Mô hình liên kết giữa các Ngân hàng và TĐKT trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số đề xuất hoàn thiện hóa

mục lục LờI Mở ĐầU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới đang trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính được đánh giá là nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Nhiều tổ chức tài chính lớn nhỏ đã không thể trụ vững trước cơn bão khủng hoảng. Trước tình hình hiện nay, các nhà nghiên cứu đang đặt ra nhiều câu hỏi về cách thức hoạt động của các định chế tài chính. Trong các trung gian tài chính, ngân hàng là cầu nối quan trọng nhất trong quá trình dẫn vốn của thị trường. Sự tồn tại và phát triển củ

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mô hình liên kết giữa các Ngân hàng và TĐKT trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số đề xuất hoàn thiện hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a loại hình doanh nghiệp này không những gây ra ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của các ngành nghề khác trong nền kinh tế mà bản thân nó còn là loại hình doanh nghiệp kinh doanh trực tiếp trong lĩnh vực tiền tệ. Do đó, nó trở thành tâm điểm chú ý của nhiều các "đại gia" trong nền kinh tế. Theo cùng sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, xu hướng tất yếu là sự liên kết trên cơ sở hai bên cùng có lợi giữa các ngân hàng với các tập đoàn tài chính lớn. Thực tế là trên thế giới, từ cuối thời kì CNTB tự do cạnh tranh đã xuất hiện các loại hình liên kết như các Keiretsu ở Nhật Bản, mô hình Jituan Gongsi ở Trung Quốc, … Đặc biệt, trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế, các mô hình liên kết càng xuất hiện nhiều hơn đồng thời các mô hình sẵn có cũng bộc lộ các ưu nhược điểm cần khắc phục. Hiện nay, thế giới đang trong thời kì khủng hoảng toàn cầu. Đây là cơ hội xuất hiện và là thời điểm có những cải cách trong các liên kết này nhằm đạt được hiệu quả lớn nhất. Trong mấy năm gần đây, ở Việt Nam có một cụm từ được nhắc đến nhiều là “ Tập đoàn kinh tế”. Cụm từ này xuất hiện khi có chủ trương của Nhà nước thành lập các tập đoàn kinh tế lớn trên nền tảng các tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn kinh tế này đã nhận được rất nhiều ưu tiên của chính phủ trong hoạt động như: được giao lượng tài sản lớn, kinh doanh trong những ngành nghề gần như độc quyền (ví dụ điện lực, khai khoáng, ...). Tuy nhiên, hiện nay các tập đoàn đều lấn sân sang hoạt động trong lĩnh vực tài chính: đầu tư vốn vào ngân hàng, công ty tài chính, công ty kinh doanh chứng khoán và thêm một cụm từ được nhắc đến khi nói về hoạt động của các tập đoàn kinh tế: “ Ngân hàng tập đoàn”. Các tập đoàn này đã sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng kém hiệu quả vốn của nhà nước, đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh không chuyên, tăng rủi ro trong nền kinh tế. Có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này về việc cho phép hay không sự hình thành mối liên kết tập đoàn – ngân hàng, nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay, môi trường kinh tế có nhiều biến động phức tạp, do đó cần có sự nghiên cứu nhằm xác định một mô hình liên kết phù hợp. Vì lí do này, chúng em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Mô hình liên kết giữa các ngân hàng và TĐKT trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số đề xuất hoàn thiện hóa” cho bài luận nghiên cứu khoa học của mình của mình với hy vọng sẽ góp một tiếng nói và đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện mô hình liên kết này ở Việt Nam. 2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là mô hình liên kết giữa NHTM và TĐKT cùng với các giải pháp để hoàn thiện hóa mô hình ở Việt Nam. Về phạm vi, đề tài đi sâu nghiên cứu hai mô hình liên kết chủ yếu ở Việt Nam là mô hình TĐKT góp vốn vào NHTM và mô hình TĐKT đứng ra thành lập NHTM trong 2 năm: 2007 và 2008. 3. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, bài nghiên cứu sử dụng đồng thời các phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích với hệ thống sơ đồ, bảng biểu để trình bày các nội dung lí luận và thực tiễn. 4. Kết cấu bài nghiên cứu Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo bài nghiên cứu được chia làm 3 chương: Chương 1: Mô hình liên kết NHTM và TĐKT. Chương 2: Thực trạng liên kết NHTM với các TĐKT ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện mô hình NHTM liên kết với các TĐKT ở Việt Nam. CHƯƠNG I: MÔ HìNH LIÊN KếT NGÂN HàNG THƯƠNG MạI VớI TậP ĐOàN KINH Tế 1.1. KHáI QUáT Về TậP ĐOàN KINH Tế 1.1.1. Khái niệm Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các tổ chức kinh tế ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu là các xưởng sản xuất nhỏ lẻ, chúng dần lớn mạnh và ra đời các khái niệm công ty, doanh nghiệp và sự phát triển cao hơn là các TĐKT. Có thể hiểu TĐKT: là một tập hợp các thực thể pháp lý (một pháp nhân) độc lập dựa trên cơ sở liên kết là mối quan hệ về sở hữu, phân chia thị trường, liên kết sản xuất – kinh doanh. Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì: "Khái niệm TĐKT được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia." Từ định nghĩa trên, có thể rút ra nhận xét: - Mối liên kết giữa các thành viên trong TĐKT hình thành chủ yếu dựa trên những quan hệ về lợi ích kinh tế. - TĐKT bao gồm nhiều công ty con hoạt động xung quanh một thực thể trung tâm, mô hình hoạt động phổ biến là quan hệ công ty mẹ – công ty con. - Tỷ lệ phân chia lợi tức hay quyền kiểm soát, biểu quyết phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của các bên. 1.1.2. Sự hình thành TĐKT Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu khái niệm về TĐKT. Quá trình hình thành các TĐKT là sự phát triển của nền kinh tế, của quá trình tích tụ và tập trung tư bản chủ nghĩa. Sau đây bài viết xin được trình bày những nguyên nhân dẫn tới sự hình thành các TĐKT. - Do tác động của khoa học kĩ thuật, qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng, quá trình tích tụ và tập trung tư bản được đẩy mạnh. Quá trình này làm thay đổi cơ cấu kinh tế, các xí nghiệp quy mô lớn được hình thành. - Cạnh tranh khốc liệt buộc các xí nghiệp phải tăng qui mô sản xuất, liên kết với nhau để tồn tại. Trong quá trình cạnh tranh, các xí nghiệp nhỏ bị phá sản, chỉ các xí nghiệp có năng lực cạnh tranh mới tồn tại và phát triển. Đặc biệt trong thời kì khủng hoảng, yêu cầu tăng cường năng lực cạnh tranh càng trở nên bức thiết. - Trong bối cảnh hiện nay, hệ thống tín dụng đã trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất. Ngân hàng là một trung gian tài chính đặc biệt hữu ích đối với các doanh nghiệp. Do đó sự xâm nhập của các doanh nghiệp vào hoạt động của ngân hàng ngày một gia tăng. Từ ba lí do trên, ta thấy rằng việc hình thành các TĐKT là hiện tượng tất yếu và cần thiết cho phát triển kinh tế. Và bối cảnh khủng hoảng kinh tế là một yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành các TĐKT nhanh hơn. Để hình thành các TĐKT, có hai phương thức liên kết: - Liên kết ngang: là sự liên kết giữa các doanh nghiệp theo cùng một ngành. Ví dụ: tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, tập đoàn Bảo Việt… - Liên kết dọc: là sự liên kết giữa các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau. Ví dụ: tập đoàn Dầu khí ... Để hình thành nên các TĐKT, các doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp: thành lập mới một công ty nằm trong quyền kiểm soát của mình, sáp nhập – mua lại – hợp nhất với một doanh nghiệp khác. Trong các biện pháp trên, biện pháp thành lập mới ít được sử dụng hơn do chi phí thành lập cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sử chuẩn bị đầy đủ về nguồn nhân lực, tìm hiểu thông tin thị trường. Và việc thâm nhập vào một lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới là rất khó khăn. Trong khi đó, phương thức sáp nhập, mua lại hay hợp nhất các doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp mới tận dụng được nguồn nhân lực, vốn cũng như thị phần của doanh nghiệp cũ. Tóm lại, TĐKT được hình thành trên cơ sở liên kết giữa nhiều doanh nghiệp độc lập khác nhau dưới sức ép của cạnh tranh thị trường. Do điều kiện hình thành đó, TĐKT mang những đặc điểm riêng có để giúp các doanh nghiệp thành viên của nó có được chỗ đứng cao hơn trên thị trường. 1.1.3. Đặc điểm của TĐKT TĐKT là hình thức liên kết sản xuất có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, TĐKT là tổ chức có tính chất độc quyền cao. Do sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, hàng loạt doanh nghiệp nhỏ đã phá sản. Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp lớn có thể tồn tại được. Vì thế, để tồn tại thì yêu cầu đối với các doanh nghiệp là tăng qui mô vốn trong sản xuất từ đó dẫn đến xu hướng thoả hiệp và thôn tính trong các doanh nghiệp. Xu hướng thoả hiệp và thôn tính này đã hợp nhất nhiều doanh nghiệp nhỏ, hình thành nên các doanh nghiệp, TĐKT lớn. Từ đó số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường giảm, đồng thời với sự xuất hiện một các doanh nghiệp này có quyền lực lớn. Họ có thể định đoạt giá cả, qui mô thị trường... Khi đó, trên thị trường hầu hết chỉ còn lại các doanh nghiệp lớn, việc loại bớt các đối thủ cạnh tranh trở nên khó khăn. Nó dẫn đến một khuynh hướng mới: thoả hiệp giữa các doanh nghiệp để đưa ra mức giá chung, những yêu cầu về qui mô sản xuất, lưu thông hàng hoá. Do đó các TĐKT có sức mạnh chi phối thị trường, hay có thể nói là có tính chất độc quyền. Thứ hai, là qui mô sản xuất lớn. Đặc điểm này hình thành do tác động của cạnh tranh và sự phát triển của qui luật tích luỹ trong sản xuất. Điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nguồn vốn dồi dào và có sự chủ động tài chính. Để đảm bảo nhu cầu về vốn, doanh nghiệp cần tìm một đối tác kinh doanh là ngân hàng. Do đó tạo ra nhu cầu liên kết giữa TĐKT và ngân hàng. Theo những phân tích trên đây, sự liên kết của nhiều doanh nghiệp đơn lẻ làm hình thành một tổ chức có khả năng chi phối, gây lũng đoạn nền kinh tế là TĐKT. Chính vì sự lớn mạnh này, các TĐKT thường có phạm vi hoạt động lớn, hoạt động đa ngành nghề. Do có qui mô sản xuất lớn, dồi dào về vốn và nhân lực, vai trò chi phối thị trường nên các TĐKT thường có phạm vi hoạt động lớn ở một hay nhiều quốc gia và có nhiều loại hàng hóa nhưng trong đó bao giờ cũng có một mặt hàng kinh doanh chủ đạo. Có cơ cấu tổ chức phức tạp, đa dạng về sở hữu trong đó bao giờ cũng có một chủ thể có vai trò chi phối. Đặc điểm này là do có nhiều cách thức hình thành một TĐKT. Các doanh nghiệp có thể nắm giữ một phần và tham gia quản lí doanh nghiệp khác hoặc không tùy thuộc vào mức độ nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Như vậy là, đối với các TĐKT lớn, việc tìm kiếm một giải pháp cho luân chuyển vốn trong nội bộ tập đoàn cũng như tìm kiếm một nguồn tài trợ đảm bảo hơn cho các dự án lớn là hết sức cần thiết. Và doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về huy động vốn cũng như cung cấp các phương tiện thanh toán tối ưu cho TĐKT chính là các NHTM. 1.2. Khái quát về nGân hàng thương mại (NHTM) 1.2.1. Khái niệm về NHTM Ra đời và phát triển đồng thời cùng với nền sản xuất hàng hoá, ngân hàng là một động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ban đầu chỉ là các ngân hàng "thợ vàng" do những người thợ vàng và cho vay nặng lãi tự thành lập. Về sau, theo dòng phát triển của phương thức sản xuất xã hội nói chung và sự vận động của tư bản thương nghiệp nói riêng, các NHTM đã phát triển, liên kết với nhau tạo nên hệ thống ngân hàng với sự phân hoá thành nhiều loại hình ngân hàng chuyên biệt hơn như là ngân hàng Nhà nước, ngân hàng phát triển, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng đầu tư… Đồng thời, hoạt động của NHTM cũng ngày càng đa dạng, phức tạp và luôn thay đổi để bắt kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Như vậy, trên phương diện loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, các NHTM có thể được định nghĩa là "các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất trong so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế." [1] Ngoài ra, ở mỗi quốc gia, do đặc thù về kinh tế, xã hội, chính trị và phong tục tập quán khác nhau nên đã nảy sinh nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Luật TCTD Việt Nam ghi rõ: “Ngân hàng là một loại hình TCTD được phép thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. [11] 1.1.2. Chức năng của NHTM 1.1.2.1. Trung gian tài chính Trên thực tế, do sự chênh lệch thời điểm phát sinh thu nhập và thời điểm phát sinh chi tiêu của các hoạt động kinh tế nên trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức: (1) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là những đối tượng cần bổ sung vốn trong ngắn hạn. (2) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu, tức là những đối tượng có tiền nhàn rỗi trong ngắn hạn. Do tính chất thời gian của tiền, việc nắm giữ tiền nhàn rỗi sẽ làm giảm giá trị của tiền và tất yếu việc chuyển tiền từ nhóm (2) sang nhóm (1) sẽ giúp cho cả 2 bên cùng có lợi. Và việc dòng tiền di chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) rồi trở về nhóm (2) với giá trị lớn hơn được gọi là quan hệ tín dụng. Tuy nhiên, các quan hệ tín dụng trực tiếp gặp phải nhiều cản trở như về quy mô, thời gian, không gian… và đó là điều kiện nảy sinh các trung gian tài chính hay cụ thể là các NHTM. NHTM thực hiện nghiệp vụ huy động tiền gửi từ nhóm (2) bằng cách phát hành các chứng khoán ít rủi ro và sau đó mang số vốn này cho nhóm (1) vay với rủi ro lớn hơn để hưởng mức lợi tức đền bù lớn hơn. Như vậy, NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yêu là huy động vốn và cho vay, tức là chuyển từ tiết kiệm thành đầu tư. 1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán Trong điều kiện phát triển các dịch vụ tại ngân hàng, khách hàng nhận thấy nếu họ có được một số dư nhất định trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể dùng nó để chi trả hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận: tiền trong lưu thông, số dư trên tài khoản giao dịch của các NHTM, tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Như vậy là khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng nó để mua hàng hoá và dịch vụ. Cũng tức là bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Cũng như thế, toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi mở rộng các khoản tiền gửi từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. 1.1.2.3. Trung gian thanh toán Do sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng cùng với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng, hiện nay, ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất. Thông qua việc gửi tiền tại các tài khoản thanh toán, khách hàng uỷ thác cho các ngân hàng thay mặt họ thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để thực hiện chức năng này, các ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc các trung tâm thanh toán. 1.1.3. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng Để thực hiện được những chức năng của mình, NHTM thực hiện các nghiệp vụ hết sức đa dạng với mức độ chuyên môn hoá cao. Trong đó, co ba hoạt động chủ yếu, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và đầu tư và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính khác như dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, quản lý hộ tài sản, kinh doanh ngoại tệ… 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Khác với các loại hình doanh nghiệp phi tài chính, nguồn vốn chủ sở hữu của các NHTM thường chỉ chiếm <10% tổng nguồn vốn, bởi vậy để đảm bảo cho hoạt động của mình, các NHTM phải thực hiện hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn của NHTM bao gồm: huy động vốn tiền gửi và huy động vốn phi tiền gửi. Các nguồn vốn huy động này là nhằm để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng ổn định và nó được thực hiện thông qua các nghiệp vụ: tiết kiệm, tiền gửi dân cư; tiền gửi giao dịch; phát hành giấy tờ có giá;đi vay trên thị trường tiền tệ; vay ngân hàng Trung ương… 1.1.3.2. Hoạt động tín dụng Nguồn vốn NHTM huy động được chủ yếu được đem cho vay và tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Ngay từ thời kỳ sơ khai của các NHTM, nghiệp vụ tín dụng đã được coi là một hoạt động quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả cho xã hội. Các sản phẩm gắn liền với hoạt động tín dụng bao gồm: cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng, đầu tư vào giấy tờ có giá, góp vốn liên doanh liên kết … 1.1.3.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ khác Trong nền kinh tế hiện đại, yêu cầu về các sản phẩm tài chính ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều hơn sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các NHTM. Do vậy, xuất hiện xu hướng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng một cách tốt nhất và xu thế đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiến tới giảm dần sự phụ thuộc thu nhập của ngân hàng vào thu nhập từ hoạt động tín dụng. Dịch vụ ngân hàng khác bao gồm: dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tư vấn tài chính … 1.1.4. Đặc trưng của NHTM 1.1.4.1. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro Ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ với nghiệp vụ chính là kinh doanh tiền. Do đó, bản thân nó hàm chứa rất nhiều rủi ro. Cụ thể là: - Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng không thanh toán được gốc và lãi của khoản vay. Và đây là rủi ro mang tính hệ thống. - Rủi ro lãi suất xảy ra khi lãi suất thị trường có sự biến động. Nguyên nhân của nó là do ngân hàng không có sự cân xứng giữa kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ hoặc sự mất cân xứng giữa khối lượng tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Có hai loại rủi ro lãi suất là rủi ro tái tài trợ tài sản nợ và rủi ro tái đầu tư tài sản có. - Rủi ro thanh khoản là nguy cơ mất khả năng chi trả của ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền. Đây là rủi ro xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả. Do tính chất lan truyền, nếu những người gửi tiền nhận thấy ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì họ có thể sẽ đồng loạt rút tiền ra khỏi ngân hàng. - Rủi ro ngoại hối là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi duy trì các tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ ở trong trạng thái trường hay đoản về loại ngoại tệ mà ngân hàng nắm giữ. - Các hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Do tính đa dạng và phức tạp của các hoạt động này, nguyên nhân và thời điểm xảy ra cũng như những tác động của nó lên ngân hàng là không giống nhau. Nhưng tựu trung là đưa lại tổn thất cho ngân hàng. - Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo được khoản tiết kiệm trong chi phí đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục chặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ công nghệ bên trong ngừng hoạt động. 1.1.4.2. Đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng là tiền tệ Có thể nói, ngân hàng kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường – đó chính là tiền tệ với đặc tính xã hội hóa cao, tính cảm ứng và nhạy bén với mọi thay đổi trong nền kinh tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng so với các lĩnh vực kinh doanh khác. Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là lãi suất. Sự vận động lên hoặc xuống của lãi suất bị tác động và đồng thời cũng chịu tác động của rất nhiều mối quan hệ kinh tế – xã hội khác nhau. Sự biến động của lãi suất có tác dụng điều tiết cân bằng thị trường và là tín hiệu thông báo, hướng dẫn người sản xuất và người tiêu dùng trong các hành vi kinh tế của họ. Lãi suất cũng là một trong các yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng hiệu quả nhất. Do vậy, trong thực tiễn hoạt động, tất cả các NHTM đều xây dựng cho mình biểu lãi suất hợp lý nhất để tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường. 1.1.4.3. Nguồn vốn chủ yếu để các ngân hàng hoạt động kinh doanh chính là nguồn vốn huy động Xuất phát từ chức năng thứ nhất của ngân hàng là: trung gian tài chính làm nhiệm vụ thu hút tiền gửi và tiết kiệm trong nền kinh tế, các NHTM đã tạo ra được nguồn vốn khổng lồ để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn huy động từ nền kinh tế là nguồn vốn dồi dào và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này là ngân hàng không có quyền sở hữu đối với nó mà do đáp ứng những điều kiện đã thỏa thuận với khách hàng, ngân hàng được sử dụng số vốn này trong một khoảng thời gian nhất định. 1.1.4.4. Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang tính hệ thống cao và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước Do những đặc trưng riêng biệt của mình, lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mang tính hệ thống cao hơn hẳn những lĩnh vực kinh doanh khác. Vì thế, một mặt đòi hỏi phải có sự quản lý nghiêm ngặt của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và người đầu tư. Mặt khác, phải duy trì tính ràng buộc theo hệ thống trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, bao gồm cả những ràng buộc về mặt kỹ thuật và về mặt tổ chức để bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như để có thể tạo ra các dịch vụ toàn diện cho ngân hàng. Điều này có thể do các ngân hàng tự thiết lập hay do các yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước. Có thể nói, điều cần thiết nhất đối với các NHTM là uy tín và các mối quan hệ. Có được 2 điều đó, NHTM sẽ dễ dàng hơn trong việc thu thập các thông tin và thẩm định các dự án. Đặc biệt NHTM huy động tiền gửi để cho vay các dự án hay là để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế khác. Do đó, việc tìm kiếm các dự án có hiệu quả là đòi hỏi cấp thiết đối với ngân hàng. Mà trong nền kinh tế, đối tượng có nhiều các dự án lớn và tính khả thi cao là các TĐKT. Vì thế, liên kết với các TĐKT lớn để tranh thủ uy tín và các mối quan hệ sâu sắc, và nhất là đảm bảo khả năng kiểm soát cao hơn đối với nguồn vốn bỏ ra là hết sức hấp dẫn đối với NHTM. 1.3. MÔ HìNH LIÊN KếT NHTM và TĐKT Do có những đặc điểm thoả mãn yêu cầu của cả 2 bên như đã phân tích ở trên, việc các NHTM và TĐKT có sự liên kết với nhau là một tất yếu của khách quan. Nhưng mối quan hệ này sâu sắc đến đâu và theo mô hình như thế nào là phù hợp? Đó là vấn đề cần nghiên cứu. Trên thực tế, thế giới đã tồn tại nhiều những liên minh ngân hàng – tập đoàn mà sự thâm nhập lẫn nhau của 2 bên là hết sức sâu sắc. Theo đối tượng giữ vai trò quản lý thì mô hình liên kết giữa NHTM và các TĐKT được chia thành hai mô hình chính: mô hình các TĐKT tham gia vào ban quản trị của NHTM và mô hình TĐKT xoay xung quanh NHTM. 1.2.1. TĐKT tham gia vào ban quản trị của NHTM 1.2.1.1. Đặc điểm của mô hình Đây là hình thức được phần lớn các TĐKT lựa chọn. Mô hình liên kết được thành lập khi tập đoàn kinh sở hữu phần vốn góp lớn ở các NHTM và tham gia vào ban quản trị ngân hàng. Mô hình này có 2 dạng : Thứ nhất là các doanh nghiệp thành viên của TĐKT nắm giữ số lượng cổ phiếu lớn trong các NHTM cổ phần và giữ vai trò là cổ đông chiến lược của ngân hàng. Nghĩa là ban quản trị TĐKT tiến hành lựa chọn ngân hàng đã có sẵn trên thị trường và mua cổ phiếu của ngân hàng với số lượng lớn với danh nghĩa tập đoàn. Sau đó cử người đại diện phần vốn góp của tập đoàn mình tham gia vào Hội đồng quản trị của ngân hàng. Thứ hai là dạng TĐKT đứng ra thành lập một ngân hàng mới và kêu gọi một vài tổ chức kinh tế khác tham gia góp vốn. Nói cách khác TĐKT lúc này đóng vai trò là cổ đông sáng lập của NHTM. Tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia, chiến lược kinh doanh của các tập đoàn mà tỷ lệ góp vốn của các TĐKT vào các NHTM cũng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các quốc gia đều hạn chế tỷ lệ này ở một mức độ an toàn nhất định. Đặc trưng của mô hình này là sau khi nhận vốn góp hoặc được thành lập, NHTM vẫn hoạt động độc lập với TĐKT. Nó không trở thành một công ty con và chịu phụ thuộc vào TĐKT mà các TĐKT chỉ có thể tác động đến nó ở một giới hạn nhất định. 1.2.1.2. Ưu điểm của mô hình a. Về phía NHTM  Khi tiếp nhận TĐKT với tư cách là một thành viên trong ban quản trị, NHTM có thể tận dụng được uy tín của các tập đoàn đó. Uy tín này xuất phát từ các mối quan hệ giữa TĐKT với các chủ thể khác trong xã hội. Bản thân TĐKT là một thực thể lớn và có mối quan hệ rộng rãi nhất trong nền kinh tế. Nó có sức mạnh kinh tế lớn và có vị thế cao trong nền kinh tế. Điều này là hậu thuẫn lớn đối với ngân hàng nhận vốn. Hơn nữa, khi tham gia vào mô hình liên kết này, ngân hàng sẽ có được số lượng lớn các khách hàng trung thành là các công ty con thuộc TĐKT. Như chúng ta đều biết, hoạt động chủ yếu của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Do đó, đối với ngân hàng, tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế có vị trí rất quan trọng và là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Như thế là NHTM tiếp cận được lượng vốn lớn từ các khách hàng trung thành và các đối tác, bạn hàng lâu năm hay các khách hàng của TĐKT. Việc các công ty con của TĐKT trở thành khách hàng trung thành của NHTM cũng làm giảm thiểu một số các rủi ro đối với ngân hàng như là rủi ro thanh khoản (do các công ty này sẽ không đồng thời ồ ạt rút tiền ra). b. Đối với TĐKT Việc tham gia góp vốn, thành lập NHTM sẽ giúp cho các TĐKT đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Theo học thuyết của C.Mác, chu chuyển tư bản là quá trình vận động bắt đầu từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới hình thái tiền tệ cho đến khi tư bản quay về tay các nhà tư bản cũng dưới hình thái ấy. Hay nói cách khác, đặc điểm vận động của các tổ chức kinh doanh là việc xuất vốn mua hàng hoá, làm gia tăng giá trị của nó sau đó bán đi và thu về tiền tệ với số lượng lớn hơn. Tuy nhiên, ngành ngân hàng không phải qua các bước trung gian hàng hoá mà trực tiếp kinh doanh tiền tệ (tức là tiền đẻ ra tiền). Ngoài ra, việc nắm giữ tiền tệ của nền kinh tế tạo cho ngân hàng những quyền lực nhất định, do đó nó trở thành đích ngắm của nhiều các TĐKT lớn. Việc nắm giữ cổ phần của NHTM đối với các TĐKT đồng nghĩa với việc TĐKT nhận cổ tức làm gia tăng thu nhập. Ngoài ra, sự liên kết này còn giúp cho TĐKT có được sự ưu tiên nhất định đối với các khoản vay tài trợ cho các dự án của các tập đoàn. Thực tế là để đảm bảo an toàn vốn, ngân hàng chỉ cho vay đối với các dự án sau khi đã thẩm định về tính khả thi và các điều kiện khác của các dự án. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa dự án của tập đoàn là cổ đông của ngân hàng và dự án của một công ty khác có cùng tính khả thi và các điều kiện khác được thỏa mãn thì dự án của tập đoàn sẽ được ưu tiên nhờ các mối quan hệ rành buộc. c. Đối với nền kinh tế và các chủ thể khác Thứ nhất, mối liên kết này sẽ giúp giảm được thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Thông tin không cân xứng là sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên đi vay (cho vay) có được về bên kia khi thực hiện các quyết định của mình. Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức… tạm thời có số vốn nhàn rỗi chưa sử dụng đến và có những người tạm thời thiếu vốn như các cá nhân , hộ gia đình doanh nghiệp….Tuy nhiên, không phải lúc nào những người thừa vốn tạm thời cũng biết đầy đủ thông tin về đối tượng mình cho vay nên có thể dẫn đến việc khoản tiền của mình đến tay của người không thực sự cần tới nó hoặc người đi vay sẽ không có khả năng trả lại số tiền đó cho mình. Do đó, với chức năng truyền dẫn vốn từ những người thừa vốn tạm thời tới những người thiếu vốn tạm thời (là các công ty thuộc tập đoàn), ngân hàng tập đoàn sẽ giảm được lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông tin không cân xứng mang lại. Thứ hai, việc các TĐKT góp vốn vào ngân hàng hay việc TĐKT đứng ra thành lập ngân hàng mới đều sẽ làm tăng thêm tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng. Từ đó, khách hàng sẽ có được nhiều lợi ích hơn như là: việc các ngân hàng cạnh tranh bằng phát triển các sản phẩm dịch vụ đa dạng, à phong phú hơn; hay việc cạnh tranh bằng chất lượng phục vụ… Tức là khách hàng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, trong khi đó, các ngân hàng phải chịu áp lực gia tăng hiệu quả họat động. 1.2.1.3. Nhược điểm của mô hình Thứ nhất, việc đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực không chuyên của tập đoàn sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và gây lãng phí nguồn lực. Hoạt động chính của các TĐKT là hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó, việc quyết định tham gia vào lĩnh vực ngân hàng – một lĩnh vực được đánh giá là nhạy cảm nhất của nền kinh tế là một quyết định mạo hiểm của các TĐKT. Vì tuy rằng đây là lĩnh vực sinh lợi lớn nhưng đi liền với nó, ngành ngân hàng là ngành nhạy cảm với sự thay đổi của thị trường nhất và hàm chứa nhiều rủi ro nhất trong các nghành nghề kinh doanh. Trong khi đầu tư vào một lĩnh vực mới đầy mạo hiểm thì các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của chính TĐKT cần rất nhiều vốn để thực hiện thì không được đầu tư, đó là sự lãng phí nguồn lực rất lớn, có thể dẫn đến doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất chính không đạt hiệu suất tốt. Thứ hai, mối liên hệ ràng buộc sâu sắc giữa NHTM và TĐKT còn tăng nguy cơ xuất hiện những tập đoàn tư bản tài chính lớn làm lũng đoạn thị trường. Các TĐKT giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia, có thể nói, các tập đoàn này là những đầu tàu cho sự phát triển và khẳng định vị thế của quốc gia đó về mặt kinh tế mà xa hơn là cả về mặt chính trị, văn hóa. Vì vậy, các quốc gia luôn chú trọng và tạo điều kiện cho các tập đoàn này phát triển. Ngân hàng lại là người nắm giữ tiền của nền kinh tế. Tức là nếu coi nền kinh tế như một cơ thể sống thì các TĐKT, là các cơ quan bộ phận chính và hệ thống ngân hàng tài chính như là hệ tuần hoàn, luân chuyển máu tới các bộ phận nằm duy trì sự sống cho chúng. Nếu NHTM và TĐKT liên kết với nhau thì sẽ tạo ra một sức mạnh rất lớn, chi phối tòan bộ nền kinh tế, chức năng điều tiết nền kinh tế của Nhà Nước cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, hiện nay, để tránh xuất hiện các đầu sỏ tài chính làm lũng đoạn thị trường, Chính phủ các nước đã quy định tỷ lệ góp vốn tối đa của các TĐKT đối với các NHTM. 1.2.2. Mô hình các TĐKT xoay quanh một NHTM trung tâm 1.2.2.1. Đặc điểm của mô hình Đặc trưng của mô hình này là ngân hàng là trung tâm của mối quan hệ và ngân hàng trung tâm đó được gọi là “main bank” (ngân hàng chính). Ngân hàng này là 1 tổ chức tài chính cung cấp vốn cho các công ty th._.uộc tập đoàn. Ngân hàng trung tâm không chỉ giữ vài trò đơn giản như là nhà cung cấp các khoản vay cho tập đoàn mà còn là trung tâm xử lý thông tin cho các công ty thuộc tập đoàn và các đối tác. Ngân hàng giám sát thành quả của tập đoàn, nắm giữ vốn trong nhiều công ty chủ chốt và cung cấp nhân viên quản lý khi các công ty đó cần. Trong trường hợp xấu nhất, nếu 1 trong các công ty của tập đoàn gặp vấn đề trầm trọng, ngân hàng sẽ can thiệp, cùng với cả nhân viên tài chính và người quản lý mới (được chọn ra từ những người điều hành của ngân hàng) để giải quyết khó khăn. Các TĐKT và ngân hàng nắm giữ cổ phần chéo của nhau. Không chỉ các tập đoàn nắm giữ cổ phần của các ngân hàng như ở mô hình trước mà ở đây, ngân hàng cũng nắm giữ cổ phần chi phối và trở thành cổ đông chiến lược của các công ty con thuộc tập đoàn. Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình liên kết này, có thể hiểu thực chất của mô hình liên kết này là ngân hàng là một trong số các công ty con của tập đoàn hoặc ngân hàng là công ty mẹ của các công ty con của tập đoàn. Tuy nhiên, vai trò của ngân hàng trong tập đòan này là rất lớn, và chính vì lẽ đó mà nó được gọi là ngân hàng chính, ngân hàng trung tâm (main bank). Như vậy, trong mô hình này, ảnh hưởng của ngân hàng đối với TĐKT là rất lớn. Nó như là cơ quan lãnh đạo, điều hành, quản lý của tất cả các công ty con thuộc tập đoàn. 1.2.2.2 Ưu điểm và nhược điểm của mô hình TĐKT có một NHTM làm trung tâm Ngoài những ưu điểm đối với cả ba chủ thể NHTM, TĐKT, nền kinh tế và các chủ thể khác như đã phân tích ở trong mô hình thứ nhất thì ở mô hình thứ hai này, có những điểm riêng có như sau: * Ưu điểm của mô hình Thứ nhất, ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các dự án của các công ty thuộc tập đoàn mà còn là cổ đông chính của các công ty này. Việc nắm giữ cổ phần chi phối sẽ giúp cho ngân hàng có thể hiểu rõ và sâu sắc hơn về tình hình tài chính tại các công ty con, để từ đó có thể điều hành hoặc có những can thiệp cần thiết khi các công ty con gặp vấn đề khó khăn. Thứ hai, ngân hàng với thế mạnh về kiến thức lí luận sẽ hỗ trợ cho TĐKT trong việc phân tích tính hiệu quả cho các dự án, cung cấp các vị trí giám đốc tài chính, giám đốc điều hành cho các công ty con thuộc tập đoàn. TĐKT sẽ được tư vấn và sử dụng những phương thức thanh toán tốt nhất. Thứ ba, TĐKT sẽ có được sự hẫu thuẫn về vốn rất lớn từ NHTM. Vốn là điều kiện cần thiết và tối quan trọng cho bất kỳ dự án nào của TĐKT. Ngân hàng trung tâm với tư cách là người cung cấp tài chính cho TĐKT sẽ đáp ứng được điều đó bằng cách huy động tiền gửi của nhân dân, tổ chức, các chủ thể trong nền kinh tế. Khi các dự án của những tập đoàn lớn dễ được thực hiện, sẽ cải tạo môi trường đầu tư, kích thích sự phát triển. * Nhược điểm của mô hình Thứ nhất, mối liên kết này sẽ làm suy yếu chức năng trung gian tài chính của các NHTM truyền thống, phân bổ sai lệch nguồn tài nguyên tín dụng cho khu vực sản xuất thực của nền kinh tế, và từ đó làm xói mòn tính cạnh tranh giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Các ngân hàng trung tâm này sẽ phải thường xuyên đối phó với các áp lực ưu đã tín dụng có lợi cho những mối quan hệ mang tính cách nội bộ. NHTM là nhà cung cấp tài chính cho các dự án của các công ty con thuộc tập đoàn, vì vậy, sẽ có những trường hợp, dự án của các công ty con không thực sự hiệu quả trong khi các dự án của các doanh nghiệp khác rất có triển vọng thì với với sự thỏa thuận, liên kết chặt chẽ trên, ngân hàng vẫn phải ưu đãi cho các công ty thuộc tập đoàn. Một khi đã có sự ưu đãi thì nguồn tài nguyên tín dụng đã bị phân bổ một cách sai lệch. Nguồn vốn đáng lẽ ra phải chảy theo những kênh có khả năng sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất đã chuyển sang các kênh nội bộ mà theo các chuyên viên phân tích tín dụng rất có thể sẽ bị bẻ cong theo các ý dồ của cấp lãnh đạo Ưu đãi và phân bổ sai lệnh tài nguyên tín dụng chính là căn nguyên dẫn đến việc xói mòn tính cạnh tranh. Việc xói mòn tính cạnh tranh có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chung quy lại, đó là các điều kiện tiếp cận tín dụng dễ dàng cho các công ty con, từ chối cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp khác có dự án đầu tư hiệu quả hơn. Ngược lại, các công ty con của tập đoàn có thể đàm phán, ký thác, tín dụng, thanh toán tốt hơn với một ngân hàng bên ngoài so với phải quan hệ với ngân hàng trung tâm của chúng tập đoàn mình, họ phải đánh đổi giữa việc hy sinh tính cạnh tranh để phục vụ lợi ích chung của cả tập đoàn nhưng hệ quả tất yếu của sự lựa chọn này là những tác động tieue cực làm giảm sút hiệu năng của nền kinh tế. Thứ hai, vấn đề bảo mật thông tin cũng bị xâm phạm. Ngân hàng là một tổ chức sản xuất thông tin, nhưng chức năng đó của ngân hàng bắt buộc họ phải bảo mật thông tin cho khách hàng, tuy nhiên, ngân hàng tranh tâm khó có thể từ chối cung cấp cho các công ty thành viên tập đoàn thông tin mật mà nó nắm giữ về các đối thủ cạnh tranh của chính các công ty nội bộ đó. Thứ ba, việc phân bổ nguồn vốn không hợp lý có nguy cơ tăng các khoản nợ xấu cho ngân hàng, từ đó tăng nguy cơ phá sản của ngân hàng do không đáp ứng được kịp thời nhu cầu thanh khoản và có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Trên đây chúng ta đã xét tới những lý luận cơ bản và ưu, nhược điểm của hai dạng mô hình liên kết giữa TĐKT và NHTM. Để hiểu rõ lý do lựa chọn mô hình tổ chức và ưu nhược điểm trong hoạt động của các mô hình trên thực tế, chúng ta sẽ xem xét các mô hình này trên thực tiễn. 1.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới Hiện nay, trong khi ở Việt Nam, việc các NHTM có những mối liên hệ mật thiết về quản trị vẫn còn là vấn đề mới mẻ thì ở trên thế giới, điều này đã không còn là điều xa lạ. Tuy mỗi quốc gia lại có một mô hình liên kết TĐKT và NHTM mang đặc trưng của mình do các điều kiện kinh tế, chính trị và văn hoá khác nhau. Nhưng tựu trung lại, chúng đều hình thành trên cơ sở sự kết hợp giữa những kinh nghiệm kế thừa từ các quốc gia đi trước và sự nghiên cứu điều kiện riêng có của nước mình. Do đó, đối với Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu và học tập các quốc gia đi trước là điều cần thiết. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta sẽ tìm hiểu hai quốc gia mà điều kiện địa lí và văn hoá có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Thứ nhất là Trung Quốc, quốc gia XHCN sát biên giới với Việt Nam và là nước có điều kiện kinh tế, chính trị và văn hoá cũng như xuất phát điểm của nền kinh tế gần với nước ta nhất. Và thứ hai là Nhật Bản, quốc gia Châu á nghèo tài nguyên nhất nhưng lại có nền kinh tế phát triển nhất. 1.4.1. Mô hình Keiretsu ngang ở Nhật Bản Nhật Bản là đất nước không chỉ là một cường quốc trên thế giới mà còn là một trong những bài học về sự vươn lên sau chiến tranh để khôi phục kinh tế đất nước. Người ta đã đi tìm hiểu nghiên cứu nguyên nhân tạo nên sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II, có thể nói rằng có rất nhiều nguyên nhân, về sức mạnh của sự đoàn kết hay sức mạnh của yếu tố con người nhưng một trong số nguyên nhân dẫn đên sự phát triển đó là do sức mạnh của các tập đoàn kinh tế hay còn gọi là Keiretsu. Mối liên kết giữa TĐKT và NHTM được biểu hiện dưới hình thức Keiretu ngang như đã trình bày ở phần trên. Sự liên kết này cũng được dựa trên các điều kiện khác biệt với các quốc gia khác. 1.3.2.1. Điều kiện vĩ mô Thứ nhất, do chính sách phát triển các TĐKT để làm đầu tàu cho nền kinh tế, Chính phủ đã tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của TĐKT cũng như cho sự liên kết giữa TĐKT và ngân hàng trở nên chặt chẽ hơn. Nước Nhật sau chiến tranh thế giới lần thứ II đã bị tàn phá nặng nề về kinh tế. Việc khôi phục kinh tế trở thành nhu cầu cấp bách đối với Chính phủ lúc bấy giờ. Một trong những định hướng của Chính phủ Nhật đó là xây dựng các TĐKT mạnh, đủ sức nâng đỡ cho nền kinh tế trong nước và vươn ra thị trường thế giới. Chính do đó mà Chính phủ đã dành rất nhiều ưu đãi về chính sách, về vốn trong đó có việc xây dựng mô hình ngân hàng như là trung tâm huy động vốn, xử lý thông tin, quản lý hoạt động của TĐKT Thứ hai, Chính phủ muốn kiểm soát kiểm soát hoạt động của TĐKT thông qua kiểm soát nguồn vốn. ở Mỹ hay ở Châu Âu lúc bấy giờ thì các tập đoàn có nhiều công cụ để cung cấp vốn cho các hoạt động của chúng như là các khoản vay ngân hàng hay vốn huy động trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đối với các công ty ở Nhật thì huy động vốn trên thị trường chứng khoán ko phải là sự lựa chọn số một. Bởi vì Chính phủ Nhật muốn kiểm soát dòng vốn giới hạn trong nền kinh tế nên đã ra ban hành những quy định rất khắt khe để đảm bảo rằng thị trường chứng khoán sẽ không cạnh tranh với các ngân hàng trong việc cung cấp vốn. Do đó, Chính phủ không những giúp đỡ để xây dựng và hình thành các ngân hàng tập đoàn mới mà còn tác động để các ngân hàng trở thành nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền công nghiệp thời hậu chiến. Thông qua hoạt động kiểm soát nguồn vốn, Chính phủ cũng kiểm soát hoạt động của TĐKT theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TĐ nói riêng. Đặc điểm quan trọng này vẫn được duy trì cho đến những năm 80 và góp phần tạo nên sức mạnh cho hệ thống tập đoàn liên kết ngang như chúng ta đã thấy.Để hiểu rõ hơn về chức năng này của ngân hàng chính của tập đoàn đối với các công ty con thì chúng ta sẽ đi so sánh với số vốn mà các công ty này huy động được từ các tổ chức đa dạng khác trong nền kinh tế trong một thời kỳ. Theo thống kê, ngân hàng trung tâm ( main bank) là nguồn vay cho hơn 2/3 trong tổng số 873 công ty phi tài chính lớn nhất Nhật Bản và là nguồn vay thứ hai cho 17% các công ty khác. Tính tổng, ngân hàng trung tâm hoặc là nguồn vay đầu tiên, hoặc là nguồn vay thứ hai cho gần 85% công ty hàng đầu Nhật Bản. Thứ ba, Các tập đoàn TBTC Nhật sau chiến tranh ngày càng xâm nhập sâu vào bộ máy NN, biến bộ máy NN thành công cụ đắc lực cho lợi ích của cho hoạt động của TĐ. Bằng nhiều cách khác nhau, các tập đòan tư bản tài chính ( TBTC) đã làm cho Nhà nước Nhật phải thi hành những chính sách kinh tế theo yêu cầu của chúng. Trước hết là chúng thông quá các tổ chức kinh tế để tác động tới NN. Trong 4 tổ chức kinh tế quan trong của TBTC, Liên đòan các tổ chức kinh tế (kaidanren) có ảnh hưởng mạnh nhất, không một chính sách quan trọng nào về kinh tế, đặc biệt là về kinh tế đối ngoại của NN mà không có sự tham gia trước hoặc có sự thỏa thuận của tổ chức này. Các tập đòan còn đưa đại diện của mình vào cơ quan NN, đặc biệt là những cơ quan kinh tế, duy trì những sự tiếp xúc thường xuyên với CP thông qua ủy ban tư vấn kinh tế khác nhau. Kết quả là CNTB độc quyền NN ở Nhật được tăng cường, NN trở thành công cụ quan trọng phục vụ các TĐ TBTC Nhật thống trị trong nước và bành trướng ra thế giới 1.3.2.2. Điều kiện vi mô : a) Trong TĐKT : Thứ nhất, các TĐKT Nhật đã có biện pháp huy động vốn táo bạo : Nếp kinh doanh cổ điển ở các nước phương Tây đòi hỏi phải cân bằng khoản vay với nguồn vốn của xí nghiệp, nghĩa là xí nghiệp phải có từ 50 – 70% tiền vốn, số còn lại mới có thể đi vay hoặc phát hành trái phiếu. Sau chiến tranh, nguyên tắc đó ở Nhật Bản bị phá vỡ. Tính chung từ 1958- 1962, vốn của xí nghiệp chỉ chiếm 24% tổng số vốn kinh doanh, so với 65% xí nghiệp Nhật phải vay tới gần 80% số vốn kinh doanh (trong đó già nửa là vay ngắn hạn, lãi suất 9-10% thậm chí 20%/năm) Thứ hai, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo giữa "công nghệ phương Tây" và "tính cách Nhật Bản" hình thành nên các TĐKT mang phong cách Nhật. b) Trong NHTM Thứ nhất,trong việc tích lũy vốn, các ngân hàng trung tâm của TĐ có thuận lợi hơn các nước tư bản khác là được sử dụng khối lượng tiền tiết kiệm cá nhân lớn nhất trong dân chúng : Trung bình từ 1961- 1967 , tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập của người dân Nhật là 18 ,6%, so với 6,2% ở Mỹ, 7,7% ở Anh, 8,7% ở Pháp, 13% ở Đức. Từ việc huy động lượng vốn lớn từ trong dân chúng, NH trung tâm sẽ có nhiều vốn hơn để tài trợ cho nhu cầu của các TĐ mình Thứ hai,các NHTM có khả năng nhận vốn của NHTW ( Ngân hàng Nhật Bản) một cách dễ dàng. Bằng chính sách lạm phát, NHNB thông qua mạng lưới NHTM cung cấp vốn cho TĐKT. Nó trở thành một công cụ kinh tế quan trong để nhà nước điều chính kinh tế Tuy nhiên, phải nói thêm rằng, những chính sách phát triển mô hình liên kết giữa TĐKT xoay xung quanh một NH ở Nhật chỉ phát huy tác dụng vào những năm khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ II. Tuy nhiên, sau đó, những yếu kém của mô hình này như phân tích phần trước đã dần bộc lộ, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1971, mô hình này đã tỏ ra không còn phù hợp cho điều kiện mới nữa. Vì vậy mà hình thức liên kết này này càng bị rạn nứt, mờ nhạt dần và cho đến nay thì nó không còn là xu thế chung của các TĐKT Nhật Bản nữa Qua hai ví dụ về những điều kiện vi mô và vĩ mô cho sự liên kết giữa TĐKT và NHTM, chúng ta có thể thấy rằng, các điều kiện ở các nước khác nhau sẽ thích hợp với một mô hình khác nhau. Khó có thể lấy mô hình nào làm chuẩn, vì vậy các quốc gia phải dựa vào điều kiện phát triển của đất nước mình, định hướng phát triển kinh tế để chọn ra mô hình phù hợp nhất. 1.4.2. Mô hình liên kết ở Trung Quốc Trung Quốc là một nước lớn nằm giáp biên giới phía Bắc của Việt Nam. Từ xa xưa, đây đã là quốc gia láng giềng có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Việt Nam cả về chính trị và văn hoá. Do đó, nước ta có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc cả về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Ngoài ra, đây cũng là nước XHCN có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và có nhiều các chính sách phát triển kinh tế hiệu quả. Trong đó, xây dựng các TĐKT mạnh là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách nền kinh tế của Trung Quốc. Các TĐKT của Trung Quốc liên kết với các NHTM được dựa trên một số điều kiện vĩ mô và vi mô như sau  1.4.2.1. Điều kiện vĩ mô * Điều kiện về sự hậu thuẫn của Chính Phủ Mối liên kết giữa NHTM và TĐKT thường được sự hậu thuẫn lớn về phía chính phủ. Theo định hướng phát triển của các quốc gia, sự phát triển của các TĐKT là tất yếu của quá trình hợp tác phát triển các loại hình doanh nghiệp, các mối quan hệ hợp tác đầu tư trên cơ sở nhu cầu phát triển thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. TĐKT huy động được các nguồn lực vật chất, lao động và vốn trong xã hội vào quá trinh sản xuất kinh doanh, tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, hình thành những công ty hiện đại. Việc hình thành TĐKT cho phép phát huy lợi thế kinh tế có quy mô lớn, khai thác triệt để thương hiêu, hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, và nhiều loại hình dịch vụ. Từ vai trò quan trọng trong nền kinh tế đó của TĐKT mà chính phủ các nước đã có những biện pháp hỗ trợ cho các TĐKT phát triển. Một trong số những sự hậu thuẫn từ phía chính phủ cho phép mối liên kết này đó là cho phép các TĐKT được tham gia góp vốn vào các NHTM. Tuy nhiên, để ngăn ngừa nguy cơ gây lũng đoạn nền kinh tế và sự thâu tóm quyền lực vào tay các TĐKT, Chính phủ của các nước thường quy định một tỷ lệ góp vốn nhất định * Điều kiện về pháp lý Hệ thống hành lang pháp lý thông thoáng với những quy định rõ ràng cụ thể về tỷ lệ góp vốn, tỷ lệ cho vay trong nội bộ của NHTM và TĐKT cũng như tính an tòan bảo mật thông tin của các NHTM sẽ giúp cho mối quan hệ này được minh bạch , tránh được những hạn chế, tiêu cực của các mô hình liên kết và bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng 1.4.2.2. Điều kiện vi mô * Đối với TĐKT Các TĐKT phải có tiềm lực mạnh. Điều này thể hiện ở chỗ, TĐKT phải có lượng vốn lớn để chủ động đầu tư cho các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất chính của tập đoàn và tự chủ trong việc thanh toán cho các khoản vay tài trợ cho dự án. TĐKT phải xác định được rằng NHTM mà mình tham gia làm cổ đông chiến lược hay cổ đông sáng lập phải độc lập về mặt hoạt động, và xem việc đầu tư vào NHTM là một trong số các lĩnh vực đầu tư của tập đoàn và được hưởng lợi từ việc nắm giữ cổ phiếu. Bên cạnh đó, TĐKT có phải đáp ứng về trình độ, năng lực quản lý, không chỉ ở lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của mình và còn ở lĩnh vực tài chính ngân hàng mà TĐKT đầu tư góp vốn vào. Việc cổ đông lớn là TĐKT có hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực tài chính sẽ giúp cho những quyết định về chiến lược hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ chính xác và từ đó nâng cao được tính hiệu quả của các quyết định. * Với NHTM NHTM có TĐKT nắm giữ cổ phần chi phối phải đảm bảo được tính độc lập đối với TĐKT. NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế. Các quyết định đầu tư, cho vay đối với các dự án của các doanh nghiệp phải dựa trên việc thẩm định khách quan về tính khả thi của dự án đó. CHƯƠNG II: THựC TRạNG LIÊN KếT NGÂN HàNG THƯƠNG MạI VớI CáC TậP ĐOàN KINH Tế ở VIệT NAM 2.1. Khái quát về TĐKT tại Việt Nam 2.1.1. Đặc trưng của TĐKT Việt Nam TĐKT là bước phát triển tất yếu một khi doanh nghiệp hội tụ đủ các điều kiện cần thiết về vốn, công nghệ cũng như khi thực tế đòi hỏi các công ty phải có mối quan hệ mật thiết để giảm áp lực cạnh tranh, tập trung tiềm lực để phát triển theo hướng đa lĩnh vực, xuyên quốc gia. Theo TS. Phan Thảo Nguyên: "TĐKT là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành  hay  những  ngành  khác  nhau,  ở  phạm  vi một  nước  hay  nhiều nước, trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động  của  các công  ty  con về mặt  tài  chính và  chiến  lược phát  triển.  Tập  đoàn  kinh  tế  là một  cơ  cấu  tổ  chức  vừa  có  chức  năng  kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.” ở Việt Nam hiện nay, tuy có khá nhiều tập đoàn được thành lập nhưng những qui định về TĐKT vẫn còn nhiều thiếu sót và không rõ ràng. Chính vì thế còn có nhiều tranh luận xung quanh khái niệm này. Văn bản luật đầu tiên có đề cập đến TĐKT là Luật Doanh Nghiệp 2005 tại Điều 146 khoản 2: “Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: Công ty mẹ – Công ty con; TĐKT; Các hình thức khác.” Còn theo điều 149 : “ TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT.” Theo văn bản luật này cú thể hiểu được TĐKT thuộc vào nhúm cụng ty giống như cụng ty mẹ- cụng ty con. Xó hội ngày càng phỏt triển.Cỏc tập đoàn kinh tế ngày càng được thành lập nhiều hơn.Và văn bản luật cũng đó cú sự thay đổi. Tại nghị định số 139/2007/NĐ-CP năm 2007, điều 26 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung về TĐKT, khoản 1 có quy định: “TĐKT bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sát nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con.” Khoản 2 có quy định: "TĐKT không có tư cách pháp nhân, không phải đăng kí kinh doanh theo Luật Doanh Nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định.” Từ những sửa đổi bổ sung đó, chúng ta thấy rằng TĐKT không có tư cách pháp nhân. Thực tế nó chỉ là tập hợp của các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, vận hành trên cơ sở các mối quan hệ về kinh tế, công nghệ… Mặc dù ở Việt Nam, TĐKT mới được thành lập nhưng vẫn có thể rút ra những đặc trăng cơ bản tương tự các TĐKT thế giới: Thứ nhất: TĐKT có phạm vi hoạt động lớn. TĐKT Việt Nam mới được thành lập trong vòng 10 năm trở lại đây nên chưa hình thành được các TĐKT đa quốc gia. Tuy cũng có tập đoàn đặt văn phòng ở nước ngoài như Tập đoàn Hòa Phát (đặt Văn Phòng Đại Diện tại phòng 7, tầng 4 Vientiane Commercial Bank Building, Phố Lanxang, Vientiane, nước Cộng hòa dân chủ Lào) nhưng chủ yếu vẫn chỉ là phạm vi hẹp trong 3 nước Đông Dương. Thứ hai: TĐKT có quy mô lớn về nguồn vốn, nhân lực và doanh số hoạt động. Các tập đoàn thường thu hút một số lượng lớn lao động. Tính đến ngày 31/12/2008, tập đoàn FPT có 12 công ty thành viên và 9027 nhân viên đang tham gia làm việc tại đây. Còn tập đoàn dầu khí Việt Nam có tới 19 công ty thành viên. Doanh số hoạt động của tập đoàn là do doanh số của các công ty thành viên tạo ra. Thứ ba: TĐKT có hình thức sở hữu hỗn hợp, trong đó có một chủ thể đóng vai trò chi phối. Hình thức sở hữu vốn trong các TĐKT cũng rất đa dạng nhưng về căn bản vốn của tập đoàn là vốn do các công ty thành viên làm chủ sở hữu bao gồm vốn của tư nhân và có thể có vốn của Nhà Nước. Quyền sở hữu vốn trong tập đoàn cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào chủ thể chi phối. Có 2 cấp độ chính thể hiện mối quan hệ này: + ở cấp độ thấp hay còn gọi là liên kết mềm, vốn của công ty “mẹ”, công ty “con”, công ty “cháu”… là của từng công ty. + ở cấp độ cao hơn hay còn gọi là liên kết cứng, vốn của công ty “mẹ” tham gia đầu tư vào công ty “con”, công ty “cháu” và biến chúng thành công ty TNHH một thành viên do công ty “mẹ” làm chủ sở hữu hoặc công ty mẹ chiếm trên 50% vốn điều lệ (đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên) hoặc giữ cổ phần chi phối (đối với công ty cổ phần). Trên thực tế rất hiếm TĐKT chỉ có một cấp độ quan hệ sở hữu vốn mà luôn đan xen cả 2 cấp độ với nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam tồn tại chủ yếu là mối quan hệ về vốn ở cấp độ liên kết cứng. Như tập đoàn Bảo Việt đã đầu tư 100% vốn điều lệ vào Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt do Tập đoàn Bảo Việt, Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ; đầu tư 60% vốn điều lệ của Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC); đầu tư 40% vốn điều lệ của NHTM Cổ phần Bảo Việt (BAOVIET BANK); đầu tư 55% vốn điều lệ của Công ty Cổ phần Đầu tư Bảo Việt… Thứ tư: TĐKT có cơ cấu tổ chức phức tạp. Thường thì các TĐKT không có chức danh tổng giám đốc tập đoàn. Tuy nhiên ở Việt Nam thì vẫn còn tồn tại chức danh này. Ví dụ: Ông Trương Gia Bình là Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc tập đoàn FPT. Còn với tập đoàn Bảo Việt, ông Lê Quang Bình là chủ tịch hội đồng quản trị và bà Nguyễn Thị Phúc Lâm làm tổng giám đốc tập đoàn . Thứ năm: TĐKT hoạt động đa ngành nghề nhưng thường có một ngành nghề chủ đạo. Tập đoàn FPT có công ty chứng khoán, đại học FPT, công ty Bất động sản, công ty dịch vụ Tin học… nhưng lĩnh vực kinh doanh chủ yếu vẫn là phần mềm tin học. Tập đoàn dầu khí Việt Nam đầu tư vào lĩnh vực khai thác dầu khí, ngân hàng, xây dựng… nhưng ngành nghề kinh doanh chính vãn là khai thác dầu khí. 2.1.2. Phân loại TĐKT 2.1.2.1. TĐKT tư nhân Tiêu biểu cho TĐKT tư nhân là tập đoàn FPT, tập đoàn Kinh Đô, tập đoàn Hòa Phát,... Trên thực tế mô hình TĐKT tư nhân vẫn chưa được thừa nhận ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói, mặc dù có những bước đường phát triển với khó khăn thuận lợi khác nhau song các mô hình tập đoàn này đều có những điểm chung, đó là: - Hầu hết các tập đoàn này đều được hình thành trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. - Hầu hết các mô hình tập đoàn này đều có điểm xuất phát là mô hình Công ty gia đình hoặc nhóm nhà đầu tư thân cận... - Các tập đoàn đều có góp vốn, hoặc giữ cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác trong và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông. - Các cụng ty thành viờn của tập đoàn này đều đang được niêm yết trên sở giao dịch . - Các tập đoàn đang có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua phát triển nội sinh, mua bán sát nhập hay liên kết. 2.1.2.2. TĐKT nhà nước  ý tưởng phát triển một số công ty lớn thành TĐKT đã bắt đầu từ cách đây hơn 10 năm, đánh dấu bằng Quyết định số 91/TTg của Thủ tướng Chính Phủ ban hành năm 1994. Nhưng đến năm 2005 TĐKT đầu tiên mới được thành lập. Và cho đến nay, Thủ tướng chính phủ đã phê chuẩn thành lập 8 TĐKT nhà nước: Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Tập đoàn TKV), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Tập đoàn PVN), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (Tập đoàn EVN), Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Tập đoàn Vinatex), Tập đoàn Công nghiệp Cao Su Việt Nam(Tập đoàn VRG); Tập đoàn tài chính- Bảo hiểm (tập đoàn Bảo Việt); Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Tập đoàn Vinashin); Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Tập đoàn VNPT). Hiện nay còn nhiều công ty Nhà Nước khác cũng đang trình Chính Phủ xin cấp phép chuyển đổi thành TĐKT. Các tập đoàn này đều mang đặc điểm chung : - Tất cả các TĐKT nhà nước đều có xuất phát điểm là công ty có 100% vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. - Sự chuyển đổi sang mô hình mới do mô hình cũ hoạt động kém hiệu quả hoặc nguồn vốn đầu tư từ nhà nước không đem lại được hiểu quả kinh tế cao như mong đợi. - Sự chuyển đổi mô hình là do Nhà Nước mong muốn có những TĐKT thực sự lớn mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2.2. Thực trạng liên kết NHTM và TĐKT tại Việt Nam 2.2.1. Thực trạng kinh tế Việt Nam 2006-2008 Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh, để đáp ứng nhu cầu luân chuyển vốn cho nền kinh tế, các NHTM cũng liên tiếp ra đời và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các NHTM có mối liên hệ sâu sắc với các TĐKT thì thời gian gần đây mới trở nên mạnh mẽ. Đặc biệt là sự gia đời của các ngân hàng mà người đứng ra đề xướng thành lập nó là TĐKT (như là ngân hàng Tiên Phong, ngân hàng Bảo Việt) thì mới xuất hiện trong thời gian năm 2007, 2008. Do đó để phân tích và làm rõ về các mô hình liên kết NHTM – TĐKT ở Việt Nam, đề tài lựa chọn thời gian nghiên cứu là 3 năm, từ 2006 - 2007, với 2 giai đoạn chính: giai đoạn kinh tế phát triển nóng 2006-2007 và giai đoạn đầu khủng hoảng 2008. Thời kì 2006 - 2007 là thời gian phát triển nóng của nền kinh tế nước ta nói chung và ngành ngân hàng nói riêng (mức tăng trưởng tín dụng liên tục ở mức trên 25%/năm trong nhiều năm). Đặc biệt, năm 2007 được coi là năm vàng của ngành ngân hàng khi mà hàng loạt ngân hàng yếu kém trước đây, nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ sự tăng trưởng ngoạn mục của thị trường chứng khoán, đã vượt qua khó khăn, hồi sinh và phát triển. Đồng thời, đây cũng là năm mà ý tưởng thành lập NHTMCP xuất hiện trong đầu nhiều “đại gia” trong nền kinh tế, cả nhà nước và tư nhân. Trên thực tế là đến thời điểm tháng 8 năm 2007, có khoảng 50 hồ sơ xin thành lập ngân hàng, cả trong và ngoài nước được đệ trình và thẩm định. Tính đến tháng 5/2008, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam gồm có 5 NHTM nhà nước, 6 ngân hàng liên doanh, 36 NHTM cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 10 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Tuy nhiên, đối với một nền kinh tế mà quy mô GDP của nó chỉ đạt mức 50 tỉ USD (tính đến thời điểm tháng 8 năm 2008) thì số lượng các tổ chức tín dụng như thế là quá nhiều. Điều này làm gia tăng rủi ro đối với hệ thống ngân hàng do tăng rủi ro phi hệ thống. Và trên thực tế, nguồn vốn trên thị trường đã trở nên căng thẳng từ tháng 11/2007, thể hiện rõ nhất khi lãi suất trúng thầu trên thị trường mở có lúc đội lên tới 17% mỗi năm. Cho đến đầu năm 2008, tình hình không khả quan hơn và diễn ra ở hầu hết ngân hàng thương mại, đến mức VP Bank đã dừng cho vay tiền đồng vì chưa tìm được nguồn cung. Hệ quả của nó là việc thống ngân hàng Việt Nam đã phải đối mặt với nguy cơ lớn là cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động của các NHTM. Cuộc chạy đua tăng lãi suất này bắt đầu từ thời điểm ngày 15/2/2008 với việc ABBank, VIBBank, Techcombank tuyên bố tăng lãi suất. Tình trạng khan hiếm tiền đồng đồng thời cũng đẩy lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng thời điểm ngày 15/2/2008 vọt lên mức kỷ lục 30% mỗi năm, cao nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam, trong khi hôm trước chỉ ở mức 25%. Và trong vòng 8 tháng liên tiếp (đến tháng 10/2008), lãi suất huy động vốn ở các NHTM tăng liên tục. ở thời điểm nóng lãi suất huy động cho kì hạn 1 năm của Ngân hàng Ocean bank lên tới 19% (tháng 6/2008). Việc này cũng đẩy lãi suất cho vay lên cao và làm gia tăng rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán đối với các ngân hàng. Ngay sau đó, khi lãi suất bắt đầu ổn định lại vào cuối năm 2008 thì khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Từ tháng 7 mức tăng CPI đã giảm, tính chung CPI 11 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng 23,25% và so với tháng 12/2007 tăng 20,71%. Đây là chỉ số giá tiêu dùng cao nhất kể từ 1991 đến nay. Tốc độ tăng trưởng GDP (theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 là 8,48%, năm 2008 khoảng 6,5%, thấp hơn mức bình quân của 3 năm gần đây 1,5 - 2 điểm phần trăm (số liệu năm 2007 lấy từ Niên giám thống kê, năm 2008 lấy từ Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội, tháng 10/2008). Nói tóm lại, sau thời kì phát triển mạnh mẽ năm 2006 – 2007, nền kinh tế nước ta năm 2008 đi vào suy thóai và khủng hoảng, trở thành bước cản lớn đối với sự phát triển của ngành ngân hàng, vốn là ngành có xu hướng vận động cùng chiều với sự phát triển kinh tế. Vậy thì, bối cảnh kinh tế đó đã tác động như thế nào đối với ngành ngân hàng và liệu các ngân hàng có hậu thuẫn là các TĐKT lớn có dễ dàng đối mặt với khủng hoảng hơn các NHTM khác không? Để trả lời câu hỏi đó, đề tài sẽ đi vào phân tích thực trạng mô hình liên kết NHTM – TĐKT ở Việt Nam trong phần 2.2.2 và 2.2.3. 2.2.2. Mô hình TĐKT góp vốn vào NHTM Một trong hai hình thức liên kết chính ở Việt Nam hiện nay là mô hình TĐKT góp vốn vào NHTM. Hình thức liên kết này đang ngày càng phát triển mạnh trong nền kinh tế Việt Nam và trở thành một trong những công cụ chính để thâm nhập vào các tổ chức tài chính trung gian như là các NHTM của các tập đoàn kinh tế lớn. Theo báo cáo của Bộ tài chính, đến thời điểm ngày 12/5/2008, có đến 28/70 tập đoàn, tổng công ty đầu tư (gọi tắt là tập đoàn) tham gia góp vốn thành lập các công ty chứng khoán, ngân hàng, công ty bảo hiểm, bất động sản với giá trị hơn 23.344 tỉ đồng. Đặc biệt là ngành ngân hàng, hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam đầu tư số vốn lớn vào các NHTMCP như là Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) sở hữu 20% (tương đương 400 tỉ đồng) vốn góp của NHTMCP Đại dương (Ocean Bank), Công ty cổ phần tập đoàn T&T sở hữu trên 20% vốn cổ phần của NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT) nắm giữ 19,91% vốn điều lệ của NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritime bank)… Để làm rõ thêm về hình thức liên kết này ở Việt Nam, đề tài sẽ tập trung đi vào nghiên cứu mô hình tổ chức Ngân hàng NHTMCP Hàng hải Việt Nam tên viết tắt là Maritime bank hay M._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2259.doc
Tài liệu liên quan