Lý luận hình thái kinh tế - Xã hội đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam

Đặt vấn đề Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều nấc thang phát triển không ngừng đi lên tự hoàn thiện trong đó CNH- HĐH là những chặng đường không thể thiếu được đối với quá trình đi lên cuả mỗi quốc gia nhằm vươn tới sự hùng mạnh. Ngày nay hoà nhập với xu thế quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ mỗi quốc gia đều phải tự vận động để vừa tạo dựng được một chỗ vững vàng cho mình vừa bắt kịp với trình độ chung của nhân loại. Đặc biệt đối với mỗi quốc gia đang phát triển thì việc thực hiện CNH- HĐH là

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1807 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý luận hình thái kinh tế - Xã hội đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yêu cầu bức thiết cần phải thực hiện ngay để nhanh chóng phát triển kinh tế nâng cao đời sống xã hội. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển kinh tế nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong khu vực sản xuất tổng thu nhập quốc dân so với các nước còn ở mức tương đối thấp với GDP bình quân là hơn 300USD/người/năm. Tuy một số thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ chí Minh đã trở thành trung tâm công nghiệp của bán đảo đông dương, nhưng nhìn chung hoàn cảnh kinh tế xã hội còn chậm phát triển, nhất là các vùng nông thôn và miền núi. Nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát huy được các thế mạnh của mình để phát triển xứng với tiềm năng vẫn có bản chất của CNH- HĐH là đưa công nghiệp kĩ thuật hiện đại vào phục vụ sản xuất vào đời sống thúc đẩy nền kinh tế phát triển và nâng cao đời sống xã hội. Như vậy thực hiện CNH- HĐH là một nấc thang tất yếu và đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 như đại hội Đảng gần đây nhất đã nhất mạnh. Sau khi đất nước hoà bình thống nhất đi lên CNXH Nhà nước ta đã nhanh chóng thực hiện chính sách kinh tế xã hội . Điều này được thực hiện rõ trong văn kiện đại hội IV,V, VI của Đảng.ở văn kiện đại hội V, VI chỉ rõ tập trung sức phát triển nông nghiệp coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa Nhà nước tiến bước lên sản xuất lớn chủ trương đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình công nghiệp đưa nước ta lên CNXH. Quá trình CNH- HĐH ở nước ta không những chỉ thực hiện nội dung của cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ nhất chuyển lao động thủ công năng suất thấp sang lao động sử dụng máy móc có năng suất cao mà còn phải ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Vì vậy văn kiện đại hội Đảng lần thứ 7 đã đưa cụm từ CNH- HĐH . Đến đại hội VII và VIII thì đường lối CNH- HĐH đã được vạch ra cụ thể. Đẩy mạnh CNH- HĐH xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa đất nước ta thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh nền kinh tế theo hướng CNXH . Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với ổn định xã hội phát triển văn hoá tăng cường quốc phòng an ninh. Đặc trưng nổi bật của quá trình CNH- HĐH ở nước ta hiện nay đang diễn ra trong điều kiện mở rộng nền kinh tế thị trường. Những vấn đề lý luận về CNH- HĐH đã và đang được nghiên cứu rất nhiều, so với người dân Việt Nam thì đây là vấn đề khá mới mẻ và thuật ngữ CNH- HĐH phần nhiều vẫn còn là lí luận chứ chưa đi sâu vào thực tế đời sống. Vì vậy cần phải làm thế nào để người dân có thể hiểu rõ bản chất của CNH- HĐH và đi sâu vào thực tế đời sống. Với mong muốn tìm hiểu sâu vào CNH- HĐH và đóng góp một số ý kiến của mình vào lý luận chung vào hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam. Tôi xin chọn đề tài “Lý luận hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam”. Bởi thời gian ngắn để hoàn thành đề tài và lượng kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những sai sót mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nội dung. I. Tính tất yếu của qúa trình CNH- HĐH ở Việt Nam. Ngày nay CNH- HĐH đang là xu thế chung và tất yếu đối với các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Đối với các nước đang phát triển hiện đại hoá gắn chặt với quá trình công nghiệp hoá đất nước. Đó là quá trình làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội… Nước ta thuộc loại nhóm nước đang phát triển . Do đó để thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, chúng ta không còn con đường nào khác là phải CNH- HĐH đất nước. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định: “ Đây là nhiệm vụ trọng tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong giai đọan tới” (Đỗ Mười - Báo nhân dân 1/12/1998). Như vậy chúng ta khẳng định rằng CNH- HĐH nhằm thực hiện mục tiêu: “ Biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại tiên tiến cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh” (Thông báo hội nghị lần thứ 9- BCHTW Đảng khoá VII). Như vậy tạo ra một sự chuyển đổi căn bản toàn diện các hợp đồng sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động gắn với công nghệ, phương tiện và giải pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kĩ thuật, tạo ra năng suất, lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao và bền vững. Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế cuộc sống hiện tại chúng ta có thể khẳng định rằng nếu có một hệ thống các quan điểm triết học đúng đắn làm cơ sở thì bản thân sự nghiệp CNH- HĐH sẽ được tiến hành một cách vững chắc, ổn định hơn. Bởi vậy việc nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế xã hội sẽ giúp chúng ta định hình được thế giới quan và phương pháp luận của nó. 1. Hình thái kinh tế xã hội một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hình thái kinh tế xã hội một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, để chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định và một kiểu quan hệ đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. 2. Phương thức sản xuất. 2.1 Lực lượng sản xuất với quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam. 2.1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất . 2.1.2 Lực lượng sản xuất với quá trình CNH- HĐH vai trò và thực trạng. a. Con người yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất . Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu của CNH- HĐH đã được đào tạo đáng kể và có nhiều tiềm năng lớn để phát triển . Ngày nay hơn lúc nào hết, sẽ không có bất cứ một sự tiến bộ phát triển nào nếu không phát huy được nhân tố con người. Tại đại hội toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII Đảng ta đã khẳng định: “ Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực văn hoá, xã hội là chăm sóc và bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu cách mạng” (1-1994). Vì vậy làm thế nào phát huy tốt nhân tố con người để phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đang là nhiệm vụ cấp bách, điều đó phải được nghiên cứu một cách cơ bản có hệ thống. Mác là người đầu tiên phát hiện ra quy luật lịch sử của loài người nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn, là trước hết con người phải ăn, uống mặc ở, trước khi lo đến trính trị nghệ thuật khoa học. Nhưng muốn có cái để ăn, mặc ở con người phải lao động . Tuy nhiên lao động của con người không thể tuỳ tiện, mà phải có cách thức lao động , đó là phương thức sản xuất . Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định khi phân tích về lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản, C.Mác viết: “ Trong tất cả các lực lượng sản xuất , lực lượng sản xuất lớn mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” ( Mác - ăngghen tuyển tập- tập I, NXB sự thật, Hà Nội , 1980 trang 410). Như vậy Mác đã khẳng định con người có vai trò to lớn nhất, quyết định trong lực lượng sản xuất . Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ vai trò quyềt định là nhân tố con người trong công cuộc xây dựng đất nước , chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “ Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN”. Trong quá trình sản xuất , bản thân con người đối diện với thực tế của tự nhiên với tư cách là một đại diện của tự nhiên. “Để chiếm được các thực thể tự nhiên với một hình thái có lợi cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên của bản thân họ tay, chân, và đầu. Trong khi tác động vào tự nhiên con người cũng thay đổi chính bản thân mình”(Các Mác- F. Enghen Tuyển tập, NXB sự thật Hà Nội 1982). Lao động chính là sự kết hợp biện chứng giữa phần vật thể và phần trí tuệ của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người dùng trí tuệ nhận thức bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng làm phương tiện sản xuất và con người không ngừng tạo cho mình lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, tinh vi. Trong lực lượng sản xuất công cụ lao động có một vai trò quan trọng là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Công cụ lao động yếu tố được coi là động của LLSX, chẳng qua cũng chỉ là phần tự nhiên được trí tuệ hoá. Con người không chỉ quyết định sự ra đời của công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành của chúng. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ điện tử đã làm nên những sự tích kì diệu, tạo ra những bước nhảy vọt đột biến trong tất cả các lĩnh vực của xã hội . Tuy vậy khoa học chẳng bao giờ là yếu tố độc lập nó cũng chỉ là sản phẩm của con người, gắn vào và phục vụ con người. Đối với nước ta, một nước vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Vì vậy, CNH- HĐH theo định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh không chỉ là con đường tất yếu mà còn là một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. b. Phát triển LLXS tạo đà đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Những thành tựu của hơn 10 năm đổi mới đã tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để đất nước ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới giai đoạn đẩy mạnh CNH- HĐH . Có thể nói , những thành quả của lực lượng sản xuất đã tạo đà cho sự nghiệp tăng trưởng kinh tế của nước ta đạt tới trình độ cao hơn. Do nước ta quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển đi lên TBCN từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển điều đó buộc chúng ta phải lựa chọn con đường quá độ gián tiếp. Thực tế yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu nhiều mô hình, phương thức và bước đi của các nền kinh tế đã phát triển và cả những nền kinh tế đang phát triển . Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng cơ sở vật chất của CNXH phải là nền đại công nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất một cách vô hạn. Ngày nay tuy quan niệm về đại công nghiệp đã có những thay đổi đáng kể những tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của cơ sở vật chất kĩ thuật đối với sự nghiệp xây dựng CNXH vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng CNH- HĐH xem đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp: “ LLXS lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn là lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội -1996). Với mỗi bước phát triển của cơ sở vật chất kĩ thuật, sự phân công lao động sự hợp tác trong sản xuất và quản lý sản xuất. Cùng với điều đó, việc nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cho người lao động lại tạo tiền đề cho việc sử dụng vật chất kĩ thuật hiện có đạt hiệu quả cao hơn. Quan hệ khách quan hữu cơ ấy đòi hỏi chúng ta phải chú ý hơn nữa đến những bước đi ban đầu của sự phát triển LLXS, yếu tố tạo đà để đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH đất nước. 2.2 Quan hệ sản xuất với quá trình CNH- HĐH. 2.2.1 Khái niệm quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ cơ bản giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. 2.2.2 Xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Kết quả của hơn 10 năm đổi mới không chỉ đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội không chỉ làm cho con đường đi lên CNXH ngày càng rõ nét hơn, lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ đất nước cũng được nâng lên mà còn tạo ra thế và lực đưa đất nước ta chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Với tư cách là người sáng lập ra kinh tế chính trị Mác xít Các Mác và F. Enghen khi bàn về vấn đề sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung đã đi đến khẳng định mọi sự phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của LLXS quyết định. Chúng ta không chủ trương xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất bất kì và trừu tượng mà lấy xây dựng một quan hệ sản xuất mới phát triển theo định hướng XHCN, mà con đường đi lên của nó ngày một rõ nét. Lịch sử và kinh nghiệm chuyển đổi nền kinh tế nhiều nước cho thấy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa việc quản lý vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối có liên quan đến sự chuyển hoá giữa trục sở hữu và trục quyền lợi, liên quan đến sự sống còn của thể chế chính trị. Bởi vậy việc nắm vững định hướng XHCN khi xây dựng quan hệ sản xuất mới thích ứng trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH là rất cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng. Kết cấu của quan hệ sản xuất cần được cải thiện ở 3 mặt quan hệ cơ bản. Quan hệ sở hữu đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định đến các quan hệ khác của quan hệ sản xuất . Quan hệ về tổ chức quản lý quan hệ sản xuất có quan hệ sở hữu về TLSX quyết định và cùng với quan hệ phân phối sản phẩm nếu biết kết hợp và sử dụng hợp lý sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố và hoàn thiện QHSX. Ngược lại nó có thể làm biến dạng QHSX, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội . Bởi lẽ quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ hiệu quả của nền kinh tế . Quan hệ phân phối phụ thuộc vào 2 quan hệ trên nhưng thông qua đó nó trở thành chất xúc tác quan trọng đặc biệt đối với sự tăng trưởng kinh tế . Ba mặt củan QHSX nói trên là một thể thống nhất hữu cơ nên việc phát triển QHSX luôn phát huy tính đồng bộ của chúng. 2.3 Xây dựng QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Với tư cách là người sáng lập ra kinh tế chính trị Mac xít Các Mác và F. Ang ghen khi bàn về vấn đề sở hữu nói riêng và QHSX nói chung đã đi đến khẳng định mọi sự biến đổi và phát triển của QHSX do tính chất và trình độ phát triển của LLXS quyết định. Nói khác đi, việc xây dựng QHSX mới tất yếu chịu sự chi phối của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLXS mà sự phù hợp này với tư cách là động lực của tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Sự phù hợp này không ở trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động mà đó cũng là sự quá độ của mỗi mặt trong 2 mặt LLXS và QHSX. Bởi vậy cần phải xem xét sự phù hợp giữa LLXS và QHSX trong sự gắn bó với yêu cầu đẩy mạnh CNH- HĐH và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN trong thời kì mới ở nước ta, đồng thời vừa phát triển LLXS vừa từng bước xây dựng QHSX mới. Trong quá trình xây dựng QHSX mới, sự phát triển của LLXS luôn đi trước một bước và có vai trò quyết định. Song QHSX không chỉ đơn thuần là sự phản ảnh mà có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của LLXS. Hiện nay chúng ta hiểu rằng CNH chính là yếu tố quyết định có khả năng làm thay đổi tận gốc tình trạng nghèo nàn lạc hậu của đất nước ta hiện nay. CNH sẽ tạo cơ sở cho sản xuất tạo ra hình thức sản xuất tập trung để phát triển kinh tế tạo việc làm cho người lao động nâng cao trình độ học vấn trình độ khoa học kĩ thuật của người dân sẽ được thay đổi về chất, năng suất lao động nhờ đó sẽ được tăng lên. Nếu chúng ta chủ động xây dựng QHSX phù hợp với sự phát triển mới của LLXS thì sản xuất sẽ tiếp tục phát triển tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng đời sống cua xã hội . Thực tiễn trong thời gian qua ở nước ta cho thấy chỉ riêng sự thay đổi quyền sở hữu từ một hình thức sang nhiều hình thức hoặc thừa nhận các quyền định đoạt sử dụng chuyển nhượng và thừa kế đối với nông dân về ruộng đất cũng đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng LLXS một trong những nguyên nhân chủ yếu có tính bước ngoặt để nước ta có thể trụ vững, vươn lên vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội. Sự phát triển của một nền kinh tế không chỉ bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu trúc của LLSX mà còn bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu trúc của hệ thống QHSX mà sự phù hợp giữa chúng là động lực. Bởi vậy giữ vững tính hệ thống và tính đồng bộ trong việc xây dựng QHSX có ý nghĩa rất quan trọng. Cần nhấn mạnh rằng trong thời đại ngày nay, việc phát triển LLXS (thông qua đẩy mạnh CNH- HĐH) và xây dựng QHSX mới tương ứng không thể thực hiện được theo con đường phát triển tuần tự giống như các nước di trước. Có thể cần phải phát triển theo con đường rút ngắn hiện tại, rút ngắn đáng kể về mặt thời gian- mà điều kiện lịch sử trong nước và trên thế giới cho phép. Bằng cách đó sẽ tránh được tư duy và thói làm ăn nôn nóng, thiếu khoa học khép kín, thụ động. Từ đó xây dựng ý chí tự lực tự cường , tự lực chủ động sáng tạo trong suy nghĩ, cách làm trên cơ sở nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức và nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại và XHCN. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLXS là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của quy luật này mà hiểu xã hội là sự phát triển kế tiếp từ thấp tới cao của các phương thức sản xuất . Trước đây do sự chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật này cộng với tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý chí chúng ta đã đẩy mạnh QHSX đi quá xa so với trình độ và tính chất của LLXS phổ biến còn lạc hậu mà chưa chú ý tới các mặt của QHSX. Do đó từ đại hội thứ VI Đảng ta đã xây dựng và quán triệt chủ trương đổi mới tức là nhận thức và vận dụng đúng quy luật này trong điều kiện cụ thể. 2.4 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Xem xét mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cần phải tìm hiểu về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta. Về cơ sở hạ tầng bao gồm các thành phần kinh tế các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Mỗi thành phần kinh tế đều vận hành theo những quy luật riêng của mình. Do đó, có thể đảm bảo định hướng XHCN đối với tất cả các thành phần kinh tế Nhà nước phải sử dụng các biện pháp tổng hợp, tạo mọi điều kiện để chúng phát huy hết tác dụng một cách tốt nhất vai trò của chúng. Về kinh tế thị trường XHCN Đảng ta trong văn kiện đại hội VII khẳng định lấy chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động xây dựng một chế độ xã hội không có áp bức bất công, đảm bảo để người dân lao động thực sự làm chủ xã hội có đủ điều kiện để phát huy đủ khả năng sáng tạo của mình vào công cuộc xây dựng chế độ mới chế độ do dân vì dân. Xây dựng hệ thống chính trị mang bản chất công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tập hợp các tổ chức các lực lượng xã hội vào hệ thống chính trị XHCN nhằm phối hợp hành động, tạo điều kiện sức mạnh tổng hợp. Tiến hành CNH- HĐH đất nước theo định hướng XHCN hiện nay liên quan đến cả kinh tế thị trường, cả cơ sở hạ tầng cả quan hệ sản xuất và LLXS. Cơ sở hạ tầng quyết định kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng và quan hệ sản xuất XHCN đang dần được thiết lập xây dựng gĩư vai trò thống trị, kinh tế thị trường với quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam XHCN của dân do dân và vì dân. Đến lượt nó kinh tế thị trường không chỉ củng cố duy trì, phát triển bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà còn tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế thị trường với vai trò của nó không giảm đi mà ngược lại tăng lên và có tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới chính mục đích đó quy định tính tích cực ngày càng tăng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bản chất của kinh tế thị trường chính là bản chất của kinh tế chính trị. Kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có vai trò tác động mạnh mẽ trở lại. Thực tế cho thấy thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị không chỉ là mục đích mà còn là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế . F. Anghen đã chỉ rõ để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, Lênin viết: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò chính trị đối với nền kinh tế . Như vậy, chính trị kinh tế không thể tách rời nhau mà được xem xét, giải quyết đồng thời. Như vậy phải kết hợp hài hoà đồng bộ và toàn diện đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong công cuộc CNH- HĐH ở nước ta hiện nay. Tại đại hội đại biểu lần thứ VII (tháng 6/1991) Đảng ta đã khẳng định: “ Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế , đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống việc làm, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội coi đó là điều quan trọng để tiến hành thuận lợi trong đổi mới chính trị”. Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế , chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện dân chủ. Tư tưởng trên được tiếp tục phát triển và thực hiện rõ ràng hơn tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII(6/1996). Đảng ta đã khẳng định: “ Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu từ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là một cách khái quát mới và hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lí luận chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phù hợp với công cuộc đổi mới thực tiễn CNH- HĐH ở nước ta hiện nay. Khẳng định một lần nữa quá trình xây dựng CNH- HĐH đất nước nhất thiết phải kết hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị một cách hiệu quả. Kinh tế thị trường là một bộ phận hình thái của kinh tế xã hội. Việc phát triển kinh tế thị trường XHCN ở nước ta hiện nay là một vấn đề bức thiết, tuy vậy quá trình đó gặp không ít những khó khăn. Kinh tế thị trường hình thành và phát triển xuất phát từ cơ sở hạ tầng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn yếu kém khách quan mà nói quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và kinh tế thị trường đặt trách nhiệm lớn lao, yêu cầu kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước, cần tận dụng khai thác sáng tạo mọi khả năng hiện có về tự nhiên, con người… đồng thời phải tranh thủ mọi nguồn lợi có được trong quan hệ với nước ngoài. Bên cạnh đó nhân tố trực tiếp quan trọng nhất vẫn là sức mạnh của toàn dân. II. Vai trò của CNH- HĐH đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. 1. CNH- HĐH con đường của các nước đang phát triển. Hiện đại hoá xã hội là hình thức đặc bịêt của sự phát triển xã hội là tổng hoà các phương thức cải biến nhằm đưa nền kinh tế xã hội quá độ từ trình độ phát triển khác nhau đến các trình độ phát triển cao hơn trên cơ sở tiến bộ KHKT. Nó cũng là hình thức quá độ từ các trình độ phát triển khác nhau đến các xã hội truyền thống nông nghiệp sang xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp thông tin. Nếu như trước đây, trong các nước phương tây quá trình hiện đại hoá diễn ra một cách tuần tự qua tất cả các giai đoạn của nó, thì hiện nay với thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, các nước đang phát triển có thể bỏ qua những giai đoạn phát triển của công nghệ sản xuất để đi ngay vào sử dụng những công nghệ của thời đại hậu hiện đại hoá. Hàn quốc, Đài Loan, Xingapo trong thực tế đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn sử dụng công nghệ cơ khí để bước vào giai đoạn các công nghệ tin học. Điều đó cho phép rút ngắn thời gian hiện đại hoá đất nước. Trong tất cả các quốc gia thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá Nhà nước luôn đóng vai trò là chủ thể. Các hoạt động của Nhà nước đều đóng vai trò là chủ thể điều khiển thị trường với tính cách là môi trường kinh tế xã hội năng động ảnh hưởng tới tất cả các thành viên xã hội , các chủ thể kinh tế buộc họ phải năng động để tồn tại, phát triển hướng tất cả vào các thành viên xã hội vào mục tiêu phát triển kinh tế thực hiện CNH- HĐH đất nước. Là chủ thể của quá trình hiện đại hoá, Nhà nước thực hiện điều chỉnh kinh tế vĩ mô bằng việc tạo ra môi trường pháp lý thích ứng với cơ chế thị trường có điều tiết tạo cơ sở hạ tầng cho sản xuất, đảm bảo ổn định xã hội và khả năng quốc phòng…. Do đó việc thực hiện các chế độ sở hữu Nhà nước là điều kiện cần thiết nhưng việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cũng là một tất yếu. Phải xem chế độ sở hữu cũng là những phương tiện để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, quốc gia có đời sống văn minh hạnh phúc. Công nghiệp hoá là một trong những nội dung và điều kiện quan trọng nhất của hiện đại hoá. Trong quá trình công nghiệp hóa cũng không thể lặp lại những điều kiện phát triển kĩ thuật, công nghệ của các nước công nghiệp phát triển cao đã đi qua, trái lại có thể bỏ qua một số công nghệ giai đoạn công nghiệp hoá để vươn tới những ngành công nghiệp công nghệ bậc cao, mũi nhọn của cách mạng như công nghệ điện tử, tin học, sinh học….Việc đó chỉ có thể có được trong điều kiện ngày nay của cách mạng khoa học kĩ thuật và quá trình quốc tế hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Mô hình kinh tế mở hướng ngoại sẽ tạo cho nền kinh tế đang mang nặng những yếu tố của xã hội truyền thống nông nghiệp có cơ hội tiếp xúc với thị trường, tạo nên sự thúc đẩy mới cho nền kinh tế . Thực tế lịch sử cho thấy những bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo mô hình định hướng trên đây có tốc độ phát triển nhanh nhất, tạo nên bức tranh kinh tế sôi động của khu vực Đông Nam á, những nước khác trong những khoảng thời gian nhất định đã tiến hành hiện đại hoá với định hướng khác đã có tốc độ tăng trưởng kém hơn, thậm trí rơi vào tình trạng trì trệ. Nếu so sánh với nền kinh tế khác của thế giới như châu Phi châu Mỹ la tinh, Trung cận đông -những nơi cách vài thập niên có trình độ kinh tế tương đương khu vực Đông Nam á, thì rõ ràng là con đường hiện đại hoá của các nước khu vực này là một nét độc đáo riêng biệt. Quá trình CNH-HĐH của các nước phương tây trước đây không chỉ dựa trên việc bóc lột thậm tệ nhân dân trong nước mà còn dựa trên việc bóc lột dã man các thuộc địa. Thậm chí ngay cả trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày nay, việc bóc lột ấy vẫn là một trong những nguồn lực quan trọng của các nước khu vực này. Quá trình CNH- HĐH ở các nước khu vực Đông - Đông Nam á là quá trình động viên và sử dụng tối đa tổng hợp các tiềm năng của đất nước, dựa vào sự hợp tác, tiềm năng của đất nước, dựa vào sự hợp tác giao lưu quốc tế, bởi ở họ hoàn toàn không có thuộc địa và cũng không thể thực hiện thậm tệ việc bóc lột nhân dân trong nước, dựa vào sự hợp tác, giao lưu quốc tế, bởi họ hoàn toàn không có thuộc địa và cũng không thể thực hiện thậm tệ việc bóc lột nhân dân trong nước như chủ nghĩa tư bản phương tây trước đây, trái lại họ còn phải kết hợp ngay từ đầu sự phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát triển con người buộc phải thực hiện tiết kiệm là quốc sách ,”thắt lưng buộc bụng” trong vài thế hệ để bù đắp phần nào sự thiếu hụt nguồn vốn cho hiện đại hoá sự hoà hợp thống nhất ý chí, nỗ lực của toàn bộ quốc gia dân tộc trong CNH- HĐH là đặc điểm nổi bật. Nó buộc chính phủ nhà nước phải luôn đảm bảo cho sự nghiệp hiện đại hoá diễn ra trong sự thăng bằng ổn định, không được phép đặt “con người kinh tế”, chủ nghĩa cá nhân lên trên hết, đạp lên xã hội tập thể cộng đồng mà ngay từ đầu phải hướng đến con người, các tầng lớp xã hội khác nhau, không cho phép nhấn “nhấn chìm” bất cứ tầng lớp nào. Hiện đại hoá ở phương tây đã diễn ra trong sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa tư bản và nhờ vào chủ nghĩa cá nhân ấy, còn CNH ngày nay từ đầu dựa trên cơ sở hoà hợp, thống nhất dân tộc, quốc gia, có thể trực tiếp phát triển cá nhân và tạo điều kiện để cá nhân tự khẳng định tính xã hội của mình trong sự phát triển chung của cộng đồng quốc gia, dân tộc mà không tạo ra chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Sự thành công của CNH- HĐH trong khu vực Đông Nam á là do sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu chung của các thế hệ tiếp theo liên tục từ trong những thập niên gần đây. Họ đã thống nhất đoàn kết đặt lợi ích của dân tộc lên cao, nhận thức được xu thế của lịch sử và địa vị của quốc gia trong hoàn cảnh quốc tế mới, xác định đúng chiến lược phát triển kinh tế , CNH- HĐH đất nước, quyết tâm đuổi kịp và vượt các nước công nghiệp phát triển khác theo cách riêng phù hợp với hoàn cảnh đất nước quốc tế. CNH- HĐH là con đường phát triển duy nhất không chỉ của Việt Nam mà còn là của tất cả các quốc gia đang phát triển để nhanh chóng xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu bước vào kỉ nguyên mới mà thời đại đang mở ra trước tất cả các quốc gia. 2.Thực hiện quá trình CNH- HĐH đưa nước ta tiến lên CNXH. 2.1 Những thành công của quá trình CNH- HĐH- điều kiện thuận lợi để xây dựng và củng cố vững chắc hệ thống XHCN ở Việt Nam . 2.1.1 Phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH. CNH- HĐH ở nước ta diễn ra trong bối cảnh có những biến đổi sâu sắc trên thế giới gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở giai đoạn mới. Với nền kinh tế thế giới ngày càng có xu hướng quốc tế hoá cao, vừa hợp tác vừa cạnh tranh đan xen phức tạp. Trong quá trình này, nước ta có những cơ hội mới và có những tiền đề rất cần thiết, đó là hình thái kinh tế xã hội ổn định về cơ bản, vấn đề lương thực được giải quyết tương đối vững chắc, khả năng cung cấp nguyên vật liệu nông lâm hải sản cho công nghiệp chế biến ngày càng tăng, cơ sở sản xuất năng lượng, nguyên liệu, vật liệu, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đã hình thành một bước và đang được xây dựng khẩn trương. Quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam sẽ tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phấn đấu trong vài thập kỉ, tỷ trọng nông ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28402.doc