Mở rộng cho vay tiêu dùng ở Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội

Lời nói đầu Nước ta có một nền chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững đã thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường cộng với sự hội nhập sâu rộng sau khi chúng ta ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã nâng mức sống của người dân ngày một cao. Đời sống nâng cao kéo theo nhu cầu về mua sắm tiêu dùng của người dân cũng một tăng. Nhưng không phải ai cũng đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình. Nắm bắt được

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng ở Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực tế đó, ngân hàng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho người tiêu dùng thỏa mãn nhu cầu trước mắt trước khi có đủ khả năng thanh toán. Sau một thời gian ra đời, cho vay tiêu dùng đã mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ trọng về dư nợ cũng như doanh thu từ cho vay tiêu dùng so với toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn hết sức nhỏ bé mặc dù đây là thị trường hết sức tiềm năng. Nhận thức được tầm quan trọng của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế nói chung cũng như đối với ngân hàng nói riêng. Vì vậy, đề tài “Mở rộng cho vay tiêu dùng ở Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Chương 2: Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng ở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội Chương 1 Cơ sở lý luận về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay hầu hết các thành phần trong nền kinh tế. Đối với các hộ tiêu dùng thì khoản vay từ ngân hàng giúp cho họ trang trải chi phí cho những nhu cầu trong cuộc sống: xây mới, sửa nhà, mua ôtô… Đối với doanh nghiệp thì những khoản vay giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ thì họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử... Ngoài ra, ngân hàng cũng là địa chỉ tin cậy để mọi người gửi tiền hay nhận được lời tư vấn về lĩnh vực đầu tư cho khoản tiết kiệm. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, các công trình giao thông. Để tránh sự nhầm lẫn giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo cách này thì ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo cách tiếp cận này thì hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm 3 hoạt động chính: cho vay, nhận tiền gửi và cung cấp các dịch vụ khác. 1.1.1.1. Cho vay Khi mới ra đời, ngân hàng thực thiện chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay với các doanh nhân địa phương (họ bán các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền mặt). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hóa dự trữ, mua sắm thiết bị nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. 1.1.1.2. Nhận tiền gửi Cho vay được cho là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng tìm kiếm mọi cách để huy động được nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi của khách hàng (bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán). Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết hoàn trả đúng hạn phần gốc cộng thêm một phần tiền lãi theo lãi suất trong hợp đồng coi như phí sử dụng khoản tiền gửi của ngân hàng. 1.1.1.3. Các dịch vụ khác Ngoài nhận tiền gửi và cho vay, ngân hàng còn cung cấp các dịch sau: Kinh doanh ngoại tệ: là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện để đáp ứng nhu cầu buôn bán giữa các vùng hay các quốc gia với nhau. Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường được thực hiện bởi những ngân hàng lớn vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Cung cấp các tài khoản giao dịch: khi khách hàng mở một tài khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng khi họ có nhu cầu. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Những hình thức chủ yếu của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán… Tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt là nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí. Điều này khuyến khích các doanh nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Bảo quản vật có giá: ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị cho khách hàng trong kho bảo quản. Quản lý ngân quỹ: các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng, nhờ đó ngân hàng có mối quan hệ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý việc quản lý thu và chi cho một công ty kinh doanh. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách của Chính phủ, vì vậy Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ. Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn tổ chức tín dụng khác… Dịch vụ thuê mua thiết bị: Ngân hàng cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó khách hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Cuối hợp đồng khách hàng có thể mua lại tài sản. Hợp đồng thuê mua thường phải bảo đảm yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Dịch vụ ủy thác và tư vấn: các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vây hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Nhiều khách hàng tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn về quản lý tài chính, thành lập, mua bán hay sáp nhập doanh nghiệp. Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. Dịch vụ bảo hiểm: các ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro mất khả năng thanh toán. Các dịch vụ đại lý: các ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập các chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng lớn cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo thoả thuận. Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan của Chính phủ. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị trổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay, phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi. 1.1.2.2. Phân loại cho vay Người ta thường phân loại cho vay dựa trên một số tiêu thức nhất định. Căn cứ theo thời hạn cho vay Cho vay ngắn hạn: thời hạn của khoản vay dưới 12 tháng và mục đích chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như tài trợ vốn lưu động cho doanh nghiệp hay hộ sản xuất. Cho vay trung hạn: là những khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Những khoản vay này thường sử dụng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc có thời gian khấu hao không quá dài, xây dựng dự án có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn: là những khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm, thời hạn có thể lên đến 20 – 30 năm. Những khoản vay này đáp ứng các nhu cầu dài hạn như mua nhà đối với cá nhân, xây dựng nhà xưởng mới, đầu tư vào những dự án lớn đối với các doanh nghiệp. Căn cứ vào mục đích khoản vay Dựa vào căn cứ này, cho vay thường được chia thành các loại sau: Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay liên quan đến lĩnh vực đầu tư bất động sản như xây dựng nhà, trung tâm thương mại, giải phóng mặt bằng... Cho vay sản xuất: bao gồm các khoản cho vay đối với các hãng sản xuất kinh doanh và hộ gia đình nhằm tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Cho vay tiêu dùng: giúp tài trợ cho nhu cầu mua sắm của cá nhân hay hộ gia đình như mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị... hoặc trang trải cho các chi phí khác như viện phí, học tập... Các khoản cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp loại ở trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán. Căn cứ vào khách hàng vay vốn Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản cho vay dành cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: tài trợ các nhu cầu về vốn của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh Cho vay cá nhân, hộ gia đình: bao gồm những khoản cho vay sản xuất hoặc tiêu dùng. Căn cứ theo phương thức cho vay Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vốn thường xuyên. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng. Vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dùng vốn, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hay thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo. Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Cho vay theo hạn mức cả kỳ: trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng cả kỳ Dư nợ Hạn mức được duyệt trong kỳ Dư nợ trong kỳ Thời gian Cho vay theo hạn mức cuối kỳ: dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức. Hạn mức tín dụng cuối kỳ Dư nợ Hạn mức được duyệt trong kỳ Dư nợ trong kỳ Thời gian Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hóa dịch vụ. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp của chứng từ, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động cho khách hàng trong việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không có bảo đảm: Cho vay không có tài sản bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vài uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có quan hệ gắn bó lâu dài với ngân hàng, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần có một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Cho vay có bảo đảm: Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Nhưng biến cố không mong đợi như vậy có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Vì vậy, đối với những khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng thì khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Bảo đảm này là nguồn trả nợ thứ hai khi khách hàng gặp phải rủi ro mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Căn cứ theo hình thức cho vay Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người đi vay, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay phổ biến của các ngân hàng. Cho vay gián tiếp: đây là hình thức ngân hàng cho vay qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo lại với nhau nhằm mục đích phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bản lẻ sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp này, cho vay gián tiếp có thể tiết kiệm được chi phí cho ngân hàng (phân tích, giám sát, thu nợ…). 1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm cho vay tiêu dùng 1.2.1.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng hình thành và phát triển xuất phát từ 2 lý do. Thứ nhất là do thu nhập hiện tại của người tiêu dùng không đủ đáp ứng những nhu cầu về mua sắm tiêu dùng của họ. Thứ 2 là mâu thuẫn giữa sản xuất hàng hóa với tiêu thụ hàng hóa tiêu dùng. Với lý do thứ nhất, người tiêu dùng là những người có công việc và thu nhập ổn định, có nhu cầu mua sắm hàng hóa tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Trên thực tế, những người tiêu dùng chưa thể có ngay những khoản tiền cần thiết ở thời điểm hiện tại, muốn có được khoản tiền này họ phải trải qua quá trình tích lũy lâu dài. Giải pháp hữu hiệu ở đây là đến gặp ngân hàng và xin cấp 1 khoản vay với cam kết sẽ hoàn trả trong tương lai. Lý do thứ hai là mâu thuẫn giữa việc sản xuất hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá của các nhà sản xuất - kinh doanh. Những người sản xuất chỉ đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình khi họ nắm bắt được nhu cầu và đáp ứng tốt nhu cầu này. Hàng hóa họ sản xuất ra là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng. Mặt khác, ngân hàng luôn có những khoản cho vay đối với doanh nghiệp để họ mở rộng sản xuất kinh doanh. Vậy hàng hóa sản xuất ra sẽ làm sao khi người tiêu dùng không thể mua vào thời điểm hiện tại. Vì vậy, cho vay tiêu dùng ra đời là một tất yếu, nó không những nâng cao đời sống cho người dân mà còn thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Có thể hiểu cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của người tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình). Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ. 1.2.1.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng Vì đối tượng của cho vay tiêu dùng là cá nhân hay hộ gia đình, mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh nên nó có những đặc điểm rất khác so với cho vay kinh doanh. Các khoản vay tiêu dùng có lãi suất “cứng nhắc” Không như hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay, lãi suất có thể thay đổi theo điều kiện thị trường. Các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất ở một mức cố định, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng trả góp. Ngay cả khi quan hệ tín dụng được xác lập thì mức lãi suất đã được đưa ra và duy trì trong suốt thời hạn vay (kể cả có thay đổi lãi suất thì việc thay đổi đó cũng được qui định ngay trong hợp đồng tín dụng khi ký kết). Các khoản vay tiêu dùng thường có rủi ro cao Vì đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài còn có các yếu tố chủ quan từ chính người tiêu dùng. Các yếu tố khách quan như thiên tai, bệnh tật, mất mùa, thất nghiệp và chu kỳ kinh tế. Thời kỳ nền kinh tế mở rộng và mọi người dân đều lạc quan tin tưởng vào tương lai thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng khi nền kinh tế suy thoái, các cá nhân, hộ gia đình thường có tư tưởng phòng bị cho tương lai, họ sẽ hạn chế tiêu dùng và tăng cường tích luỹ. Đây là thời kỳ khó khăn cho các nhà sản xuất và các ngân hàng trong việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan từ phía người tiêu dùng khi họ muốn vay mượn để chi tiêu nhưng không muốn trả. Trong những trường hợp như vậy thì dù có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì các ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác, do các khoản vay tiêu dùng có lãi suất “cứng nhắc” nên khi chi phí huy động tăng lên, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lãi suất. Cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận cao Do các khoản cho vay tiêu dùng được định giá rất cao (bao hàm cả một phần rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định giá cao là do cho vay tiêu dùng là khoản mục cho vay có chi phí lớn và đọ rủi ro cao. Hơn nữa khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng là lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến qui mô số tiền phải trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập ổn định thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn thu nhập vì họ cho rằng thu nhập trong tương lai sẽ có thể đảm bảo chi trả cho những nhu cầu hiện tại. Mặt khác, nếu như trong kinh doanh người ta thường phải hạch toán lỗ, lãi thì trong tiêu dùng người ta đặt yếu tố thoả mãn lên hàng đầu dù có phải trả chi phí lớn hơn. Quy mô khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn lắm. Đó là vì: Khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì người tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trước (vì không khi nào các ngân hàng cho vay đến 100% nhu cầu vốn) và các vật dụng trong gia đình thường không quá đắt đỏ, kể cả khi người tiêu dùng vay để mua nhà, xây nhà hoặc sửa chữa nhà để ở thì qui mô các khoản đó cũng không quá lớn đối với một ngân hàng. Nhưng số lượng các khoản vay tiêu dùng lại lớn do đối tượng của cho vay tiêu dùng là mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Các khoản vay tiêu dùng có chi phí lớn Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng là qui mô mỗi khoản vay nhỏ, thời gian vay thường không dài, việc thẩm định trước khi cho vay tốn nhiều thời gian và chi phí. Đồng thời, số lượng các khoản vay tiêu dùng lớn nên ngoài các chi phí trên ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi và kiểm tra khách hàng thường xuyên… Đời sống người dân ngày một cải thiện do vậy nhu cầu mua hàng hóa tiêu dùng của họ là rất cao. Đối với ngân hàng thì đây là một thị trường tiềm năng, do vậy mà các ngân hàng ko ngừng mở rộng cung cấp loại cho vay này với nhiều sản phẩm đa dạng. 1.2.2. Phân loại cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau nhằm giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện về cho vay tiêu dùng ở những giác độ khác nhau. Căn cứ vào mục đích sử dụng khoản vay Căn cứ vào mục đích vay có thể phân cho vay tiêu dùng thành 2 loại: Cho vay tiêu dùng cư trú (residential morage loan): là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng không cư trú (nonresidential morage loan): đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí… Căn cứ vào phương thức tài trợ Cho vay gián tiếp (indirect consumer loan): Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Sơ đồ cho vay gián tiếp (1) Công ty bán lẻ Ngân hàng (4) (5) Người tiêu dùng (6) (3) (2) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa, loại tài sản bán chịu… Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng. Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ. Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. Ưu điểm của cho vay gián tiếp: - Các ngân hàng thương mại dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay. - Các ngân hàng thương mại sẽ tiết kiệm được chi phí cho vay. - Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng. - Nếu ngân hàng thương mại có quan hệ tốt với công ty bán lẻ, thì hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Nhược điểm của cho vay gián tiếp: - Khi cho vay, các ngân hàng thương mại không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (người vay vốn) mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ. - Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng (cả trước, trong và sau khi vay vốn) khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng vì doanh nghiệp không có chuyên môn trong việc thẩm định khách hàng. - Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức cho vay này rất phức tạp. - Trên thực tế thì những ngân hàng cho vay tiêu dùng theo hình thức gián tiếp thường là những ngân hàng lớn và có cơ chế kiểm soát tín dụng chặt chẽ. Cho vay trực tiếp (Direct consumer loan): Cho vay tiêu dùng trực tiếp là khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu thu nợ từ người vay. Ưu điểm của cho vay trực tiếp so với cho vay gián tiếp: - Ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định khách hàng. Do đó, các khoản cho vay này thường có chất lượng cao hơn so với cho vay thông qua doanh nghiệp bán lẻ. - Cán bộ tín dụng ngân hàng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay, trong khi đó, doanh nghiệp bán lẻ hàng hóa, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay. Hơn nữa, các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định “tín dụng” một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những khoản tín dụng cấp ra không chính đáng, ngược lại, có thể từ chối cấp tín dụng đối với những khách hàng tiềm năng của mình. Đối với ngân hàng thì điều này được hạn chế tối đa. - Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. - Đối tượng khách hàng rất rộng do đó việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Cho vay tiêu dùng trả góp: là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Hình thức này thường được áp dụng cho các khoản vay lớn, thu nhập định kỳ của người vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Khi cho vay tiêu dùng trả góp, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau: Loại tài sản được tài trợ: Cho vay tiêu dùng trả góp thường được áp dụng với tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn như nhà ở, ô tô… Với những tài sản này, người tiêu dùng sẽ hưởng được những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài. Thực tế cho thấy thiện chí trả nợ của người vay sẽ tốt hơn rất nhiều nếu tài sản được hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu cấp thiết của họ lâu dài trong tương lai. Số tiền phải trả trước: Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm- số tiền này được gọi là số tiền phải trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay, số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm cho người vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người vay có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ trong nhiều trường hợp ngân hàng đành phải bán và thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Số tiền phải trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền phải trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền phải trả trước ít. - Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng: nếu hàng hoá đó được tiêu thụ một cách nhanh chóng và dễ dàng sau khi sử dụng thì số tiền trả trước sẽ ít hơn là trong trường hợp ngược lại. - Môi trường kinh tế: nếu môi trường kinh tế ổn định thì thiện chí của ngân hàng trong việc cho vay sẽ tốt hơn và có thể yêu cầu một mức trả trước thấp hơn. - Năng lực tài chính của người đi vay: Người vay có năng lực tài chính tốt đã là một trong những đảm bảo cho việc thu hồi nợ của ngân hàng nên ngân hàng có thể yêu cầu người vay một mức trả trước thấp hơn nếu ngay lúc đó người vay chưa có đủ. Lãi suất cho vay: là cơ sở để tính tiền lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Lãi vay chính là chi phí mà khách hàng phải trả cho ngân hàng trong quá trình sử dụng vốn. Tiền lãi này phải đủ trang trải cho chi phí huy động, chi phí hoạt động, rủi ro đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận cho ngân hàng. Điều khoản thanh toán: Khi xác định các điều khoản liên quan tới việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau: - Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi. - Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ thường theo tháng vì thông thường nguồn trả nợ chính của khách hàng là lương (được nhận theo tháng). Thời gian tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối. Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả ._.góp chỉ được cấp cho khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài, hoặc khách hàng có khả năng trả nợ vào cuối thời hạn vay. Nó có tác dụng đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và phần lớn được sử dụng để sửa chữa tài sản cố định, mua sắm các vật dụng thiết yếu… Có nhiều cách để phân loại cho vay tiêu dùng. Để được ngân hàng chấp nhận cấp cho khách hàng một khoản cho vay tiêu dùng thì cần phải trải qua một quy trình cho vay tương đối phức tạp. 1.2.3. Quy trình cho vay tiêu dùng 1.2.3.1. Nguyên tắc cho vay tiêu dùng Nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định sau: Tiền vay được sử dụng đúng mục đích Theo nguyên tắc này, khách hàng phải cam kết sử dụng tiền vay đúng mục đích được thỏa thuận với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng; bên cạnh đó, mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng. Ngân hàng có quyền từ chối và hủy bỏ mọi yêu cầu vay vốn không được sử dụng đúng với mục đích đã được ngân hàng thẩm định và chấp nhận cho vay. Việc sử dụng vốn sai mục đích thể hiện sự thất tín của bên vay và hứa hẹn rủi ro cho tiền vay. Do đó, quán triệt nguyên tắc này, khi cho vay ngân hàng có quyền yêu cầu buộc bên vay phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết và thường xuyên giám sát hành động của bên vay về phương diện này. Nếu ngân hàng phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này thì ngân hàng được quyền thu nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. Tiền vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi với thời gian xác định Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay từ các tổ chức khác. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người đi vay phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này để thực hiện nguyên tắc tiền vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi với thời gian xác định. Đối với cho vay tiêu dùng thì người đi vay phải chứng minh được có nguồn thu tài chính ổn định để có thể trả nợ cho ngân hàng. Các khoản cho vay của ngân hàng thường gắn với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.2.3.2. Điều kiện vay vốn tiêu dùng Điều kiện cho vay là những yêu cầu của ngân hàng đối với người vay để làm căn cứ xem xét, quyết định thiết lập quan hệ tín dụng. Khách hàng muốn được vay vốn của ngân hàng phải có các điều kiện cơ bản sau: Điều kiện về tư cách pháp lý: Cá nhân hay đại diện hộ gia đình vay vốn phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết Có vốn tự có tham gia trong nhu cầu tiêu dùng. 1.2.3.3. Quy trình cho vay tiêu dùng Khách hàng lập hồ sơ vay vốn và nộp lên ngân hàng Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng bắt đầu bằng việc khách hàng xin vay vốn. Khách hàng gửi cho ngân hàng bộ hồ sơ vay vốn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho ngân hàng. Hồ sơ vay vốn gồm các giấy tờ sau: - Giấy đề nghị vay vốn. - Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự. Cụ thể, khách hàng vay tiêu dùng phải xuất trình chứng minh thư nhân dân và sổ đăng ký hộ khẩu thường trú. - Tờ tự khai tình hình tài chính. - Báo cáo vay nợ và nguồn thu để trả nợ… Ngân hàng thẩm định hồ sơ vay vốn Thẩm định hồ sơ vay vốn là quá trình xem xét, phân tích các thông tin, số liệu đã thu thập trong hồ sơ của khách hàng. Mục tiêu của công tác thẩm định là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc hoàn trả đúng hạn, tức là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Khi thẩm định một bộ hồ sơ vay tiêu dùng, cán bộ tín dụng phải phân tích rất nhiều yếu tố liên quan đến người đi vay, nhưng những yếu tố mà ngân hàng đặc biệt quan tâm là đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ. Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng sẽ phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào việc gì. Liệu mục đích vay có phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng không. Có bằng chứng nào cho thấy khách hàng sẽ không hoàn trả khoản vay đó không. Khi thẩm định bộ hồ sơ cho vay, cán bộ tín dụng thường quan tâm đến những vấn đề sau: Mục đích của việc vay tiền: Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi mục đích vay tiền của khách hàng phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng chỉ đồng ý cho vay khi nhận thấy rằng khách hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Ngoài xem xét trong hồ sơ, việc tiếp xúc, gặp gỡ với từng khách hàng là rất cần thiết bởi vì qua những cuộc gặp gỡ như vậy họ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối, không thành thật của người vay. Mức thu nhập: Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng cũng đồng thời tiến hành kiểm tra người chủ cơ quan nơi khách hàng làm việc để đánh giá độ chính xác của thu nhập, độ dài thời gian làm việc, nơi cư trú ghi trên đơn xin vay. Số dư các tài khoản khoản tiền gửi: Một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng là số dư tiền gửi trung bình hàng ngày mà khách hàng duy trì trên tài khoản cá nhân của họ. Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra các con số này thông qua các ngân hàng có liên quan. Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú: Trong số những yếu tố chính mà một cán bộ tín dụng sẽ quan tâm là khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân hàng không muốn cho vay những người mới làm việc tại nơi cư trú hiện tại được một vài tháng, nhất là cho vay những khoản tiền lớn. Thời gian sống tại nơi cư trú hiện tại thường được coi là quan trọng vì nếu khoảng thời gian một người sống tại một nơi càng lâu thì có thể tin rằng cuộc sống của người đó càng ổn định. Còn nếu một người thường xuyên thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tố bất lợi cho ngân hàng khi quyết định cho vay. Hoạt động đảo nợ: Các cán bộ tín dụng rất nhạy cảm với những bằng chứng về việc quy mô của các khoản nợ tăng so với thu nhập hàng năm, hàng tháng của khách hàng. Cũng như đối với tình trạng số dư của tài khoản thẻ tín dụng tăng nhanh hay tình trạng séc phát ra bị gửi trả lại. Việc đảo nợ theo kiểu vay tiền từ người này để trả cho người kia bị hầu hết các ngân hàng phản đối. Đây được coi như một tiêu thức về khả năng quản lý tiền vay của khách hàng. Những khách hàng với khả năng quản lý kém sẽ có thể rơi vào tình trạng có quá nhiều các khoản nợ và sẽ gặp nhiều rắc rối với ngân hàng. Bảo đảm tiền vay: Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở chắc chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản đảm bảo hay bảo lãnh của bên thứ ba. Nếu khoản vay có tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố) thì ngân hàng phải đánh giá về các điều kiện về tính hợp pháp, số lượng và xác định giá trị của tài sản đảm bảo theo đúng pháp luật của Nhà nước. Các giấy tờ sở hữu tài sản đảm bảo phải được xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước và thẩm định kỹ để biết được mức độ tin cậy của các giấy tờ đó. Trên cơ sở này, ngân hàng mới ra quyết định cho vay được chính xác. Trong trường hợp khách hàng không có hồ sơ tín dụng hoặc có chất lượng tín dụng thấp thì ngân hàng yêu cầu cần phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả khoản tiền vay. Nếu người đi vay không thanh toán được khoản nợ thì người đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự. Người đi vay sẽ thấy có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản vay vì uy tín của người bảo lãnh. Nhưng các nhà quản lý ngân hàng thường do dự không muốn thực hiện nhiều khoản cho vay có bảo lãnh vì điều đó có thể dẫn tới tổn thất cho cả người bảo lãnh mở tài khoản tại ngân hàng. Nếu khoản vay có tài sản đảm bảo (cầm cố hoặc thế chấp) thì ngân hàng phải tiến hành thẩm định những tài sản cầm cố này. Quá trình thẩm định sẽ đánh giá về tính hợp pháp, xác định số lượng, giá trị của tài sản theo đúng pháp luật Nhà nước. Trên cơ sở đó ngân hàng mới ra quyết định cho vay. Sau khi thẩm định ngân hàng xác định mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay và ký kết hợp đồng cho vay. Mức cho vay: ngân hàng xác định mức cho vay dựa trên các yếu tố: Nhu cầu vay vốn của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng. Tỷ lệ cho vay tối đa trên giá trị tài sản đảm bảo. Khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Giới hạn tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách hàng. Thời hạn cho vay: ngân hàng căn cứ vào kỳ luân chuyển vốn của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng. Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, cũng có thể là trung dài hạn. Lãi suất cho vay: thông thường lãi suất cho vay được xác định theo phương pháp điều chỉnh rủi ro trên giá vốn: Lãi suất cho vay = Chi phí vốn cho vay + mức lợi nhuận kỳ vọng Chi phí vốn cho vay = Chi phí huy động vốn + chi phí dự phòng rủi ro tín dụng + chi phí thanh khoản + chi phí hoạt động Sau khi thẩm định ngân hàng tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng và bắt đầu quá trình cấp vốn cho khách hàng. Giải ngân và kiểm soát trong quá trình cho vay Căn cứ vào hợp đồng tín dụng ngân hàng tiến hành giải ngân theo các cách sau: Tiền vay được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. Phát bằng tiền mặt. Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn khác để trả cho người cung cấp hoặc nếu người cung cấp không có tài khoản tại ngân hàng thì chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Kèm theo việc giải ngân, ngân hàng tiến hành kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không, có dấu hiệu lừa đảo ko… Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi có những dấu hiệu tiêu cực, ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Thu nợ Hợp đồng tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Việc thu nợ được tiến hành theo kỳ hạn nợ đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Khách hàng có thể trả nợ trước hạn và phải chủ động trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Tiền lãi căn cứ theo lãi suất ghi trên hợp đồng, khách hàng có thể trả làm một lần hoặc nhiều lần theo thỏa thuận. 1.2.4. Mở rộng cho vay tiêu dùng Đời sống của người dân ngày một nâng cao, kéo theo đó là nhu cầu về tiêu dùng của họ cũng tăng. Đối với những người có thu nhập ổn định nhưng thu nhập hiện tại không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì họ phải tìm đến ngân hàng. Do vậy, cho vay tiêu dùng là một thị trường tiềm năng. Xu hướng hiện nay là các ngân hàng quan tâm, mở rộng loại hình cho vay này. Để đánh giá mức độ mở rộng, người ta thường sử dụng chỉ tiêu như doanh số cho vay, dư nợ cho vay tiêu dùng… qua những chỉ tiêu này, có thể so sánh được mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng giữa những thời kỳ khác nhau. Nhưng doanh số cho vay tiêu dùng có thể tăng lên kéo theo dư nợ cho vay cuối kỳ cũng tăng lên, tuy nhiên chất lượng các khoản vay có thể giảm đi. Vì vậy, những chỉ tiêu đánh giá này chỉ mang tính tương đối, ngân hàng có thể vì mục tiêu mở rộng cho vay mà hi sinh một vài mục tiêu khác nhưng vẫn ở trong giới hạn có thể chấp nhận. 1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay tiêu dùng 1.3.1. Nhân tố từ ngân hàng thương mại Chủ trương của ngân hàng về vay tiêu dùng: cho vay tiêu dùng ở ngân hàng thương mại có phát triển hay không là do chính chủ trương của ngân hàng đối với loại cho vay này. Nếu ngân hàng không có một định hướng cụ thể nào để mở rộng cho vay tiêu dùng mà chuyển trọng tâm sang một loại hình cho vay khác, thì tất nhiên hoạt động cho vay tiêu dùng ở đây chỉ bó hẹp trong một phạm vi nào đó. Tiềm lực về vốn của ngân hàng: yếu tố này cũng hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Cũng giống như những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, để mở rộng quy mô sản xuất thì điều cần thiết là phải có vốn. Ngân hàng cũng vậy, nếu có tiềm lực tài chính mạnh thì ngân hàng có thể mở rộng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ mà nhất là một thị trường đầy tiềm năng như cho vay tiêu dùng. Kỹ thuật và thủ tục thẩm định: công tác thẩm định hiệu quả và không phức tạp là một trong những yếu tố quan trọng lôi kéo khách hàng. Thẩm định nhằm đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng và các khoản vay, từ đó có quyết định cho vay đúng đắn. Một hệ thống các thủ tục và kỹ thuật được xây dựng một cách khoa học, hợp lý và được thực hiện một cách nghiêm chỉnh là yếu tố quyết định đến chất lượng thẩm định và do đó quyết định chất lượng khoản cho vay cũng như mở rộng cho vay. Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng: là một yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Không thể có một quy trình cho vay đơn giản nếu thiếu những cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Yếu tố cơ sở vật chất của ngân hàng cũng không thể không nhắc tới. Một ngân hàng với cơ sở hạ tầng, công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại… với quy trình nghiệp vụ thực hiện nhanh chóng sẽ tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. Ngoài ra, yếu tố này còn đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 1.3.2. Nhân tố từ khách hàng Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng: nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng tất nhiên sẽ kéo theo nhu cầu về vay tiêu dùng vì không phải bất cứ ai cũng có đủ tiền để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Vì vậy nhân tố này ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng. Thu nhập khách hàng: phần lớn các món cho vay tiêu dùng có nguồn hoàn trả là thu nhập của khách hàng. Nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn định thì họ luôn tin tưởng mình sẽ trả được nợ trong tương lai, vì vậy họ sẵn sàng làm đơn xin vay để đáp ứng cho các nhu cầu hiện tại. Đạo đức người vay: thiện chí trả nợ của khách hàng sẽ làm cho hiệu quả của việc mở rộng cho vay tăng lên bởi vì việc mở rộng sẽ ít ảnh hưởng đến những chỉ tiêu khác. 1.3.3. Những nhân tố vĩ mô Môi trường kinh tế: Cho vay tiêu dùng rất nhạy cảm đối với những biến động của môi trường kinh tế. Khi nền kinh tế ở thời kỳ hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, người dân yên tâm và mức thu nhập của họ trong tương lai, nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên, hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại có cơ hội phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định thì phần lớn người tiêu dùng chỉ mong muốn đảm bảo được cuộc sống ở mức bình thường mà không nghĩ tới việc đi vay để thỏa mãn nhu cầu cao hơn. Môi trường xã hội: môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất nhiều đến thói quen tiêu dùng của người dân. Thông thường, những nơi thành thị, dân cư có trình độ học vấn cao thì nhu cầu tiêu dùng cũng lớn hơn so với những nơi nông thôn, dân cư đa số sống bằng nghề chính là nông nghiệp. Do vậy, nhu cầu vốn vay ở thành thị cao hơn nơi khác, từ đó tạo ra khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng. Hệ thống pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước là một nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh nhưng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại cũng phải tuân thủ các quy định của Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Dân sự và các quy định khác. Nếu những văn bản quy định pháp luật nếu không rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo những khe hở pháp luật gây rắc rối và tổn hại đến lợi ích cho các bên tham gia quan hệ tín dụng. Ngược lại, sự chặt chẽ và đồng bộ của luật pháp sẽ góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo tính trật tự và ổn định của thị trường để hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung được diễn ra thông suốt và hiệu quả. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng có tác động đáng kể tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chủ trương kích cầu, đưa ra các biện pháp để khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việc làm cho người lao động… sẽ tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, GDP tăng, thất nghiệp giam, từ đó làm tăng mức sống của người dân. Đây rõ ràng là tiền để thuận lợi để hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Chương 2 Thực trạng cho vay tiêu dùng ở ngân hàng nông nghiệp Hà Nội 2.1. Khái quát về ngân hàng nông nghiệp Hà Nội 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Được thành lập theo quyết định 51 – QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (nay là thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Chi Nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà Nội (nay là NHNo&PTNN Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng 21 Công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công – Nông – Thương thành phố Hà Nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển nông nghiệp huyện đã hội tụ về tụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã thành nợ tồn đọng. Cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn. Không những thế ngân hàng còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Những năm đầu, sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp. Nhận rõ tránh nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới Nông thôn ngoại thành Hà Nội. Ngân hàng đã thực hiện những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức, kiên quyết khắc phục yếu điểm nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Nhờ vậy từ năm 1990 trở đi NHNo Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng. Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Nội đã phối hợp Hội Nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ Thành phố đã đẩy mạnh cho vay các sản phẩm Nông nghiệp. Nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng kể. Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo&PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm về NHNo&PTNT Việt Nam. NHNo&PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dánh dấp của sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành. Năm 1994 thành lập Ngân hàng Khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng). Năm 1995 thành lập Ngân hàng Khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm). Năm 1996 thành lập các Ngân hàng Quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân Năm 1997 thành lập Ngân hàng Quận Cầu Giấy. Năm 2000 thành lập Ngân hàng Quận Đống Đa và Khu vực Tam Trinh Năm 2001 thành lập 10 Phòng giao dịch. Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền Plaza và 11 Phòng giao dịch. Năm 2003 thành lập 3 chi nhánh: - Chi nhánh chợ Hôm Chi nhánh Hàng Đào Chi nhánh Nghĩa Đô Tháng 12/2004, bàn giao chi nhánh Chương Dương về Long Biên và chi nhánh Tây Hồ về Quảng An. Năm 2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng. Năm 2006 bàn giao chi nhánh NHNo Cầu Giấy về trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam Đến tháng 12/2007, NHNo&PTNT Hà Nội có 11 chi nhánh cấp 2 và 23 phòng giao dịch. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân Hàng Nông nghiệp Hà Nội Giám đốc. Các Phó giám đốc Trưởng phòng Kế toán – Ngân quỹ. Các phòng (tổ) nghiệp vụ gồm: Phòng Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp. Phòng Tín dụng. Phòng Thẩm định. Phòng Kế toán – Ngân quỹ. Phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh toán Quốc tế. Phòng Vi tính. Phòng Hành chính. Phòng Tổ chức cán bộ - Đào tạo. Tổ Kiểm tra kiểm toán nội bộ. Tổ nghiệp vụ thẻ. Tổ tiếp thị. Chi nhánh Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp cấp 2 bao gồm: Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng, Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hoàn Kiếm, Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân, Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Ba Đình, Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Đống Đa, Chi nhánh NHNo&PTNT Tam Trinh, Chi nhánh NHNo&PTNT Tràng Tiền, Chi nhánh NHNo&PTNT Khu vực Hàng Đào, Chi nhánh NHNo&PTNT chợ Hôm, Chi nhánh NHNo&PTNT Nghĩa Đô, Chi nhánh NHNo&PTNT Trần Duy Hưng, Phòng giao dịch. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh cấp 2 gồm: Giám đốc Phó giám đốc Các phòng chuyên môn nghiệp vụ: Phòng tín dụng Phòng Kế toán – Ngân Quỹ Phòng hành chính nhân sự Tổ thẩm định Phòng giao dịch. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội Giám Đốc Phó Giám Đốc Chi nhánh cấp 2 Tổ nghiệp vụ thẻ Tổ KTKT nội bộ Phòng TCCB - ĐT Phòng Hành chính Phòng Vi tính Phòng KDNT&TTQT Phòng Thẩm định Phòng Tín dụng Phòng Nguồn vốn – Kế hoạch Phòng Kế toán – Ngân quỹ Tổ tiếp thị Phòng giao dịch 2.1.3. Tình hình hoạt động của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội Trong những năm qua, đặc biệt là năm 2007 – năm thứ 2 thực hiện đề án phát triển hoạt động kinh doanh giai đoạn 2006 – 2010 của chi nhánh NHNo Hà Nội nói riêng và hệ thống NHNo trên địa bàn thủ đô nói chung. Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần và sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của cả nước. 2.1.3.1. Huy động vốn Tổng nguồn vốn huy động trong năm 2007 đạt 15.468 tỷ VNĐ, tăng 2.623 tỷ VNĐ so với 2006, đạt 112% kế hoạch trung ương giao. Trong đó, nguồn nội tệ đạt 14.269 tỷ, nguồn ngoại tệ 1.172 tỷ VNĐ. Tiền gửi dân cư đạt 3.541 tỷ, chiếm 23 % tổng nguồn vốn. Dưới đây là số liệu chi tiết: Bảng 2.1. Kết quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005-2007 Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Tiền gửi của KBNN, TCTD trong nước 3.637 31,4% 4.359 34% 6.123 39,6% 2. Tiền gửi của khách hàng: 7.666 61,6% 7.718 60,1% 8.595 55,6% -Tiền gửi không kỳ hạn 2.934 38,3% 3.256 42,2% 3.520 40,9% -Tiền gửi có kỳ hạn 4.732 61,7% 4.462 57,8% 5.075 59,1% 3. Giấy tờ có giá 298 2,5% 768 5,9% 750 4,8% Tổng 11.601 12.845 15.468 (Nguồn: Báo cáo về kết quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội) Đạt được kết quả trên là do NHNo Hà Nội đã thực hiện áp dụng hình thức huy động vốn với nhiều sản phẩm đối với khách hàng gửi tiền như: huy động tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm khuyến mại đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, tiết kiệm dự thưởng… Ngân hàng thực hiện nhiều hình thức trả lãi phù hợp lãi suất và mặt bằng chung của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đặc biệt, ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội, ngoại tệ linh hoạt, kịp thời đã góp phần nâng cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Không những thế, phong cách giao dịch được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Song song với huy động vốn là hoạt động tín dụng, đây cũng là hoạt động chính của bất kỳ ngân hàng thương mại nào và cũng là hoạt động chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tổng dư nợ đạt 3.462 tỷ, tăng trên 1.005 tỷ so với năm 2006. Dư nợ ngắn hạn: 2.025 tỷ chiếm 58,6%. Dư nợ trung dài hạn: 1.437 tỷ chiếm 41,4% tổng dư nợ. Vốn tín dụng đã tập trung cho các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời từng bước chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tỷ lệ đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 74,6%, tăng 7,6% so năm 2006 và doanh nghiệp nhà nước chiếm 25,4%. Bên cạnh đó chi nhánh triển khai cho vay đồng tài trợ các dự án lớn với số vốn hàng trăm tỷ đồng. Số liệu cụ thể được thể hiện ở bảng dưới đây: Bảng 2.2. Kết quả hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005-2007 Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ 2.467 2.457 3.462 - Dư nợ ngắn hạn 1.527 1.336 2.025 + Nội tệ 914 1.093 1.508 + Ngoại tệ 613 243 517 -Dư nợ trung hạn 305 433 492 + Nội tệ 262 350 417 + Ngoại tệ 43 83 75 -Dư nợ dài hạn 635 688 945 + Nội tệ 573 601 734 + Ngoại tệ 62 87 211 (Nguồn: Báo cáo về hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội ) Năm 2007, chi nhánh đã tiếp tục quan tâm đến chất lượng tín dụng, từng bước lành mạnh hóa công tác tín dụng nhăm ổn định và phát triển. Do vậy công tác thẩm định dự án, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Ngân hàng đẩy mạnh thu nợ đã xử lý rủi ro, nợ xấu, kiên quyết phân loại nợ theo Quyết định 493 và thực hiện trích rủi ro triệt để. Do vậy, tỷ lệ thu lãi đạt trên 98%, nợ xấu chỉ còn dưới 1%. Nhìn chung, các doanh nghiệp đầu tư đã phát huy hiệu quả đồng vốn đảm bảo trả nợ tốt cho ngân hàng. 2.1.3.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế Hiện nay, Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vì vậy mà hoạt động kinh doanh đối ngoại ngày càng được củng cố và nâng cao vị thế. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế không phải là một thế mạnh của NHNo Hà Nội, tuy nhiên trong những năm gần đây đã phát triển hơn rất nhiều. Bảng 2.3 Kết quả thanh toán quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005 – 2007 Đơn vị: triệu USD Năm Chỉ tiêu giá trị 2005 2006 2007 A Nhập khẩu 179,6 124,7 293,3 1 L/C 107,2 62,4 140,4 2 Nhờ thu 16,9 19,2 28,2 3 Chuyển tiền 55,5 43,1 70,7 B Xuất khẩu 14,9 20,2 52,4 1 L/C 1,3 1,8 2,5 2 Nhờ thu 1,5 4,3 7,1 3 Chuyển tiền 12,1 14,1 42,8 (Nguồn: Báo cáo hoạt động thanh toán quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội 2005-2007) Bảng 2.4. Kết quả kinh doanh ngoại tệ năm 2007 Triệu USD Triệu JPY Triệu EUR Mua 184,73 953,4 11,63 Bán 184,78 956,5 11,45 Lãi kinh doanh ngoại tệ 3,644 tỷ VND (Nguồn: Kết quả kinh doanh ngoại tệ năm 2007 của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội) Trong năm, NHNo Hà Nội đã mở hàng nghìn L/C nhập khẩu với giá trị hàng trăm triệu USD, hàng chục triệu EUR và các loại ngoại tệ khác tăng 74% so với năm 2006, đồng thời mở rộng phục vụ các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu với kim ngạch hàng chục triệu USD tăng 160% so với năm 2006. Ngân hàng đã chủ động khai thác được các loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR, JPY… được gần 185 triệu USD, trên 950 triệu JPY, gần 12 triệu EUR để phục vụ cho khách hàng. Đồng thời, Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh toán biên mậu như: chuyển tiền (thương mại và phi thương mại), thanh toán bằng hối phiếu, thanh toán bằng chứng từ chuyên dùng biên mậu, thanh toán bằng thư ủy thác, thanh toán bằng thư tín dụng bằng đồng bản tệ doanh số đạt trên 45 triệu CNY tăng 50% so năm 2006. Dịch vụ ngoại hối ngày càng ổn định và phát huy hiệu quả như: chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh Western Union, thanh toán séc thẻ, thu đổi ngoại tệ mặt, đại lý thu đổi ngoại tệ. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã đạt gần 5 triệu USD, Western Union đạt gần 3 triệu USD. Thanh toán thẻ và séc du lịch đạt gần 200 ngàn USD… Dịch vụ thu đổi ngoại tệ với 30 đại lý thu đổi ngoại tệ mặt với doanh số gần 17 triệu USD (Quy đổi các loại ngoại tệ) tương đương tới trên 270 tỷ VNĐ. Ngoài ra, chi nhánh đang thực hiện thu đổi nhiều loại ngoại tệ khác như GBP, CHF, CAD, HKD, JYP, AUD, SGD, BATH, CNY nhưng số lượng còn hạn chế. 2.1.3.4. Phát triển dịch vụ ngân hàng Đến nay Chi nhánh đã triển khai nhiều hình thức dịch vụ: Chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ. Thanh toán thẻ ACB, Master Card, Visa Card, American Express, thanh toán séc du lịch… Đến hết năm 2007 có trên 60.000 tài khoản cá nhân có số dư trên 150 tỷ VNĐ, trong đó có 51.600 thẻ ghi nợ với số dư gần 100 tỷ đồng, doanh số hoạt động trên 50 tỷ với trên 350.000 món. Việc phát hành thẻ ghi nợ thực sự đem lại tiện lợi đối với nhân dân và hiệu quả kinh doanh cho NHNo Hà Nội. Ngoài ra, đã phát hành 380 thẻ tín dụng nội địa. Cụ thể, chi nhánh đã triển khai ký hợp đồng chi lương qua tài khoản cho 146 đơn vị: Trong đó có 94 đơn vị hành chính sự nghiệp, 52 đơn vị kinh doanh, trả lương hưu trí 11 phường và nhiều cá nhân… với tổng số thẻ đã phát hành đạt 51.644 thẻ, tăng 14.810 thẻ so 2006. 2.2. Thực trạng cho vay tiêu dùng ở ngân hàng nông nghiệp HàNội 2.2.1. Hình thức cho vay tiêu dùng Hiện tại, ở NHNo Hà Nội có các hình thức cho vay tiêu dùng đối với cá nhân như sau: Cho vay tiêu dùng nhà ở: tài trợ cho các khoản mua nhà hoặc xây mới nhà ở. Cho vay mua phương tiện đi lại: bao gồm các khoản cho vay tài trợ cho mục đích mua sắm phương tiện đi lại như ô tô, xe máy… Cho vay k._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7633.doc
Tài liệu liên quan