thức, cách tiếp cận, đánh giá về vai trò của TTCĐ trên báo in nước ta trong điều kiện và yêu cầu mới; góp phần làm phong phú, sinh động hơn về lý luận và thực tiễn của báo in trong bối cảnh cạnh tranh và khó khăn của báo in hiện nay, với các kết quả nghiên cứu định tính và định lượng đáng tin cậy. Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa lý thuyết về TTCĐ trên báo in, khảo sát, đánh giá TTCĐ trên BIVN, luận án là sự tổng hợp lần đầu tiên trong nghiên cứu về tính chất, hiệu quả của phương thức TTCĐ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu về TTCĐ trên BIVN thông qua việc khảo sát các ấn phẩm tiêu biểu cho loại hình TTCĐ theo quy mô tổ chức thông tin, là: trang chuyên đề, nhóm bài chuyên đề và số chuyên đề, cùng việc nghiên cứu lý thuyết khẳng định rõ thế mạnh, hạn chế, XHPT của TTCĐ trên báo in. Trên cơ sở phân tích các cấp độ của TTCĐ, với việc phân tích chuyên sâu, đáp ứng hiểu biết sâu sắc về vấn đề, sự kiện nào đó; luận án khẳng định đây là lợi thế của báo in trong việc phát huy thế mạnh của mình trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo chí khác, và truyền thông xã hội trong tương lai Cụ thể, thông qua nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn, nghiên cứu sinh xây dựng được khung lý thuyết về TTCĐ, nêu những vấn đề liên quan trực tiếp đến tổ chức TTCĐ, cũng như xu hướng phát triển TTCĐ trên BIVN. Nghiên cứu sinh đã: (1). Làm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến XHPT TTCĐ trên báo in; nêu bật được một số vai trò của TTCĐ trên báo in, với những thế mạnh của sự phân tích, lý giải, bình luận chuyên sâu, nêu bật bản chất vấn đề; (2). Chỉ ra những đặc điểm của TTCĐ về nội dung và hình thức một cách cụ thể, rõ ràng, sát hợp; (3). Xây dựng tiêu chí để phân loại TTCĐ dựa trên các cơ sở khoa học khác nhau, phù hợp với các loại hình báo chí, hình thức tổ chức nội dung TTCĐ cụ thể; (4). Đề ra những yêu cầu cụ thể đối với việc tổ chức TTCĐ báo in về nội dung thông tin và hình thức trình bày, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu, khảo sát; (5). Chỉ ra thực trạng, phân tích, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của việc tổ chức TTCĐ trên báo in Việt Nam thông qua các ấn phẩm thuộc phạm vi khảo sát, phù hợp với khung lý thuyết đã xây dựng; (6). Đưa ra các giải pháp và khuyến nghị khoa học nhằm góp phần giúp những người tổ chức thực hiện TTCĐ ở các CQBC có những điều chỉnh kịp thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của việc tổ chức TTCĐ; (7). Nhận diện, đưa ra dự báo xu hướng phát triển của TTCĐ trên BIVN trong thời gian tới, cả về nội dung và hình thức; (8). Đề xuất, khuyến nghị đưa vào giảng dạy việc tổ chức TTCĐ tại các cơ sở đào tạo báo chí, coi trọng môn này ngang bằng với các thể loại báo chí khác, như: tin, bài phản ánh, phỏng vấn, phóng sự... cũng như việc nên dành cho TTCĐ một hạng mục xứng đáng trong giải báo chí quốc gia hằng năm Với sự tâm huyết và trách nhiệm cao, tác giả luận án đã lao động thực sự nghiêm túc, cầu thị để hoàn thành công trình nghiên cứu đúng tiến độ. Luận án hoàn thành giúp nghiên cứu sinh có được những vấn đề lý luận cơ bản về TTCĐ, đặc biệt là TTCĐ trên báo in, nhận biết xu hướng phát triển TTCĐ trên BIVN cũng như những xu hướng cụ thể về nội dung và hình thức của TTCĐ. Luận án là cơ sở để nghiên cứu sinh có thể tập trung vào các nghiên cứu tiếp theo liên quan đến TTCĐ trên báo in, đặc biệt là về việc nâng cao chất lượng TTCĐ nói chung, từng loại hình TTCĐ theo quy mô tổ chức thông tin, theo các cách phân chia khác nhau; cũng như có thể tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến báo chí chuyên biệt, đặc biệt là đối với báo in. Tuy nhiên, do trình độ của tác giả còn hạn chế, thời gian đầu tư không được tập trung tối đa, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều; luận án chắc chắn không tránh khỏi còn có những thiếu sót, sơ suất cần khắc phục. Là người có 20 năm thực tiễn làm báo, trải qua ba CQBC khác nhau, đều có tổ chức hình thức TTCĐ, là người trực tiếp thực hiện các chuyên đề, hiện nay chịu trách nhiệm tổ chức nội dung, hình thức ấn phẩm Hồ sơ sự kiện; tác giả xác định việc phát triển hơn nữa chất lượng TTCĐ là không dễ dàng, nhưng chắc chắn sẽ được quan tâm hơn nữa trong tương lai, bởi báo in buộc phải tạo ra những “đặc sản”, thế mạnh riêng có để níu giữ bạn đọc truyền thống, thu hút những bạn đọc tiềm năng. Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để nghiên cứu sinh chỉnh sửa, hoàn thiện luận án; đồng thời rút ra được những kinh nghiệm quý báu, bổ ích cho bản thân trên con đường nghiên cứu khoa học, cũng như trong công việc làm báo, tham gia giảng dạy sau này. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 6-2016 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Hoàng Anh (2003); Một số vấn đề về sử dụng ngôn ngữ trên báo chí; Nxb Lao Động, Hà Nội. Ban Chấp hành Trung ương (2007); Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về công tác tư tưởng, lý luận về báo chí trước yêu cầu mới. Lê Thanh Bình (2006); Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Chính trị (2004); Thông báo 162-TB/TW, Kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay. Bộ Chính trị (2015); Đề án “Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025”. Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Văn Dững (đồng tác giả) (2005); Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Chính phủ (2005); Đề án “Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”. Hoàng Đình Cúc (2007); Những vấn đề báo chí hiện đại; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Dọc đường tác nghiệp (2006); Nxb Thông tấn, Hà Nội. Đức Dũng (2005); Phóng sự báo chí hiện đại; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006); Tác phẩm báo chí; Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Nguyễn Văn Dững (2010); Báo chí truyền thông hiện đại – Từ hàn lâm đến đời thường; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. Nguyễn Văn Dững (2011); Báo chí và dư luận xã hội; Nxb. Lao động, Hà Nội. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) – Đỗ Thị Thu Hằng (2012); Truyền thông - lý thuyết và kỹ năng cơ bản;Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Dững (2013); Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động; Hà Nội. Hà Đăng (chủ biên) (2002); Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng viên báo chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997); Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Minh Đức (2000); Cơ sở lý luận báo chí – Đặc tính chung và phong cách; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thị Trường Giang (2011); Báo mạng điện tử - những vấn đề cơ bản; Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Nguyễn Thị Trường Giang (2014); 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Hải (2013); Xây dựng tập đoàn truyền thông – giải pháp chiến lược trong phát triển nền báo chí Việt Nam; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Vũ Quang Hào (2001, 2004); Ngôn ngữ báo chí; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Vũ Quang Hào (2012); Ngôn ngữ báo chí; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Đỗ Thị Thu Hằng (2010); PR - công cụ phát triển báo chí; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Đỗ Thị Thu Hằng (2013); Giáo trình Tâm lý học báo chí; Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đỗ Thị Thu Hằng (2013); Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Đinh Thị Thúy Hằng (2008); Báo chí thế giới – xu hướng phát triển; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Trần Dzĩ Hạ (2014); Thuật làm báo; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Đức Hiển (2015); Nhà báo điều tra; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Quang Hòa (2015); Biên tập báo chí; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Nguyễn Quang Hòa (2015); Phóng sự báo chí – Lý thuyết, kỹ năng và kinh nghiệm; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Nguyễn Ánh Hồng (2015); Viết và biên tập cho báo online; Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đinh Văn Hường (2007); Tổ chức và hoạt động của toà soạn; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đinh Văn Hường – Bùi Chí Trung (2015); Một số vấn đề về kinh tế báo in; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Công Khanh (2013); Những gì chưa dạy ở trường báo chí, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. Phan Văn Kiền (2012); Phản biện xã hội của tác phẩm báo chí Việt Nam qua một số sự kiện nổi bật; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Nguyễn Thế Kỷ (2013); Báo chí dưới góc nhìn thực tiễn; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Hồ Quang Lợi (2015); Thế sự và mắt nhìn, Nxb Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Thành Lợi (2014); Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Đỗ Chí Nghĩa (2011); Lý lẽ từ cuộc sống; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Đỗ Chí Nghĩa (2014); Nhà báo và sáng tạo báo chí trong tư tưởng Hồ Chí Minh; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Lê Thị Nhã (2010); Lao động nhà báo – lý thuyết và kỹ năng cơ bản; Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Huỳnh Dũng Nhân (2007); Phóng sự - từ giảng đường đến trang viết; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Huỳnh Dũng Nhân (2012); Để viết phóng sự thành công; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Nguyễn Trí Nhiệm, Nguyễn Thị Trường Giang (2014); Báo mạng điện tử - đặc trưng và phương pháp sáng tạo; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Quang Nhiếp (2002); Định hướng hoạt động và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Oanh (2014); Chính luận truyền hình – lý thuyết và kỹ năng sáng tạo tác phẩm; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Trần Thế Phiệt (1995); Tác phẩm báo chí, Tập III; Nxb Giáo dục; Hà Nội. Hà Huy Phượng (2006); Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in; Nxb Lý luận chính trị; Hà Nội. Trần Hữu Quang (2006); Xã hội học báo chí; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Quang (2000); Các thể loại chính luận báo chí; NXb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999); Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999); Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Sơn, Nguyễn Thành Lợi (2014); Thông tấn báo chí – Lý thuyết và kỹ năng; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Dương Xuân Sơn (2014); Các loại hình báo chí truyền thông; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004); Cơ sở lý luận báo chí truyền thông; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đỗ Đình Tấn (2014); Một nền báo chí phẳng; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạ Ngọc Tấn (2001); Truyền thông đại chúng; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2005); Cơ sở lý luận báo chí; Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Nguyễn Thị Thoa (chủ biên) (2011); Giáo trình tác phẩm báo chí đại cương; Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. Hữu Thọ (2002); Công việc của người viết báo; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hữu Thọ (2005); Bình luận báo chí thời kỳ đổi mới: Một số vấn đề công tác tư tưởng - văn hoá; Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Vũ Tiến (2000); Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngọc Trân (2014); Khám phá nghề biên tập; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngọc Trân (2015);“Thuật viết lách từ A đến Z”; Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thị Trâm (chủ biên) (2008); Phát huy những ưu thế của văn học trong sáng tạo tác phẩm báo chí; Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (2010); Từ điển tiếng Việt; Nxb từ điển Bách Khoa, Hà Nội. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2007); Đại từ điển Tiếng Việt; Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Mats Wikman và Phạm Thị Thúy Hằng (2010); Những trang báo đẹp – cẩm nang dành cho các nhà thiết kế; Tài liệu của dự án “Đào tạo nâng cao báo chí Việt Nam” giữa Việt Nam và Thụy Điển. Tiếng nước ngoài (đã dịch sang tiếng Việt) Sally Adams, Wynford Hicks;Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo(2007), Nxb Thông tấn, Hà Nội. Pierre Albert (2003); Lịch sử báo chí; Nxb Thế giới, Hà Nội. Frank Bass (2007); Hướng dẫn tìm kiếm trên Internet và viết báo của hãng thông tấn AP; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Kipp Bodnar, Jeffrey L. Cohen (2013); Cẩm nang truyền thông xã hội B2B; Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Philippe Breton, Serge Proulx (1996); Bùng nổ truyền thông: Sự ra đời một ý thức hệ mới; Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. A.A. Chertưchơnưi (2005); Các thể loại báo chí; Nxb Thông tấn, Hà Nội. A.A. Chertưchơnưi (2005); Báo chí điều tra; Nxb Thông tấn, Hà Nội. G.V, Cudơnhetxốp, X.L. Xvích, A.Ia. Iurốpxki (2005); Báo chí truyền hình (tập 1,2); Nxb Thông tấn, Hà Nội. Peter Eng - Jeff Hodson (2007); Tường thuật và viết tin - sổ tay những điều cơ bản; Nxb Thông tấn, Hà Nội. William Essex (2009); Để báo giới trích dẫn lời bạn; Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội. Carmilla Floyd (2009); Tổ chức tòa soạn đa phương tiện; sách do Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thuỵ Điển tại Việt Nam xuất bản. Thomas L. Friedman (2007); Thế giới phẳng, tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Philippe Gaillard (2003); Nghề làm báo; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Howard Gardner (2012); Năm tư duy cho tương lai; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Grabennhicop (2003); Báo chí trong kinh tế thị trường; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Jacques Locquin, Truyền thông đại chúng: Từ thông tin đến quảng cáo (2003), Nxb Thông tấn, Hà Nội. The Missouri Group (Đại học Missouri) (2014); Nhà báo hiện đại; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Jane T. Harrigan và Karen Brown Dunlap (2011); Con mắt biên tập; Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Jack Hart (2007); Huấn luyện viên của người viết báo; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Sally Adams. Wynford Hicks (2007); Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo; Nxb Thông tấn, Hà Nội. G.V. Lazutina (2003); Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Maria Lukina (2005); Công nghệ phỏng vấn; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Claudia Mast (2003); Truyền thông đại chúng, những kiến thức cơ bản; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Claudia Mast (2003); Truyền thông đại chúng, công tác biên tập; Nxb Thông tấn, Hà Nội. X.A.Mikhailốp (2004); Báo chí hiện đại nước ngoài: Những quy tắc và nghịch lý; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Tom Plate (2010); Lời tự thú của một nhà báo Mỹ; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. E.P. Prôkhôrôp (2005); Cơ sở lý luận của báo chí (tập 1,2); Nxb Thông tấn, Hà Nội. Line Ross (2004); Nghệ thuật thông tin; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Fred S. Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm (2013); Bốn học thuyết truyền thông; Nxb Tri thức, Hà Nội. Mitchell Stephens (2015); Hơn cả tin tức – tương lai của báo chí; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Leonard Ray Teel (2004); Bước vào nghề báo; Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. V.V. Vôrôsilốp (2004); Nghiệp vụ báo chí: Lý luận và thực tiễn; Nxb Thông tấn, Hà Nội. V.V.Xmirnốp (2005); Các thể loại báo chí phát thanh; Nxb Thông tấn, Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh Tom Altstiel, Jean Grow; Advertising Creative strategy, copy and design (2013); SAGE Publications, Inc, London. Shirley Biagi (2004); Media impact: An Introduction to Mass Media; Wadsworth Publishing Company, USA. Brian S. Brooks, George Kennedy, Daryl R. Moen, Don Ranly (2007); News Reporting and Writing; Missouri Group, Columbia, USA. Donald L. Ferguson (2005); Journalism Today; Glencoe/Mcgraw-Hill; 7 Tch edition (June 2005). Bob Franklin, Martin Hamer, Mark Hanna, Marie Kinsey, John E. Richardson (2005); Key Concepts in Journalism Studies; SAGE Publications. Chris Frost (2007), Journalism Ethics and Regulation, Pearson Education Limited. Bruce Garrison (2004), Professional Feature Writing, Lawrence Erlbaum Associates. Tony Harcup (2008), Journalism – Principles and Practice, SAGE Publications. Brendan Hennessy (2006), Writing Feature Articles, Focal Press. Ellen Lupton (2011); Graphic Design Thinking: Beyond Brainstorming; Princeton Architectural Press, New York. Maxwell McCombs, Donald Shaw (2009); The Handbook of Journalism Studies; Routledge. Sendhil Mullainathan, Andrei Shleifer (2004), Market for News, Havard University. Christopher H. Sterling (2009);Encyclopedia of American Journalism; Routledge. Joseph Turow (2009); Media Today; Routledge. Richard Weiner (1990), Dictionary of Media and Communications, Webster’s New World. Website https://vi.wikipedia.org/wiki https://businessjournalism.org DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Nguyễn Tri Thức (2012), Thông tin chuyên đề - hướng đi mới của báo in, Tạp chí Lý luận Chính trị & Truyền thông, số tháng 6-2012, tr.51-54 2. Nhóm tác giả (2012), Nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại trên các ấn phẩm của Tạp chí Cộng sản trong điều kiện mới, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng. 3. Nguyễn Tri Thức (2013), Tăng cường đào tạo theo hình thức “Cầm tay chỉ việc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, tháng 4-2013, tr.165-170. 4. Nhóm tác giả (2013), Đạo đức nghề nghiệp trong thể loại điều tra: Một số vấn đề đáng bàn, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, tr.265-271. 5. Nguyễn Tri Thức (2015), Thông tin chuyên đề - “đặc sản” của báo Tết, Tạp chí Người làm báo, số 80-81 (371-372) – tháng 1&2.2015, tr. 64-66. 6. Tri Thức (2015), Thông tin chuyên đề - “xưa” và nay, Hồ sơ sự kiện (Tạp chí Cộng sản), số 304 (10-6-2015), tr. 6-7. 7. Tri Thức (2015), Những hạn chế và mặt trái, Hồ sơ sự kiện (Tạp chí Cộng sản), số 304 (10-6-2015), tr.10-11. 8. Nguyễn Tri Thức (2015), Thế mạnh, và cũng là hạn chế, Hồ sơ sự kiện (Tạp chí Cộng sản), số 304 (10-6-2015), tr.19-20. 9. Nguyễn Tri Thức (2015), Thông tin chuyên đề trên chuyên san Hồ sơ sự kiện: Thực trạng và một số giải pháp, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, ngày 17-7-2015, tr.197-204. 10. Nguyễn Tri Thức (2015), Vai trò của báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 11-8-2015. 11. Nhóm tác giả (2015), Tác phẩm báo chí điều tra – tuyển chọn và phân tích, Nxb Lao Động. 12. Nhóm tác giả (2015), Phát huy vai trò của báo chí Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng. 13. Nguyễn Tri Thức (2015) Thông tin chuyên đề - thế mạnh, hạn chế và mặt trái, Tạp chí Người làm báo, số 91 (382) – tháng 12-2015, tr.62-63. 14. Nguyễn Tri Thức (2016), Loạt bài chuyên đề - sức nặng của “những cú đấm”, Tạp chí Lý luận Chính trị & Truyền thông, số tháng 5-2016, tr.43-46

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxluan_an_xu_huong_phat_trien_thong_tin_chuyen_de_tren_bao_in.docx
Tài liệu liên quan