Lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và sự vận dụng lý thuyết đó với nước ta từ khi đổi mới đến nay

lời mở đầu Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song, nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình đó cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn Trước đây, mô hình kinh tế tự nhiên được coi là lí tưởng thì nay đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và sự vận dụng lý thuyết đó với nước ta từ khi đổi mới đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường với những đặc trưng như : phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, đa dạng hóa sở hữu... đã khắc phục được những khuyết điểm của kinh tế tự nhiên. Với việc phát triển kinh tế thị trường, chỉ trong thời gian ngắn, đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn. Bước đầu khắc phục được tình trạng suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục, lạm phát được kiềm chế.... Tuy nhiên mô hình kinh tế thị trường không phải là một mô hình hoàn hảo, mà nó cũng có những nhược điểm nhất định. Kinh tế thị trường có thể gây ra những mất ổn định và thường xuyên phá vỡ các cân đối trong nền sản xuất xã hội. Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề lạm phát thất nghiệp luôn là những căn bệnh kinh niên. Chính vì những nhược điểm trên của kinh tế thị trường cộng với ảnh hưởng của những quan điểm trước đây về một chủ nghĩa xã hội không có quan hệ thị trường nên việc nhận thức đúng vai trò của kinh tế thị trường đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi phải có sự nghiên cứu trong cả cơ sở lí luận và thực tiễn. Đối với những sinh viên như chúng em, việc nghiên cứu về kinh tế thị trường có ý nghĩa rất thiết thực không những giúp chúng em tích lũy trau dồi kiến thức mà còn tạo điều kiện để chúng em tìm hiểu nắm bắt thực tiễn kinh tế Việt Nam. Trong khuôn khổ của một đề án kinh tế chính trị, bằng việc vận dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp logic kết hợp với lịch sử, em xin trình bày hiểu biết của mình qua đề tài : “Lí thuyết của chủ nghĩa Mác-LêNin về nền kinh tế thị trường và sự vận dụng lí thuyết đó với nước ta từ khi đổi mới đến nay” Nội dung chính Chương I : Một số vấn đề cơ bản về lí luận kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác-LêNin I- Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin. 1- Khái niệm thị trường, cơ chế thị trường, kinh tế thị trường. Thị trường Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa . Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.Thị trường là một hợp phần tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa Theo nghĩa ban đầu, thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó diễn ra quá trình trao đổi và mua bán hàng hóa. Thị trường có tính không gian và thời gian.Cùng với sự phát triển của hàng hóa, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là quá trình trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương pháp nào đều phải thông qua thị trường. Vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác thông qua việc mua bán hàng hóa trên thị trường, các chủ thể kinh tế có được thu nhập. Lượng thu nhập nhiều hay ít, thể hiện sự phân phối có lợi cho ai. Vì vậy thị trường thực hiện chức năng phân phối của quá trình tái sản xuất. Thị trường còn là nơi kiểm tra về chủng loại, số lượng và chất lượng hàng hóa. Thị trường kiểm tra tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng. Trên ý nghĩa đó thị trường là nơi điều tiết sản xuất và kinh doanh . Thông qua thị trường hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng năng động, sáng tạo, đạt hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao hơn. Thị trường là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân, cá biệt thành lao động xã hội. Chí phí cá biệt có được xã hội chấp nhận hay không sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Việc phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với việc phát triển các loại thị trường. Lịch sử phát triển kinh tế hàng hóa đã chỉ ra là bước đầu xuất hiện thị trường hàng tiêu dùng sau đó mở rộng đến thị trường tư liệu sản xuất, sức lao động, tư bản, dịch vụ ...Ngược lại, sự phát triển các loại thị trường có tác dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế hàng hóa. Có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia thành các loại như thị trường yếu tố sản xuất và thị trường hàng tiêu dùng, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Mỗi loại thị trường này có vai trò nhất định và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, là tổng hợp tác động của các yếu tố, qui luật kinh tế, môi trường là cạnh tranh và động lực là lợi nhuận. Nói đến cơ chế thị trường trước hết phải nói đến các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường là hàng và tiền, người bán và người mua hàng hóa . Từ đó hình thành các quan hệ hàng-tiền, mua –bán, cung-cầu và giá cả thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là nói môi trường cạnh tranh. ở đây diễn ra sự ganh đua giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần có lợi cho mình. Trong cơ chế thị trường, động lực tham gia hoạt động của các thành viên là lợi nhuận. Lợi nhuận có tác dụng lôi kéo các doanh nghiệp vào lĩnh vực sản xuất mà xã hội cần và rút khỏi lĩnh vực sản xuất mà xã hội không cần. Vì vậy cơ chế thị trường là một cơ chế vận động khách quan trong đó có sự tác động của các yếu tố và phối hợp chúng theo một trật tự nhất định. Hay nói cách khác cơ chế thị trường như một "bộ máy" phối hợp mọi hoạt động kinh tế. Các hoạt động kinh tế được giải quyết thông qua thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự cân bằng thông qua sự tác động của quan hệ cung cầu và giá cả, ảnh hưởng của quan hệ cung cầu đối với giá cả chỉ có thể thực hiện được trong môi trường cạnh tranh. Cạnh tranh tạo ra những cố gắng giành lợi thế trong sản xuất kinh doanh, mua bán, loại bỏ kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra sự phát triển năng động. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường bao giờ cũng gắn với kinh tế hàng hóa. Kinh tế thị trường xuất hiện như là một yêu cầu khách quan của không thể thiếu được của kinh tế hàng hóa. Song không thể đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế hàng hóa. Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hóa có trước kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời thì thị trường cũng xuất hiện, nhưng không có nghĩa đó là nền kinh tế thị trường. Chỉ đến khi thị trường được mở rộng phong phú, hoàn thiện, đồng bộ cùng với sự tăng trưởng của kinh tế hàng hóa và thị trường được coi như một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế hàng hóa phát triển thì kinh tế thị trường mới ra đời. Vậy kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập đứng ngoài kinh tế hàng hóa. Đó là sự hòa nhập của kinh tế hàng hóa với kinh tế thị trường để đạt tới sự quyết định và chi phối của thị trường trong sản xuất và lưu thông. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, có nghĩa các loại thị trường trở thành điều kiện trở thành điều kiện chi phối mãnh liệt đối với sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa được quyết định bởi thị trường, thông qua thị trường và bằng sự tăng trưởng, mở rộng các loại thị trường . Kinh tế thị trường là sự hoạt động và phát triển khách quan của quan hệ hàng-tiền và qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung cầu ... trong đó qui luật giá trị là quan trọng nhất. kinh tế thị trường không hoàn toàn đối lập với kinh tế kế hoạch hoá ; lấy thị trường làm căn cứ quan trọng, kế hoạch có vai trò hướng dẫn nhất định. Trong kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể mua bán. Trạng thái cân bằng cung cầu luôn biến đổi, tác đông, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố : qui mô, giá cả, điều kiện sản xuất, khả năng thanh toán của người mua... Đồng thời còn có quá trình tự điều tiết để tạo ra sự cân bằng giữa các yếu tố đó. Kinh tế thị trường tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt thị trường, thường xuyên cải tiền phương pháp quản lí, áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả. 2- Các quá trình phát triển của kinh tế thị trường a. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa giản đơn Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa là hai hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thõa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên chỉ có hai khâu : sản xuất –tiêu dùng. Các quan hệ trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Do tính chất của sản xuất nhỏ nên kỹ thuật sản xuất lạc hậu, dựa trên lao động thủ công và kinh nghiệm cổ truyền, chậm được cải tiến nên năng suất lao động thấp, sản phẩm thặng dư ít, tái sản xuất giản đơn là chính. Bên cạnh đó việc sản xuất cũng chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, tỉ suất hàng hóa thấp, lưu thông hàng hóa chưa phát triển, thị trường nhỏ hẹp mang tính chất địa phương. Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung tự cấp là tiến lên sản xuất hàng hóa giản đơn.Trong nền kinh tế hàng hóa, mục đích của sản xuất là trao đổi hay là để bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. Điều kiện để chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa giản đơn là sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất. Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hoá những người sản xuất vào những ngành nghề khác nhau của xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc vài sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ là nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thõa mãn nhu cầu của mình những người sản xuất phải nương tựa vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Xu hướng phát triển của phân công lao động xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt, mà cả việc sản xuất từng bộ phận sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản phẩm thành những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi nghành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại và phân loại nhỏ. Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hóa những sản phẩm riêng biệt và đem trao đổi với những sản phẩm của các nghành sản xuất khác. Chính sự phát triển ngày càng sâu rộng đó của phân công lao động xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình thành thị trường trong nước. Quá trình trên cũng thể hiện cả trong nông nghiệp là nảy sinh những khu vực chuyên môn hoá và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp, mà cả giữa các sản phẩm nông nghiệp với nhau. Cùng với quá trình này là sự tách rời một bộ phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp để làm công nghiệp Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hóa là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liêu sản xuất qiu định. Dựa vào điều kiện này người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện này người sản xuất muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng hóa. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường do sự phát triển cao của phân công lao động xã hội cho nên sản xuất được chuyên môn hóa ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng. Điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng mỗi đơn vị sản xuất thúc đẩy việc cải tiến công cụ lao động nâng cao trình độ kĩ thuật , mở rộng phạm vi sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển . Những điều kiện để chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường là: Thứ nhất là sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng của mình và chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực được biến tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất của hàng hóa sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới – thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội – không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi ích kinh tế và của chi phí cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất . Chính sự hoạt động của qui luật giá trị trong lịch sử đã dẫn đến sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Sự phân hoá này dễn ra chạm chạp nên cần phải có bạo lực của Nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra nhanh hơn. Sự phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động Sự xuất hiện hàng hóa sức lao động dẫn tới sự hình thành kinh tế thị trường bắt nguồn từ tính chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển. Nó có năng suất lao động cao. Ngoài những sản phẩm cần thiết còn có những sản phẩm thặng dư. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã phản ánh điều đó. Hàng hoá sức lao động là hàng hóa đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó được thể hiện tập trung ở thuộc tính giá trị sử dụng của nó – giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Sỡ dĩ như vậy là : do kĩ thuật sản xuất phát triển cho nên năng suất lao động của người công nhân đã cao, ngày lao động của người công nhân được chia làm hai phần, phần thời gian lao động động cần thiết và phần thời gian lao động thặng dư. Chỉ đến một giới hạn nhất định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất – khi kĩ thuật sản xuất phát triển, năng suất lao động xã hội được nâng cao thì sức lao động của người ta mới trở thành đối tượng của quan hệ mua bán. Sự xuất hiện hàng hóa-sức lao động phản ánh giai đoạn sản xuất đã phát triển trong đó năng suất lao động đã cao Mặt khác nhờ có sự xuất hiện hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động mà tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế . Với sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động dẫn tới hình thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Để hình thành kinh tế thị trường thì một điều quan trọng là phải tích lũy được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhận. Và do tính chất quan trọng của thị trường trong nền kinh tế thị trường nên cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt, hệ thống tín dụng còn quá giản đơn không dáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh Một điều kiện nữa để hình thành kinh tế thị trường là phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mới đảm bảo cho lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ được dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi . Bên cạnh đó phải không ngừng tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Đối với nước ta đây là điều kiện then chốt để hình thành kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lí hài hoà quan hệ giữa tăng trưỏng kinh tế và công bằng xã hội. 3- Các hình thức của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường tự điều tiết Đặc trưng cơ bản nhất của hình thức nay là sự phát triển kinh tế thị trường diễn ra theo tinh thần tự do. Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Hình thức kinh tế thị trường này đã được các nước phương Tây áp dụng trong một thời gian dài từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Nguyên nhân là trong thời gian này, các nhà kinh doanh đã đẩy mạnh việc tích lũy vốn. Khi đã có trong tay một lượng tiền tích lũy lớn, tập trung đẩy mạnh sản xuất, họ lại chủ trương tự do kinh tế và Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tư tưởng tự do kinh tế đã được ghi nhận lại trong các tác phẩm kinh tế học của W.Petty, F.Quesnay, đặc biệt là trong tác phẩm của A.Snuth. Trong cuốn “nghiên cứu về nguyên nhân và bản chât sự giàu có của các dân tộc” ông gọi tư tưởng này là “bàn tay vô hình” “không can thiệp”. Về cơ bản tư tưởng “Bàn tay vô hình” “không can thiệp” của A.Smith là quan điểm về hoạt động kinh tế sản xuất hàng hóa phải được tiến hành theo tinh thần tự do, Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường. Quan điểm tự do kinh tế còn được sự ủng hộ các nhà kinh tế học của phái phân tích sự cân bằng tự phát giữa các thị trường đảm bảo cho sự phát triển ổn định vốn có bên trong nền kinh tế thị trường. b. Kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước Đặc trưng của hình thức kinh tế này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Nguyên nhân là do sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế thị trường dân tộc, sản xuất vượt khỏi tiêu dùng, thất nghiệp diễn ra ngày càng thường xuyên và trầm trọng. Điều đó đòi hỏi cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước với nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu tư bản Nhà nước, các chương trình kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng và đặc biệt là sử dụng các công cụ tài chính như tài chính, tín dụng và tiền tệ để điều tiết nền kinh tế trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ thực hiện công việc quản lí kinh tế chứ không trực tiếp làm kinh tế, Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản lí khu vực kinh tế nhà nước mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lí toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quản lí được hiểu là sự kết hợp hài hoà giữa điều tiết và điều khiển, nên sự quản lí vĩ mô của nhà nước cũng được hiểu theo nghĩa đó.Thực chất của các chức năng quản lí nhà nước về kinh tế là tạo ra và thực hiện một cơ chế hay phương thức quản kí nền kinh tế quốc dân của nhà nước. Các hình thức can thiệp và tác động vào nền kinh tế thị trường ở tầm kinh tế vĩ mô được thông qua việc sử dụng đồng bộ và có hiệu quả các công cụ: Luật pháp, kế hoạch hoá, các chính sánh kinh tế, thực lực kinh tế của chính phủ. Nhà nước quản lí nền kinh tế nhằm định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và sử lí các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. 4- Những đặc trưng của kinh tế thị trường Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn mô hình kinh tế thị trường – xã hội của cộng hoà Liên bang Đức, kinh tế thị trường của Thụy Điển, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc v v ...Nếu gác lại những đặc điểm riêng cá biệt của những mô hình kể trên, chỉ tính đến những đặc điểm chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường, có thể nêu những đặc trưng mang tính phổ biến như sau: Đặc trưng thứ nhất: cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, đồng thời làm phân hóa những nhà doanh nghiệp. Kinh tế thị trường gắn với sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nếu không có sự cạnh tranh thì cũng không có nền kinh tế thị trường. Chính do sự cạnh tranh mới có sự so sánh về chi phí sản xuất hàng hóa giữa các doanh nghiệp, từ đó hình thành giá trị xã hội trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Cạnh tranh đòi hỏi phải lao động có hiệu quả, phải hoàn thiện chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã, giảm chi phí và giá thành sản phẩm. Trước hết cạnh tranh diễn ra trong nội bộ một ngành, sau đó diễn ra giữa các nghành sản xuất khác nhau. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở thị trường nội địa mà còn phát triển sâu rộng giữa các công ty xuyên quốc gia trên thị trường thế giới Cạnh tranh biểu hiện ở hai mặt: chất lượng và giá cả hàng hóa. Nhà doanh nghiệp nào hàng hóa tốt và giá rẻ thì thu được nhiều lợi nhuận, giành thắng lợi trong cạnh tranh. trái lại nhà doanh nghiệp nào hàng hóa chất lượng tồi, giá cả cao thì nhất định thua thiệt, dẫn đến phá sản Cạnh tranh không ngừng phân hóa các nhà sản xuất kinh doanh. Đó là hiện tượng kinh tế –xã hội tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Đương nhiên sự phân hóa và mức phân hóa giữa các doanh nghiệp không giống nhau ở các phương thức sản xuất khác nhau. Đặc trưng thứ hai: tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan còn tồn tại của nền kinh tế hàng hóa. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp, và đồng nghĩa với tự chủ năng động Đặc trưng thứ ba : Trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hóa. Trong đó người mua chọn người bán người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên Sự đa dạng phong phú về số lượng và chủng loại hàng hóa trên thị trường một mặt phản ánh trình độ cao của lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Những ưu thế trên của kinh tế thị trường phản ánh trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, tựu chung phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội . Vì vậy nói đến kinh tế thị trường là nói dến một nền kinh tế phát triển cao. Đặc trưng thứ tư : trong nền kinh tế thị trường thì giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của qui luật lưu thông hàng hóa. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hóa, người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua luôn luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán giá cả phải đáp ứng được nhu cầu bù đắp chi phí sản xuất và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là phần dưới là phần cứng của giá cả , còn doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người mua giá cả phải phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường trung hoà được lợi ích của cả người mua và người bán. Đặc trưng thứ năm: kinh tế thị trường lầ hệ thống kinh tế mở và mang tính chất quốc tế hóa. Do vậy các quan hệ kinh tế và đầu tư luôn luôn thực hiện theo nguyên tắc đa phương hóa và đa dạng hóa, các bên cùng có lợi. Điều này đã tạo điều kiện cho các nước dễ dàng tiếp thu công nghệ mới của nhau, cùng phát triển lực lượng sản xuất, đặc biệt là các ngành mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ tạo cơ hội cho những bước “đột biến” trong phát triển kinh tế. Nếu nước nào thực hiện chính sách đóng cửa không nắm bắt cơ hội hội nhập thì không thể tránh khỏi sự tụt hậu đã được báo trước. Hệ thống kinh tế mở rất đa dạng phức tạp, và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước 5- Các qui luật vận động của kinh tế thị trường Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường phải chịu sự tác động khách quan của nhiều qui luật kinh tế khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là sự tác động của các qui luật như qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung cầu. Qui luật giá trị Qui luật giá trị là qui luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Theo qui luật này sản xuất và trao đổi hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động sản xuất cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, vấn đề quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được không. Để hàng hóa có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau khi lượng giá trị của chúng tương đương nhau. Theo nghĩa đó thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được hoạt động của qui luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa và trở thành cơ chế tác động của qui luật giá trị. C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của qui luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hóa là trục, giá cả hàng hóa thị trường lên xuống xung quanh trục đó. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày qui luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hóa người ta chỉ trình bày qui luật giá trị, một qui luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cơ chế tác động của nó Sự tác động của qui luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường thể hiện trước hết ở việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa Trong nền sản xuất hàng hóa thường xảy ra tình hình : người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô sang ngành khác : qui mô của ngành này được thu hẹp trong khi qui mô của ngành khác lại được mở rộng, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại trong các ngành. Hiện tượng này gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường.Trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thõa mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng qui mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hóa khác nay chuyển sang sản xuất hàng hóa này. Như vậy, tư liệu sản xuất và sức lao động chuyển sang ngành này nhiều hơn các ngành khác. Còn trong trường hợp ngược lại cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn . Tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này thu hẹp qui mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này và tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn Qui luật giá trị điều tiết trong lĩnh vực lưu thông thông qua sự biến động của giá cả. Hàng hóa được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Tác dụng của qui luật giá trị còn thể hiện ở việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất tăng năng suất lao động . Trong nền kinh tế hàng hóa, người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa thì người đó sẽ có lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất phải luôn luôn tìm cách rút tới mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt thông qua cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế trong nền sản xuất hàng hóa, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn so với nền kinh tế tự cung tự cấp. Ngoài ra qui luật giá trị còn có tác dụng thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, mua thêm tư liệu sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất mở rộng doanh nghiệp của mình.Bên cạnh đó những người làm ăn kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Như vậy qui luật có giá trị bình tuyển đánh giá người sản xuất. Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm ăn kém cỏi. Về phương diện này thì qui luật giá trị đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Tuy nhiên qui luật giá trị cũng có mặt trái của nó. Trong._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28877.doc
Tài liệu liên quan