Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Tài liệu Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm: LỜI NÓI ĐẦU Sau khi thực hiện luật doanh nghiệp, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến to lớn, sức sản xuất được giải phóng, nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh được phát triển mạnh. Số lượng doanh nghiệp đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng. Các doanh nghiệp này giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, trong tương lai nó sẽ là đối tượng cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng. Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của doanh ngh... Ebook Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp vừa và nhỏ, Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có chủ trương mở rộng cho vay sang khu vực doanh nghiệp này với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng và cung cấp dịch vụ để thu phí. Tuy nhiên, hiện nay việc mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Trong quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm với mong muốn tìm hiểu về nguyên nhân những khó khăn và đưa ra giải pháp giúp chi nhánh mở rộng cho vay đối với đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, em đã chọn đề tài “ Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm” để làm luận văn tốt nghiệp Luận văn của em gồm những nội dung chủ yếu: Chương I: Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương II: Thực trạng mở rộng cho vay đối với DNVVN tại Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN tại Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại NHTM là một tổ chức kinh tế, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó cho vay và làm phương tiện thanh toán. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại NHTM trở thành trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế thị trường vì NHTM đứng giữa người đi vay và cho vay; cung cấp những thông tin quan trọng đối xứng cho khách hàng, đồng thời nó có thể phát triển và kiểm soát hoạt động của đồng tiền để giảm được rủi ro. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại : 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn: Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Huy động vốn có ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. NHTM huy động thông qua hoạt động huy động tiền gửi và đi vay. Dựa trên mục đích của tiền gửi, tiền gửi thường được phân thành hai loại: tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch. Tiền gửi giao dịch: Là tiền gửi không có cam kết về kỳ hạn, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán. Khách hàng gửi vào Ngân hàng không phải để hưởng lãi mà coi Ngân hàng như là thủ quỹ của doanh nghiệp. Bằng cách này họ có thể rút ra bất cứ lúc nào theo mục đích thanh toán của họ, gồm tiền gửi có thể phát séc,UNT, UNC, thẻ chuyển tiền… Tiền gửi phi giao dịch: Là các khoản tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội , dân cư… Đây là những khoản tiền không thanh toán ngay, tạm thời nhàn rỗi, hiệu suất sử dụng cao vì nó tương đối ổn định. Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn nhiều so với tìên gửi giao dịch. Tiền gửi là nguồn đi vay quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên Ngân hàng thường vay mượn thêm nhằm bù đắp thiếu hụt, để đảm bảo thanh toán khi cần thiết. Các hình thức đi vay của Ngân hàng: Vay NHNN: Đây là khoản vay bù đắp nhu cầu cần thiết trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt một cách tạm thời, NHTM vay NHNN, do đó kỳ hạn vay thường ngắn. Vay các tổ chức tín dụng: Đây là nguồn các Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các TCTD khác trên thị trường liên Ngân hàng. Phát hành giấy tờ có giá: Như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu. Thường vay trung và dài hạn với quy mô tương đối lớn, lãi suất thường cao nhất, đây là nguồn rất đắt đỏ. 1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn Cho vay: Cho vay là hoạt động chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống của NHTM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và điều đó tất yếu dẫn đến hoạt động cho vay của Ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Đầu tư: Đây là hoạt động đầu tư chứng khoán và sản xuất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, là hoạt động thâm nhập của Ngân hàng vào nền kinh tế, nó mang tính chất cùng lời thì cùng ăn, lỗ cùng chịu chứ không phải giống hoạt động cho vay và thu lãi được cả nợ cộng gốc. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, chứng khoán Nhà Nước. Đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh Đầu tư vào góp vốn liên doanh: đối tượng của nó là các Ngân hàng khác liên doanh với các công ty tài chính Mục tiêu của hoạt động đầu tư là tạo lợi nhuận. Trên thực tế Ngân hàng đầu tư vào đâu thì đều có lợi nhuận bởi vì Ngân hàng là nơi tập trung các chuyên gia phân tích tài chính,vốn ở trong tay Ngân hàng vì thế tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với lãi suất. Mặt khác, mục tiêu của hoạt động đầu tư là để thâm nhập vào nền kinh tế để bành trướng thế lực của nó, Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là Ngân hàng mua ngoại tệ và bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng. Mục đích là mang lại thu nhập cho Ngân hàng từ sự chênh lệch ngoại tệ. 1.1.2.3 Hoạt động khác Hoạt động uỷ thác: Hoạt động này rất đa dạng và phong phú về hình thức cũng như đối tượng. Hoạt động uỷ thác nhằm mục đích để thu hút một số lượng khách hàng nhiều nhất đến với Ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh: Là nhiệm vụ NH cam kết trả tiền thay cho khách hàng được bảo lãnh cho việc khách hàng không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh. Hoạt động này mang lại thu nhập cho Ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Hoạt động cho thuê: Là họat động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản theo yêu cầu của bên thuê, và nắm giữ quyền sở hữu tài sản thuê; bên đi thuê được sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suất thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Tóm lại, khi nói tới NHTM thì không thể nói không nói tới hoạt động huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng. Các hoạt động này tạo ra nguồn thu của Ngân hàng và là minh chứng để chứng minh sự tồn tại và phát triển của một NHTM. Vì vậy mà các hoạt động này đóng vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi NHTM. 1.2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ và lao động Dưới một mức nhất định. Theo nghị định của chính phủ số 90/2001( NĐ-CP ngày 23/11/2001) DNV&N là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người 1.2.2. Đặc diểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh: Nhờ quy mô vừa nhỏ, mô hình tổ chức quản lý giản đơn nên những doanh nghiệp này rất năng động, linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh, đi vào những nghành nghề khác khi thấy lĩnh vực đó có lợi hơn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ khi chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Trong khi đó doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương. Điều này càng làm doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Có thể nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại : Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ là những tác động mạnh mẽ của nó đối với nền kinh tế, trong từng phương pháp hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc thay đổi trang thiết bị máy móc, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian tồn tại của một mặt hàng. Công nghệ cao hơn sản xuất ra những mặt hàng có nhiều ưu điểm hơn vì vậy máy móc luân yêu cầu phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Như vậy với đặc điểm nguồn vốn đầu tư ban đầu không lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp lớn. Tổ chức sản xuất quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ tiết kiệm chi phí: Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ tương đối nhỏ gọn, không có quá nhiều các khâu trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, các quyết định chế độ, chỉ tiêu… đến với người lao động một cách nhanh chóng. Cũng vì thế mà công tác kiểm tra giám sát được tiến hành nhanh chóng. Không phải qua nhiều khâu trung gia, tiết kiệm được chi phí cho quản lý doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu nhỏ: Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 90% số doanh nghiệp trong cả nước nhưng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp chỉ chiếm 30% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số vốn dưới 5 tỷ đồng. Sau khi luật doanh nghiệp được ban hành, số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng nhìn chung các doanh nghiệp mới có số vốn đăng ký trên dưới 1 tỷ đồng, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên thị trường tài chính phi chính thức, ít được tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng do không đảm bảo được các điều kiện cần thiết và không có tài sản thế chấp. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam công nghệ lạc hậu: Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa học công nghệ thì trình độ khoa học kỹ thuật của phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Do vậy sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghiệp thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực cũng như thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp. Ngay như đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dệt là lĩnh vực có nhiều khả năng và cố gắng trong đổi mới công nghệ nhưng vẫn còn gần 50% thiết bị dệt đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao, 80% máy dệt là máy dệt thoi khổ hẹp nên chất lượng hàng dệt thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, mới đáp ứng được khoảng 30% nguyên liệu cho may xuất khẩu; đối với nghành may mặc, thiết bị máy móc của ta lạc hậu từ 5-7 năm, phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15-20 năm so với các nước như Thái lan, Trung Quốc. Trình độ người quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp này còn hạn chế: Việt Nam khoảng 74% người lao động chưa học hết phổ thông và 30% chủ doanh nghiệp chưa qua trường lớp đào tạo nào. Năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp nói chung còn thấp, không ít doanh nghiệp chưa xây dựng nội quy, chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quyền dân chủ của cổ đông, của người góp vốn, thiếu tôn trọng vai trò của hội đồng quản trị …. Các doanh nhân, các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu hiểu biết đầy đủ để quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Một số DNNN có vị thế độc quyền chậm cải tiến quản lý, hạ giá thành, không thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đối với khách hàng cũng như trong nội bộ doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiên đại hoá, lao động có trình độ cao còn quá ít so với nhu cầu đang tăng nhanh, hiện tượng khan hiếm lao động ở khu trung tâm công nghiệp, các khu công nghiệp khá phổ biến dẫn đến tình trạng tranh dành lao động có chất lượng giữa các doanh nghiệp. Người lao động chưa được đào tạo và chuẩn bị tốt về tác phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp… Những hạn chế đó làm tăng chi phí về sử dụng lao động. trong khi đó nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược về nhân sự, chưa quan tâm đến đào tạo bồi dưỡng lao động. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không ít khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ yếu là quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc, sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp luân bị tấn công do việc xuất hiện các mặt hàng làm giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Cùng với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng nhỏ trên thị trường nội địa. Đây chính là do sự yếu kém của công tác tổ chức quản lý thị trường. Đối với các doanh nghiệp hướng sản phẩm của mình chủ yếu dành cho xuất khẩu, nhiều vấn đề nảy sinh cần được khắc phục như việc hạn chế về công nghệ dẫn đến mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chất lượng và tính cạnh tranh chưa cao cộng với khả năng tiếp cận thị trường kém. Rất ít doanh nghiệp tham gia điện tử thị trường trên mạng, giới thiệu chào hàng trên mạng, tham gia hội chợ triển lãm. Khi ký hợp đồng thường bị ép giá qua các đối tác trung gian, việc thiếu am hiểu luật pháp quốc tế và thương mại quốc tế cũng khiến doanh nghiệp chịu nhiều thua thiệt. 1.2.3. Nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.3.1. Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu bao gồm - Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông góp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước là nhà nước. Đối với các doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn ở Việt Nam góp ban đầu thường nhỏ chỉ dưới 10 tỷ đồng, phần lớn các doanh nghiệp số vốn chỉ trên dưới 5 tỷ đồng. - Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh , nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của chủ doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam lợi nhuận để lại ít ỏi. Bởi vậy nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ lợi nhuận không chia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế. Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tăng nguồn vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới nếu có đủ các điều kiện: thứ nhất: là công ty cổ phần có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành cổ phiếu tối thiểu 5 tỷ đồng Việt Nam. Thứ 2: hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm phát hành phải có lãi. Thức 3: có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu. Để tăng nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng gặp không ít khó khăn, khó khăn xuất phát từ hạn chế của cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phần đông chưa qua đào tạo, việc lập dự án để chứng minh tính khả thi của cơ hội kinh doanh là một điều quá sức. 1.2.3.2 Nguồn vay nợ: Mặc dù đã đi vào họat động được hơn 4 năm nhưng thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển đầy đủ và đồng bộ, cho đến nay mới chỉ có thị trường chứng khoán tập trung cho các doanh nghiệp có quy mô vốn từ 10 tỷ đồng trở lên. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số vốn dưới 10 tỷ đồng vì vậy họ không được vay các khoản vay trên thị trường chứng khoán như : phát hành trái phiếu. Nguồn vay nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là: vốn tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng Vốn tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng chính thức của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng do không đảm bảo được các điều kiện cần thiết và không có tài sản thế chấp, bởi vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng phổ biến tín dụng thương mại. Nguồn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng rất to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà với cả nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng những khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các mỗi quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng khi quy mô tài trợ quá lớn thì tính rủi ro của quan hệ tín dụng này là rất lớn. Vốn tín dụng Ngân hàng: vay vốn Ngân hàng là một giải pháp cổ điển, hầu hết các doanh nghiệp đều nghĩ tới. Ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp, bù lại Ngân hàng nhận tiền lãi do doanh nghiệp trả cho khoản vay đó . Ngân hàng là một tổ chức tài chính có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, luân có khả năng cung cấp các nguồn tài trợ ngắn hạn, trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Ngân hàng có thể cung cấp vốn cho doanh nghiệp từ khi mới thành lập, khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cung cấp vốn lưu động khi doanh nghiệp có nhu cầu. 1.3. MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.3.1. Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Có nhiều cách phân loại, nếu phân theo đặc điểm của món vay các doanh nghiệp thường sử dụng thì có các phương thức cho vay: CHO VAY TỪNG LẦN: Phương thức này áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần. đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Ngân hàng xác định mức cho vay theo công thức: Nhu cầu vốn ngân hàng= Tổng nhu cầu vốn của phương án, dự án – vốn lưu động tự có hoặc liên doanh. Mỗi món vay, khách hàng phải làm đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ và hoàn tất hồ sơ trong bộ hồ sơ tín dụng. Ngân hàng phải xem xét và giải quyết căn cứ vào số tiền cho vay đã được giám đôc ngân hàng duyệt, nhân viên tín dụng theo dõi phát tiền vay một lần hoặc nhiều lần theo tiến độ nhận nợ với ngân hàng nhưng tổng dư nợ ngân hàng không được vượt mức cho vay cao nhất trong quý. Mỗi món vay được quy định thời hạn trả nợ cuối cùng. Mỗi lần xin vay được quy định thời hạn trả nợ cụ thể, nhưng kỳ hạn trả nợ của mỗi món vay không vượt quá thời hạn trả nợ cuối cùng của món vay. Kỳ hạn nợ được ấn định phải trả vào lúc doanh nghiệp xin vay hết chu kỳ chu chuyển. Nếu đến kỳ hạn nợ mà bên vay không có dư tiền để trả thì họ cần phải làm đơn xin gia hạn nợ. Thời gian gia hạn nợ sẽ không vượt quá thời gian cho vay trước đây hoặc không vượt qúa chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lý do chính đáng thì ngân hàng sẽ thực hiện việc chuyển nợ quá hạn và thông báo cho bên vay biết. Trường hợp cuối cùng vì lý do đặc biệt mà bên vay không trả được nợ thì một mặt đơn vị vay vốn phải xin gia hạn và mặt khác ngân hàng gửi hồ sơ trình cấp trên xin được khoanh nợ. Sau khi được chính phủ cho phép khoanh nợ thì đơn vị vay vốn sẽ được tiếp tục vay vốn ở ngân hàng. Nếu đến kỳ hạn trả nợ mà người đi vay không đủ tiền để trả thì ngân hàng sẽ thu lãi trước còn bao nhiêu trừ vào nợ gốc hoặc thu tương ứng gốc và lãi. CHO VAY TRẢ GÓP : Hình thức này chủ yếu dùng trong cho vay tiêu dùng của cá nhân hộ gia đình, còn đối với doanh nghiệp cho vay trả góp thường phát sinh khi có các nhu cầu vay vốn như: xây dựng các công trình phúc lợi cho cán bộ công nhân viên. Theo phương thức này ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn thỏa thuận mức cho vay, thời hạn vay vốn, lãi suất cho vay và số kỳ hạn trả góp để xác định một mức trả góp trong suất thời hạn vay. Lãi suất cho vay thường là cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng. CHO VAY THEO HẠN MỨC: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong ngắn hạn: Hạn mức tín dụng ngắn hạn= Nhu cầu vốn lưu động kế hoạch- ( Nguồn vốn KD ngắn hạn + Nguồn vốn coi như tự có + Nguồn vốn khác) Trong đó: Nguồn vốn kinh doanh ngắn hạn là một phần nguồn vốn kinh doanh được sử dụng cho các nhu cầu về TSCĐ. Nguồn vốn coi như tự có là tất cả các số dư các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối và khoản chênh lệch tăng giá vật tư theo quyết định của nhà nước. Nguồn vốn khác bao gồm vay ngân hàng khác hoặc vay đối tượng khác, vay nội bộ của công ty… Trong dài hạn: Hạn mức tín dụng trong dài hạn thể hiện số vốn tín dụng của ngân hàng tham gia vào công trình hay dự án đầu tư, do đó giúp cho đơn vị chủ đầu tư có đủ vốn để thực hiện công trình hay chủ đầu tư thực hiện kế hoạch đã đề ra. Hạn mức tín dụng đầu tư không những giúp cho đơn vị tổ chức kinh tế thực hiện việc cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa dây chuyền công nghệ mà còn góp phần đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất của nền kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hạn mức tín dụng trung dài hạn = Tổng dự toán chi phí – Nguồn vốn đầu tư tự có. Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định lãi suất của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, chi nhánh Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm và khách hàng thỏa thuận để ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng. Xác định thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc xác định trến giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nguồn vốn của chi nhánh Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm. CHO VAY THẤU CHI: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định vào khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hạn mức thấu chi: Được xác định trên cơ sở số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng và tỷ lệ hạn mức thấu chi thỏa thuận giữa hai bên Số lãi mà khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ bị lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp mua hàng. CHO VAY THEO DỰ ÁN ĐẦU TƯ: Đây là loại hình cho vay mới xuất hiện ở Việt Nam. Theo đó các dự án đầu tư của nhà nước hay của doanh nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh cơ sở hạ tầng ,dịch vụ, đời sống …. Nếu tính được hiệu quả kinh tế, có tính khả thi mà thiếu vốn thì ngân hàng sẽ cho vay theo dự án đầu tư giúp đơn vị chủ đầu tư hoàn thành dự án đầu tư. Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định và các kỳ hạn nợ, lãi suất…. Mức cho vay =Tổng nhu cầu vốn của phương án, dự án - Vốn tự có của chủ dự án tham gia – Vốn khác( nếu có) Thời hạn vay = thời gian xây dựng cơ bản + thời gian trả nợ Lãi suất cho vay: Căn cứt theo quy định của tổng giám đốc NHCT Việt Nam, chi nhánh Công Thương Hoàn Kiếm và khách hàng thỏa thuân ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng. Việc cho vay theo dự án đầu tư, ngân hàng cần phải kết hợp với các hình thức cấp tín dụng khác như: Thực hiện bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, có như vậy ngân hàng mới thu được doanh thu cao nhất. Cho vay theo phương thức này thường là dự án lớn cần có nguồn vốn lớn, ngân hàng cần có thời gian huy động và trả lãi huy động do vậy ngân hàng và khách hàng thỏa thuận mức phí trả trong trường hợp khách hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí huy động của ngân hàng, trong trường hợp khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng nhưng thực tế không vay. CHO VAY HỢP VỐN: Trường hợp một công trình dự án đầu tư có tổng dự toán lớn vượt quá giới hạn cho vay thì áp dụng phương thức cho vay hợp vốn. Theo đó ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng sẽ đóng vai trò là “ngân hàng đầu mối” sẽ kêu gọi các ngân hàng khác cùng tham gia cho vay hợp vốn và phân bổ hạn mức cho từng thành viên. Ngân hàng đầu mỗi sẽ trực tiếp giải ngân lập phương án thu nợ thu lãi, đồng thời phân bổ mức thu nợ gốc, lãi cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ vốn của từng ngân hàng. 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay: Mở rộng tín dụng: Mở rộng tín dụng là sự đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về quy mô tín dụng nói cách khác đó là việc làm tăng tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của các NHTM. Mở rộng tín dụng được xác định trên cơ sở thực hiện đa dạng hóa khách hàng, các loại hình dịch vụ Ngân hàng, cũng như các đối tượng cho vay. Việc xây dựng được các mức lãi suất hợp lý cũng như xác định các kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ SX-KD của khách hàng đi đôi với việc cung cấp các loại hình bảo lãnh thích hợp cũng góp phần mở rộng họat động tín dụng. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng tín dụng: Mở rộng tín dụng được phản ánh qua chỉ tiêu định lượng và định tính. Định lượng : tăng lên về đối tượng vay vốn, số dư nợ, số lượng khách hàng …. Định tính: thay đổi cơ cấu khoản vay, cơ cấu khách hàng vay vốn, hình thức bảo đảm… Thứ nhất: Số dư nợ, Số dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng so với kỳ trước, hoặc tăng so với kế hoạch chứng tỏ ngân hàng đã mở rộng cho vay đối đối tượng này. Tuy nhiên khi xem xét chỉ tiêu này ta phải đặt trong mỗi quan hệ với các chỉ tiêu khác vì số dư nợ không thể phản ánh hết thực chất cuả việc mở rộng cho vay. Thứ hai: Tỷ trọng dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ(k) k= Số dư nợ DNVVN/Tổng số dư nợ Tỷ trọng này phản ánh sự mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ so với doanh nghiệp lớn Nếu k ngày càng tăng theo thời gian chứng tỏ ngân hàng đã ngày càng coi trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Có thể số dư nợ không tăng theo thời gian nhưng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên điều đó chứng tỏ ngân hàng đã quan tâm và đã mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. Thứ ba: Tốc độ tăng dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ (t ) t = (Dư nợ DNVVN(n)- Dư nợ DNVVNn+1))/ Dư nợ DNVVN (n) Tốc độ này phản ánh mức độ mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Nếu t< 0 chứng tỏ ngân hàng đã thu hẹp cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Nếu t >0 và lớn hơn tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp khác thì chứng tỏ ngân hàng đã mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu t >0 nhưng nhỏ hơn tôc độ tăng dư nợ của doanh nghiệp lớn thì sự mở rộng đó là không thực chất mà chỉ là sự tăng lên đơn thuần của số dư nợ theo xu hướng chung. Thư: Cơ cấu dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Có nhiều cách phân loại dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ mà ta có các loại cơ cấu dư nợ khác nhau. Nếu phân loại theo thành phần kinh tế thì có dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước và dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nếu phân loại theo kỳ hạn thì có dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung dài hạn. Theo kỳ hạn: Nếu tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng tức cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ dài hạn sang dư nợ ngắn hạn, điều đó chứng tỏ ngân hàng mở rộng cho vay ngắn hạn . Nếu tỷ trọng dư nợ dài hạn tăng chứng tỏ ngân hàng dịch chuyển từ dư nợ ngắn hạn chứng tỏ ngân hàng mở rộng cho vay dài hạn Ta không thể kết luận tỷ trọng các khoản vay ngắn hạn, trung dài hạn theo tỷ lệ nào mới là mở rộng, mà tùy từng thời điểm, tùy từng điều kiện mà sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý là sự mở rộng cho vay. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng chứng tỏ nhu cầu vốn cho vay mua sắm tài sản lưu động lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt năng suất và hiệu quả, còn tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh, có nhu cầu cho đầu tư đổi mới công nghệ. Nhu cầu nào tăng cũng là dấu hiệu tốt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Miễn là doanh nghiệp sử dụng vốn thế nào cho hợp lý, hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và ngân hàng thì tỷ lệ dư nợ ngắn hạn hay tỷ lệ dư nợ trung dài hạn tăng cũng đều là sự mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ năm: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Ngân hàng hoạt động với mục đích an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng cho vayđối với ngân hàng cũng phải đảm bảo hiệu quả. Chỉ tiêu này không phản ánh trực tiếp sự mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng nó rất quan trọng để đánh giá sự an toàn và hiệu quả mở rộng cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn =số dư nợ quá hạn / tổng dư nợ của các doanh nghiệp Số dư nợ quá hạn là toàn bộ só dư nợ của các doanh nghiệp đã đến hạn trả nhưng các doanh nghiệp không trả được mà chưa xử lý. Tỷ lệ này được khống chế tại một mức nào đó có thể chấp nhận được. Thứ sáu: Số doanh nghiệp vay vốn tai ngân hàng: là số doanh nghiệp đến vay vốn tại ngân hàng tại một thời kỳ thường là một năm. Đó là chỉ tiêu cụ thể nhất phản ánh mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng. Nhưng khi nghiên cứu chỉ tiêu này ta phải đặt trong mỗi quan hệ với chỉ tiêu khác, phải xem xét sự biến đổi số tiền mỗi lần vay. Mở rộng tín dụng phải đáp ứng yêu cầu: - Đối với khách hàng: tín dụng phải thỏa mãn được tối đa các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng cung cấp, đa dạng hóa các hình thức và loại hình tín dụng cũng như các loại hình dịch vụ bảo lãnh. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: hoạt động tín dụng phải đáp ứng được các yêu cầu bức xúc về vốn cho nền kinh tế, là kênh dẫn vốn gián tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn các nguồn lực tài chính, trợ giúp ngân sách nhà nước thực hiện thành công sự CNH,HĐH đất nước. - Đối với Ngân hàng thương mại: Tín dụng luân được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của các NHTM. 1.3._..3. Tác dụng của vịêc mở rộng cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.3.1 Đối với doanh nghiệp Tín dụng Ngân hàng là nguồn tài trợ quan trọng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Dịch vụ Ngân hàng hiện đại ngày càng phát triển, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng. Mọi doanh nghiệp đều có thể vay vốn Ngân hàng nếu như thoả mãn các điều kiện về khả năng pháp lý, hiệu qủa kinh doanh và khả năng trả nợ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn nếu như có một cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp bao gồm hai nguồn cơ bản : vốn tự có và vốn đi vay. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý của hai nguồn vốn này. Nguồn vốn vay của doanh nghiệp thường thông qua tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại và phát hành trái phiếu. Có thể nói rằng, vốn vay Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do Ngân hàng cung cấp . Không có doanh nghiệp nào không vay vốn Ngân hàng nếu doanh ngiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay Ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh , đặc biệt là có đủ vốn cho các phương án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cả Ngân hàng và doanh nghiệp phải cân nhắc trong việc quy định tỷ lệ vốn vay trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kèm theo giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, rủi ro lớn cho Ngân hàng, ngược lại , nếu vốn ít sẽ bỏ qua cơ hội kinh doanh tốt. Tín dụng Ngân hàng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh: Một trong những nguyên tắc tín dụng là phải trả lãi và trả gốc đúng thời hạn. Do đó người đi vay buộc phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn vay, giá thành sản phẩm, doanh thu thu được … để sao cho đến cuối kỳ có thể thu được lợi nhuận đủ để trả tiền vay Ngân hàng và còn lợi nhuận để lại. Rõ ràng với những điều kiện ràng buộc như vậy, Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng hoạch toán kinh doanh, tổ chức sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Tín dụng Ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và uy tín các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Trong nền kinh tế thị trường khả năng cạnh tranh có tính sống còn đối với môĩ doanh nghiệp. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, giá cả hàng hoá, công nghệ… Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo ưu thế về sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không những chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp lớn với ưu thế về công nghệ, quy mô sản xuất, từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác hoạt động trong cùng lĩnh vực mà còn phải cạnh tranh với một số lượng lớn hàng nhập lậu, hàng giả. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm khẳng định chỗ đứng của mình trên thương trường. Với nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng, các doanh nghiệp có thể dùng để đầu tư chiều sâu, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề công nhân viên… từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hàng hoá được thị trường, người tiêu dùng chấp nhận tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng và khẳng định uy tín của doanh nghiệp trên thị trường Hoạt động cho vay của Ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập với thế giới. Với quan hệ rộng rãi của mình, tín dụng Ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được thông tin về thị trường quốc tế, tiếp cận công nghệ sản xuất, tìm kiếm thị trường quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp gỡ các đối tác trong và ngoài nước, xúc tiến quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp….Hoạt động cho vay của Ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể nhập khẩu máy móc thiết bị,hàng hóa, dịch vụ … Ngoài ra, vốn từ Ngân hàng còn giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng cường khả năng cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước và tíên tới là thị trường nước ngoài, đẩy mạnh quá trình thay thế nhập khẩu hàng hóa trong nước, hướng tới xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Nhờ đó, hoạt động cho vay của Ngân hàng đã giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có được cơ hội tiếp cận với nền kinh tế khu vực và thế giới. Như vậy, có thể nói hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động cho vay của Ngân hàng giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục được nhược điểm vốn có của mình: khả năng tài chính còn yếu, máy móc thiết bị còn lạc hậu, một vấn đề khá nan giải đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bây giờ đã có tín dụng Ngân hàng giải quyết, tiếp nữa là trình độ của các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu, khả năng nắm bắt thông tin còn thiếu, thì bây giờ Ngân hàng hỗ trợ tư vấn. Qua đó, Ngân hàng không chỉ là một nhà cung cấp vốn thông thường, mà còn là một người bạn đồng hành đáng tin cậy của mỗi doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng vững và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế, xã hội. 1.3.3.2 Đối với Ngân hàng - Phân tán được rủi ro: Hiện nay mở rộng cho vay đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ cho phép phân tán rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Bởi vì doanh nghiệp vừa và nhỏ số lượng lớn, số vốn một lần vay ít tránh cho ngân hàng tập trung một khoản vay lớn vào một khách hàng. - Làm tăng doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay và phí dịch vụ khác: Mở rộng cho vay có thể theo chiều rộng hoặc chiều sâu. Theo chiều rộng tức là số dư nợ tăng lên hoặc số doanh nghiệp được vay tăng lên…. Khi số dư nợ tăng lên sẽ là cơ sở để tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi Ngân hàng không gặp rủi ro lớn từ các khoản vay này thì chắc chắn doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng lên. Cùng với khoản thu từ lãi là các khoản thu về dịch vụ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh…..Đa dạng hoá được đối tượng khách hàng cũng giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng, chính điều đó cũng làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Mở rộng theo chiều sâu, tức làm thay đổi tỷ trọng cơ cấu của khoản vay, đối tượng vay. Tuy số dư nợ không tăng nhưng tỷ trọng khoản vay trung và dài hạn tăng, mà lãi suất trung và dài hạn cao hơn lãi suất của ngắn hạn do đó thu lãi tăng. - Mở rộng cho vay giúp cho Ngân hàng trở nên hoàn thiện hơn: khi mở rộng cho vay làm cho số doanh nghiệp đến vay Ngân hàng tăng, từ đó cán bộ Ngân hàng thông thạo hơn trong phân tích khách hàng, nghiệp vụ, thu được nhiều thông tin hơn, giúp cho kinh doanh có hiệu quả. 1.3.3.3 Đối với nền kinh tế Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư , tín dụng với sự đa dạng về hình thức và chủng loại sẽ góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế, đồng thời tăng cường chất lượng hoạt động tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền trong lưu thông, điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng tín dụng, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. Mở rộng tín dụng tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, tăng uy tín cho Ngân hàng, cho quốc gia, đồng thời góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát , thực hiện ổn định tiền tệ. Mở rộng tín dụng góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của từng vùng, từng địa phương, từng ngành kinh tế. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng phát triển kinh tế địa phương, phát huy và làm sống lại nhiều ngành nghề truyền thống. Thông qua sự phân tích đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng định đầu tư để có những quyết sách đầu tư đúng đắn, nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên , lao động , tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất , cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội , giải quyết việc làm , tăng thu nhập cho người lao động… Mở rộng tín dụng sẽ góp phần mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, tăng hiệu quả sản xuất xã hội , đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành , các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.. 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay 1.3.4.1 Nhân tố từ phía Ngân hàng Chi phí cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNV&N) lớn hơn nhiều so với việc cho vay các món lớn (thường là đối với doanh nghiệp nhà nước), khiến các Ngân hàng thương mại ngần ngại mở rộng cho vay đối tượng này. Đối với các Ngân hàng thương mại trước đây chủ yếu cho vay doanh nghiệp lớn như Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư phát triển, mở rộng cho vay tới các DNV&N với các khoản vay nhỏ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí giao dịch. Nhiều Ngân hàng thừa nhận còn e ngại cho vay đối với các DNV&N vì các doanh nghiệp này còn có ba vấn đề: thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý, thiếu chiến lược sản phẩm. Bản thân trình độ nhận thức của cán bộ tín dụng ỏ các Ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, chưa mạnh dạn cho vay đối với đối tượng khách hàng đa dạng phức tạp như DNV&N trong tình hình hiện nay. Về mặt tâm lý đã có những vụ án hình sự hoá quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng khi khách hàng lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm dụng vốn vay. Nên hiện nay đối với nhiều nhân viên tín dụng tâm lý an toàn đặt cao hơn hiệu quả kinh doanh vì sợ bị nghi vấn là có sự thoả thuận ngầm với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong việc giải quyết cho vay. Tình hình vốn hay khả năng tài chính của Ngân hàng cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng cho vay đối với Ngân hàng. Ngân hàng mà có một cấu trúc vốn tương đối lớn thì có thể mở rộng cho vay với các kỳ hạn dài hơn , nhiều rủi ro hơn. Nếu khả năng tài chính kém thì Ngân hàng sẽ không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng đặc biệt là khách hàng có nhu cầu vay lớn. Tuy nhiên mỗi khách hàng cũng chỉ được vay vốn trong một giới hạn nhất định. Theo điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN quy định giới hạn khoản vay: - Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn ủy thác của chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn. - Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng để làm căn cứ tính giới hạn cho vay vượt quá mức giới hạn quy định tại khoản 1 điều này khi được thủ tướng chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể. - Việc xác định vốn tự có của các tổ chức tín dụng để làm căn cứ tính giới hạn cho vay quy định tại khoản 1 và 2 Điều này thực hiện theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Như vậy, có thể nói quy mô vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Nếu vốn chủ sở hữu của một Ngân hàng mà nhỏ thì khả năng mở rộng cho vay sẽ hạn chế. Công nghệ Ngân hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc mở rộng cho vay. Nếu Ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, các giao dịch diễn ra nhanh chóng chính xác, thuận tiện thì sẽ có nhiều khách hàng đến với Ngân hàng, vì vậy việc mở rộng cho vay sẽ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Công nghệ Ngân hàng cũng góp phần vào việc phát triển đa dạng các sản phẩm cho vay, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn phục vụ tốt cho quá trình mở rộng cho vay. Quy mô, phạm vi hoạt động của Ngân hàng ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, do đó nó ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay. Phạm vi và quy mô hoạt động càng lớn, càng rộng thi càng có nhiều doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với Ngân hàng, nhu cầu vốn sẽ cao hơn. Đồng thời Ngân hàng cũng có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn có khả năng cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ hơn nên việc mở rộng cho vay đối với DNV&N sẽ thuận lợi hơn nhiều. Chính sách cho vay ưu đãi , ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về mức vốn cho vay sẽ làm thúc đẩy hoạt động cho vay, tăng khả năng tiếp cận của ngân hàng đối với các loại khách hàng. Vì khách hàng khi vay vốn luân mong muốn được vay với giá rẻ, đủ số lượng mà mình cần. Ngoài ra, uy tín của Ngân hàng, hoạt động Marketing của Ngân hàng mà không tạo được uy tín với khách hàng thì sẽ không thu hút được khách hàng đến với mình dẫn đến sẽ mất những khách hàng lớn, giảm khả năng cho vay và giảm thu nhập của Ngân hàng. Đôi khi, để thúc đẩy hoạt động cho vay Ngân hàng phải thực hiện các chiến dịch quảng cáo, phải đến tận từng doanh nghiệp chao mời… 1.3.4.2 Nhân tố thuộc về doanh nghiệp Trước hết là khoản vay phụ thuộc vào nhu cầu vay của khách hàng. Khách hàng là doanh nghiệp khi có nhu cầu vay với tình hình tài chính tốt, hoạt động kinh doanh có lãi, thì sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong thẩm định đánh giá các khoản vay, từ đó khoản vay có thể dễ dàng thực hiện được. Tùy thuộc vào nhu cầu của mỗi khách hàng mà Ngân hàng có thể phát triển nhiều phương thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay đối với sinh viên…Có lúc khách hàng xin vay vượt mức giới hạn mức cho phép Ngân hàng sẽ phải lựa chọn đồng ý hay từ chối. Những quyết định cho vay của Ngân hàng phải hết sức linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Tiếp đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để Ngân hàng có quyết định cho vay hay không. Ngân hàng nào cũng muốn mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, song càng lẫn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp thì Ngân hàng càng gánh chịu nhiều rủi ro, do vậy Ngân hàng phải hạn chế cho vay trong khả năng thanh toán của mình. Vốn tự có và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là tài sản bù đắp rủi ro khi phát sinh bất lợi và là yêu cầu cho sự an toàn, tính khả thi của khoản vay. Đặc biệt Ngân hàng quan tâm đến khả năng sinh lời và khả năng trả nợ của doanh nghiệp trước khi đưa ra một quyết định cho vay, bởi khả năng sinh lời là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay của doanh nghiệp. Trình độ, khả năng dự đoán các vấn đề kinh doanh, đạo đức tư cách của khách hàng là nguyên nhân ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động cho vay. Nhiều khách sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ cũng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn lừa Ngân hàng làm cho Ngân hàng không xác định đựơc chính xác về mục đích và chất lượng của khoản vay dẫn đến rủi ro xảy ra. Trong trường hợp người vay kinh doanh có lãi nhưng lại chây ỳ không trả nợ, Ngân hàng sẽ không thu hồi được vốn đúng hạn. khách hàng cũng có thể xin gia hạn nợ, nếu Ngân hàng gia hạn nợ quá nhiều cho khách hàng sẽ làm giảm độ an toàn và chất lượng khả năng của khoản vay. 1.3.4.3 Những nhân tố thuộc về Ngân hàng trung ương và chính phủ Khả năng cho vay của các Ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các công cụ của chính sách tiền tệ bao gồm : Dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở , chính sách tái chiết khấu - Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động của Ngân hàng trung ương mua bán các chứng khoán có giá ( tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước..) trên thị trường tiền tệ, khi Ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ và ảnh hưởng đến khả năng cung ứng cho vay của Ngân hàng thương mại. - Dự trữ bắt buộc nhằm điều chỉnh khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cho vay của hệ thống Ngân hàng thương mại. Dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi. Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay làm khả năng cho vay của các Ngân hàng giảm xuống. - Chính sách tái chiết khấu: Là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thi hành chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các Ngân hàng kinh doanh. Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu tức làm giá cả các khoản vay tăng, làm khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế giảm và ngược lại - Chính sách lãi suất: Tháng 8/2000 NHNN thực hiện lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VNĐ và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Sau hai năm thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận cho thấy biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với các Ngân hàng nhà nước và các khoản tín dụng cho vay thành thị. Còn đối với các NHTM cổ phần( trừ quỹ tín dụng nhân dân) và các khoản cho vay khu vực nông thôn là chưa thoả đáng. Lãi suất trần cơ bản cộng thêm biên độ thực chất đã tạo nên trần lãi suất tối đa mà các Ngân hàng thương mại được phép cho vay, nhưng việc khống chế lãi suất trần cho vay sẽ không còn là vấn đề quan trọng khi nền kinh tế đã đặt các Ngân hàng thương mại vào cuộc cạnh tranh tìm kiếm khách hàng và thị phần tín dụng, tín dụng cho vay trong nền kinh tế. Dến tháng 6/2002 NHNN thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, theo quyết định này thì các Ngân hàng thương mại được quyền tự quyết định lãi suất cho vay của Ngân hàng mình. Sự chủ động về lãi suất sẽ tạo ra sự chủ động cho hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng vừa tạo cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các khoản vay trên thị trường chính thức của các doanh nghiệp, qua đó tăng hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. 1.3.4.4 Nhân tố khác: Môi trường kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế có tác động đến hoạt động tín dụng do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, do đó nhu cầu tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Ngược lại trong giai đoạn kinh tế trì trệ, giảm phát thất nghiệp cao,đầu tư không mang lại hiệu qủa, hầu như các hoạt động sản xuất đều bị thu hẹp, nhu cầu vốn cho đầu tư giảm mạnh, tất nhiên Ngân hàng không thể mở rộng hoạt động cho vay của mình. Mặt khác, hoạt động Ngân hàng là một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm với các diễn biến của nền kinh tế bởi vì: - Tài sản của Ngân hàng chủ yếu hình thành từ tiền gửi, tiền vay. Do đó bất kỳ một thông tin nào có ảnh hưởng đến tài sản của họ thì họ sẽ có phản ứng ngay lập tức - Các tài sản của Ngân hàng hầu hết là các tài sản tài chính và có tính thanh khoản cao, dễ chuyển đổi nên nó phản ứng nhanh với những biến động nhỏ của nền kinh tế Sự hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực chính là sự tham gia của kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới thể hiện qua kim ngạch thương mại quốc tế. Sự hoà nhập kinh tế quốc tế là cơ hội tốt cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp, cả hai đều có cơ hội hợp tác, tìm kiếm khách hàng, tiếp nhận công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các Ngân hàng có thể mở rộng cho vay ngoại tệ để các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, trang bị máy móc, kỹ thuật công nghệ. Đồng thời, phát trỉên các dịch vụ như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế… Trong những năm qua kinh tế Vịêt Nam có sự hội nhập mạnh mẽ có thể kể ra như: Việt Nam đã tham gia thị trường tự do thương mại Asian(AFTA); diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương(APEC): ký hiệp định thương mại Việt Nam- hoa kỳ … Đó là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và Ngân hàng nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu Môi trường an ninh, chính trị, xã hội Yếu tố này không thể tách rời yếu tố ổn định và phát triển kinh tế, không một quốc gia nào mất ổn định về an ninh chính trị lại có thể có kinh tế phát triển. Nước ta hiện nay có thể nói là có chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh giá là có độ an toàn cao. Đó là hai điều kiện căn bản để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, ở nước ta tệ nạn xã hội thực tế còn nhiều nhất là nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền…. Môi trường pháp lý : Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế thị trường là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn hảo và thiếu đồng bộ thì sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó, nó tác động trở lại tới việc cho vay của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp này . Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành bổ sung, chỉnh sửa nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của Ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp. Có thể kể ra là: luật doanh nghiêp, luật phá sản, luật thương mại… cùng hàng loạt các nghị định, quyết định, thông tư và các văn bản pháp luật khác của chính phủ, các bộ ngành. Tất cả các văn bản pháp luật này điều chỉnh theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi. Đó là điều kiện tốt cho ngân hàng mở rộng cho vay đối với đối tượng này. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Công thương hoàn kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam(NHCTVN), có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Hơn 10 kể từ khi là chi nhánh của Ngân hàng Công thơng Việt Nam, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có được bước trưởng thành và phát triển vượt bậc, khẳng định vị thế vững vàng trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt. Chi nhánh luân phấn đấu để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của nhiều đối tợng khách hàng. Song song với việc mở rộng thị trờng, chi nhánh không ngừng nâng cao chất lợng của các nghiệp vụ của mình và đa dạng các dịch vụ đến mức có thể. Từ chỗ dư nợ ban đầu chỉ khoảng 100 tỷ đồng và chủ yếu là cho vay kinh tế ngoài quốc doanh, cơ cấu nguồn vốn chủ yếu là tiết kiệm dân c( gần 300 tỷ đồng), đến cuối năm 2003 dư nợ đạt 900 tỷ đồng, tăng 800 tỷ ( gấp 8 lần), tổng nguồn vốn huy động đạt 4.986 tỷ đồng (gấp 16.62 lần) bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm của dân cư lẫn tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Với phương châm kinh doanh của toàn hệ thống NHCT “phát triển, an toàn, hiệu quả”, mọi nhân viên của Ngân hàng Công thơng Hoàn Kiếm luân cố gắng phục vụ khách hàng “ nhanh chóng- chính xác- an toàn và hiệu quả”, làm hài lòng khách hàng đến giao dịch và củng cố niềm tin của khách hàng đối với Ngân hàng. BAN GIÁM ĐỐC Giám đốc Phòng tổ chức - hành chính Phòng khách hàng số 1 Phòng khách hàng số 2 Phòng tổng hợp - tiếp thị Phòng khách hàng cá nhân Phòng tài trợ thương mại Phòng kế toán tài chính Phòng kế toán giao dịch Phòng kiểm tra nội bộ Phòng thông tin điện toán Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng giao dịch Đồng Xuân Phòng giao dịch 36 Hàng Mắm PHÓ GĐ PHÓ GĐ PHÓ GĐ SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA NHCT HOÀN KIẾM 2.1.3. Một số hoạt động chính của Ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm 2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn: Bảng 1: Hoạt động huy động vốn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn huy động 4.691.000 100 4.986.000 100 5.484.000 100 1. Theo kỳ hạn - Tiền gửi không kỳ hạn 469.000 10 633.000 13 822.000 15 - Tiền gửi có kỳ hạn 4.222.000 90 4.353.000 87 4.662.000 85 2. Theo loại tiền - Việt Nam Đồng 3.752.800 80 4.038.660 81 4.530.800 82.62 - Ngoại tệ quy ra VNĐ 938.200 20 947.340 19 953.200 17.38 3. Theo đối tượng khách - TG Doanh nghiệp 2.955.329 63 4.202.000 85 4.936.000 90 - TG dân cư 1.735.671 37 748.000 15 548.4000 10 (Nguồn : NHCT Hoàn Kiếm) Nhận xét: Trong giai đoạn 2002-2004 nguồn vốn huy động của chi nhánh liên tục tăng trưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ điều hòa vốn về ngân hàng trung ương cũng như cung cấp vốn cho đầu tư tín dụn. Nguồn vốn năm 2004 tăng 17% so với năm 2002 và 10% so với năm 2003. Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn đều tăng nhưng tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng tăng còn tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn có xu hướng giảm. Tỷ trọng biến đổi theo xu hướng này giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí vì lãi suất nguồn tiền gửi không kỳ hạn thấp, nhưng lại gặp khó khăn trong việc cho vay trung và dài hạn. Nguồn huy động bằng nội tệ và ngoại tệ đều tăng vì chi nhánh đã mở rộng thêm mạng lưới kinh doanh đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng của các doanh nghiệp, đồng thời khai thác nguồn ngoại tệ để thỏa mãn nhu cầu thanh toán với nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu. Hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi doanh nghiệp trong năm 2003 và 2004 tăng lên đáng kể cả về số tuyệt đối và tương đối so với năm 2002. Để có được kết quả như vậy là do chi nhánh đã có nhiều biện pháp chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp, chính khách hàng này là người có nhu cầu lớn về dịch vụ thanh toán và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng, khi thu hút được nhiều tiền gửi loại này một mặt giúp tăng nguồn vốn cho họat động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, mặt khác tăng lợi nhuận cho ngân hàng qua việc thu phí của các dịch vụ tiện ích 2.1.3.2 Hoạt động tín dụng Bảng 2. Dư nợ cho vay của Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ 858.000 100 9000.000 100 950.000 100 1. Theo kỳ hạn - Trung- dài hạn 214.500 25 270.000 30 304.000 32 - Ngắn hạn 643.500 75 630.000 70 546.000 68 2. Theo thành phần kinh tế - DNNN 669.240 78 666.000 74 646 68 - DNNQD 188.760 22 234.000 26 304.000 32 (Nguồn : NHCT Hoàn Kiếm) Nhận xét: Tổng dư nợ cho vay của Ngân Hàng Công thương Hoàn Kiếm tăng lên qua các năm, năm 2003 tăng 42.000 triệu so với năm 2002, năm 2004 tăng 50.000 triệu so với năm 2003. Điều đó cho thấy khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế của chi nhánh đang ngày càng lớn, số dự án được vay vốn ngày càng nhiều, thu hút khách hàng vay vốn ngày càng đông. Dư nợ và tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn có xu hướng tăng nhưng tỷ trọng dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm chủ yếu trong tổng dư nợ Dư nợ cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh luân chiếm đa số trong tổng dư nợ tín dụng. Mặc dù nằm trong khu vực đông đúc các doanh nghiệp và hộ kinh doanh nhỏ nhưng vốn tín dụng ngân hàng lại tập trung nhiều vào khu vực kinh tế nhà nước, điều đó cho thấy ngân hàng chưa giám mạo hiểm mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 2.1.3.3 Các hoạt động dịch vụ: Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì các hoạt động dịch vụ càng được chú trọng mở rộng và chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập của Ngân hàng. Kinh nghiệm cho thấy phát triển dịch vụ vừa mang lại thu nhập an toàn, vừa là biện pháp hữu hiệu để hỗ trợ cho các sản phẩm chính, quảng bá cho Ngân hàng, thu hút khách hàng. Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, chi nhánh đã luân chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm mang lại tiện ích lớn nhất cho khách hàng. Nhờ vậy thu nhập từ dịch vụ ngày càng tăng, năm 2004 đạt hơn 4 tỷ đồng, chiếm 25% thu nhập hạch toán nội bộ. Thanh toán trong nước và chuyển tiền: Doanh số thanh toán đạt 24.283 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2003. Trong đó mở được hơn 250 tài khoản mới, thực hiện 32860 món chuyển tiền và thanh toán điện tử, dịch vụ hiện đại được đưa vào ứng dụng như dịch vụ chuyển tiền nhanh, chi trả lương qua thẻ ATM, đảm bảo an toàn mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. - Hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại: Trong năm 2004, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu và tài trợ thương mại đạt 75.5 triệu USD. Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 85 triệu USD. Ngân hàng nhận thức rõ ưu thế vị trí kinh doanh của mình nằm trên địa bàn trung tâm thương mại du lịch của Hà Nội, chi nhánh đã mạnh dạn đưa các dịch vụ đối ngoại như thu đổi ngoại tệ, thanh toán thẻ séc du lịch … tại các quỹ tiết kiệm và bước đầu thu được kết quả khả quan, đồng thời nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của chi nhánh trước thềm hội nhập - Hoạt động tiền tệ kho quỹ: Hoạt động Ngân quỹ đảm bảo việc thu chi tiền mặt nhanh chóng, chính xác, hiệu quả. Nhân viên kiểm ngân luân nêu cao tinh thần trách nhiệm trung thực, liêm khiết và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. - Công tác thông tin, điện toán: Chi nhánh đã quan tâm đúng mức đến việc nâng cao chất lượng trang thiết bị và trình độ cán bộ điện toán. nhờ vậy, mạng thông tin điện toán tại chi nhánh luân đáp ứng nhanh, hiệu quả yêu cầu của công việc,góp phần quan trọng đưa chương trình hiện đại hoá INCAS của Ngân hàng Công thương đi vào hoạt động. Đồng thời chi nhánh cũng mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, rút ngắn thời gian giao dịch và thời gian xử lý chứng từ. - Các hoạt động khác: Công tác kiểm tra nội bộ được thực hiện thường xuyên, liên tục, theo định kỳ hoặc đột xuất nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong tất cả các nghiệp vụ. Cán bộ phòng kiểm tra cố gắng làm việc rất tích cực bằng khả năng của mình để hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt trong năm vừa qua, phòng kiểm tra đã hoàn thành kiểm tra 100% hồ sơ của khách hàng vay vốn, kiểm tra nghiệp vụ kế toán, tiết kiệm và kiểm tra tình hình chi tiêu nội bộ. Công tác kiểm tra góp phần đưa các hoạt động thực hiện đúng chế độ an toàn . Công tác tổ chức nhân sự, tiền lương đã đi trước một bước trong việc bố trí sắp xếp cán bộ hợp lý, phân công, phân nhiệm theo đúng quy định của nghành , phân công công bằng lợi ích.. tạo nền tảng cho hoạt động kinh doanh phát triển có hiệu quả. Trong năm, chi nhánh đã thực hiện tốt việc cơ cấu lại bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh theo mô hình mới, các phòng ban được chia tách đã nhanh chóng ổn định và đi vào hoạt động bình thường. Công tác bổ nhiệm cán bộ thực hiện đúng quy định , tạo được niềm tin đối với CBCNV. Công tác hoạch toán thu chi nội bộ được thực hiện kịp thời, chính xác, đúng quy chế tài chính. Công tác đào tạo được đặc biệt chú trọng để chuẩn bị nguồn lực cho việc triển khai thành công dự án hiện đại hoá và hội nhập kinh tế 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH HOÀN KIẾM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2004. Trong thời gian qua cùng với sự phát triển của tín dụng nói chung thì Ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm cũng đã chú trọng đến việc cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt theo quá trình cơ cấu lại Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã chia phòng kinh doanh thành 3 phòng: phòng khách hàng số 1 chuyên cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp lơn, ph._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10751.doc
Tài liệu liên quan