Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Mỹ

Tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Mỹ: ... Ebook Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Mỹ

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4034 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, với nền kinh tế tăng trưởng mạnh, cùng chính sách đẩy mạnh kích cầu đã góp phần quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng ngân thương mại. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng thương mại không ngừng nỗ lực thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính bậc nhất, là trụ cột của nền kinh tế, đang tích cực phát triển các hoạt động của mình, tung ra rất nhiều sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu thực tế. Trong đó, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng đang được nhiều các Ngân hàng sử dụng như một công cụ hữu hiệu. Cùng với xu thế phát triển chung đó, NHNo & PTNT không chỉ dừng lại phục vụ các khách hàng doanh nghiệp truyền thống mà ngày càng mở rộng quan hệ kinh doanh với những khách hàng các nhân. Vì vậy, chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ đã triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng bắt đầu từ năm 2003. Trải qua 5 năm, hoạt động này đã đạt được sự tăng trưởng ổn định và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay cho vay tiêu dùng vẫn chưa được mở rộng tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng. Từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ với mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, em xin chọn đề tài: “Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ” làm đề tài cho báo cáo chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề gồm 3 nội dung chính: Chương một: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng Chương hai: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ Chương ba: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ. CHƯƠNG I: LÍ LUẬN VỀ CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái niệm về ngân hàng thương mại: Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Giữa Ngân hàng thương mại và nền kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, nền kinh tế phát triển là điều kiện cho sự phát triển của Ngân hàng, và cũng chính sự phát triển của Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngày nay, có rất nhiều cách tiếp cận để xem xét Ngân hàng dựa trên những phương diện khác nhau. Nếu ta dựa vào những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, chúng ta có thể hiểu Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Còn theo Luật của các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại xem xét Ngân hàng trên các hoạt động chủ yếu: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy, Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều tổ chức tài chính khác như công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư… cũng đang rất cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng. Vì vậy mà các Ngân hàng cũng phải mở rộng phạm vi hoạt động của mình, phát triển các dịch vụ mới để có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ này. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. Vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn. Hoạt động sử dụng vốn: Ngân hàng cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Các hình thức cho vay: Ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau đây: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Bảo lãnh: Ngân hàng bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức tín dụng, cá nhân theo quy định của NHNN. Ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định của NHNN. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ đó cho Ngân hàng. Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành. Ngân hàng được thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh trong trường hợp chủ sở hữu các giấy tờ đó không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác theo quy định pháp luật hiện hành. Ngân hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu và cho vay trên cơ sở cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu theo quy định pháp luật hiện hành. Dịch vụ thanh toán ngân quỹ: Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Cung ứng các phương tiện thanh toán. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khác hàng. Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ. Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép . Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép. Hoạt động trung gian: Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác sau đây: Dùng Vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật. Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN. Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được NHNN cho phép. Được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân  trong và ngoài nước theo hợp đông uỷ thác và đại lý. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Cung ứng các dịch vụ: Tư vấn tài chính và tiền tệ trực tiếp cho khách hàng hoặc qua các công ty trực thuộc được thành lập theo quy định của pháp luật Bảo quản tài sản có giá trị và các giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, nhận cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của luật pháp. Thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh doanh có liên quan tới hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật Các hoạt động trên có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo nên uy tín cho ngân hàng. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ... Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch... cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. Như vậy, cho vay tiêu dùng chính là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho mục đích chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Các nguồn cho vay tiêu dùng là nguồn tài trợ chính, quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như: nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ. Quan hệ tín dụng này được dựa trên nguyên tắc: người đi vay cam kết hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Trong môi trường phát triển và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cho vay tiêu dùng cũng như các loại hình tín dụng khác, đều ra đời từ đòi hỏi khách quan của cả khách hàng lẫn các Ngân hàng. Ta biết rằng nhu cầu của con người là hết sức đa dạng và phong phú, khi nhu cầu cũ được thỏa mãn thì nhu cầu mới lại nảy sinh. Hơn nữa, nhu cầu của con người là luôn muốn được thỏa mãn các nhu cầu của bản thân một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên, để thỏa mãn các nhu cầu này, đặc biệt là các nhu cầu về tiêu dùng thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một sự tích lũy về tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. Vì thế, thời gian cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu này rất dài. Và chính vì mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán phát sinh này mà hình thành nên nhu cầu vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng để có thể đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Còn về phía mình thì các Ngân hàng không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng các hoạt động của mình mà còn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, triển khai các sản phẩm dịch vụ mới để vừa có thể thỏa mãn nhu cầu khách hàng vừa đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác. Do đó, các đối tượng khách hàng cá nhân ngày càng được các Ngân hàng thương mại chú trọng tới, đặc biệt người tiêu dùng được xem như một khách hàng trung thành, tiềm năng và sản phẩm cho vay tiêu dùng bắt đầu được hình thành từ đó. Thêm vào đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ được hàng hóa của mình một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên khi các Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng, không chỉ thõa mãn nhu cầu cho chính khách hàng của mình mà còn thỏa mãn cả những nhà sản xuất từ đó kích thích nền kinh tế phát triển. Hơn nữa nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, thu nhập người dân ngày càng tăng, một bộ phận trong số họ có thu nhập cao và ổn định đã tạo nên một nguồn hoàn trả nợ chắc chắn. Nên nếu các Ngân hàng thương mại triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng thì rủi ro sẽ được giảm thiểu đáng kể. Xuất phát từ những nhu cầu đó, cho vay tiêu dùng đã được hình thành và phát triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới trong những năm 1920 – 1930. Một số phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh đã được thành lập. Kết quả là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất trong các loại hình dịch vụ của ngân hàng. Còn ở nước ta cách đây khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” vẫn còn “khá mới mẻ”, không được phổ biến rộng rãi. Nhưng một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã phát triển rất mạnh mẽ và trở thành mục tiêu của nhiều tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh. Đi đầu trong lĩnh vực này ở Việt Nam có thể khẳng định đó chính là Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB), luôn được xem là “Ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam” trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn từ năm 1993 đến 1998, hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào cho vay tiêu dùng theo hình thức trả góp, các sản phẩm còn hết sức đơn điệu. Hơn nữa hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động cho vay tiêu dùng còn chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới hoạt động này ngày càng suy giảm ở Việt Nam. Đến năm 1998, sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực, kèm theo đó nhiều văn bản pháp quy của hoạt động cho vay tiêu dùng được ban hành, kết quả là cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển rầm rộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Thời báo Sài Gòn số 31 - 2005 ngày 28/7/2005 đã đưa ra các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam theo một cuộc điều tra: “tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một tháng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước đã tăng từ 36% năm 2002 lên 63% năm 2005, mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo từ 15,9% vào năm 2002 và đến năm 2005 là 40%”. Như vậy, thời gian tới hoạt động này được dự báo vẫn còn rất phát triển ở một thị trường đầy tiềm năng như Việt Nam với dân số hơn 82 triệu người vẫn chưa được thỏa mãn nhu cầu nhất là nhu cầu về tiêu dùng. Lợi ích của cho vay tiêu dùng: Ngay từ khi ra đời, cho vay tiêu dùng đã góp phần mang lại nguồn thu lớn cho các Ngân hàng thương mại. Không chỉ dừng lại ở đó, cho vay tiêu dùng còn đem lại nhiều lợi ích khác cho Ngân hàng, cho khách hàng và cho cả sự phát triển chung của toàn xã hội. Lợi ích mà nó đem lại là vô cùng quan trọng đối với tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Sau đây, chúng ta sẽ đi phân tích lợi ích của cho vay tiêu dùng đối với từng thành phần đó. Lợi ích đối với ngân hàng: Cho vay tiêu dùng là một loại hình cấp tín dụng mà nguồn lợi nhuận Ngân hàng thu được từ nó rất lớn. Bởi vì cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn so với các hình thức tín dụng khác, cho nên lãi suất của cho vay tiêu dùng cũng cao hơn. Đồng thời do đời sống của người dân ngày càng được cải thiện nên hiện nay các cá nhân có nhu cầu vay tiêu dùng càng tăng lên từ đó kéo theo nguồn thu từ hoạt động tín dụng này cũng ngày càng lớn. Thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng, ngân hàng càng tăng cường thêm quan hệ với khách hàng có số lượng đông đảo – khách hàng cá nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu khi họ chưa có khả năng thanh toán sẽ giúp Ngân hàng càng ngày càng tăng cường hình ảnh của mình trong mắt khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân. Qua đây vị trí của Ngân hàng dần dần sẽ được khẳng định trong tâm trí đông đảo khách hàng.Ngoài ra, bên cạnh hoạt động cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành huy động vốn. Mà nguồn vốn dồi dào, với chi phí thấp chính là nguồn vốn huy động từ dân cư. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong quá trình huy động tiền gửi từ các đối tượng khách hàng cá nhân, quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức sản xuất, các doanh nghiệp, các hãng bán lẻ cũng được củng cố và tăng cường. Từ đó, các dịch vụ khác của Ngân hàng có nhiều cơ hội đến với những khách hàng này. Vì vậy, mà nguồn vốn huy động được cũng như lợi nhuận mà Ngân hàng thu được ngày càng được tăng lên. Ngoài ra, hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần làm đa dạng hóa danh mục sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng có thể cung cấp cung cấp. Nó không chỉ rất cần thiết trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng như hiện nay mà còn giúp các Ngân hàng phân tán được rủi ro, mở rộng được thị trường. Từ đó giúp Ngân hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn việc sử dụng đồng vốn của mình giúp cho thu nhập được tăng lên. Cũng từ đó mà ngân hàng có thể đánh bóng hình ảnh của mình thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngân hàng sẽ giới thiệu cho nhiều khách hàng cá nhân hơn về các sản phẩm dịch vụ khác mà Ngân hàng có thể cung cấp cho họ. Giúp họ đáp ứng được các nhu cầu của mình trong cuộc sống. Lợi ích đối với khách hàng Bắt đầu từ khi hoạt động cho vay tiêu dùng được hình thành, người tiêu dùng có thể nói là được lợi nhất do những lợi ích mà hình thức tín dụng này mang lại. Và quả thật nhờ có các khoản vay này mà các cá nhân, hộ gia đình có cơ hội cải thiện và nâng cao đời sống khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa đủ đáp ứng nhu cầu của họ. Quan trọng hơn, các khoản cho vay tiêu dùng có thể giúp các khách hàng đáp ứng được những trường hợp chi tiêu cấp bách như viện phí, chi phí học hành cho bản thân, cho con cái… Như vậy, nhờ có cho vay tiêu dùng mà khách hàng có thể kết hợp được khả năng tài chính hiện tại cũng như trong tương tương lai. Bởi vì, ở hiện tại họ được hưởng cuộc sống tốt hơn, có điều kiện tiếp cận được với những dịch vụ như: dịch vụ giáo dục, chăm sóc sức khỏe…, để rồi từ đó làm nền tảng mà họ có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn giúp gia tăng thu nhập… Lợi ích đối với nền kinh tế Sự ra đời của hoạt động cho vay tiêu dùng đã góp một phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì ngoài tác động kích cầu, làm tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, thì hoạt động cho vay tiêu dùng còn hướng tới thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu cho các cá nhân, hộ gia đình. Ta nhận thấy rằng hàng hóa được tiêu thụ một cách nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo, thì không có lý do gì mà nhà sản xuất lại không gia tăng sản lượng. Và một khi người lao động có được những điều kiện vật chất tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải mái trong làm việc, trình độ của họ cũng được nâng lên và kết quả là sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, năng suất sẽ cao hơn. Cho vay tiêu dùng chính là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Hơn nữa, hoạt động cho vay tiêu dùng đã giảm thiểu được tình trạng vay nặng lãi, làm lành mạnh hóa quan hệ tài chí trong nền kinh tế. Đó là những hệ quả tốt đẹp được kéo theo từ một hoạt động tín dụng của ngân hàng. Như chúng ta biết không phải nhu cầu nào của con người cũng đủ khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, mà nhiều lúc con người ta còn phải chờ đến 10 năm hay 15 năm hay có thể còn lâu hơn thế mới đủ khả năng thỏa mãn nó, họ phải trải qua một quá trình tích lũy cả về thời gian cũng như tài chính thì mới đáp ứng được. Chính vì lẽ đó mà cho vay tiêu dùng ra đời như một giải pháp để đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình tại thời điểm hiện tại. Điều này không chỉ giúp cho đời sống của các cá nhân, hộ gia đình được cải thiện mà còn được nâng cao về chất lượng cuộc sống. Và một khi các điều kiện vật chất lẫn tinh thần của mỗi cá nhân tốt hơn, thì xã hội đó sẽ ngày càng phát triển, tiến bộ hơn. Thêm nữa thì nhu cầu của con người là vô tận, nhu cầu trước được thỏa mãn thì nhu cầu sau đã thành hình và có thể còn phát triển cao hơn nhu cầu cũ. Và khi càng có nhiều nhu cầu con người được thỏa mãn thì xã hội sẽ càng phát triển theo. Vì đó là động lực giúp con người có mục đích từ đó sẽ bắt tay thực hiện mục đích đó của mình. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng: Qua phần đã trình bày ở, trên chúng ta đã có thể phần nào hiểu được rằng: cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương mại cho các cá nhân, hộ gia đình. Do đó, cũng giống như các hoạt động tín dụng khác của ngân hàng, hoạt động cho vay tiêu dùng cũng có những đặc trưng cơ bản như: đối tượng khách hàng, nguồn trả nợ, lãi suất mục đích cho vay,… Nhưng trong từng đặc điểm của cho vay tiêu dùng này lại có những nét riêng không giống với những hình thức tín dụng khác. Về đối tượng cho vay tiêu dùng: Trong cho vay tiêu dùng, đối tượng chính đó là các cá nhân và hộ gia đình. Và hầu hết các cá nhân, hộ gia đình này khi tiến hành vay vốn của Ngân hàng để thỏa mãn cho mục đích tiêu dùng thì đều có thu nhập khá cao và khá ổn định. Ngoài ra, họ còn có nhu cầu được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình. Đây chính là một điểm khác biệt so với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp, công ty. Đối với các khách hàng cá nhân thì vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận có được một cuộc sống khá đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai của họ mới đáp ứng được. Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước, viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn hết phải đáp ứng được nhiều điều kiện vay vốn của Ngân hàng. Về mục đích cho vay tiêu dùng: Khi ta nói đến hoạt động cho vay tiêu dùng thì chắc chắn chúng ta cũng đã có thể hình dung ra được mục đích của khoản vay này đó chính là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình; chứ nó không phải xuất phát từ mục đích của hoạt động kinh doanh như một số hình thức tín dụng khác của ngân hàng thương mại. Nhu cầu tín dụng của các khách hàng chủ yếu phục vụ cho những mục đích như: mua, sửa chữa cải tạo nâng cấp nhà ở, chữa bệnh; xe máy, các phương tiện sinh hoạt khác; mua xe hơi, trang trải cho các chi phí về học tập… Về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng: Thực tế cho thấy các khách hàng vay vốn đều có nhu cầu vay nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định, người tiêu dùng sẽ có thái độ lạc quan hơn, họ kỳ vọng sẽ có được khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai. Do đó, chi tiêu của người tiêu dùng ở hiện tại sẽ được thúc đẩy, nhu cầu vay tiêu dùng của người tiêu dùng sẽ xuất hiện và tăng lên nhanh chóng. Và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân có dấu hiện suy thoái về chi tiêu, thì họ lại không kỳ vọng nhiều vào nền kinh tế, không muốn đến Ngân hàng để vay vốn nữa từ đó dẫn đến cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nếu ta xem xét một khoản vay tiêu dùng thì quy mô món vay có thể không lớn một phần là do đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình. Nhưng với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vay tiêu dùng tăng đột biến, số lượng khách hàng vay tiêu dùng sẽ ngày càng nhiều thì quy mô của cho vay tiêu dùng trong một Ngân hàng thương mại là khá lớn so số lượng khách hàng của các hình thức tín dụng khác. Bên cạnh đó thì tâm lý, thói quen của mỗi người là càng muốn mong nhanh chóng thỏa mãn các nhu cầu của mình trước tiên. Nên cho vay tiêu dùng càng có cơ hội phát triển bởi vì khách hàng ngày càng tìm kiếm nhiều tới các Ngân hàng. Dẫn tới số lượng khách hàng của cho vay tiêu dùng lại càng tăng mạnh, dư nợ cho vay tiêu dùng sẽ rất cao trong tổng dư nợ tín dụng trong tương lai gần. Về mức độ rủi ro của cho vay tiêu dùng: Chúng ta đi từ bản thân khách hàng của cho vay tiêu dùng, có thể kết luận được rằng cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn bất kỳ một hình thức tín dụng nào khác của ngân hàng thương mại. Và đúng như vậy, với mỗi cán bộ tín dụng thì quá trình thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp rất khó khăn về vấn đề thông tin khách hàng. Các thông tin mà khách hàng đưa ra thường là không đầy đủ, thậm chí là đôi lúc còn chưa chính xác, không rõ ràng. Nhiều trường hợp khách hàng còn cố tình dấu các cán bộ tín dụng về tình hình sức khỏe thực tế của mình, thông tin về công việc hiện tại, tình trạng gia đình… nếu như chúng quá bất lợi cho họ trong vấn đề tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Hơn nữa, khách hàng của cho vay tiêu dùng thường chỉ tìm đến Ngân hàng một lần, do đó, nguồn thông tin từ trước là chưa có đối với cán bộ tín dụng, từ đó càng có nhiều khó khăn hơn cho Ngân hàng trong việc thu thập thông tin về khách hàng. Ngoài ra, các Ngân hàng cũng không thể biết trước được thái độ của khách hàng một cách chính xác trong việc trả nợ. Nếu khách hàng mà cố tình không chịu thanh toán nợ cho Ngân hàng, thì rủi ro là không thể tránh khỏi. Hơn nữa, có nhiều trường hợp khách hàng chưa đến hạn thanh toán nợ nhưng gặp vấn đề rắc rối về vấn đề khách quan về tài chính như: mất việc làm, đau ốm, bệnh tật, hay qua đời,... thì khả năng thu hồi nợ gốc còn rất khó khăn chứ chưa nói đến thu lãi. Còn có những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… cũng ảnh hưởng tới thu nhập của người tiêu dùng và như một phản ứng dây chuyền sẽ ảnh hưởng tới quá trình thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Như vậy ta thấy rằng cả nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía khách hàng cũng như những nguyên nhân khách quan bất khả kháng, cộng thêm một số ít các món vay lại có thời hạn dài làm cho cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Về chi phí của cho vay tiêu dùng: Dựa vào việc tính toán ta thấy rằng, cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất trong các khoản mục của tín dụng của Ngân hàng. Ngay từ khi có một khách hàng đến Ngân hàng để xin được cấp vốn, Ngân hàng đã phát sinh các chi phí - chi phí điều tra, thu thập thông tin về khách hàng. Đối với cho vay tiêu dùng thì quá trình này còn vất vả và gặp nhiều khó khăn hơn để thẩm định thông tin của một số lượng khách hàng rất lớn và khá là phân tán vì đối tượng của món vay này là các cá nhân có độ rủi ro là rất cao, họ chỉ tìm đến Ngân hàng một lần, không phải thường xuyên nên Ngân hàng sẽ có rất ít thông tin về khách hàng. Do đó, để đảm bảo mục tiêu an toàn nhưng vẫn hiệu quả, thì ngoài việc cẩn trọng trong công việc, đạo đức của cán bộ tín dụng… Ngân hàng cũng phải mất chi phí khá lớn cho hoạt động thu thập thông tin khách hàng. Hơn thế, trong quy trình tín dụng từ thẩm định, lập hồ sơ, giải ngân, giám sát khoản vay… thì Ngân hàng cũng không được bỏ sót, làm rối một giai đoạn nào. Tất cả các điều đó đã làm cho chi phí cao của cho vay tiêu dùng cao là điều hết sức dễ hiểu. Mặt khác, hoạt động quản lý các khoản vay mặc dù có quy mô nhỏ nhưng với số lượng khách hàng vay tiêu dùng là rất lớn ở các Ngân hàng thương mại là điều không hề dễ dàng. Về lãi suất của cho vay tiêu dùng: Với rủi ro cao và chi phí lớn thì cho vay tiêu dùng sẽ phải có một lãi suất phù hợp để có thể bù đắp những tổn thất dự tính mà Ngân hàng phải gánh chịu. Vì vậy mà cho vay tiêu dùng có lãi suất rất cao. Đó chỉ mà một lý do để dẫn tới cho vay tiêu dùng lại có lãi suất cao như vậy. Bởi vì thêm vào đó là khách hàng tìm đến Ngân hàng chỉ để nhằm một mục đích lớn, đó chính là nhằm đáp ứng cho nhu cầu của mình, chứ họ không chú ý mấy tới lãi suất. Cùng với đó thì vay tiêu dùng không tạo ra lợi nhuận do đó khách hàng không cần có sự tính toán giữa chi phí về lãi vay và lợi nhuận tiềm năng do món vay mang lại. Với đối tượng khách hàng này thì lãi suất không phải là vấn đề, điều khiến họ quan tâm hơn hết là số tiền mà phải trả hàng tháng, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả này. Trước đây, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được giữ cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn bây giờ, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất của cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi nhưng đó là sự thả nổi chưa hoàn toàn. Nhìn chung, lãi suất vẫn được xác định dựa trên lãi suất cơ bản. Và lãi suất cho vay tiêu dùng được tính bằng tổng của chi phí huy động vốn, rủi ro tổn thất dự kiến, phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn và lợi nhuận cận biên. Về nguồn tài trợ của các khoản cho vay tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng là để nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người chưa có khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại. Nó hoàn toàn không tài trợ nhằm mục đích kinh doanh. Vậy nên, nguồn trả nợ của khách hàng cũng không thể lấy từ lợi nhuận do khoản vay mang lại như một số hình thức cho vay khác. Ngoài ra, khách hàng thường trả nợ cho Ngân hàng bằng một phần hay toàn bộ thu nhập hàng tháng của mình. Do vậy, từ việc Ngân hàng thương mại tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình trong việc chi tiêu, qua đó sẽ thúc đẩy đối với những khách hàng này về tâm lý tích lũy, tiết kiệm, động lực làm việc và dẫn tới lao động năng suất tăng cao hơn nhiều. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng thường đưa ra những chỉ tiêu như: thu nhập ổn định, có trình độ học vấn… làm chỉ tiêu quan trọng để cán bộ tín dụng quyết định trong việc cho khách hàng vay hay không? Về lợi nhuận của cho vay tiêu dùng: Trên lý thuyết với một hinh thức tín dụng có độ rủi ro cao như cho vay tiêu dùng thì các Ngân hàng thương mại kỳ vọng vào một mức lợi nhuận do nó mang lại là rất lớn. Và trên thực tế thì dù quy mô của mỗi khoản vay là không lớn lắm, nhưng do các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao, số lượng khách hàng trong hoạt động tín dụng này lại rất lớn, cho nên thu nhập từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng là rất lớn. So với các hoạt động tín dụng khác, lợi nhuận trên một đồng vốn của cho vay tiêu dùng thường cao hơn. Với nguồn lợi nhuận hấp dẫn như vậy và cùng với tình hình phát triển kinh tế ngày càng nở rộ thì ngày càng có nhiều Ngân hàng thương mại tăng cường mở rộng nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Phân loại cho vay tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng có nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào phương thức phân loại. Dưới đây là một số căn cứ để chúng ta có thể phân chia cho vay tiêu dùng: Căn cứ vào mục đích vay: Cho vay tiêu dùng sẽ được chia thành hai loại. Đó là: Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở c쾆a cá nhân, hộ gia đình. Khoản vay này có đặc điểm là thời gian dài và quy mô thường lớn. Cho vay tiêu dùng không cư trú: Là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí… Đặc điểm của hình thức vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn và do đó rủi ro sẽ thấp hơn cho vay tiêu dùng cư trú. Căn cứ vào phương thức hoàn trả khoản vay: Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng có ba phương thức hoàn trả khoản vay, bao gồm: Cho vay tiêu dùng trả một lần: Theo đó số tiền vay sẽ được khách hàng trả một lần vào cuối kỳ khi đến hạn. Qui mô của món vay này không lớn, thường được sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời như trả tiền viện phí, đi du lịch, mua sắm đồ dùng… Vậy nên, rủi ro của mỗi khoản vay này là không lớn lắm. Cho vay tiêu dùng trả góp: Là hình thức mà khoản nợ được trả làm nhiều lần theo thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Phương thức này thường dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, thuyền, một số đồ dùng phục vụ sinh hoạt đắt tiền, trang trải các khoản nợ… Theo tính toán, trong tổng khối lượng tín dụng do các Ngân hàng thương mại cung cấp thì có đến hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này xuất phát từ khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất, thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương khi tiến hành sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hay các loại Séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Hiện nay, trên thế giới với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì việc sử dụng thẻ đang ngày càng trở nên phổ biến. Do đó, hình thức này có thể nói là đã hết sức phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam, hình thức này còn rất í._.t Ngân hàng triển khai. Vì thực tế đại bộ phận dân cư của nước ta chủ yếu vẫn sử dụng tiền mặt trong các giao dịch và thanh toán của mình, rất ít người biết đến dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt do một số Ngân hàng hiện đang cung cấp. Nếu trong thời gian tới, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán được giảm thiểu thì sẽ có nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam hơn nữa tiếp tục tung ra loại sản phẩm này. Căn cứ vào biện pháp hoản trả tiền vay: Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cho vay với tài sản đảm bảo thường là động sản (tàu, thuyền, ô tô…), bất động sản được hình thành từ vốn vay hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng trước khi vay vốn Ngân hàng. Tài sản đảm bảo thường tăng tính an toàn cho các khoản vay, vì Ngân hàng có thể tạo được áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống xấu nhất thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản đảm bảo nếu khách hàng không trả được nợ cho mình. Do vậy, rủi ro của chính bản thân hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ được giảm thiểu nhờ có tài sản đảm bảo. Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo: Đối lập với cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo, ở hình thức này Ngân hàng cho vay dựa trên uy tín và khả năng trả nợ của khách hàng, không căn cứ vào tài sản đảm bảo. Để đề phòng với rủi ro và có những tổn thất gây có thể xảy ra, thông thường Ngân hàng rất ít khi cho vay nói chung với hình thức này, và đặc biệt là đối với rủi ro cao như cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu có cho vay thì khách hàng đó, đối với Ngân hàng phải thật sự có độ uy tín cao và là khách hàng truyền thống của Ngân hàng. Căn cứ vào cách thức cho vay: Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là hình thức mà Ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Ở hình thức cho vay này bên cạnh những ưu điểm như: Ngân hàng có thể sử dụng tối đa nguồn nhân lực của mình, các khoản vay thường có chất lượng cao hơn, lựa chọn được nhiều khách hàng tốt, quan hệ trực tiếp giữa khách hàng và Ngân hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh đồng thời có khả năng làm thỏa mãn tốt hơn quyền lợi cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng, đối tượng khách hàng rất rộng lớn sẽ dễ dàng hơn cho Ngân hàng khi đưa ra các dịch vụ tiện ích mới, qua đó hình ảnh của Ngân hàng đối với khách hàng càng được tăng cường quảng bá… Nó cũng còn có những nhược điểm: mở rộng và tăng doanh số cho vay không thực sự thuận lợi, chi phí cho vay thường khá lớn. Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, nhưng vẫn còn trong hạn thanh toán. Với hình thức này, Ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Đối lập với cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp giúp các Ngân hàng dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay, tiết kiệm và giảm được chi phí, có cơ hội phát triển các quan hệ với khách hàng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng và giảm thiểu được rủi ro nếu như Ngân hàng quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ. Nhưng hạn chế của hình thức này cũng không phải ít. Đó chính là: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với người vay vốn mà chỉ thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Cho nên Ngân hàng thiếu sự kiểm soát khi các doanh nghiệp tiến hành bán lẻ hàng hóa, nhiều khoản tín dụng cấp ra không thực sự chính đáng, tình trạng bỏ qua một số khách hàng tốt với Ngân hàng có thể diễn ra trong trong quá trình doanh nghiệp lựa chọn khách hàng mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Thêm vào đó, kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này là hết sức phức tạp, không phải Ngân hàng nào cũng thực hiện được. Qui trình nghiệp vụ của cho vay tiêu dùng: Khách hàng lập và nộp hồ sơ vay vốn đến ngân hàng: Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho ngân hàng bộ hồ sơ vay vốn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho ngân hàng. Hồ sơ vay vốn gồm các giấy tờ sau: Giấy đề nghị vay vốn. Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự. Cụ thể, khách hàng vay tiêu dùng phải xuất trình chứng minh thư nhân dân và sổ đăng ký hộ khẩu thường trú. Tờ tự khai tình hình tài chính. Báo cáo vay nợ và nguồn thu để trả nợ… Ngân hàng thẩm định hồ sơ vay vốn và ra quyết định cho vay: Thẩm định hồ sơ vay vốn là quá trình xem xét, phân tích các thông tin, số liệu đã thu thập trong hồ sơ của khách hàng. Mục đích của thẩm định trước khi cho vay là xác định giới hạn an toàn của quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn. Khi thẩm định một bộ hồ sơ vay tiêu dùng, cán bộ tín dụng phải phân tích rất nhiều yếu tố liên quan đến người đi vay, nhưng những yếu tố mà ngân hàng đặc biệt quan tam là đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ. Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng sẽ phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào việc gì. Liệu mục đích vay có phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng không. Có bằng chứng nào cho thấy khách hàng sẽ không hoàn trả khoản vay đó không. Đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ được thể hiện qua các thông tin như: - Mục đích của việc vay tiền: Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi mục đích vay tiền của khách hàng phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng chỉ đồng ý cho vay khi nhận thấy rằng khách hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Do vậy, việc tiếp xúc, gặp gỡ với từng khách hàng là rất cần thiết bởi vì qua những cuộc gặp gỡ như vậy hõ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối hoặc nhược điểm trong tính cách cũng như sự thành thật của người đi vay. - Mức thu nhập: Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng cũng đồng thời tiến hành kiểm tra người chủ cơ quan nơi khách hàng làm việc để đánh giá độ chính xác của thu nhập, độ dài thời gian làm việc, nơi cư trú ghi trên đơn xin vay. - Số dư các tài khoản khoản tiền gửi: Một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng là số dư tiền gửi trung bình hàng ngày mà khách hàng duy trì trên tài khoản cá nhân của họ. Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra các con số này thông qua các ngân hàng có liên quan. - Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú: Trong số những yếu tố chính mà một cán bộ tín dụng sẽ quan tâm là khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân hàng không muốn cho vay những người mới làm việc tại nơi cư trú hiện tại được một vài tháng, nhất là cho vay những khoản tiền lớn. Thời gian sống tại nơi cư trú hiện tại thường được coi là quan trọng vì nếu khoảng thời gian một người sống tại một nơi càng lâu thì có thể tin rằng cuộc sống của người đó càng ổn định. Còn nếu một người thường xuyên thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tố bất lợi cho ngân hàng khi quyết định cho vay. - Hoạt động đảo nợ: Các cán bộ tín dụng rất nhạy cảm với những bằng chứng về việc quy mô của các khoản nợ tăng so với thu nhập hàng năm, hàng tháng của khách hàng. Cũng như đối với tình trạng số dư của tài khoản thẻ tín dụng tăng nhanh hay tình trạng séc phát ra bị gửi trả lại. Việc đảo nợ theo kiểu vay tiền từ người này để trả cho người kia bị hầu hết các ngân hàng phản đối. Đây được coi như một tiêu thức về khả năng quản lý tiền vay của khách hàng. Những khách hàng với khả năng quản lý kém sẽ có thể rơi vào tình trạng có quá nhiều các khoản nợ và sẽ gặp nhiều rắc rối với ngân hàng. - Đảm bảo tiền vay: Là một phương tiện để ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác để thu hồi nợ. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở chắc chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản đảm bảo hay bảo lãnh của bên thứ ba. Trong trường hợp khách hàng không có hồ sơ tín dụng hoặc có chất lượng tín dụng thấp thì ngân hàng yêu cầu cần phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả khoản tiền vay. Nếu người đi vay không thanh toán cho khoản nợ được bảo lãnh thì người đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự. Người đi vay sẽ thấy có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản vay vì uy tín của người bảo lãnh. Nhưng các nhà quản lý ngân hàng thường do dự không muốn thực hiện nhiều khoản cho vay có bảo lãnh vì điều đó có thể dẫn tới tổn thất cho cả người bảo lãnh mở tài khoản tại ngân hàng. Nếu khoản vay có tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố) thì ngân hàng phải đánh giá về các điều kiện về tính hợp pháp, số lượng và xác định giá trị của tài sản đảm bảo theo đúng pháp luật của Nhà nước. Các giấy tờ sở hữu tài sản đảm bảo phải được xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước và thẩm định kỹ để biết được mức độ tin cậy của các giấy tờ đó. Trên cơ sỏ này, ngân hàng mới ra quyết đinh cho vay được chính xác. Ngân hàng xác định các chỉ tiêu cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng: Sau khi đã thẩm định hồ sơ vay vốn và ra quyết định cho vay, ngân hàng tiến hành xác định các chỉ tiêu cho vay: - Thời hạn cho vay: Căn cứ vào kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay và khả năng trả nợ của khách hàng, thời hạn cho vay tiêu dùng có thể là vài tháng hoặc vài năm. - Lãi suất cho vay: Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng được định giá dựa vào lãi suất cơ bản cộng với một mức lợi nhuận cận biên và phần bù rủi ro. L·i suÊt kho¶n cho vay ng­êi tiªu dïng ph¶i tr¶ = Chi phÝ huy ®éng vèn cho vay cña ng©n hµng + Chi phÝ ho¹t ®éng kh¸c (gåm l­¬ng nhân viªn ….) + PhÇn bï rñi ro tæn thÊt tÝn dông + PhÇn bï kú h¹n víi c¸c kho¶n cho vay dµi h¹n + Lîi nhuËn cËn biªn - Mức cho vay: ngân hàng xác định mức cho vay dựa trên các yếu tố sau: Nhu cầu vay vốn của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng. Tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và hướng dẫn của NHNN. Theo quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN hiện hành của Việt Nam quy định: Mức cho vay tối đa không vượt quá 70% giá trị của tài sản thế chấp hay cầm cố. Khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Giới hạn tổng dư nợ của ngân hàng đối với một khách hàng. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN Việt Nam quy định tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại. Mở tài khoản và phát tiền vay Sau khi duyệt cho vay, ngân hàng mở cho khách hàng vay một tài khoản cho vay để hạch toán tiền vay và thu nợ (nếu khách hàng vay chưa có tài khoản cho vay). Căn cứ vào hợp đồng tín dụng ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng vay theo các cách sau: Tiền vay được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn khác để trả cho người cung cấp hoặc nếu người cung cấp không có tài khoản tại ngân hàng thì chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Phát bằng tiền mặt. Thu nợ: Việc thu nợ được tiến hành theo kỳ hạn nợ đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Khách hàng có thể trả nợ trước hạn và phải chủ động trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Khách hàng không trả được nợ khi đến hạn, ngân hàng có thể xử lý theo bốn trường hợp sau: Thứ nhất, do nguyên nhân khách quan, khách hàng có văn bản giải trình xin gia hạn, ngân hàng có thể xét cho gia hạn. Theo quy định trong quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN Việt Nam thì thời hạn gia hạn nợ đối với cho vay ngắn hạn tối đa là 12 tháng, đối với cho vay trung và dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Thứ hai, do nguyên nhân chủ quan, ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và phạt theo mức lãi suất nợ quá hạn. Theo quy định hiện hành của NHNN Việt Nam thì lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trần cùng loại cho vay. Thứ ba, nếu không có các thỏa thuận trên thì ngân hàng có quyền phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu nợ. nếu ba trường hợp trên hai bên không thỏa thuận để giải quyết được, ngân hàng sẽ khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng. Lãi tiền vay: Việc tính lãi và thu lãi được tiến hành hàng tháng. Nếu khách hàng vay chưa trả được lãi khi đến hạn thì ngân hàng tính và hạch toán vào tài khoản ngoại bảng để thu dần, không nhập lãi vào nợ gốc. Trường hợp khách hàng vay có khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng có thể xem xét giảm hoặc miễn lãi đối với khách hàng vay. Việc giảm hoặc miễn lãi cho khách hàng vay tùy thuộc vào khả năng tài chính của từng ngân hàng cho vay. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG Cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, nhưng chúng ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố chính: Nhóm các nhân tố vĩ mô và Nhóm các nhân tố vi mô. Các nhân tố vĩ mô: Thứ nhất, môi trường Luật pháp. Luật pháp là công cụ quản lý đắc lực của Nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức tại mỗi nước đều chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật do quốc gia đó quy định với những hoạt động của mình. Các Ngân hàng thương mại cũng không phải ngoại lệ. Hơn thế hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm - kinh doanh tiền tệ - thì sự giám sát kiểm tra của Nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Những quy định của các cơ quan chức năng có thẩm quyền càng chặt chẽ bao nhiêu thì càng thúc đẩy cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bấy nhiêu và còn góp phần giúp các Ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng phục vụ của mình đối với người dân và toàn bộ nền kinh tế. Trước hết, các quy định của luật pháp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phương hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, trong đó có định hướng về cho vay tiêu dùng. Nếu tại quốc gia nào mà Luật pháp không cho phép các Ngân hàng tiến hành nghiệp vụ cho vay tiêu dùng thì chắc chắn một điều rằng: tại đó các Ngân hàng sẽ không được phép thực hiện hoạt động này. Còn nếu pháp luật có quy định về hoạt động cho vay tiêu dùng nhưng còn quá sơ sài, chưa đủ hành lang cho Ngân hàng hoạt động thì cũng không thể giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh tốt được. Vì vậy, nếu pháp luật có các quy định rõ ràng, được xây dựng một cách có hệ thống, đồng bộ về cho vay tiêu dùng sẽ như “hộp dầu bôi trơn” các công đoạn trong quy trình cho vay tiêu dùng, đưa cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển nhanh chóng. Ngoài ra, hệ thống Luật pháp cũng còn tác động tới cộng đồng dân cư trong xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức khác… Đây chính là những khách hàng của các Ngân hàng thương mại. Vì vậy, thông qua sự tác động tới những đối tượng này mà Ngân hàng cũng chịu sự tác động theo trong quá trình kinh doanh của mình nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh đó, các văn bản luật thuộc các ban ngành khác có liên quan đến lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế, Quy định về giảm thiểu các thủ tục hành chính… được ban hành và sửa đổi ngày càng tiến gần với thông lệ của quốc tế, tiến bộ của nhân loại cũng góp phần không nhỏ tạo điều kiện thông suốt các hoạt động của Ngân hàng cũng như là hoạt động cho vay tiêu dùng. Thứ hai, môi trường kinh tế - chính trị. Đây là một nhân tố không kém phần quan trọng so với môi trường Luật pháp. Những chỉ tiêu như thu nhập quốc dân (GDP), tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp… phản ánh trung thực thực trạng nền kinh tế của một quốc gia. Nếu một nước có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định thì đời sống của người dân cũng có xu hướng phát triển theo, nhu cầu tiêu dùng trong xã hội tăng mạnh. Vì vậy, cho vay tiêu dùng sẽ được phát triển với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm... Tình hình chính trị tác động mạnh đến nền kinh tế nên cũng tác động tới cho vay tiêu dùng. Như chúng ta đã biết với một quốc gia thường xuyên có bạo loạn, lật đổ, đảo chính, bất ổn về chính trị, biểu tình phản đối… thì nền kinh tế không thể phát triển được. Do vậy ở tại những nước này, hầu hết các hoạt động của Ngân hàng cũng bị suy giảm chứ không riêng gì cho vay tiêu dùng. Và ngược lại, quốc gia nào có nền chính trị ổn định, không có khủng bố, bạo loạn hay lật đổ… thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại trong đó có hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Thứ ba, môi trường văn hóa - xã hội. Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa - xã hội bao gồm: tập quán xã hội, thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, thị hiếu người dân, an ninh trật tự, an toàn xã hội… có tác động không nhỏ tới cho vay tiêu dùng. Bên cạnh việc quyết định tới nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Chúng còn ảnh hưởng tới cả phương thức thỏa mãn cũng như thói quen tài trợ của họ. Nếu cộng đồng có thói quen hưởng thụ, luôn muốn thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách nhanh chóng, và không ngừng mong muốn cải thiện và nâng cao cuộc sống hiện tại thì cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển. Còn ngược lại, với một cộng đồng mà các cá nhân trong đó chủ yếu không thích mua sắm, không có thói quen tiêu dùng quá mức những gì mà họ kiếm được tại thời điểm hiện tại thì xu hướng chung của họ là sẽ tiết kiệm chứ không phải là đến Ngân hàng vay vốn để chi tiêu. Do đó, cho vay tiêu dùng sẽ hoạt động hết sức khó khăn trong một môi trường như thế. Điều này cũng giải thích vì sao ở các nước phương Tây, cho vay tiêu dùng lại phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng cho vay tiêu dùng chiếm khoảng 40% đến 50% trên tổng dư nợ, còn ở hầu hết các nước phương Đông thì tỷ lệ này không cao lắm, riêng Việt Nam thì chỉ mới chiếm khoảng 5%. Ngoài ra tình hình an ninh, trật tự xã hội cũng góp phần đáng kể trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng. Với một xã hội an toàn, an ninh đảm bảo thì càng có nhiều nhu cầu trong việc chi tiêu, hưởng thụ. Vậy nên càng có nhiều cá nhân tìm đến Ngân hàng để được tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu mà khả năng thanh toán hiện tại chưa đáp ứng được. Các nhân tố vi mô: Các nhân tố này đều phát sinh từ hai phía, cả về phía những khách hàng lẫn các Ngân hàng thương mại. Những nhân tố xuất phát từ phía khách hàng: Khả năng tài chính của khách hàng: Đây là một trong số các chỉ tiêu mà Ngân hàng nào cũng quan tâm tới khi tiến hành cho khách hàng vay vốn. Ngay từ khi tiến hành thẩm định, Ngân hàng không chỉ rất quan tâm tới khả năng tài chính hiện tại mà còn đặc biệt chú ý nhiều đến khả năng về thu nhập tương lai của khách hàng. Với những khách hàng có tình hình tài chính càng khả quan và ổn định thì Ngân hàng càng muốn cho vay. Đối với cho vay tiêu dùng thì tiêu chí này càng quan trọng và có thể nói là các Ngân hàng xem nó quan trọng nhất trong việc quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Vì thực tế, phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng thường có những cam kết hoàn trả nợ của khách hàng bằng thu nhập thường xuyên trong tương lai của họ. Vậy nên, người có thu nhập càng cao, khi khách hàng tiến hành trả nợ cho Ngân hàng sẽ gây ra ít ảnh hưởng nhất tới những chi tiêu trong sinh hoạt của chính họ, ít ảnh hưởng đến tình hình tài chính của gia đình họ. Như vậy là khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cấp sẽ an toàn hơn rất nhiều. Đạo đức của khách hàng: Nhân tố này ảnh hưởng đến hành vi trả nợ của khách hàng. Nếu khách hàng có đạo đức tốt, có ý muốn trả nợ cho Ngân hàng thì thiện chí trả nợ sẽ được thực hiện. Còn nếu không thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc thu hồi nợ gốc chứ chưa nói đến thu lãi. Tài sản đảm bảo: Cơ sở để phòng ngừa rủi ro tín dụng chính là tài sản đảm bảo. Nếu khoản vay tiêu dùng nào mà khách hàng có tài sản đảm bảo thì càng an toàn cho Ngân hàng. Vì nếu khách hàng không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi một phần hay toàn bộ nợ của chính khách hàng đó. Vậy nên ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các Ngân hàng khi tiến hành cấp tín dụng tiêu dùng cho các khách hàng đều yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo. Những nhân tố xuất phát từ phía Ngân hàng: Nguồn nhân lực: Đây là một nhân tố không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng mà còn ảnh hưởng đến hầu hết các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng có các cán bộ tín dụng với đạo đức nghề nghiệp cao, có tinh thần yêu công việc thì hoạt động tín dụng sẽ hạn chế được phần nào rủi ro và tạo ra khả năng phát triển rất lớn. Thêm vào đó, việc tiếp xúc và giao tiếp trực tiếp với khách hàng và nhân viên tín dụng diễn ra khá thường xuyên và liên tục. Do đó, vai trò của nhân viên tín dụng là rất quan trọng. Các Ngân hàng không chỉ cần một đội ngũ nhân viên có năng lực, có trình độ, có tư cách đạo đức mà còn phải đông đảo về cả số lượng. Công tác thẩm định: Như đã trình bày ở đặc điểm của cho vay tiêu dùng, quá trình thẩm định khách hàng vay tiêu dùng diễn ra có rất nhiều khó khăn. Đây chính là nguyên nhân gây ra thời gian thẩm định khá dài. Vì vậy, khách hàng không mặn mà lắm với cho vay tiêu dùng. Cho nên, các Ngân hàng nếu tiến hành khâu này một cách nhanh chóng, nhưng vẫn đảm bảo chính xác, không gây phiền hà cho khách hàng sẽ tạo ra một ấn tượng tốt với khách hàng. Đặc biệt, điều này sẽ giúp cho các Ngân hàng dễ dàng lôi kéo được đối tượng khách hàng cá nhân như trong cho vay tiêu dùng. Trình độ công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng, đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, và càng quan trọng hơn trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Đây là cơ sở của khả năng và mức độ sẵn sàng phục vụ khách hàng của Ngân hàng. Hệ thống công nghệ thông tin càng hiện đại càng góp phần tiện lợi và hiệu quả trong hoạt động nói chung của Ngân hàng và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Khách hàng được phục vụ tốt hơn thì thị trường càng có cơ hội mở rộng. Nguồn vốn của Ngân hàng: Một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc mở rộng, đi sâu vào các hoạt động cho vay tiêu dùng đấy chính là nguồn vốn. Nếu một Ngân hàng có vốn lớn thì càng có cơ hội đầu tư nhiều vào trang thiết bị, vào nguồn nhân lực… cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua đó, cho vay tiêu dùng ngày càng được mở rộng và Ngân hàng cũng mạnh dạn hơn trong việc triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ của cho vay tiêu dùng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐÔNG MỸ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐÔNG MỸ Quá trình hình thành và phát triển ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ: Chi nhánh NHNo&PTNT cấp 2 Đông Mỹ được thành lập từ tháng 7 năm 2000. Là chi nhánh ngân hàng cấp 2 trực thuộc NHNo & PTNT Huyện Thanh Trì, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng (TCTD), luật Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) và điều lệ của NHNo & PTNT nói chung nhưng Chi nhánh Đông Mỹ vẫn có đủ quyền tự chủ trong kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản cũng như các TCTD khác trong cả nước. Được thành lập và đi vào hoạt động trong giai đoạn đất nước còn khó khăn trải qua nhiều thăng trầm của nền kinh tế đất nước, cũng như sự hội nhập ngày càng sâu chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ đã từng bước vượt qua khó khăn từng bước trưởng thành phát triển cùng với sự nghiệp CNH-HĐH. Tuy còn nhiều khó khăn và thách thức nhưng Chi nhánh Đông Mỹ vẫn luôn không ngừng đổi mới phát triển, nắm bắt thời cơ, vận dụng đúng qui luật thị trường nên có nhiều thành tích đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực. Chi nhánh không những đã huy động được một khối lượng nguồn vốn lớn, bảo đảm chủ động đầu tư tín dụng trên địa bàn, chất lượng dư nợ lành mạnh, nợ xấu chiếm tỷ trọng cho phép, mà còn có thời kỳ cung cấp một phần nguồn vốn về NHNo & PTNT cấp trên để cân đối với các chi nhánh khác không thuận lợi trong công tác huy động vốn. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ: Chi nhánh Đông Mỹ với phương châm hoạt động của chi nhánh là: cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động hiệu qủa và an toàn, đến nay cơ cấu tổ chức đã được biên chế một cách phù hợp như sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ. HC nhân sự Tín dụng Kế toán Ngân quỹ Ban giám đốc Giám đốc Phó giám đốc Ban giám đốc gồm 2 người: một giám đốc và một phó giám đốc giúp việc cho giám đốc. Ngoài ban giám đốc, chi nhánh gồm có các Tổ : - Tổ tín dụng với chức năng: Nghiên cứu, xây dựng chiến lược – kế hoạch tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng với sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời phân tích kinh tế theo ngành, danh mục khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt kết quả cao, thẩm định các dự án, hoàn thiện các hồ sơ trình cấp trên. - Tổ kế toán – ngân quỹ với: Chức năng quản lý thực hiện công tác tài chính, kế toán, thanh toán trong ngân hàng, trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựng kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, tổng hợp lưu trữ hồ sơ, tài liệu, thực hiện các dịch vụ ngân hàng: Mở và quản lý tài khoản của khách hàng, chuyển tiền… - Tổ hành chính : Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quí của chi nhánh và có trách nhiệm đôn đốc thường xuyên việc thực hiện các chương trình đã được duyệt, tư vấn pháp chế, kiêm công tác tra – kiểm toán nội bộ: Thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát định kỳ và thường xuyên đối với công việc của các Tổ nghiệp vụ, giám sát việc chấp hành các qui định của NH cấp trên và đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Kết quả hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ: Trong hoạt động kinh doanh hiện nay các NHTM nói chung và chi nhánh Đông Mỹ nói riêng luôn phải cạnh tranh và đứng trước nhiều khó khăn như môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình công nghệ kỹ thuật, áp dụng các dịch vụ hiện đại đòi hỏi các chi nhánh luôn phải nắm bắt và tự đổi mới cho phù hợp. Nhận thức được những thuận lợi, khó khăn tác động đến hoạt động của mình, chi nhánh Đông Mỹ đã bám sát định hướng của NHNo & PTNT Huyện Thanh Trì sự tự tin quyết đoán, năng động của Ban Giám đốc, ban lãnh đạo xác định được mục tiêu kinh doanh với sự phấn đấu không ngừng năm 2007 vừa qua chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hoạt động nguồn vốn: Năm 2007 là năm chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Chất lượng kinh doanh tốt hơn các năm trước, quy mô phù hợp với yêu cầu mới và đặc biệt là sự đổi mới trong tư duy kinh doanh của cán bộ công nhân viên, biết chỉ đạo, điều hành và khai thác sức mạnh quần chúng. Bảng 1: Kết quả hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 07/06 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng/ Giảm Tỷ lệ (%) TỔNG NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG 107260 100 127858 100 +20598 +19,2 I. Phân theo kỳ hạn 1. Tiền gửi không kỳ hạn 2940 3,8 12380 9,2 +9440 +321,1 2. Tiền gửi dưới 12 tháng 21260 19,2 23488 18,5 +2228 +10,5 3. TG có kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng 78860 73,5 81870 64,5 +3010 +3,8 4. Tiền gửi có kỳ hạn trên 24 tháng 4200 3,5 10120 7,8 +5920 +140 II. Phân loại theo khách hàng 1. Tiền gửi dân cư 73172 68,4 91250 71,3 +18078 +24,8 2. Tiền gửi của tổ chức kinh tế 34088 31,6 96608 28,7 +2520 +7,3 III. Phân loại theo loại tiên 1. Tiền gửi nội tệ 103260 96,2 120858 94,4 +17598 +17 2. Tiền gửi ngoại tệ 4000 3,8 7000 5,6 +3000 +75 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2006 – 2007 của chi nhánh) Dựa vào bảng trên, ta thấy nguồn vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ liên tục tăng qua các năm. Tổng nguồn vốn huy động năm 2007 so với năm 2006 tăng 20.598 triệu đồng, đạt tỷ lệ 19,2%. Mà trong đó, tiền gửi không kỳ hạn năm 2007 tăng 9.440 triệu đồng so với năm 2006, từ 3,8% năm 2006 lên 9,2% năm 2007. Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng đặc biệt chiếm ưu thế trong tổng nguồn vốn huy động, năm 2006 là 78.860 triệu đồng và cho đến tháng 12 năm 2007 đạt 81.870 triệu đồng. Trong thời gian mấy tháng gần đây thì tiền gửi dân cư cũng có xu hương gia tăng. Từ 68,4% năm 2006 lên 71,3% năm 2005, tăng 24,8%. Nguồn tiền này hết sức cần thiết và quan trọng vì nhờ nó mà chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ có thể xử lý linh hoạt lãi suất cho vay ở địa bàn cạnh tranh gay gắt. Tiền gửi nội tệ cũng chiếm ưu thế cao trong nguồn vốn huy động của ngân hàng. Năm 2007 tăng 17.598 triệu đồng so với năm 2006 đạt tỷ lệ 17%. Trong những năm vừa qua, hoạt động huy động nguồn vốn được chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ rất được quan tâm, nhằm tạo đủ nguồn vốn để chủ động hơn trong công tác đầu tư tín dụng. Về hoạt động cho vay: Tình hình và kết quả cho vay tại chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ: Bảng 2: Tình hình và kết quả hoạt động của chi nhánh Đông Mỹ Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu phân tích Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh 07/06 Số tiền Số tiền T.trọng (%) Số tiền T.trọng (%) Tăng/ Giảm Tỷ lệ (%) I. TỔNG DOANH SỐ CHO VAY 99224 122466 100 140388 100 +17922 +14,5 1. Doanh số cho vay ngắn hạn 50736 95036 77,4 104736 74,5 +9700 +10,8 2. Doanh số cho vay trung và dài hạn 48498 27430 22,6 35652 25,5 +8222 +29,4 II. TỔNG DOANH SỐ THU NỢ 76736 113170 137500 +24330 +21,3 1. Doanh số thu nợ ngắn hạn 35788 76042 67,3 73148 53,2 -2894 +10,6 2. Doanh số thu nợ trung và dài hạn 40948 37128 32,7 64352 46,8 +27224 +43,0 III. TỔNG DƯ NỢ CHO VAY 82800 106840 100 127740 100 +20900 +19,6 A. Phân loại theo tín dụng 1. Dư nợ ngắn hạn 28722 43840 41,5 63140 49,8 +19300 +44,0 2. Dư nợ trung và dài hạn 54540 63000 58,5 64600 50,2 +1600 +2,5 B. Phân theo thành phần kinh tế 1.DN Nhà nước 1400 4120 3,2 3800 3,5 -320 -7,8 1. Dư nợ DN ngoài QD 2660 11400 10,5 18900 14,2 +7500 +65,8 3. Dư nợ tư nhân 77340 91320 86._.o với thực tế doanh thu cho vay, dư nợ của hoạt động tín dụng nói chung toàn ngân hàng thì doanh số cho vay, dư nợ của cho vay tiêu dùng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Chi nhánh cần phải mở rộng hơn nữa hoạt cho vay này trong thời gian tới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, phù hợp với những nhu cầu ngày càng tăng của người dân. Lợi nhuận mà hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại không đáng kể: Trên thực tế, với doanh số cho vay nhỏ bé của mình - hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận rất ít cho ngân hàng. Hiện tại, chi nhánh dường như chỉ thực hiện cho vay tiêu dùng như là một sản phẩm nhằm đa dạng hóa hoạt động, thể hiện sự quan tâm của ngân hàng đối với cá nhân người tiêu dùng như là một hoạt động nhằm tăng cường mối quan hệ với khách hàng. Trong khi đối với một ngân hàng hiện đại thì cho vay tiêu dùng phải là hoạt động tạo ra một khoản thu nhập khổng lồ, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Chính vì vậy mà ngân hàng cần phải mở rộng hơn nữa loại hình cho vay này, phát triển nó trở thành một trong những loại hình cho vay đạt hiệu quả cao. Số lượng khách hàng là cá nhân người tiêu dùng có quan hệ với ngân hàng rất ít và khá đơn điệu: Đối tượng khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng chủ yếu là ba đối tượng: Giáo viên, lực lượng cán bộ công nhân viên ngành công an, và cán bộ viên chức có thu nhập ổn định. Như vậy, với ba đối tượng trên thì thị trường cho vay tiêu dùng của ngân hàng không được mở rộng bởi có một bộ phận lớn những người tiêu dùng không thuộc ba đối tượng kể trên và họ cũng có thu nhập cao và khá ổn định. Nếu như ngân hàng nào cũng loại trừ họ thì sẽ bỏ đi những món vay tiêu dùng có chất lượng tốt. Vì vậy, ngân hàng cần mở rộng thị trường cho vay đối với tất cả các đối tượng người tiêu dùng có khả năng thanh toán và an toàn tín dụng cho ngân hàng. ***Những hạn chế là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Về phía Chính phủ: Chính phủ ban hành pháp luật về các hoạt động liên quan đến lĩnh vực tín dụng nói chung và tín dụng tiêu dùng nói riêng còn chậm trễ và không đồng bộ. Thực tế lâu nay những văn bản chi tiết và hướng dẫn thi hành rất chậm trễ nhiều khi chúng còn chồng chéo lên nhau làm cho các ngân hàng không biết phải thực hiện theo văn bản nào. Điều này gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng. Thứ hai: Về phía ngân hàng, có rất nhiều lý do hạn chế từ phía ngân hàng như: Truyền thống của ngân hàng là xây dựng cho mình một hướng đi chủ đạo là chú ý tập trung quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp quốc doanh, các ngành mũi nhọn của nền kinh tế,...Còn đối với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là người tiêu dùng ngân hàng cũng đề ra kế hoặch mở rộng tín dụng với với các thành phần này nhưng do nhiều khó khăn vướng mắc nên ngân hàng chỉ thực hiện cho vay với một số đối tượng có thu nhập ổn định, có khả năng thanh toán tốt. Ngân hàng chưa có một chiến lược Marketing ngân hàng hiệu quả, biểu hiện: Chính sách giá cả chưa linh hoạt: Chính sách lãi suất của ngân hàng chưa linh hoạt theo đối tượng khách hàng, theo mức vay vốn, theo thời hạn. Trong khi các doanh nghiệp Nhà nước được vay với mức lãi suất ưu đãi, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vay vốn với mức lãi suất trên thị trường, còn cá nhân người tiêu dùng thì vay vốn với mức lãi suất khá cao, từ 0,9%/tháng đến 1,18%/tháng. Chính sách sản phẩm chưa hấp dẫn, chưa thực sự lôi kéo được khách hàng: \ Chưa có dịch vụ đi kèm khi cấp tín dụng. \ Phương thức cho vay của ngân hàng còn hạn chế, chỉ được thực hiện vài phương thức chủ yếu: Cho vay từng lần, cho vay trả góp, còn các phương thức khác chưa được sử dụng hoặc còn rất ít hạn chế. Điều này chưa áp dụng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền kinh tế cũng như người tiêu dùng. Chính vì vậy mà số lượng cá nhân người tiêu dùng có quan hệ tín dụng với ngân hàng còn rất hạn chế. \ Chính sách khách hàng của ngân hàng không hấp dẫn, chỉ bó hẹp ở các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, chưa có chính sách khách hàng cụ thể đối với cho vay tiêu dùng. Thứ ba: Về phía khách hàng: Rủi ro trong hoạt động tín dụng tiêu dùng là rất lớn. Nguồn bảo đảm chính của ngân hàng là thu nhập trong tương lai của khách hàng nhưng các nguồn thu nhập này lại chịu ảnh hưởng rất lớn của các điều kiện khach quan và chủ quan từ phía khách hàng như: ốm đau, bệnh tật, thất nghiệp, ý chí trả nợ....Điều này làm cho rủi ro từ loại hình tín dụng tiêu dùng cao hơn các loại hình tín dụng khác của ngân hàng rất nhiều. Đồng thời, mặt bằng thu nhập của dân cư nước ta còn thấp cũng làm hạn chế đi khả năng mua sắm và tiêu dùng của dân cư. Như vậy, những quan hệ vướng mắc trong quan hệ tín dụng tiêu dùng giữa chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ và cá nhân người tiêu dùng xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Vì vậy, nhiệm vụ lúc này là phải tìm ra các giải pháp đúng đắn và hữu hiệu nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đưa hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Đông Mỹ ngày càng được mở rộng, tạo được ích lợi hơn nữa cho bản thân ngân hàng, cho người tiêu dùng, cho nền kinh tế và cho toàn xã hôi. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐÔNG MỸ MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐÔNG MỸ TRONG NHỮNG NĂM TỚI Trên cơ sở chỉ tiêu nhiệm vụ, kế hoạch mà chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam giao cho các chi nhánh. Xét điều kiện kinh doanh đặc thù trên địa bàn, những khó khăn sẽ gặp và những thuận lợi mà ngân hàng có được, chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ đã đưa ra định hướng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng (bao gồm cả hoạt động cho vay tiêu dùng) nhằm phát huy tốt thành tựu đạt được, khắc phục hạn chế, vượt qua khó khăn, đưa hoạt động ngân hàng tăng trưởng vững vàng trong năm 2008 và những năm tới. Những định hướng chung về hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ: Mục tiêu hoạt động chủ đạo trong thời gian tới của chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ là hướng tới khách hàng. Quá trình thực hiện mục tiêu này sẽ là quá trình tiếp tục cải tổ và tăng cường cơ cấu quản trị, kiểm soát điều hành, phát triển công tác tiếp thị một cách hữu hiện trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu của khách hàng và giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, tạo sự tin cậy của khách hàng với ngân hàng. Với sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết nhất trí của Ban lãnh đạo, của tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ quyết tâm thực hiện: Tiếp tục thực hiện huy động vốn, đảm bảo nguồn vốn huy động là 2.000 tỷ, tăng trưởng 70% so với năm trước. Đặc biệt, quan tâm đến việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn tạo tiền để để mở rộng đầu tư tín dụng trung và dài hạn, chủ động cân đối nguồn vốn tại ngân hàng - nhất là nguồn vốn ngoại tệ. Phấn đấu tăng mức dư nợ tín dụng lành mạnh hàng năm ít nhất là 50%, phấn đấu nâng dư nợ trung và dài hạn chiếm 50% tổng dư nợ. Chấn chỉnh và xử lí những tồn tại trong hoạt động tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định và quản lí cho vay, đưa ra những giải pháp hữu hiệu để thu hồi những khoản nợ quá hạn và lãi treo. Nợ quá hạn là: 0,001%. Quỹ thu nhập là: 20 tỷ. Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tác nghiệp. Tiếp tục phát triển, đổi mới hiện đại công nghệ thông tin ngân hàng. Định hướng về phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Mỹ: Trong những năm vừa qua, hoạt động tín dụng tiêu dùng đã đem lại cho ngân hàng một nguồn thu lớn. Để thực hiện tốt và việc mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng có hiệu quả trong những năm tới, chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ đã đưa ra những định hướng, phương hướng hoàn thiện, cụ thể: Tăng trường công tác tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng đến tận cơ quan, đơn vị kinh tế trong địa bàn: gửi tờ rơi, thông báo cho người dân, tuyên truyền trên đài phát thanh để cho người dân có nhu cầu hiểu rõ, tìm đến với ngân hàng và thực hiện các thủ tục cho vay, trả nợ đúng hạn. Trong thời gian tới, ngân hàng sẽ tiếp tục nỗ lực thực hiện hoạt động cho vay theo hình thức tổ nhóm, đến từng cơ quan, đơn vị để vận động và phổ biến cho khách hàng hiểu rõ hơn về phương thức cho vay phục vụ đời sống và tổ chức cho vay theo từng cơ quan, đơn vị với hình thức giải ngân trực tiếp đến từng hộ cho vay, thu nợ tập trung tại cơ quan, đơn vị. Thực hiện mở rộng cho vay tiêu dùng không chỉ tập trung trong địa bàn mà còn cho vay với các dự án ở địa bàn khác. Tóm lại, với những hoạt động kinh doanh nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng đã thể hiện sự quyết tâm cảu ngân hàng trong việc đẩy mạnh phát triển và mở rộng hoạt động của mình. Sự nỗ lực quyết tâm đó hứa hẹn một tương lai tốt đẹp của ngân hàng. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐÔNG MỸ Ngân hàng cần coi cán bộ công nhân viên là khách hàng mục tiêu của ngân hàng: Cho vay tiêu dùng tại ngân hàng có quy mô nhỏ, nhưng số lượng khách hàng lại rất đông và chủ yếu là các cán bộ công nhân viên thuộc các cơ quan đơn vị. Họ có lương, có nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên, đảm bảo khả năng trả nợ nhưng điều kiện sống của họ còn thấp, rất ít người có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của mình. Để đáp ứng được nhu cầu đó nếu như không có ngân hàng thì họ chỉ còn cách là tích lũy. Và dù có tích lũy đi chăng nữa thì việc thỏa mãn nhu cầu cũng không thể được như ban đầu hoặc có thể họ đã tích lũy qua một thời gian dài nhưng do sự biến động nào đó họ cũng chưa thể thực hiện được nhu cầu đó. Ngân hàng thực hiện tín dụng tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên trong những năm qua đã phù hợp với chủ trương kích cầu của Chính phủ. Bên cạnh đó, cho vay đối với cán bộ công nhân viên rất an toàn bởi nguồn trả nợ bằng lương và trợ cấp, ngoài ra còn có thể là nguồn thu nhập thêm của gia đình họ. Hơn nữa, đây chính là khách hàng có trình độ cao, luôn tự trọng và coi trọng danh dự của mình. Chính điều này cũng đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ nhất định và văn minh lịch sự trong giao tiếp gây thiện cảm với người vay. Cải tiến cách cho vay, hoàn thiện công tác giải ngân, nâng cao tăng trưởng dư nợ: Trong những năm qua, do chưa thực sự chú trọng đến cho vay tiêu dùng nên trong cách giải quyết cho vay cũng như công tác giải ngân còn thể hiện nhiều hạn chế. Cách giải quyết cho vay còn nhỏ lẻ, manh mún. Ngân hàng còn thụ động ngồi chờ khách hàng nên có những ngày cho vay được rất ít, có khi chỉ một hai món vay, còn có những ngày số lượng cho vay lại rất nhiều. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giải ngân. Thiết nghĩ, ngân hàng cần cải tiến cách cho vay bằng cách quy định ngày giải ngân như quy định cứ 2 ngày lại giải ngân một lần. Trong thời gian 2 ngày đó, cán bộ ngân hàng sẽ chủ động tìm kiếm khách hàng, tập hợp các bộ hồ sơ vay vốn đủ điều kiện để trình giám đốc kí duyệt và thực hiện giải ngân, nâng cao tăng trưởng dư nợ. Mở rộng hoạt động Marketing: Việc làm cho người dân hiểu biết về ngân hàng và những lợi ích mà ngân hàng mang lại cho họ là điều rất cần thiết để mở rộng cho vay. Nếu như công tác tuyên truyền được thực hiện tốt thì sẽ có tác dụng thay đổi thói quen tích lũy để tiêu dùng và tâm lí sợ đi vay của người dân. Qua đó sẽ tăng số lượng khách hàng, đặc biệt là cán bộ công nhân viên đến giao dịch với ngân hàng góp phần thúc đẩy cho vay tiêu dùng phát triển. Muốn vậy ngân hàng cần mở rộng hoạt động Marketing ngân hàng và thực hiện những vấn đề sau đây: Tăng cường triển khai công tác tuyên truyền, quảng bá trên các tạp chí, báo chuyên ngành như: Tạp chí ngân hàng, thời báo kinh tế, thời báo ngân hàng, tạp chí thị trường - tài chính - tiền tệ...Ngoài ra, còn tuyên truyền trên các tạp chí, báo mà mọi người thường quan tâm như: Báo nhân dân, báo Tiền phong...và các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, phát thanh. Tuyên truyền quảng cáo ngay tại ngân hàng bằng cách bố trí cho khách hàng quan sát thấy được hình ảnh ngân hàng, tiếp xúc trực tiếp với công cụ, trang thiết bị.... Cán bộ ngân hàng là hình ảnh thu nhỏ của ngân hàng nên các cán bộ ngân hàng cần ý thức được rằng: “Mỗi cán bộ ngân hàng là một tuyên truyền viên tích cực và hiệu quả nhất về chính sách cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng”. Muốn vậy phải có chế độ đãi ngộ thích hợp với chính cán bộ trong ngân hàng. Cử cán bộ đi sâu sát đến từng cơ quan, đơn vị tuyên truyền phổ biến về nghiệp vụ cho vay để người dân am hiểu về tiện ích mà nghiệp vụ này mang lại cho họ. Đồng thời, cần chiếm được sự ủng hộ nhiệt tình của các cán bộ lãnh đạo để qua đó việc tiếp cận và tập hợp những nhu cầu của người dân cũng như việc tiến hành nghiệp vụ diễn ra một cách suôn sẻ. Hàng năm, ngân hàng nên tổ chức hội nghị, hội thảo khách hàng, qua đó tạo được mối quan hệ thân thiết với khách hàng. Bên cạnh đó, việc tổ chức hội nghị khách hàng cũng giúp cho ngân hàng có được cái nhìn chính xác hơn về chất lượng dịch vụ thông qua những ý kiến của khách hàng. Đồng thời cũng giúp ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ. Hội nghị khách hàng giúp ngân hàng hiểu được những thuận lợi và khó khăn của khách hàng, từ đó nắm bắt được nhu cầu của họ. Như vậy, ngân hàng có thể là người tư vấn tài chính đáng tin cậy cho khách hàng, nâng cao chất lượng đầu tư và tiêu dùng. Hiện đại hóa cơ sơ vật chất kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Việc phát triển công nghệ của ngân hàng và đưa ngân hàng trở thành ngân hàng hiện đại có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển hoạt động của ngân hàng. Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ đã từng bước đưa công nghệ vào hoạt động của mình như nối mạng nội bộ, thực hiện thanh toán chuyển tiền điện tử liên ngân hàng... góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ và quản lí thông tin khách hàng hiệu quả hơn. Công nghệ ngân hàng càng được ứng dụng rộng rãi vào hoạt động của ngân hàng thì tăng các tiện ích khi phục vụ khách hàng càng được thực hiện một cách dễ dàng hơn, nhất là trong hoạt động cho vay tiêu dùng, việc quản lí hồ sơ khách hàng sẽ càng trở lên đơn giản hơn nhiều. Vì vậy, trong thời gian tới NHNo&PTNT Đông Mỹ cần tiếp tục ứng dụng công nghệ ngân hàng vào trong hoạt động của mình như: nỗ lực đưa tin học vào công tác quản lí thông tin và tìm kiếm thông tin của khách hàng, cùng các ngân hàng thương mại khác triển khai đưa hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) vào cuộc sống. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Với đặc điểm và vị trí của hoạt động tín dụng để có thể mở rộng một hình thức cho vay nào đó thì bản thân các khoản cho vay theo hình thức đó phải có chất lượng tốt, an toàn và tạo nguồn thu cho ngân hàng. Đồng thời, phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong ngân hàng. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi ngân hàng có một đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ, sử dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ hiện đại của ngân hàng. Thực tế cho thấy, chất lượng của khoản cho vay cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào công việc - từ việc chấp hành các cơ chế chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn, thu nợ. Nói chung, mọi đúng sai, thành công hay thất bại của các dự án tín dụng, ngoài nguyên nhân khách quan thì đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể cho vay gây nên. Đương nhiên, trong đó có yếu tố chủ quan, cố ý vì mục đích tư lợi nhưng cũng có yếu tố do trình độ, do khả năng bất cập của cán bộ ngân hàng mà chưa thể hiện hoặc không làm được. Trong điều kiện chúng ta đang hội nhập và phát triển, hơn lúc nào hết phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực vì sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nói chung, hiện đại hóa ngành ngân hàng nói riêng mà trong đó mục tiêu mở rộng và nâng cao chât lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn luôn được đặt lên hàng đầu. Để có được một đội ngũ cán bộ đạt tiêu chuẩn, ngân hàng cần thường xuyên hướng dẫn, tổ chức tập huấn bổ sung kiến thức và chuyên môn, cơ chế, chế độ, thể lệ của ngành, liên ngành, đường lối chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong quá trình đó, gắn lí luận với thực tế, thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, các cán bộ tự nêu những tình huống xảy ra trong quá trình thẩm tra, quản lí khoản vay để cùng thảo luận, đưa ra các phương án xử lí. Qua đó, phát triển các phương án thích hợp có hiệu quả đúc kết thành kinh nghiệm chung. Đó thực sự là những kiến thức quý giá để không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ hoàn thiện công nghệ ngân hàng. Bồi dưỡng cán bộ tín dụng làm công tác cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ là một quá trình liên tục và lâu dài không thể giải quyết một sớm một chiều vì đây là hình thức cho vay khá mới ở nước ta. Tuy nhiên, ngân hàng cần có những quy hoạch và nhữngd bước đi cụ thể để đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Trước mắt, ngân hàng cần tiêu chuẩn hóa cán bộ để có chính sách tuyển chọn, đào tạo và bố trí sắp xếp, sử dụng đội ngũ hiện có phù hợp với yêu cầu của từng công việc nói chung, của hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng, phân rõ trách nhiệm pháp lí của từng vị trí công tác, đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm, khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm. Như vậy, trong hoạt động tín dụng sẽ hạn chế bớt rủi ro không đáng có do ý thức chủ quan của cán bộ ngân hàng, tình hình nợ quá hạn giảm thấp, chất lượng tín dụng được nâng cao, góp phần mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Đa dạng các sản phẩm cho vay tiêu dùng: Việc mở rộng đối tượng cho vay tiêu dùng sẽ tạo điều kiện làm đa dạng các khoản mục cho vay vì nhu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân là rất phong phú: vay để thanh toán hàng hoá- dịch vụ, để mua sắm đồ dùng sinh hoạt gia đình hoặc là nhu cầu cho con đi học đại học, khám chữa bệnh…. Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ đã chú trọng đến những nhu cầu đó của khách hàng nhưng chưa đáp ứng tốt, chỉ phục vụ mục đích mua sắm đồ dùng và xây, sửa chữa nhà cửa là chủ yếu, trong khi các nhu cầu khác như: học hành, chữa bệnh, du lịch, cưới hỏi… rất ít. Chi nhánh cần chú trọng mở rộng đối tượng cho vay các mục đích này hơn nữa không những thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị phần mà còn tăng sức cạnh tranh với các ngân hàng trong cùng địa bàn. Tuy nhiên, việc thu hút nhóm khách hàng có mục đích trên không phải là dễ dàng đối với một chi nhánh vẫn còn non trẻ như chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ. Vì vậy, chi nhánh nên chủ động tiếp cận với những khách hàng này thông qua việc hợp tác với các công ty, những người môi giới có liên quan đến nhu cầu của khách hàng. Cụ thể như hợp tác với các công ty sản xuất ô tô, xe máy; các trung tâm nhà đất; các công ty du lịch; hay các công ty xuất khẩu lao động,…. chắc chắn sẽ thu hút được khách hàng đến với chi nhánh một cách nhanh chóng và hiệu quả. Chi nhánh cũng nên có những buổi hội thảo để giới thiệu cho khách hàng về hoạt động của chi nhánh, để họ nhận biết được lợi ích khi đến với chi nhánh. Tuy nhiên, để tiến hành được hoạt động này thì chi phí bỏ ra là không nhỏ, nhưng kết quả thu được có thể ngoài sức mong đợi, không chỉ là lợi nhuận mà hình ảnh của Chi nhánh ngày càng được nhiều khách hàng biết đến. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Trong hoạt động của mình, ngoài sự nỗ lực cố găng khắc phục những hạn chế của bản thân thì để thành công trong kinh doanh, ngân hàng không thể không nhìn nhận ảnh hưởng của các nhân tố khách quan. Tác động của các nhân tố này tới ngân hàng nếu theo chiều hướng tích cực sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho ngân hàng hoạt động và ngược lại. Chính vì vậy, để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT Đông Mỹ cần có sự quan tâm hỗ trợ của các cơ quan chủ quản, các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Kiến nghị với Chính phủ: Trong thời gian qua, Chính phủ đã có những quan tâm nhất định đối với hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và loại hình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, để hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại có thể phát triển thì Chính phủ phải có những hành động cụ thể hơn. Việc duy trì về sự ổn định chính trị là một yếu tố đặc biệt quan trọng, nó tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống trong đó có hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Như trong chương một đã đề cập, hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại chụi ảnh hưởng lớn của các yếu tố vĩ mô, trong đó có sự ổn định về chính trị. Sự ổn định về chính trị vừa tác động đến nhu cầu đi vay phục vụ tiêu dùng của người dân vừa tác động đến kế hoạch cho vay của ngân hàng. Bên cạnh đó, trong vấn đề quản lí hành chính, Chính phủ cũng cần cơ cấu lại bộ máy quản lí và có những quy định cụ thể đến từng cán bộ quản lí, tránh tình trạng cán bộ lạm dụng quyền hạn gây phiền hà cho dân hay lạm dụng quyền hạn để tư lợi. Với vai trò vĩ mô của mình, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, nâng cao mặt bằng dân trí cho người dân nói chung và nâng cao hiểu biết của người dân về các dịch vụ ngân hàng nói riêng. Chính phủ có thể đưa các chương trình giáo dục những kiến thức tối thiểu về ngân hàng và các hoạt động của ngân hàng để dần xóa bỏ khoảng cách đang còn rất lớn giữa người dân với ngân hàng, làm cho người dân có thể xóa bỏ “mặc cảm” đi vay ngân hàng để sống. Chính phủ cũng nên tiếp tục có những chính sách khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, đặc biệt là sản xuất hàng tiêu dùng. Thực tế rất đáng buồn là đã có quá nhiều người dân đi vay ngân hàng phục vụ mục đích tiêu dùng song đã không đạt được như mong muốn. Như thời gian vừa qua, người dân đi vay tiền của ngân hàng về mua xe máy Trung Quốc, thường mua phải xe máy có chất lượng không tốt, nhanh hỏng sau một thời gian ngắn hoặc việc mua nhà chung cư...người dân vừa phải trả nợ ngân hàng mà lại không có vật dụng phục vụ cho nhu cầu của mình. Vì vậy, việc Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ cho sản xuất hàng tiêu dùng trong nước là rất cần thiết, nó vừa phát triển kinh tế, tạo ra hàng hóa vừa tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng thì sản xuất trong nước phát triển vừa tạo hàng hóa phục vụ tiêu dùng vừa tạo thêm nhu cầu đi vay tiêu dùng trong dân cư trong khi thu nhập của người dân tăng lên, công ăn việc làm ổn định. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước cần có các chủ trương văn bản cụ thể về cho vay tiêu dùng và có kế hoạch phổ biến đến các ngân hàng cấp dưới thực hiện. Ngân hàng Nhà nước có thể tạo nên một hành lang pháp lí ổn định, thông thoáng cho hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại bằng việc ban hành các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể về các loại hình sản phẩm - dịch vụ của hoạt động cho vay tiêu dùng. Điều này đặc biệt quan trọng, nó tạo nên cơ sở vững chắc cho việc thực hiện và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Nhà nước cũng cần ban hành văn bản pháp luật về hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Ở những nước phát triển, người ta đã biết đến và thực hiện hoạt động tín dụng tiêu dùng theo khuôn khổ pháp luật nhất định. Tuy hệ thông pháp luật Việt Nam còn nhiểu điểm cần hoàn thiện nhưng việc nghiên cứu và đưa ra những điều luật mới vào cuộc sống là rất cần thiết. Nhà nước cần tạo nên một môi trường pháp lí hoàn chỉnh cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Giải quyết được vấn đề này, Nhà nước đã giúp cho các ngân hàng tránh được một số rủi ro nhất định, nâng cao chất lượng của các cán bộ tín dụng trong công việc đồng thời cũng xem xét tránh hình sự hóa các nghiệp vụ ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường công tác thanh tra kiểm soát các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác nhằm sớm phát hiện và chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, phòng ngừa những tổn thất....Đồng thời ngân hàng Nhà nước cũng có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các ngân hàng thực hiện tốt cũng như các ngân hàng vi phạm luật. Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước có thể tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại khi cung cấp dịch vụ cho vay tiêu dùng, có thể tạo ra mối quan hệ rằng buộc các ngân hàng thương mại cùng thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Ngân hàng Nhà nước cần quản lí thông tin về mạng lưới ngân hàng chặt chẽ hơn, lập và yêu cầu các ngân hàng thương mại tham gia vào hệ thống thông tin này, nhằm nắm bắt được tình hình hoạt động của cả hệ thống nhanh chóng và sớm có những chính sách chỉ đạo kịp thời. Đồng thời ngân hàng Nhà nước còn có thể nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng bằng các chương trình đào tạo cụ thể, những buổi hội thảo, trau dồi kinh nghiệm về lĩnh vực này giữa các ngân hàng thương mại với nhau hay có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như cử đi học tập nghiên cứu ở các nước có hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Kiến nghị đối với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa và định hướng cho chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ phát triển mạnh hình thức cho vay tiêu dùng. Trước mắt, NHNo&PTNT Việt Nam nên tạo điều kiện hỗ trợ để chi nhánh tổ chức đào tạo, nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là nâng cao kiến thức về lí luận và nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Đồng thời, NHNo&PTNT Việt Nam nên phối hợp với chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ tổ chức thi tuyển cán bộ tín dụng có chất lượng cao, năng động sáng tạo trong cơ chế mới, được đối xử công bằng với trình độ và kiến thức tương ứng. Điều này, sẽ có tác động đến nhận thức và hiệu quả làm việc của cán bộ tín dụng, từ đó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và qui mô cho vay tiêu dùng nói riêng. Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam cần nâng mức phán quyết cho vay tiêu dùng cho chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ để ngân hàng này có thể chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư, đồng thời cũng tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô cho vay. Khi được nâng mức phán quyết, chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ có thể tận dụng tốt hơn so với các ngân hàng khác, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam nên tập trung vốn, tăng tính chủ động cho chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ - trong việc quyết định tăng cường năng lực công nghệ cả về trang thiết bị và các chương trình tiện ích, các chương trình phần mềm ứng dụng, nhất là các chương trình cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành, công tác thẩm định. Hơn nữa, Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam có thể tăng cường nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng của toàn hệ thống, liên tục mở các lớp đào tạo chuyên sâu, khi có những chính sách mới của ngân hàng Nhà nước, của Chính phủ thì tổ chức các lớp tập huấn làm sao cho các cán bộ của toàn hệ thống có điều kiện nắm bắt được các chủ trương hoạt động để chủ động trong các hoạt động của mình. Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam giúp đỡ và tạo điều kiện cho chi nhánh NHNo&PTNT Đông Mỹ trong việc đưa công nghệ ngân hàng vào thực tiễn hoạt động, có thể thông qua việc tài trợ mua các máy móc thiết bị tiên tiến. KẾT LUẬN Tóm lại chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với xu thế phát triển của các Ngân hàng thương mại và của nền kinh tế. Hoạt động này đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho người tiêu dùng, cho Ngân hàng và cho toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động này còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế. Vậy nên, với một lĩnh vực mới mẻ như thế này các Ngân hàng thương mại trong đó có chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ còn phải quan tâm và chú trọng nhiều hơn nữa. Hiện nay khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, nhiều Ngân hàng quốc tế sẽ được phép thành lập các chi nhánh tại Việt Nam thì hoạt động cho vay tiêu dùng thời gian tới hứa hẹn sẽ còn phát triển và mở rộng hơn nữa. Địa bàn Đông Mỹ sẽ ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh hơn bây giờ rất nhiều, từ đó dẫn sự cạnh tranh sẽ càng sôi động hơn, thị phần sẽ phải chia sẻ. Do vậy đòi hỏi chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ phải có chiến lược đúng đắn, sách lược hợp lý đối với cho vay tiêu dùng nhằm mở rộng, thúc đẩy hoạt động này phát triển. Bằng phương pháp nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận kết hợp với tình hình thực tế của hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo & PTNT Đông Mỹ chuyên đề này đã thể hiện những nội dung cơ bản nhất về hoạt động này tại NHNo & PTNT Việt Nam cũng như đưa ra một số giải pháp, kiến nghị với các cơ quan, ban ngành có liên quan. Tuy nhiên, chuyên đề này của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng cũng như của các bạn để có thể hoàn thiện tốt hơn nữa chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Peter S.Rose (2004), “Quản trị Ngân hàng thương mại” PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2006), “Ngân hàng thương mại” PGS.TS Lê Văn Tề (2004), “Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại” Báo cáo thường niên NHTMCPQĐ các năm 2004, 2005 và 2006 Báo cáo tín dụng NHTMCPQĐ các năm 2004, 2005 và 2006 Bản tin nội bộ tháng 2 năm 2007 Thời báo Sài gòn số 31 - 2005 ngày 28/7/2005 Trang web Military.com.vn; VN Express; VietNamnet… www.agribank.com.vn. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ab Chuyên đề này của em được thực hiện dưới sự giúp đỡ và chỉ bảo hết sức nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn TH.S. LÊ HƯƠNG LAN cũng như Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT Đông Mỹ. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế nên chuyên đề còn có những thiếu sót. Vì thế, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và tập thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT Đông Mỹ. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 04 năm 2008. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHNo & PTNT : ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. NHNH : ngân hàng nhà nước. NHTƯ : ngân hàng trung ương. TCTD : tổ chức tín dụng. CVTD : cho vay tiêu dùng. KH : khách hàng. DN : doanh nghiệp. DSCV : doanh số cho vay. DSCV TD : doanh số cho vay tiêu dùng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33162.doc
Tài liệu liên quan