Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank)

LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mà đỉnh cao là trở thành thành viên của WTO, hệ thống ngân hàng đang đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu toàn ngành, thực hiện mục tiêu theo phương châm kinh doanh chất lượng – tăng trưởng - bền vững, hiệu quả và an toàn. Kinh doanh chất lượng gắn liền với giải pháp đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng đã và đang áp dụng thêm nhiều nghiệp vụ mới có tính chất hiện đại, trong đó có nghiệp vụ

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo lãnh. Ra đời vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cho đến nay, tại các nước phát triển, nó đã trở thành một trong các nghiệp vụ phi tín dụng phát triển nhất với doanh số liên tục tăng trong những năm qua. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tuy mới xuất hiện trong một vài năm trở lại đây, nhưng nó đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế, giúp cho doanh nghiệp phát triển nguồn vốn dễ dàng hơn, đồng thời đem lại khoản thu không nhỏ cho ngân hàng. Trong quá trình thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Ha bubank), thấy được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh, với sự giúp đỡ tận tình của cán bộ ngân hàng tại Habubank và giáo viên hướng dẫn, qua thực tế tìm hiểu, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội” Tuy nhiên trong quá trình thực tập em chỉ có điều kiện được thực tập ở phòng phát triển kinh doanh nên trong bài viết của em chỉ giới hạn bảo lãnh trong nước vì bảo lãnh nước ngoài thuộc lĩnh vực hoạt động của phòng thanh toán quốc tế. Chuyên đề của em bố cục như sau: Chương I: Khái quát về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội( Habubank). Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Habubank. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thị Ngọc Diệp cùng toàn thể cán bộ trong ngân hàng Habubank trong suốt quá trình thực tập vừa qua, để em hoàn thành tốt chuyên đề của mình. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại NH: Ngân hàng DN: Doanh nghiệp TCTD: Tổ chức tín dụng Habubank: HBB CHƯƠNG1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. NHTM là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại NHTM. NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng TM là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. NHTM là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp vốn phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay các loại thẻ điện tử…NHTM còn là nơi khách hàng tìm đến để nhận được lời tư vấn, cần được cung cấp các thông tin tài chính hay tư vấn lập kế hoạch tài chính. Ngoài ra, NHTM còn là đơn vị cung cấp các khoản tín dụng cho chính phủ; Thông qua hình thức mua các chứng khoán chính phủ, đây là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. NHTM là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. NHTM thực hiện các chính sách kinh tế; Đặc biệt là chính sách tiền tệ, Vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Theo LêNin, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Theo luật Việt Nam: NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư cho nền kinh tế. Quá trình phát triển của các ngân hàng qua các thời kỳ: - Thế kỷ XV, các NHTM hoạt động với ba chức năng chủ yếu là đổi tiền, thanh toán và cho vay. Hoạt động của các Ngân hàng mang tính chất kiêm nhiệm, trong đó các cửa hàng vàng bạc kiêm luôn ba chức năng này của ngân hàng. - Đến thế kỷ XVIII, các NH thưc sự được tách ra, tạo thành các doanh nghiệp chỉ hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ. Khác với hiện nay, NH nào cũng có khả năng phát hành giáy bạc vào lưu thông mà không bị hạn chế số lượng NH phát hành. Do đó mà sự điều tiết của nhà nước thời kỳ này bị hạn chế. - Từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, chính phủ tiến hành hạn chế số lượng NH phát hành, chỉ NH lớn mới đủ điều kiện để đưa tiền vào lưu thông. Các NH này đều là các NH tư nhân. - Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhất là sau cuộc khủng hoảng 29-33, xuất hiện một số nguyên nhân do chính phủ không kiểm soát được chính sách tài chính tiền tệ. Sau đó, hầu hết các NH phát hành đều được quốc hữu hoá để giúp nhà nước thực hiện được các chính sách của mình có hiệu quả hơn. - Từ đây, Hệ thống Ngân hàng được chia làm hai cấp kinh doanh: Các NHNN thay hế cho NH phát hành trước đó, giữ chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Các NHTMvà các trung gian tài chính khác: các thành phần này hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh và chịu sự chi phối của NHNN. 1.1.2. Chức năng của NHTM 1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ của doanh nghiệp NHTM nhận giữ tiền gửi cho DN: trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: nhóm thứ nhất là nhóm các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng, nếu để tiền đó trong két của mình, các DN đã để tiền bị chết, không được lưu thông. Đem gửi NH, DN sẽ nhận được tiền lãi và có thêm khoản thu nhập đáng kể từ đây. Nhóm thứ hai không có tiền dư thừa, nhưng lại có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thực hiện một dự án, công trình nào đó. Nhóm này sẽ phải đi vay tiền, và NHTM chính là nơi mà các DN nên tìm đến. Đến với NHTM, DN thiếu vốn sẽ gặp được nhà cung cấp các khoản tiền cho mình. NHTM sẽ là người trung gian làm cầu nối giữa người đi vay và cho vay. NHTM sẽ có được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất giữa mức huy động và mức cho vay. Ngoài ra, NHTM còn thực hiện chức năng thanh toán. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của NHTM mà không một trung gian tài chính nào được thực hiện. NHTM sẽ thực hiện các nghiệp vụ, thực hiện thanh toán cho các tổ chức, cá nhân… 1.1.2.2. Chức năng tạo tiền gửi Giả sử ban đầu khách hàng đem 100đ(R) tới gửi NHTM, tỷ lệ dự trữ bắt buộc(rr) là 10%, tỷ lệ dự trữ vượt quá(er) là 0%. Như vậy, với số tiền này, NHTM phải giữ lại 10đ dự trữ bắt buộc, còn 90đ, NHTM cho vay ra bên ngoài.Vì er=0 nên tất cả 90đ này đều được cho vay. Giả sử tiền mặt do công chúng nắm giữ là 0, như vậy, sau đó, công chúng sẽ đem toàn bộ 90đ gửi lại NHTM, NHTM dự trữ tiếp 9đ, cho vay ra 81đ. Quá trình này cứ tiếp tục cho tới lúc kết thúc, tổng số tiền lúc này ở trong lưu thông đã là 90+80+…+…=1000đ Gọi D là tổng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, ta có D= Rx1/rr Như vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng nhỏ, lượng tiền cung ứng ra thị trường càng lớn và ngược lại. 1.1.2.3. Chức năng làm trung gian tài chính Bản chất của NHTM chính là làm trung gian tài chính bởi NHTM là cầu nối giữa người có vốn và người thiếu vốn. Đây là trung gian tài chính quan trọng nhất trong các trung gian tài chính. Chức năng này của NH được thể hiện rõ ở hai bộ phận: - Trung gian tín dụng: NHTM sử dụng vốn huy động hoặc vốn đi vay để cho vay, do vậy, trách nhiệm của NH là phải đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả. Có vậy NHTM mới có thể thu hồi vốn trả cho người gửi tiền và đảm bảo kinh doanh có lãi. -Trung gian tài chính: NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính trong đó có uỷ thác thanh toán, các dịch vụ môi giới, và các dịch vụ tiện ích khác. 1.1.3. Những hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Đây là hoạt động nhằm tạo lập nguồn vốn kinh doanh cho NHTM.Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nên tạo nguồn vốn của NHTM là một yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động và uy tín của NHTM trên thị trường. Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, nó làm ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình hoạt động của NHTM. Hoạt động này chủ yếu bao gồm các hoạt động sau: Huy động tiền gửi không kỳ hạn Huy động tiền tiết kiệm của dân cư Đi vay NHNN, NHTM khác Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu Các hoạt động huy động khác: Uỷ thác đầu tư 1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn - Hoạt động ngân quỹ: Đây là hoạt động mang tính chất dự trữ: Dự trữ bắt buộc: Đây là khoản dự trữ mà các NHTM phải nộp vào tài khoản tại NHNN nhằm thực hiện một số mục tiêu đề ra: Thứ nhất, khoản này đống vai trò như như một khoản đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Thứ hai, nó giúp NHNN có thể vận hành chính sách tiền tệ quốc gia. Theo như đã trình bày ở trên, nếu tỷ lệ dự trữ càng thấp, lượng cung tiền ra thị trường càng lớn và ngược lại. Tuỳ từng điều kiện khác nhau mà NHNN sẽ đua ra các biện pháp phù hợp với hoàn cảnh. Thứ ba, nó giúp NHNN quản lý được hoạt động của NHTM. Dự trữ vượt quá: khoản tiền này tồn tại dưới 3 hình thức: tiền mặt tại quỹ, tài khoản tiền gửi NHNN và tiền mặt trong quá trình thu. Khoản mục này tồn tại có thể do hoạt động kinh doanh của NH không tốt, không cho vay hết vốn mà mình huy động được( sau khi đã trừ đi dự trữ bắt buộc) hay cũng có thể do chính sách hoạt động của mình, NH muốn giữ lại một khoản dự trữ nữa ngoài dự trữ bắt buộc để đảm bảo hơn nữa khả năng thanh toán của mình. -Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng huy động vốn sau đó cho vay, sau một thời gian NH sẽ thu được cả gốc và lãi. Tuỳ thuộc vào tiêu chí mà cho vay được chia thành nhiều loại khác nhau: Căn cứ vào thời hạn khoản vay, hoạt động cho vay được chia thành 3 loại Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay mà thời hạn của khoản vay nhỏ hơn một năm. Hình thức này chủ yếu để bổ sung vốn lưu động cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp: Thu mua hàng hoá, trả lương cho công nhân viên… Cho vay trung hạn: Thời hạn khoản vay từ 1 dến 5 năm, chủ yếu để tài trợ cho các hoạt động sửa chữa tài sản cố định, thay đổi kế hoạch sản xuất hàng hoá. Cho vay dài hạn: Thời hạn của khoản vay trên 5 năm. Khoản mục này thường tài trợ cho các hoạt động xây dựng cơ bản: Đổi mới máy móc thiết bị, cho vay để tăng cường chiều sâu, xây dựng phân xưởng mới. Căn cứ vào phương thức tài trợ, hoạt động cho vay được chia thành: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án. Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Người bán chuyển các khoản phải thu cho vay để lấy tiền ứng trước. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay tiêu dùng: Khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình…Nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Tài trợ cho dự án: Ngân hàng cho vay để tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các nghành công nghệ cao. Căn cứ vào tài sản đảm bảo: Cho vay không có tài sản đảm bảo: Bảo lãnh, tín chấp Cho vay có tài sản đảm bảo: Thế chấp, cầm cố, Căn cứ vào hạn mức tín dụng: Cho vay trong hạn mức: là hình thức cho vay mà số dư nợ bế hơn hoặc bằng hạn mức cho vay của ngân hàng. Cho vay ngoài hạn mức: Là hình thức cho vay mà số dư nợ lớn hơn quy mô hạn mức mà ngân hàng cho vay. Cho vay quá ngạch: Là hình thức cho vay mà khách hàng vẫn chưa trả xong nợ cũ.Thông thường, NH chỉ tiếp tục cho khách hàng vay khi đã thu được nợ cũ, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt Ngân hàng sẽ xem xét để cho doanh nghiệp vay thêm, nhằm giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn hoặc chớp được cơ hội kinh doanh tốt nhất. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: NH cho khách hàng vay để sản xuất kinh doanh, để phát triển nhà ở, mua xe… Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng tham gia các hoạt động hùn vốn, góp vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho các dự án đầu tư. Hoạt động này không những tạo thêm thu nhập cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng thâm nhập thị trường nhằm thu thập thêm thông tin, phục vụ hoạt động cho vay. Có rất nhiều hình thức đầu tư khác nhau, nhưng các NH chủ yếu tham gia vào 3 hình thức: Đầu tư vào chứng khoán: Do mục tiêu của các ngân hàng thương mại là an toàn và sinh lợi, do đó các NHTM chỉ nắ giữ trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công ty lớn. Tuy nhiên việc đầu tư vào chứng khoán cũng bị hạn chế. Các NHTM chỉ được đầu tư không quá 30% vốn chủ sở hữu của mình và số vốn này phải phân bổ vào các doanh nghiệp sao cho không quá 10% cổ phần của doanh nghiệp được đầu tư. Đầu tư vào các doanh nghiệp: là hoạt động ngân hàng đầu tư vào để trở thành một thành viên trong tập đoàn đó. Đầu tư hùn vốn vào dự án: Thông thường là các dự án BOT… Hoạt động sử dụng vốn khác: NH sẽ đầu tư vào các hoạt động quảng cáo, quảng bá, tài trợ…để quảng bá cho thương hiệu của mình. 1.1.3.3. Nghiệp vụ trung gian - nghiệp vụ chuyển tiền: Là một nghiệp vụ mà ngân hàng phải chuyển tiền cho một người khác khi có lệnh của khách hàng. - Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt: Loại hình dịch vụ này bao gồm: thanh toán bù trừ, thanh toán séc, L/C, thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng hối phiếu… - Cung cấp các dịch vụ tài chính: Bao gồm các dịch vụ môi giới, tư vấn tài chính, uỷ thác đầu tư, bảo lãnh và các loại hình dịch vụ khác. 1.2. Khái quát về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng TM 1.2.1. Khái niệm về hoạt đông bảo lãnh ngân hàng “ Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( Bên bảo lãnh) với bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Theo khái niệm trên, tham gia bảo lãnh gồm có ba bên: - Bên được bảo lãnh: Là bên yêu cầu NH mở thư bảo lãnh. Đây là khách hàng của ngân hàng. Trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng, NH sẽ phải thanh toán thay và bên được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho NH. - Bên nhận bảo lãnh: là bên được hưởng bồi thường theo các quy định trong thư bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng, với điều kiện bên nhận bảo lãnh phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với các điều khoản được quy định trong hợp đồng bảo lãnh. -Bên bảo lãnh: là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán cho các bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu; đồng thời xuất đầy đủ các chứng từ phù hợp với những điều đã kí kế trong hợp đồng bảo lãnh, Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa là Ngân hàng là bên bảo lãnh. 1.2.2. Đặc điểm, chức năng, vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.2.2.1. Đặc điểm của hoạt độnh bảo lãnh ngân hàng - Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau Trong nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự tham gia đồng thời của 3 hợp đồng độc lập: Hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Tuy có sự phân chia, nhưng ba mối quan hệ này vẫn có mối quan hệ gắn kết nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, mỗi bên có trách nhiệm thực hiện hợp đồng với hai bên còn lại. Tính độc lập của bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng của người được bảo lãnh, nhưng việc thanh toán của một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh. Ngoài ra, tính độc lập của bảo lãnh ngân hàng còn thể hiện ở sự độc lập giữa trách nhiệm thanh toán của ngân hàng với mối quan hệ khách hàng. Ngân hàng không thể viện cớ bên được bảo lãnh còn nợ tiền của ngân hàng, bên được bảo lãnh phá sản…để trì hoãn việc thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh đưa ra đầy đủ chứng từ… Tính phù hợp của bảo lãnh Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu NH thanh toán thì Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình. Ngân hàng bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi kí bảo lãnh. Do đó bảo lãnh được coi là một tài sản ngoại bảng. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh thì bảo lãnh được xếp vào nội bảng. Lúc này bảo lãnh được xếp vào loại tài sản xấu cấu thành nợ quá hạn. Qua đó cho ta thấy, bảo lãnh cũng là một nghiệp vụ chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay. Do vậy, Ngân hàng phải phân tích kỹ lưỡng khách hàng trước khi nhận bảo lãnh. 1.2.2.2. Chức năng của hoạt động bảo lãnh - Bảo lãnh cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng: Mục đích của bảo lãnh ngân hàng là phải bồi hoàn tài chính cho người thụ hưởng bảo lãnh những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Do đó bảo lãnh mang chức năng bảo đảm hơn là thanh toán. Điều này được thể hiện rất rõ trong bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình…Do vậy bảo lãnh được dùng cho mục đích an toàn cho người thụ hưởng khi có sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. - Bảo lãnh là một công cụ tài trợ Nhờ hoạt động bảo lãnh của ngân hàng mà hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng được thực hiện đúng tiến độ và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt trong thương mại quốc tế, bảo lãnh được biết đến như một công cụ tài trợ cho xuất nhập khẩu. Đối với thị trường chúng khoán ở những nước phát triển, Ngân hàng là người bảo lãnh tài trợ cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán… - Bảo lãnh có chức năng thúc đẩy hoàn thành hợp đồng Chức năng này xuất phát từ người được bảo lãnh, có thể bị người thụ hưởng bảo lãnh yêu cầu thanh toán bầt kỳ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh nếu như họ vi phạm hợp đồng, ở bất kể mức độ nào, là bao nhiêu. Người được bảo lãnh luôn phải chịu áp lực của việc phải bồi hoàn bảo lãnh. Chính vì vậy bảo lãnh như có tác dụng thúc đẩy người được bảo lãnh hoàn tất hợp đồng đã được ký kết và hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. 1.2.2.3. Vai trò của hoạt động bảo lãnh. - Đối với nền kinh tế: Bảo lãnh đóng vai trò là chất xúc tác thương mại. Nhờ có bảo lãnh mà việc thực hiện hợp đồng vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh trở nên thuận lợi hơn. Nhu cầu về vốn luôn là một vấn đề cấp thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc vay vốn nước ngoài trở nên phổ biến và đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên do khoảng cách địa lý, bất đồng ngôn ngữ là những trở ngại khiến các thành viên không hiểu rõ nhau. Do đó, trong quan hệ hợp tác nhất thiết phải có hoạt động bảo lãnh bảo đảm cho quyền lợi của các bên. - Đối với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh ra đời đã trở thành công cụ tài trợ, giúp cho bên được bảo lãnh có thể vay vốn với chi phí thấp hơn. Do đó mà bên được bảo lãnh có thể sử dụng được nguồn vốn một cách triệt để và tối ưu nhất. Nhờ có bảo lãnh đã giúp cho bên được bảo lãnh có thể tiếp cận được với những dự án, những hợp đồng…ngay cả khi họ chưa có đủ uy tín đối với đối tác, cho dù họ hoàn toàn có khả năng và phương tiện thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, nhờ có bảo lãnh mà bên bảo lãnh thường xuyên chịu sự giám sát của Ngân hàng, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có trách nhiệm hơn và hoàn thành các nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh. - Đối với bên nhận bảo lãnh: Bảo lãnh là công cụ bảo đảm quyền lợi cho họ. Có bảo lãnh bên nhận bảo lãnh sẽ ít có nguy cơ bị thiệt hại hơn bởi tổ chức bảo lãnh là một tổ chức được họ tín nhiệm. Nếu rủi ro xảy ra, khi đối tác của họ( bên được bảo lãnh) không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng và không bồi thường cho bên nhận bảo lãnh những thiệt hại, bên nhận bảo lãnh sẽ đưa ra các hồ sơ liên quan chứng minh cho sự sai phạm đó và sẽ nhận được bồi thường của ngân hàng phát hành bảo lãnh. - Đối với NH phát hành bảo lãnh: Bảo lãnh giúp ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm của mình. Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập có được chủ yếu là thu từ phí dịch vụ. Mặc dù ở hầu hết các NHTM Việt Nam thu nhập chủ yếu từ các hoạt động tín dụng nhưng các ngân hàng cũng ngày càng nhận thấy bảo lãnh là một nghiệp vụ không thể thiếu trong các sản phẩm của mình và đang mang lại cho các ngân hàng một nguồn thu đáng kể. 1.2.3. Phân loại bảo lãnh Ngân hàng. *Phân theo mục đích - Bảo lãnh vay vốn: là một loại bảo lãnh ngân hàng do Ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kêt trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ và đúng hạn. Bảo Lãnh vay vốn gồm có hai loại: Bảo lãnh vay vốn trong nước Bảo lãnh vay vốn nước ngoài mà trong đó chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm. - Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. - Bảo lãnh dự thầu: là một loại bảo lãnh NH do NH phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo cho nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy chế dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì NH thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do NH phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, NH thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là một loại bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh đảm bảo khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. - Bảo lãnh hoàn thanh toán: Là một bảo lãnh do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị vi pham các cam kết với bên nhận bảo lãnh, và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. *Phân loại dựa vào phương thức phát hành bảo lãnh. - Bảo lãnh trực tiếp: Là một hình thức bảo lãnh mà trong đó, NH phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Để thoả thuận với người thụ hưởng, người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh với những điều kiện và những điều khoản đã thoả thuận của thư bảo lãnh. Khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì sau đó người được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn lại cho ngân hàng số tiền ngân hàng đã trả thay. Mối quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng được coi là sự uỷ nhiệm. Khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng phải thực hiện và người được bảo lãnh phải có trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng. Trong trường hợp người bảo lãnh là người nước ngoài, Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh sẽ thông qua mối quan hệ đại lý của mình, yêu cầu một ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng chuyển thư bảo lãnh( NH phục vụ người được bảo lãnh gọi là NH phát hành;NH có trụ sở tại nước người thụ hưởng là ngân hàng thông báo). Vai trò của ngân hàng thông báo là thông báo và chuyển nội dung các giao dịch giữa người thụ hưởng và NH phát hành. NH thông báo hầu như không có nghĩa vụ đối với người thụ hưởng liên quan đến bảo lãnh. NH thông báo phải có trách nhiệm đảm bảo tính trung thực của các thông báo nhận được từ NH phát hành. - Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối. - Bảo lãnh gián tiếp: Là loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng bảo lãnh đã phát hành theo lệnh của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị chịu trách nhiệm bồi hoàn. Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 thành phần tham gia: NH phát hành bảo lãnh, NH chỉ thị, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Ngoài các cách phân loại như trên, còn có nhiều hình thức khác như: Bảo lãnh hải quan: Khi hàng hoá được nhập khẩu vào một quốc gia nhằm mục đích trưng bày, triển lãm, tham gia hội chợ…trong một khoảng thời gian xác định rồi sẽ tái xuất hoặc trường hợp một công ty thi công cần nhập khẩu máy móc, thiết bị để thi công rồi sau đó lại xuất khẩu chúng về bản quốc thì hàng hoá đó không phải nộp thuế nhập khẩu. Do đó hải quan nước mà hàng hóa, máy móc đó được tạm nhập hay tái xuất yêu cầu chủ hàng phải có một bảo lãnh nhằm bảo đảm rằng nếu trong thời hạn đã đăng ký mà hàng hoá, máy móc đó không tái xuất thì hải quan nước đó sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh, coi như một khoản thuế nhập khẩu hay một món phạt. Số tiền bảo lãnh do cơ quan hải quan ấn định trong từng trường hợp cụ thể và bảo lãnh hết hiệu lực khi hàng hoá đó tái xuất đúng hạn hay đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Ngân hàng sẽ thực hiên nghiêp vụ bảo lãnh hải quan cho lô hàng hóa được nhập khách hàngẩu hay xuất khách hàngẩu đó. Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Là việc ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho chứng khoán của các công ty đang muốn huy động vốn để sản xuất kinh doanh nhưng đủ uy tín để chứng khoán của họ được chấp nhận trên thị trường. Khi nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ gặp rủi ro do việc mất giá chứng khoán trên thị trường. Họ sẽ nhận chứng khoán từ công ty, chuyển cho công ty trong đợt phát hành sau khi đã trừ đi một phần hoa hồng và phí rồi bán lại cho công chúng. 1.2.4.Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh. Bảo lãnh không phải là một hoạt động cho vay, nhưng đối với ngân hàng, rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng tương tự như trong nghiệp vụ cho vay. Khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khoản tiền các ngân hàng bỏ ra trả thay được xử lý như một khoản nợ quá hạn. Vì vậy, trình tự và thủ tục trong một nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương tự như trong nghiệp vụ cho vay, như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng bảo lãnh, xử lý nợ quá hạn khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Tuỳ từng loại bảo lãnh sẽ có các bước cụ thể khác nhau, song nhìn chung đều có 5 bước cơ bản như sau: Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đến đề nghị bảo lãnh. Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, giấy đề nghị bảo lãnh, báo cáo tài chính về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, tài sản đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định. Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và quyết định bảo lãnh. - Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo lãnh. Khách hàng nhận một bản cam kết bảo lãnh cho ngân hàng phát hành. Bước 4: Xử lý sau khi phát hành bảo lãnh Sau khi phát hành bảo lãnh, ngân hàng theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, hạch toán số dư bảo lãnh, theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh, khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác. Bước 5: Tất toán bảo lãnh sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hoặc khi có thông báo hoặc xác nhận của bên nhận bảo lãnh, NH tất toán bảo lãnh. 1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh Bảo lãnh là một hoạt động liên quan đến hoạt động của nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có thể kể đến một số nhân tố cơ bản sau đây: 1.2.5.1. Nhân tố khách quan - Pháp luật và chính sách của Nhà nước: Mọi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế bao giờ cũng chịu sự điều tiết của pháp luật. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trong của nên kinh tế, các ngân hàng càng phải quan tâm đến vấn đề này, bởi hoạt động của ngân hàng liên quan đến hầu hết các hoạt động khác trong nền kinh tế. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng có điều kiện xây dựng kế hoạch kinh doanh tốt và tến hành các nghiệp vụ chức năng của mình một cách thuận lợi nhất. Nghiệp vụ bảo lãnh cũng vậy, khi mới ra đời, bảo lãnh hầu như không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh, ngân hàng đã gặp phải không ít khó khăn khi phát sinh các tranh chấp, mà không có những pháp chuẩn mực pháp quy để xử lý, mọi thứ đều phải dựa vào quan hệ hợp đồng. Từ khi xuất hiện luật các tổ chức tín dụng và các điều khoản quy định có liên quan và một loạt các văn bản khác ra đời như: Quyết định 196 ban hành ngày 16/9/1994 của thống đốc NHNN, quyết định 263/ QĐ- NHNN ngày 19/9/1995 và gần đây nhất là quyết định 283/2000/QĐ- NHNN ngày 25/8/2000 đã tạo nền tảng pháp lý ban đầu cho nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên không đơn thuần chỉ chịu sự điều chỉnh của những văn bản quy phạm điều chỉnh trực tiếp nói trên, nghiệp vụ bảo lãnh còn chịu sự tác động của nhiều luật khác, liên quan đến từng nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể. Vì vậy, việc hoàn thiện môi trường pháp lý sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lương hoạt động bảo lãnh. Môi trường chính trị xã hội: Môi trường chính trị xã hội ổn định là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển hoạt động đầu tư, kích thích sự gia tăng của các hoạt động thưong mại trong nước và quốc tế. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của bảo lãnh. Môi trường chính trị xã hội tác động rất lớn đén tâm lý của nhà đầu tư bởi họ không thể đầu tư vào một đất nước có tình hình chính trị bất ổn định, chiến tranh, bạo động xảy ra liên tiếp, mà không có đầu tư, ngân hàng sẽ không thể có được những hợp đồng bảo lãnh. Môi trường kinh tế: Nghiệp vụ._. bảo lãnh ra đời xuất phát từ sự phát triển kinh tế, vì vậy những biến động trong nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động bảo lãnh. Môi trường kinh tế phát triển lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho các giao dịch trong nền kinh tế càng gia tăng, khiến cho hoạt động bảo lãnh càng có cơ hội phát triển, chất lượng bảo lãnh cũng theo đó mà tăng lên. Mặt khác, là một hoạt động xuất hiện nhiều trong giao dịch quốc tế nên bảo lãnh chịu ảnh hưởng nhiều bởi các chính sách tỷ giá và lãi suất. Những yếu tố này là những yếu tố thuộc về vĩ mô, do đó chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường kinh tế xã hội và các chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là phải tiến hành dự báo những thay đổi, diễn biến của chúng nhằm đảm bảo khả năng thích nghi với sự thay đổi đó, tránh bị động, gây ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh. Những nhân tố thuộc về khách hàng: Doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh cần phải mở rộng những mối quan hệ giao lưu buôn bán với nhiều chủ thể khác trong nền kinh tế, vì vậy nhu cầu bảo lãnh là tất yếu. Tuy nhiên, muốn được bảo lãnh, doanh nghiệp cần phải đáp ứng được những yêu cầu của ngân hàng. Khả năng đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng được thể hiện ở các khía cạnh sau: Năng lực tài chính của danh nghiệp: Doanh nghiệp có năng lực tài chính ổn định sẽ khiến NH không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, NH sẽ gặp ít rủi ro.Năng lực tài chính góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh. Khả năng đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm: Bảo lãnh cũng như bất kỳ một hoạt động tín dụng nào, cũng cấn có tài sản đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp các loại tài sản thuộc sở hữu của khách hàng…Đây là biện pháp làm giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Hạn mức bảo lãnh được quyết định dựa vào tỷ lệ % giá trị tài sản, thông thường 70% giá trị tài sản. Do đó các ngân hàng cần đánh giá tài sản một cách chính xác, khách quan, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Đạo đức của khách hàng: Cũng giống như hoạt động cho vay, trước khi ra quyết định bảo lãnh ngân hàng phải xem xet cả đạo đức khách hàng, các mối quan hệ của khách hàng, lịch sử giao dịch của họ, xem các khoản nợ cũ với ngân hàng mình và với các tổ chức tín dụng khác mà khách hàng có quan hệ. 1.2.5.2. Nhân tố chủ quan. - Chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Bao gồm các chiến lược như chiến lược Marketing, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới cơ cấu tổ chức…Đây là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Do đó hoạt động bảo lãnh cần phải thực hiện theo các định hướng chung đó. Ngân hàng cần đưa ra các chính sách cụ thể về quy mô, tính chất, phương thức hoạt động bảo lãnh, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ, bảo đảm phát triển đúng theo định hướng đã đề ra. Uy tín của ngân hàng: Uy tín ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng, tới việc tăng số lượng khách hàng đến với ngân hàng, tới việc làm tăng doanh thu. Những khách hàng lần đầu tìm đến ngân hàng , họ sẽ tìm đến các ngân hàng có uy tín. Còn đối với những khách hàng đã thực hiện hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng thì uy tín đóng vai trò giữ chân họ ở lại sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Chất lượng thẩm định khách hàng Bảo lãnh là nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó chất lượng thẩm định khách hàng của ngân hàng là yếu tố không thể thiếu trước khi ra quyết định bảo lãnh của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro. Trước khi kí hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, ngân hàng cần xem xét khả năng tài chính của khách hàng, khả năng thực hiện hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, khả năng thanh toán của khách hàng nếu nghĩa vụ bảo lãnh được phát sinh… Phẩm chất, trình độ cán bộ thực hiện bảo lãnh Con người là yếu tố quan trọng nhất trong bất cứ hoạt đông kinh doanh nào. Do đó, để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh các cán bộ thực hiện cần nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm thích ứng kịp thời với công việc. Bên cạnh đó các cán bộ phải có được những phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần làm việc sáng tạo, hăng hái, có trách nhiệm góp phần thúc đẩy sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NHTM CP NHÀ HÀ NỘI 2.1. Khái quát về NHTM CP Nhà Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Habubank 2.1.1.1. Lịch sử hình thành: Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên thành lập tại Việt Nam với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Ủy ban Nhân dân Thành Phố Hà nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lí nhà và du lịch. Số vốn điều lệ đầu tiên là 5 tỷ đồng Việt Nam, được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trong 99 năm. Vào tháng 10 năm 1992, Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam cho phép Ngân hàng thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ: tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý với chiến lược mở rộng kinh doanh, ngoài việc thực hiện các hoạt động thương mại nhằm vào các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân và tổ chức tài chính khác. Thêm vào đó cơ cấu các cổ đông đã mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp tư nhân lẫn quốc doanh tham gia đầu tư đóng góp phát triển. Tăng vốn điều lệ lên 24,396 tỷ đồng. Trở thành thành viên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Mở phòng giao dịch số 1 tại 57 Hàng Cót, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Năm 1996, vốn điều lệ đã tăng lên 50 tỷ đồng và mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài để hoạt độnh kinh doanh và thanh toán quốc tế. Khai trương phòng giao dịch số 2 tại 341 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội. Năm 1999, tăng vốn điều lệ lên 57 tỷ đồng. Trở thành thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. Khai trương phòng giao dịch số 3 tại 67C Hàm Long, HN. Năm 2000, được bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cấp chứng nhận bảo hiểm tiền gửi. Tăng vốn điều lệ lên hơn 70 tỷ đồng. Năm 2001, sáp nhập Ngân hàng TMCP Nông thôn Quảng Ninh vào Habubank. Mở chi nhánh Quảng Ninh. Trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu. Năm 2002: Tăng vốn điều lệ lên 80 tỷ đồng. Mở chi nhánh tại Bắc Ninh Năm 2003: tăng vốn điều lệ lên 120 tỷ đồng. Mở chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh Năm 2003: Kỷ niệm 15 năm thành lập. Tăng vốn điều lệ lên 200 tỷ đồng. Liên kết công ty bảo hiểm Viễn Đông thực hiện các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2005, Tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng. Thành lập công ty chứng khoán HBBS. Thành lập Trung tâm thẻ. Gia nhập hệ thông liên minh thẻ VNBC. Năm 2006, Habubank đã hoàn thành việc phát triển vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng. Tăng vốn điều lệ của thị trường chứng khoán Habubank lên 50 tỷ và bổ sung thêm 2 nhiệm vụ mới là quản lý danh mục đầu tư và bảo lãnh phát hành. Mở Sở giao dịch hàng Trống, phòng giao dịch Thanh Xuân, chi nhánh Uông Bí và chi nhánh Hải Phòng. Được tạp chí The Banker (Anh Quốc) trao tặng giải thưởng”Ngân hàng Xuất sắc nhất Việt Nam 2006” Như vậy cho tới nay, qua hơn 18 năm hoạt động, Habubank đã có số vốn điều lệ 1000 tỷ đồng với mạng lưới ngày càng mở rộng, 7 năm liên tục được NHNN Việt Nam xếp loại A và được công nhận là Ngân hàng phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. Habubank luôn giữ vững niềm tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách nhiệt tình, chuyên nghiệp của tất cả các nhân viên. 2.1.1.2 . Phương châm hoạt động của Habubank Habubank cung ứng một cách toàn diện các dịch vụ sản phẩm tài chính ngân hàng có chất lượng cao, sáng tạo, nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của từng đối tượng khách hàng, với sự kiên trì và tích cực để đưa ra các giá trị đích thực,”tích luỹ niềm tin” từ khách hàng. 2.1.1.3.. Những hoạt động cơ bản của Habubank Dịch vụ tài chính ngân hàng cá nhân Tiền gửi tiết kiệm Tài khoản tiền gửi Cho vay cá nhân hỗ trợ tiêu dùng và mở rộng sản xuất kinh doanh( cho vay trả góp, cho vay có tài sản đảm bảo, Chiết khấu giấy tờ có giá…), chiết khấu. Chuyển tiền trong nước Chuyển tiền ra nước ngoài Phát hành bankdraft/séc Kiều hối: Thẻ chuyển tiền nhanh Nhận chi trả kiều hối- Westem Union Dịch vụ nhờ thu séc Thu đổi séc du lịch Đầu tư chứng khoán Phát hành thẻ Dịch vụ tài chính ngân hàng doanh nghiệp Tài khoản tiền gửi Trả lương qua tài khoản Cho vay doanh nghiệp Bảo lãnh Thanh toán thương mại quốc tế doanh nghiệp Thư tín dụng Chuyển tiền Nhờ thu Bảo lãnh thanh toán xuất khẩu Ngoại hối Giao ngay Kỳ hạn hoán đổi Mua bán ngoại tệ theo thoả thuận Đầu tư chứng khoán Dịch vụ nhờ thu Séc Các sản phẩm dịch vụ dành cho các đối tác là các tổ chức tài chính khác a. Bảo hiểm b. Uỷ thác và đồng uỷ thác c. Chiết khấu và tái chiết khấu giáy tờ có giá d. Mua bán hẳn và mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá e. Đồng tài trợ Dịch vụ ngân hàng tự động: thẻ ATM Dịch vụ ngân quỹ: làm mới tài sản có giá và quản lý tiền mặt, cất, giữ hộ tài sản, kiểm định ngoại tệ. Dịch vụ chăm sóc khách hàng: SMS Banking, Phone Banking, Internet Banking. 2.1.2. Sơ đồ bộ máy tổ chức Habubank. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Habubank Kết quả các chỉ tiêu kinh doanh của Habubank trong 5 năm gần đây đều đạt và vượt mức kế hoạch, có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục .Bảng 2 dưới đây là một số chỉ tiêu kinh doanh chính của Habubank trong giai đoạn 2005-2006. Doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế liên tục tăng. Năm 2001 doanh thu thuần Habubank là 29.780 triệu đồng; năm 2002 là 38.023 triệu đồng, tăng 27,68% so với năm 2001; năm 2003 là 55.232 triệu đồng, tăng 45,26% so với năm 2002, và đến năm 2005 là 182.438 triệu đồng, tăng với tốc độ là 61,92% so với năm 2004(112.670 triệu đồng); năm 2006 đã đạt tới 232.099 triệu đồng; tăng 125,1% so với năm 2005.Như vậy có thể nói rằng sau 6 năm mà doanh thu thuần của Habubank đã tăng lên một cách khá nhảy vọt. Về lợi nhuận thì lợi nhuận trước thuế năm 2001 là18.232 triệu đồng, năm 2002 là 24.454 triệu đồng, tăng 23,16%; năm 2003 là 29.131 triệu đồng, tăng với tốc độ là 29,73%. Đặc biệt là hai năm 2004 và 2005, lợi nhuận trước thuế đạt tới con số 60.466 triệu đồng và 108.232 triệu đồng, tốc độ tăng tương ứng là 107,56% và 78,99%. Như vậy, qua 5 năm từ năm 2001 đến 2005 thì lợi nhuận trước thuế đã tăng gấp 5,9 lần. Đồng thời với việc tăng lợi nhuận trước thuế tăng thì mức đóng góp ngân sách của Habubank cũng tăng, năm 2001 đóng góp ngân sách mới là 63.06 triệu đồng thì năm 2005, đóng góp ngân sách đã là 27.458 triệu đồng, cao gấp 9 lần so với năm 2001. Bảng 1: Một số chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu của Habubank. (2004-2006) Các chỉ tiêu (đơn vị: triệu đồng) 31/12/2004 31/12/2005 % tăng trưởng 31/12/2006 %tăng trưởg Doanh thu thuần 112.670 182.438 61.92% 232.099 125.1% Lợi nhuận trước thuế 60.466 103.097 70.5% 232.099 125,1% Tổng vốn cổ đông 253.547 379.161 49.5% 1.638.206 332,1% Tổngtài sản 3.728.305 5.524.791 48% 11.750.731 112,7% Tổng dư nợ 2.362.461 3.330.218 41% 6.019.628 80,7% Tổng vốn huy động 3.397.386 4.902.385 44% 9.742.332 98,7% (nguồn: báo cáo thường niên các năm 2004-2005) Bảng 2: Một số chỉ số tài chính của Ngân hàng Đơn vị tính(%) Các chỉ số 31/12/2004 31/12/2005 31/12/2006 Lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu (ROE) 18% 20,89% 23% Lợi nhuận/Tổng tài sản (ROA) 1,2% 1,4% 2.04% Chi phí/Thu nhập 76,6% 33,46% 28,87% Tổng số nhân viên 120 352 540 (Nguồn: Báo cáo tài chính của phòng kế toán) 2.1.3.1. Tình hình huy động vốn Với các sản phẩm đa dạng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng , chính sách lãi suất linh hoạt, được hỗ trợ bởi các phương thức marketing hiệu quả, Habubank ngày càng thu hút được sự quan tâm của đông đảo khách hàng dân cư và các tổ chức kinh tế. tacó bảng số liệu sau: Bảng 3: Bảng số dư nguồn vốn huy động qua các năm 2004-2006 theo các hình thức huy động. Số dư nguồn vốn huy động 2004 % tổng nguồn 2005 % tổng nguồn huy động (2005,2004)/2004 2006 % tổng nguồn huy động ( 2006,2005) /2005 Tiền gửi thanh toán và vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng 1.191.860 31,97% 1.806.110 32,69% +51,54% 5.051.270 51,88% +179,68% Nguồn vốn vay khác 35.995 0.97% 46.618 0,84% 29,51% 67.736 0,7% 45,3% Tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân 480.186 12,88% 609.906 11.04% 27,01% 1.194.914 12,27% 95,92% Tiền gửi tiết kiệm 1.689.345 45,31% 2.486.367 45,00% 47,18% 3.421.182 35,14% 37% Tổng nguồn huy động 3.397.386 91,12% 4.949.003 89,58% 45,67% 9.735.102 100% 276,55% ( nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Qua bảng số liệu trên cho ta thấy, nếu như năm 2005 so với 2004 thì tổng nguồn vốn huy động của Habubank tăng 45,67%, trong đó huy động tiết kiệm tăng 47,18%, tiền gửi khách hàng tăng 27%, huy động liên ngân hàng tăng 51,54%; và sang đến năm 2006 thì các con số này tăng lên rất nhiều. Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng trong năm 2006 tăng so với năm 2005 là 276,55%, trong đó huy động tiết kiệm tăng lên 37%, tiền gửi khách hàng tăng 95,92%, huy động liên ngân hàng 179,55%. Năm 2006, Habuabank tiếp tục đẩy mạnh tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, như dự án tài chính Nông thôn II- RDFII do ngân hàng thế giới (WB) tài trợ; dự án cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. Các nguồn vốn huy động được này đã làm đa dạng hoá cơ cấu nguồn vốn huy động, tăng cường thêm nguồn vốn trung và dài hạn của Habubank với chi phí rẻ hơn, góp phần phảt triển tín dụng cho khu vực nông thôn gần thành thị và khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ta có bảng 4: số liệu thể hiện cơ cấu nguồn vốn như sau: Cơ cấu nguồn vốn 2004 % tổng nguồn vốn 2005 % tổng nguồn vốn (2005, 2004) /2004 2006 % tổng nguồn vốn (2006, 2005) /2005 Vốn chủ sở hữu 253.547 6,8% 391.464 7,09% +54,40% 1.756.381 15,03% 348,67% Tiền gửi của khách hàng 2.169.531 58,19% 3.096.275 56,04% +42,72% 4.616.096 39,50% 49,09% Tiền gửi thanh toán, gửi và vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác 1.227.855 32,93% 1.852.728 33,53% 50,89% 5.119.006 43,81% 176,30% Các khoản phải trả 77.372 2,08% 184.324 3,34% 138,23% 193.835 1,66% 5,16% Tổng nguồn vốn 3.728.305 100% 5.524.791 100% 48,19% 11.685.318 100% 115,51% ( nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) 2.1.3.2. Tình hình tín dụng Cùng với sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trong những năm vừa qua, theo đó nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế cũng không ngừng tăng lên; để đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, với tiêu chí phục vụ khách hàng, Habubank đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ cả về chiều rộng và chiều sâu, trong đó dịch vụ cho vay khách hàng vẫn là dịch vụ tạo nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, tổng dư nợ cho vay năm 2006 đạt 9.543,505 tỷ đồng, tăng 186,57% so với năm 2005, con số này tăng lên rất nhiều so với năm 2005, với tổng dư nợ cho vay đạt 3.330,218 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2004. Tỷ lệ nợ quá hạn được duy trì ở mức 1,1% tổng dư nợ, là thước đo sát sao đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động. Tacó bảng tổng dư nợ cho vay khách hàng theo kết quả từ 2001-2006. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 tổng dư nợ 672,899 995,225 1.596,101 2.362,641 3.33o,218 9.543,505 Để đạt được kết quả trên, Habubank đã không ngừng mở rộng mạng lưới, phát triển nhiều sản phẩm cho vay mới, đưa ra các chính sách tín dụng mới với lãi suất phù hợp, cải tiến quy trình thẩm định và xét duyệt để đáp ứng được nhu cầu nhanh nhất, tốt nhất cho khách hàng. Habubank đã không ngừng mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực với các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính theo hình thức đồng tài trợ và uỷ thác cho vay để đáp ứng tố nhu cầu của khách hàng trên cơ sở phân tán rủi ro cho ngân hàng. Hướng tới nhóm khách hàng là các doanh nghiẹp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng vẫn là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của Habubank. Trong tổng dư nợ cho vay thì các dư nợ của công ty cổ phần, TNHH chiếm 65%, dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm 29% tính đến năm 2006 Đồng thời, Habubank luôn chú trọng đến các dự án đầu tư trung và dài hạn có tính khả thi cao, các dự án trọng điểm nằm trong quy hoạch phát triển của chính phủ…để đảm bảo nguồn thu nhập cho Habubank. Năm 2004 dư nợ bảo lãnh chỉ chiếm 18% thì đến năm 2006 dư nợ trung và dài hạn chiếm 31%. Các chỉ tiêu cụ thể trong năm 2004-2006 2004 2005 2006 -Cho vay ngắn hạn -Cho vay dài hạn 82% 18% 74% 26% 69% 31% * tổng dư nợ phân theo loại hình doanh nghiệp Loại hình 2004 2005 2006 DNNN 2% 3% 3% Công ty cổ phần, TNHH 69% 67% 65% DN có vốn đầu tư nước ngoài 2% 3% 3% Cá nhân, gia đình 27% 27% 29% * tổng dư nợ theo phân nghành kinh tế: Nghành 2004 2005 2006 Thương mại 62% 64% 65,94% Nông, lâm nghiệp 1% 0,99% 0,98% Sản xuất, chế biến 4% 3,91% 3,8% Xây dựng 12% 11% 8,68% Vận tải và thông tin liên lạc 2,6% 2,3% 1,99% Các nghành khác 18,4% 17,8% 18,61% Bên cạnh việc phát triển tín dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, Habubank luôn chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng. Trong năm 2005, Habubank tiếp tục chuẩn hoá hoạt động tín dụng trên cơ sở hoàn thiện quy chế cho vay, ban hành các mẫu hợp đồng mới trong hoạt động tín dụng, triển khai hệ thống chấm điểm cho vay doanh nghiệp, ban hành” định hướng tín dụng năm 2005”, bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, kiểm soát liên tục triển khai, rà soát hoạt động tín dụng nhằm đôn đốc việc kiểm soát trong và sau khi cho vay, phát hiện sớm các rủi ro có thể xảy ra để đề xuất, xử lý. 2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Habubank Trong suốt 18 năm xây dựng và phát triển, thành công lớn nhất mà Habubank đã đạt được là phát triển ổn định, an toàn và hiệu quả. Đặc biệt là Habubank ngày càng nhận được sự tin tưởng rộng rãi hơn từ mọi đối tượng khách hàng thông qua chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, đây là cơ sở và cũng là tiền đề để Habubank tiếp tục phát triển vững chắc hơn. Habubank đã không ngừng đổi mới và phát triển nhằm đem lại những dịch vụ đa dạng nhất, có chất lượng dịch vụ tốt nhất đến khách hàng. Hơn nữa, trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các ngân hàng thương mại lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần khác, và đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài đang bắt đầu đặt chân lên thị trường Việt Nam khi Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO; Vì vậy việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ là việc không thể chậm trễ đối với Habubank, trong đó không thể không kể đến nghiệp vụ bảo lãnh. Habubank nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho các tổ chức, doanh nghiệp khi các tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của Habubank. 2.2.1. Hình thức phát hành bảo lãnh Cũng như các ngân hàng khác, Habubank cung cấp cho khách hàng đa dạng các hình thức phát hành bảo lãnh khác nhau. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng trong giấy đề nghị bảo lãnh mà cam kết bảo lãnh có thể được phát hành bằng thư hoặc bằng điện, hoặc bằnh hình thức ký xác nhận bảo lãnh trên các thương phiếu, lệnh phiếu. Cam kết bảo lãnh bằng thư ở ngân hàng Habubank được phát hành làm 2 bản chính, có giá trị pháp lý như nhau, trong đó có 1 bản được lưu lại tại ngân hàng, một bản gửi cho bên nhận bảo lãnh( và một bản sao gửi cho khách hàng) hoặc gửi cho khách hàng để cho khách hàng gửi cho bên nhận bảo lãnh. Còn cam kết bảo lãnh bằng TELEX hoặc SWIFT phải do phòng nghiệp vụ gửi qua hệ thống thông tin có mã hoá hợp lệ và gửi đến một ngân hàng có quan hệ đại lý với Habubank có trụ sở ở nơi người nhận bảo lãnh, Habubank phải uỷ quyền cho ngân hàng đại lý thông báo bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh. Bản chính của cam kết bảo lãnh được hiểu là bản in của bức điện( TELEX hoặc SWIFT) đính kèm với bản chính thư thông báo của ngân hàng đại lý được Habubank uỷ quyền. Ngoài ra, việc ký xác nhận bảo lãnh trên các thương phiếu, lệnh phiếu phải được thực hiện theo pháp luật về thương phiếu. 2.2.2. Một số chỉ tiêu Thực trạng mở rộng hoạt động bảo lãnh tại HBB thể hiện qua một số chỉ tiêu dưới đây: 2.2.2.1. Qui mô, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh là nghiệp vụ ngân hàng hiện đại còn khá mới mẻ không chỉ với HBB mà với hầu hết các NHTM Việt Nam nói chung. Hiện nay, HBB vẫn chưa có phòng ban riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mà hoạt động bảo lãnh do phòng phát triển kinh doanhquản lý. Chỉ tiêu doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm Bảng5: Doanh số bảo lãnh taị HBB qua các năm (Đơn vị tính: tỷ đồng) chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiên Số tiền % tăng(giảm) so năm 2004 Số tiền %tăng(giảm) so 2005 Doanh số bảo lãnh 102,357 223,198 118,06% 357,914 149,96% ( Nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Habubank diễn ra khá đồng đều. Năm 2005 doanh số bảo lãnh tăng 118,06% so với năm 2004, và đến năm 2006 thì doanh số bảo lãnh đã tăng lên 149,96% so với năm 2005. Qua đó cho ta thấy uy tín của ngân hàng đã tạo được lòng tin đối với khách hàng, số lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng tăng. Có được kết quả như vậy nhờ các chính sách đãi ngộ của ngân hàng dành cho khách hàng, thái độ phục vụ nhiệt tình của đội ngũ cán bộ ngân hàng đã thu hút được một lượng đông đảo khách hàng đến với Habubank. Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh hàng năm Để nắm rõ hơn tình hình mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Habubank ta xem xét dư nợ bảo lãnh chia theo loại hình, đối tượng và thời hạn bảo lãnh. Bảng 6: Dư nợ bảo lãnh tại Habubank theo loại hình bảo lãnh Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ lệ(%) Số tiền Tỷ lệ(%) % tăng ( giảm) Số tiên Tỷ lệ(%) % tăng (giảm) 1. BL thanh toán 40.003,304 39,02% 112.000,950 40,06% +179,98% 225.748,74 `42,00% +101,56% 2. BL thực hiện hợp đồng 27.137,044 26,47% 84.266,316 30,14% +210,52% 167.430,316 31,15% +98,69% 3. BL dự thầu 17.592,432 17.16% 51.051,856 18,26% +190,19% 81.914,543 15,24% +60,45% 4.BL bảo hành 12.815 12,50% 25.637,761 9,17% 100,06% 44.236,003 8.23% +72,54% 5. BL khác 4.972,22 4,85% 6.626,117 2,37 +33,27% 18.167,399 3,38% +174,18% Tổng 102.520 100% 279.583 100% 172,71% 537.497 100% +92,24% (Nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Qua bảng số liệu trên cho ta thấy hầu hết số dư các loại hình bảo lãnh đều có sự tăng trưởng qua các năm. Chứng tỏ Habubank đã đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số dư nợ bảo lãnh. Chứng tỏ đây là một thế mạnh mà Habubank đã tạo dựng được. Phần lớn khách hàng đến ký hợp dồng bảo lãnh với Habubank chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần vì vậy mà các hợp đồng bảo lãnh thường là bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu. Bảng7: Dư nợ bảo lãnh chia theo thời hạn bảo lãnh Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ lệ(%) Số tiền Tỷ lệ(%) Số tiền Tỷ lệ(%) 1. BL ngắn hạn 98.419,2 96% 262.808,02 94% 499.872,21 93% 2. BL trung và dài hạn 4.100,8 4% 16.774,98 6% 37.624,79 7% Tổng 102.520 100% 279.583 100% 537.497 100% ( Nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Hoạt động bảo lãnh tại Habubank tập trung chủ yếu là bảo lãnh ngắn hạn, bảo lãnh trung và dài hạn chiếm tỷ trọng rất thấp, và đây cũng là thực trạng chung của tất cảc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Vì bảo lãnh ở ngân hàng tập trung chủ yếu là các loại bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng nên chủ yếu vẫn là bảo lãnh ngắn hạn. Bảng 8: Dư nợ bảo lãnh chia theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ lệ(%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) 1. BL cho các DNNN 8.714,2 8,5% 22.366,64 8% 45.687,245 8.5% 2. BL cho các thành phần kinh tế khác 93.805,8 91,5% 257.216,36 92% 491.809,755 91,5% Tổng 102.520 100% 279.583 100% 537.497 100% ( Nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Thực tế Habubank là một ngân hàng thương mại cổ phần nên khách hàng chủ yếu, khách hàng truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các công ty cổ phần. Do đó, số dư bảo lãnh tập trung phần lớn vào thành phần kinh tế này. 2.2.2.2. Chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh là nghiệp vụ ngân hàng hiện đại và mới mẻ, hoạt động kinh doanh tại Habubank chủ yếu là huy động vốn, cho vay và đầu tư, các dịch vụ ngân hàng trung gian chưa thực sự phát triển và mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Bảng 9: Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh 2,75 6,98 17,168 ( Nguồn: Báo cáo của phòng phát triển kinh doanh) Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh của ngân hàng tăng trưởng đều qua các năm. Thu nhập của ngân hàng năm 2005 đạt 6,98tỷ đồng, tăng 154% so với năm 2004( bảo lãnh nước ngoài năm trong doanh số thanh toán quốc tế). Và đến năm 2006 doanh số bảo lãnh đạt tới 17,168 tỷ đồng, tăng 160% so với năm 2005.Qua đó cho ta thấy mở rộng hoạt động bảo lãnh đã mang lại doanh thu đáng kể cho ngân hàng. 2.2.2.3. Chỉ tiêu số món bảo lãnh. Với chính sách luôn không ngừng tạo giá trị tích luỹ niềm tin cho khách hàng. Kể từ năm 2004 cho tới nay số món bảo lãnh tại Habubank đã tăng lên rõ rệt. Năm 2004 mới chỉ có 203 món bảo lãnh thì đến năm 2005 con số này lên tới 323 món và đặc biệt trong năm 2006 số món bảo lãnh thực hiên tại Habubank đã lên đến 704 món. Có thể nói đây là dấu hiệu cho sự phát triển vượt bậc của Habubank trong chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Sở dĩ có được thành quanhư vậy là nhờ vào sự cố gắng của cán bộ ngân hàng Habubank. Bên cạnh việc thu hút khách hàng mới, Habubank luôn chú trọng tới việc giữ chân khách hàng truyền thống. Không ngừng khuyến khích khách hàng truyền thống sử dụng các loại hình dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp. 2.2.2.4. Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn Với khả năng phân tích tài chính dự án tốt và kinh nghiệm làm việc của các cán bộ nhân viên, trong 3 năm qua tại NHTM CP nhà Hà Nội không có dư nợ bảo lãnh quá hạn cũng như không có hợp đông bảo lãnh nào phải thực hiện nghĩa vụ. Đây thực sự là kết quả khả quan để mở rộng hơn nữa hoạt động bảo lãnh tại HBB. 2.2.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động bảo lãnh tại HBB. 2.2.3.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của khách hàng Sau 18 năm hình thành và phát triển, với uy tín và kinh nghiệm của mình, Habubank hiện đang cung cấp cho khách hàng tất cả các loại hình bảo lãnh thông dụng đang được sử dụng trong nền kinh tế. Các loại hình bảo lãnh tại HBB bao gồm: + Bảo lãnh vay vốn Bảo lãnh vay vốn trong nước Bảo lãnh vay vốn nước ngoài + Bảo lãnh thanh toán + Bảo lãnh dự thầu + Bảo lãnh thực hiện hợp đồng + Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm + Bảo lãnh hoàn thanh toán + Các loại bảo lãnh khác theo quy định của NHNN Với phương châm Habubank cung ứng một cách toàn diện các dịch vụ sản phẩm tài chính ngân hàng có chất lượng cao, sáng tạo, nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của từng đối tượng khách hàng, với sự kiên trì và tích cực để đưa ra các “giá trị” đích thực, “Tích luỹ niềm tin từ khách hàng. Do vậy, tại HBB các loại hình bảo lãnh chủ yếu tập trung vào bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. 2.2.3.2. Khả năng thu hút khách hàng Theo đuổi mục tiêu chiến lược Habubank duy trì sự hài lòng, trung thành và gắn bó của khách hàng với Habubank. Phát triển Habubank thành một trong tốp 2 ngân hàng Việt Nam” được lựa chọn” do chất lượng dịch vụ tốt nhất bởi các doanh nghiệp cầu tiến, hộ gia đình và cá nhân. Khách hàng đề nghị ngân hàng phát hành bảo lãnh không chỉ có những khách hàng truyền thống là các công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà còn có cả các doanh nghiệp nhà nước. Bảng 10:Biểu phí dịch vụ bảo lãnh trong nước tại Habubank Loại phí Mức tính phí Tối thiểu 1. phát hành bảo lãnh 300.000 -Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ 2%/năm -Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ 1%/năm 2. Sửa đổi tăng tiền, gia hạn 100.000 -Phần giá trị bảo lãnh không có ký quỹ 2%/năm - Phần giá trị bảo lãnh có ký quỹ 1%/năm 3. Sửa đổi khác 50.000đ/lần 4. Huỷ bỏ bảo lãnh 200.000đ/lần (Nguồn: Phòng phát triển kinh doanh) Thực tế cho thấy mức phí bảo lãnh trong nước áp dụng tại Habubank cao hơn so với mức phí bảo lãnh của các ngân hàng khác. Đây chính là nguyên nhân mà nhiều doanh nghiệp chưa đề nghị ngân hàng phát hành bảo lãnh. Thực tế đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động mở rộng bảo lãnh ở Habubank. Hiện nay, ở Habubank vẫn chưa có một chiến lược Marketing riêng cho hoạt động bảo lãnh mà vẫn còn nằm trong chính sách Marketing chung của ngân hàng.Tuy nhiên hoạt động marketing ở ngân hàng này vẫn còn nhiều hạn chế. 2.2.3.3. Hình thức bảo đảm bảo lãnh Đến với Habubank quý khách phải có đảm bảo hợp pháp cho nghiệp vụ được bảo lãnh. Habubank và khách hàng sẽ thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh. Các hình thức bảo lãnh ở Habubank bao gồm: Ký quỹ, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật. Nhìn chung, ở ngân hàng Habubank áp dụng các hình thức bảo đảm rất linh hoạt dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tài chính của khách hàng. Hai bên cùng thoả thuận với nhau sao cho phù hợp với quy chế bảo lãnh của NH. Bảng 11: Dư nợ bảo lãnh theo hình thức bảo đảm Đ ơn v ị: tri ệu đ ồng Hình thức bảo đảm Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % K ý quỹ 35.882 35% 100.649,88 36% 220.373,77 41% Cầm cố tài sản 29.730,8 29% 69.895,75 25% 145.124,19 27% Thế chấp tài sản 18.966,2 18,5 33.549,96 16% 69.874,61 13% bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba 15.378 15% 33.549,96 12% 53.749,7 10% Hình thức bảo đảm khác 2.563 2,5% 30.754,13 11% 48.374,73 9% Tổng 102.520 100% 279.583 100% 537.497 100% ( Nguồn: Phò._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5564.doc
Tài liệu liên quan