Mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò

LỜI NÓI ĐẦU Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các NHTM và là kênh cung cấp vốn quan trọng không chỉ đối với bản thân DN mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế càng phát triển thì sự cạnh tranh của các DN càng trở nên sâu sắc, các DN càng cần đến nguồn vốn để mở rộng hoạt động SXKD. Nước ta là một nước đang phát triển lại đang trong quá trình hội nhập trong khi thị trường chứng khoán mới bắt đầu phát triển, chính vì thế mà nguồn vốn của các NHTM lại càng tr

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở nên quan trọng hơn. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của các NHTM trong thời gian vừa qua lại chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu về vốn của các DN. Đặc biệt trong thời gian tới, hoạt động của các NHTM nước ngoài được mở rộng, sự cạnh tranh giữa các NH sẽ diễn ra rất gay gắt. Chính vì thế, các NHTM trong nước cần phải có nhiều đổi mới để phù hợp với quá trình hội nhập. NHCT Việt Nam là một NHTM quốc doanh đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam, có thị phần cho vay và đầu tư chiếm 21%, có quan hệ đại lý với 735 NH lớn của 60 quốc gia trên khắp các châu lục. Các sản phẩm của NHCT Việt Nam đã khắng định được uy tín, chất lượng đối với không chỉ KH trong nước mà cong với cả các NH đại lý nước ngoài. Với mục tiêu đến năm 2010 là “trở thành một NHTM chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, TC lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam”, NHCT Việt Nam đã và đang có nhiều đổi mới theo hướng nâng cao tính tự chủ cho các chi nhánh trực thuộc để tiến tới quá trình cổ phần hóa trong năm 2008. NHCT Cửa Lò là một chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam vừa mới được nâng cấp vào tháng 10/2006 vừa qua. Tuy hoạt động KD đã đạt được một số kết quả song quy mô nhìn chung còn quá nhỏ bé chưa xứng với khả năng của NH cũng như tiềm năng phát triển kinh tế của địa phương. Trong quá trình thực tập, được biết chiến lược lâu dài của NHCT Việt Nam cũng như mục tiêu của NHCT Cửa Lò là mở rộng phạm vi hoạt động, chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Hoạt động cho vay của các NHTM. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò. CHƯƠNG I. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1. Khái niệm và vai trò của cho vay. 1.1. Khái niệm cho vay. Thuật ngữ “tín dụng” (credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm) trong quan hệ TC. Tín dụng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: - xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch chuyển quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - trong một quan hệ TC cụ thể, tín dụng là một giao dịch về TS trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Ví dụ như một công ty thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa NH, các định chế TC với các DN và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay. Tức là NH cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi. - tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế TC cung cấp cho KH. - trong một số ngữ cảnh, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ, tín dụng ngắn hạn đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn hoặc tín dụng tuần hoàn là một loại cho vay cụ thể. - trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng được hiểu như sau: tín dụng là một giao dịch về TS (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (NH và các định chế TC khác) và bên đi vay (cá nhân, DN và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao TS cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng là loại TS chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của NH. Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Và theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, cho thuê TC, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác theo quy định của NHNN. Cho vay là việc NH đưa tiền cho KH với cam kết KH phải hoàn trả cả tiền gốc và lãi trong thời gian xác định. KH phải cam kết sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích đã thoả thuận với NH, không trái quy định của PL và các quy định khác của NH cấp trên. Đối với một khoản tiền cho vay, NH phải đối mặt với nhiều nguy cơ, có thể là do KH cố tình không trả nợ, hoặc có thể là do bản thân KH cũng gặp phải những rủi ro không lường trước được, hoặc cũng có thể là do những rủi ro chính từ phía NH như lãi suất thị trường thay đổi quá nhanh, nền kinh tế bất ổn, tình hình an ninh chính trị không ổn định… Ngoài ra, rủi ro trong hoạt động KD của các NHTM thường có hiệu ứng dây chuyền, khi xảy ra rủi ro ở một NH thì nguy cơ đổ vỡ cả hệ thống NHTM của một quốc gia là rất lớn. Chính vì thế mà hoạt động cho vay của các NHTM phải tuân theo những quy tắc rất chặt chẽ và chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Một trong những biện pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các NHTM là thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc quản lý tiền cho vay: 1) Thực hiện đúng quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng của NH được hiểu là quá trình trước, trong và sau khi cho vay. Quá trình cho vay bắt đầu từ khi NH nhận được đơn yêu cầu vay vốn của KH, NH sẽ tiến hành thu thập xử lý thông tin về KH để ra quyết định có đồng ý cho vay hay không, nếu đồng ý thì mức cho vay là bao nhiêu, lãi suất, thời hạn và một số điều kiện khác, nếu không đồng ý thì phải trả lời cho KH biết lý do. NH có thể tiến hành thu thập thông tin về KH thông qua nhiều cách khác nhau như phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian và từ các báo cáo mà KH cung cấp. Sau khi thu thập thông tin, NH cần tiến hành phân tích KH thông qua đánh giá về TS của KH, đánh giá các khoản nợ và phân tích luồng tiền. Sau khi đánh giá đưa ra quyết định cho vay và tiến hành các thủ tục pháp lý giải ngân cho KH, NH tiếp tục theo dõi việc sử dụng vốn của KH: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không; quá trình SXKD có thay đổi gì bất lợi không, có dấu hiệu thua lỗ hay lừa đảo không... Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo, ngược lại thì NH cần tiến hành các biện pháp ngăn chặn kịp thời nguy cơ xảy ra rủi ro như thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, yêu cầu KH bổ sung thêm TS thế chấp, giảm số tiền vay… trong từng trường hợp cụ thể. Thực hiện đúng quy trình tín dụng tạo điều kiện để NH có thể đáp ứng tốt nhu cầu của KH đồng thời tạo được mối quan hệ tín dụng lâu dài. 2) Sàng lọc và giám sát. Một trong những nguyên nhân có thể dẫn đến sự vỡ nợ cho các NHTM đó là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch được thực hiện, khi những người đi vay có khả năng để lại hậu quả không mong muốn nhất (tức là không trả được nợ) lại là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn để cho vay nhất. Rủi ro đạo đức xảy ra trong khi thực hiện giao dịch, khi người đi vay thực hiện những hoạt động không đúng với ý đồ của NH và ít có khả năng hoàn trả khoản vay. Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là do tình trạng thông tin bất đối xứng gây ra. Sàng lọc: Nhằm thực hiện việc sàng lọc một cách có hiệu quả, các NHTM phải tập hợp thông tin tin cậy về những KH triển vọng, tiến hành phân tích, thẩm định một cách có hiệu quả. KH là một yếu tố biến thiên trong mọi đề nghị cho vay. Với một KH cá nhân, NH đặc biệt xem xét các khoản cho vay trong quá khứ có hoàn trả đúng thoả thuận hay không. Với KH DN, bên cạnh việc quan tâm tới lịch sử các tài khoản, NH cần đảm bảo KH là những người có kinh nghiệm trong công việc, có trình độ quản lý cần thiết để điều hành DN và tái đầu tư lợi nhuận vào DN. Tuy rằng mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự mình đứng vững” - tức là phải đủ tốt để không cần một sự đảm bảo nào nhưng NH vẫn thường yêu cầu KH phải thực hịên các biện pháp bảo đảm tiền vay. Giám sát: Khi nhận được tiền vay của NH, người vay có thể sử dụng khoản tiền cho vay vào những hoạt động KD mạo hiểm dẫn đến mất khả năng thanh toán. Chính vì thế NH thường đưa ra các hợp đồng tín dụng trong đó quy định rõ những điều khoản nhằm hạn chế người vay sử dụng tiền vay vào những hoạt động rủi ro. Trường hợp người vay không tuân thủ những điều khoản ghi trong hợp đồng thì NH có thể thực hiện cưỡng chế theo những điều khoản đã ghi trong hợp đồng. 3) Quan hệ khách hàng. Một trong những nguyên lý quan trọng của việc quản lý NH đó là quan hệ lâu dài với KH từ đó nắm bắt thông tin về KH một cách chính xác hơn. Nếu một KH có nhu cầu vay tiền đã có một tài khoản hoặc các khoản cho vay khác với NH trong một thời gian dài, thì NH sẽ dễ dàng biết nhiều thông tin về họ. Những số dư trong tài khoản séc hay tiết kiệm sẽ cho NH biết về tiềm năng TC của KH hay việc hoàn trả các khoản vay cũ cho NH biết được tư cách của KH. Quan hệ KH lâu dài không chỉ giúp NH giảm chi phí thu thập thông tin cũng như chi phí giám sát mà còn giúp KH giảm chi phí lãi vay. Vì vậy KH luôn cố gắng tránh những hoạt động rủi ro để không làm phật lòng NH. Như vậy, quan hệ với KH lâu dài giúp NH có thể đối phó với những bất ngờ về rủi ro đạo đức không thể lường trước được. Các NHTM cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách đưa ra hạn mức tín dụng cho KH. Việc cấp cho KH một hạn mức tín dụng vừa tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động KD cho KH có nhu cầu vay vốn thường xuyên vừa giúp NH có thể kịp thời đưa ra quyết định ngừng giải ngân nếu thấy có những dấu hiệu có thể làm mất khả năng thanh toán của KH, đảm bảo an toàn cho khoản tín dụng mới. Lợi ích của việc này đối với NH là ở chỗ, hạn mức tín dụng sẽ đưa đến một mối quan hệ lâu dài và tạo điều kiện dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. 4) Thế chấp tài sản và số dư bù. Như đã nói ở trên, mọi đề nghị vay vốn đều phải “tự mình đứng vững”, nhưng trong nhiều trường hợp NH vẫn yêu cầu KH phải có TSĐB khi nhận tín dụng, bởi vì KH luôn phải đối mặt với rủi ro trong KD, có thể mất khả năng trả nợ cho NH. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho NH những tổn thất lớn. Yêu cầu TSĐB, NH muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động KD không đảm bảo trả được nợ. Có 3 yêu cầu đối với bất cứ loại đảm bảo nào để được NH chấp nhận đó là: dễ định giá, dễ cho NH quyền được sở hữu hợp pháp, dễ tiêu thụ hay thuận tiện cho việc tiêu thụ và nếu giá trị vật đảm bảo tăng lên theo thời gian thì càng tốt. Thông thường NH chia TSĐB thành hai loại: TS thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của KH hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho KH; TS được hình thành từ chính nguồn tài trợ của NH. Những bắt buộc về TSĐB đối với khoản tiền vay là một trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro, làm giảm bớt hậu quả lựa chọn đối nghịch do nó có thể giảm các tổn thất của người vay không trả được nợ. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng TSĐB chỉ mang tính bảo hiểm chứ không phải NH dựa vào đó để cho KH vay. Thông thường khi rủi ro xảy ra, NH phải tiến hành phát mại TS, nhưng TS phát mại thường khó bán trên thị trường vì nhiều lý do và thủ tục để được phát mại TS cũng phức tạp, mất nhiều thời gian. Hơn nữa, một NH nếu đăng báo phát mại TS nhiều cũng làm giảm uy tín của NH đó trên thị trường, KH sẽ nhận thấy khả năng quản lý yếu kém của NH, hình ảnh của NH đó sẽ bị mờ đi, hoạt động huy động vốn vì thế mà sẽ không thu hút được KH và ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NH. Thông thường, NH phải đứng trước lựa chọn là một DA có tính khả thi nhiều khi không có đủ TSĐB nhưng một DA có đủ TSĐB nhiều khi lại không khả thi. Như vậy, lựa chọn bất kỳ một DA nào cũng có nguy cơ xảy ra rủi ro cho NH. Do đó NH phải xác định được mức độ rủi ro mà mình có thể chấp nhận để lựa chọn DA thích hợp. Trong một số trường hợp NH không đòi hỏi đảm bảo dưới hình thái hàng hoá hay bảo lãnh. Các loại đảm bảo này đều gắn liền với thủ tục phức tạp, không có lợi cho NH lẫn KH. Hơn nữa, NH dự tính, nếu rủi ro xảy ra cho KH thì tổn thất cũng chỉ chiếm một phần giá trị của món vay. Trong trường hợp này NH có thể yêu cầu đảm bảo bằng tiền gửi ký quỹ (số dư bù). Đảm bảo bằng ký quỹ thủ tục đơn giản, tuy nhiên lại làm đọng vốn của KH và trong trường hợp món vay lớn, ngân quỹ của KH nhỏ hoặc cần thiết để lưu chuyển, tỷ lệ ký quỹ cao hơn thì hình thức này lại không phù hợp. 5) Hạn chế tín dụng. Một phương pháp giúp cho các NHTM đối phó với lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là hạn chế tín dụng. Hạn chế tín dụng có 2 dạng: thứ nhất diễn ra khi NH từ chối bất kỳ một yêu cầu vay vốn nào của KH, thứ hai diễn ra khi NH sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế dưới mức mà KH mong muốn. 6) Vốn ngân hàng và tính tương hợp. Trong các nguyên tắc đã đề cập ở trên, tất cả chỉ nhằm hạn chế rủi ro cho bản thân các NHTM. Song trên thực tế thì ngay cả NH cũng có thể gây ra rủi ro cho người gửi tiền. Do vậy, làm thế nào để những người gửi tiền có thể tin rằng NH – nơi họ gửi tiền sẽ trả tiền lãi, vốn hoặc các dịch vụ mà NH đã hứa. Để giải quyết vấn đề này có 3 cách: Thứ nhất: Vốn tự có của NHTM. NH sẽ mất mát nhiều hơn khi xảy ra phá sản nếu lượng vốn tự có lớn và do vậy NH sẽ phải cố gắng thực hiện những hoạt động thích hợp để có lợi nhuận và thanh toán đủ cho người gửi tiền. NH thực hiện cung cấp những thông tin như những người gửi tiền mong đợi và những người có tiền sẵn lòng gửi tiền vào NH như NH mong muốn. Thứ hai: Đa dạng hoá. Bất kỳ hoạt động KD nào cũng chứa đựng rủi ro nhất là trong lĩnh vực KD tiền tệ như các NHTM. Chính vì thế mà NH muốn thu hút được KH gửi tiền phải chứng minh cho họ thấy được độ rủi ro hợp lý trong các hoạt động KD của mình bằng cách đa dạng hoá danh mục cho vay. Việc đa dạng hoá là một nguyên lý quan trọng của việc quản lý NH bởi vì nó làm cho quan hệ giữa NH với những người gửi tiền trở thành tương hợp ý muốn. Tuy vậy, NH cần phải cân đối các lợi ích và chi phí giữa việc đa dạng hoá và chuyên môn hoá. Thứ ba: Việc điều hành của Chính phủ. Để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, Chính phủ thường đưa ra các quy định buộc NHTM phải tiến hành đa dạng hoá và quy định tỷ lệ tối đa mà NHTM có thể nhận tiền gửi dựa trên vốn tự có của nó. Đồng thời, Chính phủ cũng đặt ra quy định về tỷ lệ tối thiểu mà NH có thể cho vay so với số tiền gửi huy động được. Việc điều hành của Chính phủ là một phương cách khiến cho mối quan hệ của một KH với những người gửi tiền trở thành tương hợp ý muốn. Tuy nhiên sự điều hành của Chính phủ chỉ ở tầm vĩ mô để đảm bảo quyền tự chủ cho các NHTM. 1.2. Vai trò của cho vay. ² Đối với ngân hàng. Tiền vay là khoản nợ đối với người vay nhưng là TS đối với NH và nó mang lại thu nhập cho NH. So với các TS khác, nhìn chung tiền cho vay kém lỏng hơn bởi vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay mãn hạn. Các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với những TS khác. Do thiếu tính lỏng và khả năng vỡ nợ cao nên các NHTM thu được nhiều lợi nhuận nhất từ các khoản cho vay. Như vậy, ta có thể thấy cho vay là khoản mục có khả năng mang lại nhiều thu nhập nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro nhất cho các NHTM. Rủi ro từ hoạt động cho vay là rất lớn chính vì thế nó có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Rủi ro nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ thậm chí là dẫn đến sự phá sản của NH. Cho vay ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược hoạt động của NH như dự trữ, đầu tư… ² Đối với nền kinh tế. Nguồn vốn của NH là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các DN mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các DN đều gắn liền với các dịch vụ TC do các NHTM cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Có thể nói rằng, không có một DN nào hoạt động tốt, muốn tồn tại vững chắc trên thương trường mà không phải vay vốn NH. Trong quá trình hoạt động, các DN thường vay NH để đảm bảo nguồn TC cho các hoạt động SXKD, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các DA mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của DN. Nguồn vốn của NH giúp DN có thể đa dạng hoá nguồn vốn huy động cho hoạt động SXKD của mình. Bên cạnh đó, nguồn vốn vay NH còn có ưu thế so với vốn cổ phần đó là lãi vay NH sẽ được tính vào chi phí, có thể giúp DN tiết kiệm thuế. Đối với KH là cá nhân, hộ gia đình không chỉ được NH cung cấp nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, phục vụ đời sống hàng ngày như mua sắm, xây dựng nhà cửa, phương tiện đi lại, đi du học… mà các hoạt động SXKD cũng được NH hỗ trợ rất lớn. Trong giai đoạn hiện nay, với lợi thế quy mô nhỏ bé nên dễ thay đổi, dễ thích nghi với những biến động của thị trường cũng như những thay đổi, tiến bộ nhanh chóng của khoa học công nghệ, khu vực kinh tế dân doanh cũng đang có những bước phát triển mới góp phần không nhỏ vào sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì nhận thức được điều này nên nhiều NHTM đã rất quan tâm để hỗ trợ về vốn cho khu vực này mặc dù chưa thể đáp ứng được nhu cầu về vốn của họ. Đối với KH là cá nhân, hộ gia đình thì các NH thường áp dụng đa dạng các hình thức cho vay hơn so với các đối tượng khác, tạo điều kiện để những KH này có thể tiếp cận nguồn vốn NH dễ dàng hơn. Nguồn vốn vay của NH là một bộ phận không thể thiếu của thị trường TC, là kênh huy động vốn quan trọng của các DN. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay khi mà thị trường vốn còn chưa thực sự phát triển, thị trường chứng khoán mới bắt đầu đi vào hoạt động thì có thể nói nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn quan trọng hàng đầu đối với các DN cũng như các cá nhân thực sự muốn phát triển KD bền vững. Chính vì thế thị trường tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với không chỉ sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường TC vốn đang có nhiều yếu kém của nước ta. 2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại. Có nhiều cách để phân loại các hình thức cho vay nhưng ở đây ta chỉ xét cách phân loại cho vay theo thời gian (bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn) và phân loại theo yêu cầu có đảm bảo hay không (bao gồm cho vay có đảm bảo và cho vay không có đảm bảo). 2.1. Cho vay ngắn hạn. Cho vay ngắn hạn là nghiệp vụ tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, nhằm tài trợ cho TS lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, DN, hộ sản xuất. Nghiệp vụ này được các NH áp dụng trong những trường hợp sau: - tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước bằng cách mua trái phiếu do kho bạc phát hành. Đây là hình thức cho vay khá an toàn bới vì khả năng hoàn trả của Nhà nước là rất cao. - đáp ứng nhu cầu thanh khoản đối với các tổ chức tín dụng như các NH, các công ty TC, quỹ tín dụng… bắng cách cho vay trực tiếp trên thị trường liên NH hoặc cho vay gián tiếp thông qua nắm giữ chứng khoán. Các khoản cho vay này chủ yếu dựa trên uy tín của người vay, số ít dựa trên bảo lãnh của bên thứ ba hoặc dựa trên cầm cố chứng khoán thanh khoản cao. - tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho SXKD của các DN. Đây là đối tượng KH chiếm số lượng đông nhất và là đối tượng KH chiến lược mà tất cả các NHTM đều hướng tới. Phần lớn các khoản vay này đều phải có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố TS. Các DN, các công ty và hộ sản xuất muốn được vay vốn đều phải làm đơn trình bày với NH kế hoạch sử dụng tiền vay. Qua đó, NH tiến hành phân tích tín dụng, xác định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các điều khoản có liên quan. Trong trường hợp người vay không lập kế hoạch từ trước, NH sẽ tính toán nhu cầu cho vay cho từng phương án để tính số tiền cần vay. Nếu trường hợp NH không phân tích được phương án vay do thông tin không đầy đủ, không chính xác hoặc rủi ro lớn thì NH có thể quyết định số tiền cho vay dựa trên TSĐB. Đối với nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, NH có thể áp dụng nhiều hình thức khác nhau như cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. 2.2. Cho vay trung và dài hạn. Cho vay trung và dài hạn là nghiệp vụ tín dụng có thời hạn cho vay lần lượt là từ 12 đến 60 tháng và trên 60 tháng. Các NHTM thường thực hiện cho vay trung và dài hạn trong những trường hợp sau: - tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ… của các DN. Hiện nay với tốc độ phát triển nhanh của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn của các DN ngày càng có xu hướng tăng nhanh. - phục vụ cho hoạt động đầu tư phát triển của Nhà nước. Hoạt động đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng, tạo điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các DN phát triển. - tài trợ cho nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… của người tiêu dùng. NH có thể áp dụng các hình thức cho vay sau: ² Mua trái phiếu: nhằm tài trợ cho quá trình hình thành TS cố định của các DN, NH mua trái phiếu trung và dài hạn của DN. Khi mua trái phiếu, NH tính toán đến các yếu tố như kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình TC của DN, các kế hoạch tương lai… ² Cho vay theo DA: Khi KH có kế hoạch mua sắm, xây dựng TSCĐ… nhằm thực hiện DA nhất định thì có thể xin vay NH. Khi đó NH yêu cầu KH phải xây dựng DA, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện DA. Phân tích và thẩm định DA là cơ sở để NH quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của DN. DA bao gồm nhiều yếu tố như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm. công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích TC… trong đó phân tích TC là mối quan tâm hàng đầu của NH. NH còn đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dùng để trả nợ cho NH nên trong những trường hợp không phải là DA mới, NH luôn phân tích TC người vay kết hợp với phân tích DA. Một DN có tình hình TC lành mạnh là cơ sở quan trọng để NH quyết định cho vay bởi vì các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở thành nguồn trả nợ cho NH bên cạnh nguồn thu của DA. Trong trường hợp quy mô tín dụng lớn, nếu NH là người cấp tín dụng duy nhất thì rủi ro sẽ rất cao. Vì thế, việc có nhiều bên tham gia cấp tín dụng sẽ san sẻ rủi ro cho NH. Đây gọi là hình thức cho vay đồng tài trợ, tuy có thể san sẻ rủi ro cho NH nhưng lại đòi hỏi NH phải phân tích kỹ các nguồn và chủ tài trợ. Việc cho vay theo DA thường được kết hợp với các hình thức cấp tín dụng khác như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hợp đồng… Các DA thường cần nguồn vốn lớn, NH cần có thời gian huy động vốn và trả lãi huy động, do vậy NH thường yêu cầu KH phải trả phí trong trường hợp trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí huy động vốn của NH trong trường hợp đã ký hợp đồng tín dụng nhưng thực tế lại không vay. ² Cho vay tiêu dùng: nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Do nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng mạnh mẽ, người tiêu dùng có thu nhập đều đặn, ổn định bên cạnh đó nhiều công ty TC cạnh tranh với NH trong cho vay làm cho thị phần cho vay các DN của NH bị giảm sút nên NH buộc phải mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng để tăng thu nhập. NH có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các DN bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các DN này bán hàng trả góp. Tuy nhiên, cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao do người vay có thể gặp những rủi ro bất ngờ không thể lường trước như ốm đau, mất việc… Vì thế đây là loại cho vay có mức lãi suất cao nhất và NH thường yêu cầu người vay phải mua một số loại bảo hiểm nhất định. 2.3. Cho vay có đảm bảo. KH luôn phải đối đầu với rủi ro trong KD, có thể mất khả năng trả nợ cho NH, gây ra những tổn thất lớn cho NH. Chính vì thế, phần lớn các khoản vay của NH đều phải có TSĐB. TSĐB có thể thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của KH hay của bên bảo lãnh, hoặc TS được hình thành từ nguồn tài trợ của NH. NH có thể chấp nhận các loại TS sau để làm đảm bảo cho các khoản vay: - đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm… Khi nhận các TS này, NH phải tính đến khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo, tính thị trường của hàng hóa đảm bảo, khả năng bảo quản, định giá hàng hóa đảm bảo và hàng hóa phải được bảo hiểm. - đảm bảo bằng TSCĐ như nhà máy, trang thiết bị sản xuất, quyền sử dụng đất… Các nhân tố tác động tới việc chấp nhận TS làm đảm bảo cho các khoản tài trợ: quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài, tính thị trường của TSĐB và bảo hiểm cho TS cố định. - đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba. Khi nhận loại TS này làm đảm bảo, NH tính đến các nhân tố: khả năng chi trả của người thứ ba, khả năng thực hiện hợp đồng với người thứ ba của KH và các cam kết có khả năng chuyển nhượng. - đảm bảo bằng chứng khoán: quản lý chứng khoán thuận tiện đối với NH nhưng NH phải xét đến tính an toàn cũng như tính thanh khoản của chứng khoán. - đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba phải dựa vào uy tín và TSĐB của người bảo lãnh. - đảm bảo bằng số dư bù: là loại đảm bảo có lợi cho cả NH lẫn KH do thủ tục khá đơn giản. Có hai nghiệp vụ đảm bảo là cầm cố và thế chấp: - cầm cố là hình thức mà người vay phải chuyển quyền kiểm soát TSĐB sang cho NH trong thời gian cam kết. Cầm cố thích hợp với những TS mà NH có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn nhưng không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người vay. NH thường yêu cầu khi xét thấy việc KH nắm giữ TSĐB là không an toàn cho NH, đó là những TS mà KH dễ bán, dễ chuyển nhượng. - thế chấp: là hình thức mà người vay chỉ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các TSĐB cho NH nắm giữ trong thời gian cam kết. Đây là hình thức phổ biến hơn, đặc biệt là đối với DN và người tiêu dùng. 2.4. Cho vay không có đảm bảo. Là hình thức cho vay dựa trên uy tín của bản thân KH tuy nhiên nó chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong hoạt động cho vay của các NHTM. Như đã nói ở trên, bất kỳ một DN nào cũng luôn phải đối mặt với rủi ro trong KD nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN như hiện nay, chính vì thế NH thường chỉ áp dụng cho vay không có đảm bảo đối với các KH lớn, có uy tín và có quan hệ lâu dài với NH. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. 3.1. Nhân tố từ phía ngân hàng. Thứ nhất: Chính sách tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, giữ vị trí quan trọng nhất và có quy mô lớn trong hoạt động của NH. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là cơ sở cho hoạt động tín dụng của NH. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh cho vay của một NH, và là tài liệu hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng, nhằm hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng: nhu cầu tín dụng của KH; khả năng sinh lời và rủi ro tiềm ẩn của KH; các chính sách của Chính phủ và NHNN như chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá…; quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của NH, quy mô chủ sở hữu… Mỗi NH tự xây dựng cho mình một chính sách tín dụng riêng dựa trên những quy định của NHNN và tình hình thực tế của NH. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố liên quan đến lãi suất cho vay, hạn mức tín dụng đối với KH, phương thức cho vay, TSĐB…mọi hoạt động cho vay đều phải tuân theo chính sách tín dụng do đó nó có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động cho vay của một NH. Để mở rộng hoạt động tín dụng thì NH phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Thứ hai: Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là việc quy định các bước cụ thể phải thực hiện trong quá trình cho vay, từ khi nhận được hồ sơ xin vay của KH cho đến khi thu hết nợ kết thúc hợp đồng. Do đó, để mở rộng và nâng cao chất lượng của khoản vay thì NH cần xây dựng một quy trình tín dụng hợp lý sao cho vừa bảo đảm thực hiện món vay vừa an toàn khoản vay, tạo điều kiện thuận lợi cho KH tránh những thủ tục không cần thiết. ² Quy trình tín dụng thường bao gồm 4 bước sau: Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến KH bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các TS và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Nội dung phân tích bao gồm: đánh giá TS của khách hàng, đánh giá các khoản nợ, phân tích luồng tiền và các điều kiện kinh tế. NH cần quan tâm tới các yếu tố cấu thành nên TS của KH như ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng hoá trong kho, TS cố định… là những nguồn có thể dùng để trả nợ cho NH. Đối với các khoản nợ thì NH xem xét về thời gian của các khoản nợ đó, vị trí của NH trong danh sách chủ nợ vì nếu NH giữ vị trí quan trọng nhất thì sẽ dễ dàng thu được nợ hơn ở các vị trí khác. Ngoài ra, NH cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và các loại nợ khác. Trong quá trình phân tích này, NH thường sử dụng các tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro để đánh giá KH. Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (KH) và NH, với nội dung chủ yếu là NH cam kết cấp cho KH một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các Luật, Quy định. Nội dung chính của hợp đồng tín dụng bao gồm: các thông tin về KH như tên, tuổi, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có), mục đích sử dụng vốn vay; số lượng tín dụng tức là số tiền mà NH cam kết cấp cho KH; lãi suất, phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bảo, điều kiện và kỳ hạn giải ngân, điều kiện thanh toán và các điều kiện khác như thoả thuận giữa NH và KH về phong toả TS, điều kiện và phương thức phát mại TS… ._. Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, NH phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho KH như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, NH kiểm soát KH: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình SXKD có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ… Quá trình này cho phép NH thu thập thêm các thông tin về KH. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản vay bị đe doạ, NH cần có biện pháp xử lý kịp thời. NH được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. NH có thể yêu cầu KH bổ sung TS thế chấp, giảm số tiền vay… khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Tài trợ gắn liền với kiểm soát KH giúp NH ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của KH. Đây cũng là quá trình NH thu thập thêm thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Quan hệ tín dụng kết thúc khi NH thu hồi hết nợ gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo NH, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, NH áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi nợ, bao gồm phong toả và bán các TS thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi… Trường hợp KH có khó khăn về TC, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, NH thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. Thứ ba: Công tác huy động vốn. Bản chất của NH là đi vay để cho vay, do vậy muốn thực hiện hoạt động cho vay thì trước hết phải thực hiện huy động vốn. NH muốn mở rộng và nâng cao chất lượng của khoản vay thì nguồn vốn mà NH huy động được phải đủ lớn về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Để huy động được vốn lớn NH phải đa dạng hóa các hình thức huy động như: huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành các loại giấy tờ có giá…Nếu một NH huy động được vốn lớn và lãi suất đầu vào thấp thì khả năng mở rộng cho vay của NH đó sẽ cao. Huy động vốn là cơ sở hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Thứ tư: Chính sách lãi suất. Lãi suất mà NH đưa ra để cho vay chính là một phần chi phí của các DN vay vốn, là giá cả của khoản vay. Vì vậy lãi suất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với nhu cầu sử dụng vốn của các DN nói riêng và các KH vay vốn NH nói chung. Do đó, để mở rộng cho vay thì các NH phải đưa ra được một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện phát triển trong từng giai đoạn, sao cho vừa bảo đảm được mục tiêu mà NH đề ra vừa khuyến khích được các KH sử dụng vốn vay từ NH. Hiện nay, NHNN đã cho phép các NHTM được cho vay theo lãi suất thoả thuận, do vậy các NH có thể sử dụng nó như một công cụ tốt để thu hút KH. Chẳng hạn đối với KH có quan hệ tín dụng thường xuyên thì NH có thể áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức bình thường. Việc sử dụng chính sách lãi suất linh hoạt vừa thu hút được KH, đem lại lợi ích cho NH đồng thời nó cũng đem lại lợi ích cho người sử dụng vốn. Thứ năm: Các phương thức cho vay. Hiện nay theo quy định của NHNN thì các NHTM được áp dụng nhiều phương thức cho vay đối với KH. Tuy nhiên trên thực tế thì các NHTM vẫn chưa đa dạng hoá các hình thức cho vay nhất là phương thức cho vay theo hạn mức và cho thuê TC vẫn còn chưa được thực hiện rộng rãi. Việc mở rộng hơn nữa các hình thức cho vay đối với KH là cơ hội để NH có thể hạn chế rủi ro đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để KH có thể tiếp cận được nguồn vốn của NH. 3.2. Nhân tố từ phía khách hàng. Để có thể vay được vốn của NH thì trước hết KH phải thoả mãn được điều kiện vay vốn. Trong đó điều kiện quan trọng nhất là TSĐB và phương án sử dụng vốn vay của KH, tỷ lệ vốn tự có của KH. TSĐB là nguồn trả nợ thứ hai cho NH khi có rủi ro xảy ra, chính vì thế NH luôn quan tâm đến yếu tố này, không chỉ ở tính chất hợp pháp của TSĐB mà còn ở giá trị của nó so với nhu cầu vay vốn của KH. Các điều kiện về tỷ lệ vốn tự có của KH cũng rất quan trọng và tuỳ từng trường hợp mà NH quy định tỷ lệ cụ thể nhưng thường không dưới 30%. Đây là điều kiện làm hạn chế rất lớn đến khả năng có thể vay được vốn NH bởi vì các DN thường thiếu TSĐB, nếu có đủ thì lại thiếu các giấy tờ quan trọng, còn các cá nhân thì lại chỉ được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp cho những khoản vay phục vụ SXKD còn các khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng đang tăng nhanh thì lại chưa được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp. Ngoài ra, KH đến vay vốn NH nhất là các DN nhiều khi chưa đáp ứng được điều kiện rất quan trọng mà NH đặt ra đó chính là các vần đề liên quan đến việc chứng minh nguồn trả nợ cho NH. Chẳng hạn như rất ít các DN có khả năng trình bày rõ ràng các đề xuất vay vốn cho các DA đầu tư hoặc phương án SXKD bởi vì phần lớn các chủ DN chưa được đào tạo đầy đủ kiến thức về TC tín dụng. TSĐB chỉ là nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là từ thu nhập của hoạt động SXKD không đảm bảo trả được nợ, chính vì thế chứng minh cho NH thấy được tính khả thi của các phương án, DA có thể nói là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với KH. Ngoài ra các phương án KD của KH chưa đủ hấp dẫn để có thể thu hút vốn của NH. Chính vì thế mà các NHTM ngần ngại cho vay đối với những đối tượng KH này. Mức độ tín nhiệm về TC và thương hiệu trong hoạt động của DNVVN chưa cao là một trong những lý do khiến các NH ngần ngại trong việc cho các DN vay, nhất là các khoản vay dài hạn. Phía NH tuy nới rộng cánh cửa cho DN qua hình thức cho vay theo các phương án KD, vay tín chấp… nhưng vẫn còn hạn chế. Hiện nay, đối với các khoản vay trung và dài hạn, các NH quy định mức vốn cho DN vay căn cứ trên cơ sở chênh lệch giữa tổng nhu cầu vốn cần thiết hợp lý của DA với vốn huy động khác và vốn tự có tham gia đầu tư vào DA của DN tối thiểu ở mức 30%. Chẳng hạn, quy định vốn tự có tối thiểu 10% đối với các DA cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất và hợp lý hoá sản xuất. Các DN hiện nay thiếu nhân lực đủ tầm để lập các DA khả thi vay vốn và cũng có DN coi nhẹ khâu này. Vì thế, đã làm giảm mức độ tín nhiệm của NH đối với DN. Mặt khác, việc thiếu minh bạch trong TC của DNVVN cũng là một trở ngại lớn cho chính họ. Về phía DN, cần phải thay đổi cách thức quản trị DN; thực hiện công tác kế toán theo chuẩn mực kế toán thống kê của Nhà nước; thực hiện kiểm toán hàng năm để minh bạch tình hình TC … Đây là các điều kiện tiên quyết để DN tiếp cận vốn vay NH. Mặt khác, việc thay đổi cách thức quản lý cũng sẽ giúp DN nâng cao hiệu quả phát triển KD, nhất là trong bối cảnh các DN phải đương đầu với môi trường cạnh tranh ngày một khốc liệt hơn. 3.3. Các nhân tố khách quan bên ngoài. Ngoài những nhân tố xuất phát từ phía NH hay bản thân KH thì còn có những yếu tố khách quan bên ngoài ảnh hưởng tới cơ chế chính sách của NH hoặc hiệu quả sử dụng vốn của KH chẳng hạn như môi trường KD của KH, cơ chế chính sách của Nhà nước hay sự cạnh tranh giữa các NHTM… Môi trường KD là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động KD của KH. Môi trường KD thuận lợi sẽ là cơ hội để KH mở rộng hoạt động KD và NH sẽ dễ dàng đầu tư vốn cho đối tượng KH này. Ngược lại nếu KD không thuận lợi thì không những hoạt động KD của KH gặp khó khăn mà còn không thu hút được nguồn vốn của NH. Cơ chế chính sách của Nhà nước không chỉ là nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của các NHTM mà còn ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của KH. Chẳng hạn như chính sách của Nhà nước hỗ trợ sự phát triển của các DNVVN sẽ tạo điều kiện cho các DN này mở rộng hoạt động KD, có môi trường KD thuận lợi, từ đó có thể tiếp cận được với nguồn vốn của KH. Ngoài ra, một số nhân tố khác như sự cạnh tranh của các NH khác cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay. Sự cạnh tranh có thể làm cho một số NH giảm doanh số cho vay, giảm thị phần… Chính vì thế mà các NHTM sẽ thực hiện chính sách KH theo hướng mở rộng hơn, tạo điều kiện để KH dễ dàng tiếp cận nguồn vốn của NH hơn. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CỬA LÒ. 1. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò. 1.1. Nhiệm vụ và bộ máy tổ chức kinh doanh của chi nhánh. Chi nhánh NHCT Cửa Lò tiền thân là phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh NHCT Nghệ An sau đó được nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 2 trực thuộc chi nhánh NHCT Nghệ An. Ngày 3/10/2006, tại thị xã Cửa Lò, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã tổ chức lễ khai trương nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việt Nam. Trải qua gần 10 năm phát triển, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã có nhiều thay đổi từ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho đến quy mô hoạt động. Năm 2005, trụ sở mới của chi nhánh NHCT Cửa Lò đã hoàn thành với một toà nhà 3 tầng nằm ngay ở trung tâm thị xã Cửa Lò được trang bị hệ thống máy tính hiện đại có thể kết nối trực tiếp với Trụ sở chính của NHCT Việt Nam. Từ chỗ phạm vi hoạt động chỉ dừng lại ở địa bàn thị xã Cửa Lò, chi nhánh đã mở rộng cung cấp dịch vụ cho KH ở các vùng lân cận, trong đó đã bắt đầu khai thác địa bàn thành phố Vinh - địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển hơn nữa trong tương lai. Có thể khẳng định việc nâng cấp trở thành một trong 134 chi nhánh của NHCT Việt Nam sẽ mở ra cơ hội phát triển hơn nữa cho chi nhánh NHCT Cửa Lò trong thời gian tới. Nhiệm vụ của chi nhánh NHCT Cửa Lò là cung cấp các sản phẩm, dịch vụ của NHCT Việt Nam tới các KH có nhu cầu. Việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ này phải đảm bảo nguyên tắc quyền lợi KH phải được đáp ứng kịp thời, các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế của địa phương phải được bám sát để có hướng đầu tư thích hợp. Chi nhánh NHCT Cửa Lò phải là nơi tạo lập, giữ vững niềm tin cho KH đối với NHCT Việt Nam nói riêng và hệ thống NH Việt Nam nói chung. Hoạt động của chi nhánh NHCT Cửa Lò phải hướng tới mục tiêu góp phần phát triển kinh tế địa phương, là địa chỉ đáng tin cậy cho các cá nhân có nhu cầu gửi tiền cũng như các DN có nhu cầu vay vốn để phát triển SXKD nhưng phải trên cơ sở hoạt động KD của chi nhánh có lãi. Cơ cấu bộ máy điều hành của chi nhánh NHCT Cửa Lò được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu bộ máy tổ chức điều hành của NHCT Cửa Lò GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC 1 PHÓ GIÁM ĐỐC 2 P. TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH P. KHÁCH HÀNG P. TIỀN TỆ - KHO QUỸ P. KẾ TOÁN GIAO DỊCH P. RỦI RO 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Cửa Lò. Nhìn lại trong thời gian qua ngành NH đã có những bước phát triển vượt bậc. NHNN Việt Nam liên tục ban hành nhiều cơ chế chính sách mới tạo hành lang pháp lý phù hợp hơn và an toàn hơn cho hoạt động của các NHTM. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa các NHTM diễn ra gay gắt, ngày càng sâu sắc, không chỉ trên lĩnh vực tín dụng truyền thống mà còn trên các dịch vụ NH hiện đại. Thực tế đó đã đặt ra nhiều khó khăn thách thức cho hoạt động của chi nhánh NHCT Cửa Lò nhất là khi chi nhánh vừa mới được nâng cấp. Song với phương châm KD “Vì sự phát triển của khách hàng và ngân hàng”, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã khắc phục khó khăn và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, góp phần vào sự phát triển của NHCT Việt Nam. 1.2.1. Hoạt động huy động vốn. Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ tạo vốn quan trọng hàng đầu của NHTM. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã thu hút các nguồn tiền tạm thời chưa sử dụng của các DN, của các tầng lớp dân cư. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, các NHTM tiến hành các hoạt động đầu tư như cho vay, tài trợ thương mại, đầu tư chứng khoán… phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất cho các mục tiêu kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong những năm gần đây công tác huy động vốn của chi nhánh NHCT Cửa Lò đã có nhiều bước phát triển mới. Cơ cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Nguồn vốn huy động tại chi nhánh NHCT Cửa Lò Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền T.trọng (%) Số tiền T.trọng (%) Số tiền T.trọng (%) Tổng nguồn huy động 22.4 100 26.75 100 29.08 100 1)Phân theo thời gian Tiền gửi không kỳ hạn 5.6 25 6.9 25.8 7.58 26.06 Tiền gửi có kỳ hạn 16.8 75 19.85 74.2 21.5 73.94 2)Phân theo đồng tiền huy động Tiền gửi nội tệ 17.3 77.2 20.5 76.6 23 79.1 Tiền gửi ngoại tệ 5.1 22.8 6.25 23.4 6.08 20.9 3)Phân theo thành phần kinh tế Tiền gửi các tổ chức kinh tế 3.8 17 5.08 19 3.48 12 Tiền gửi tiết kiệm cá nhân 18.6 83 21.67 81 25.6 88 (Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh NHCT Cửa Lò ) Trước hết, xét về quy mô tổng nguồn vốn huy động được ta có thể thấy mặc dù quy mô còn rất nhỏ, chưa đạt 30 tỷ đồng nhưng đã có sự gia tăng qua các năm từ 2004 đến 2006. Từ 22.4 tỷ đồng năm 2004, nguồn vốn huy động được đã tăng lên 26.75 tỷ đồng trong năm 2005 tương ứng với tốc độ tăng trưởng đạt 19.4%. Cuối năm 2006, tổng nguồn vốn huy động được của NH là 29.08 tỷ đồng, tăng 2.33 tỷ đồng so với năm 2005 và đạt tốc độ tăng trưởng 8.7%. Như vậy, quy mô có tăng nhưng còn nhỏ bé trong khi đó tốc độ tăng trưởng lại giảm mạnh từ 19.4% năm 2005 xuống chỉ còn 8.7% năm 2006. Cũng qua bảng 1, ta có thể đánh giá khái quát chất lượng của nguồn vốn huy động được. Nguồn vốn có tính ổn định cao là tiền gửi có kỳ hạn luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn huy động được (trên 73%), điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho NH trong việc lập kế hoạch KD. Tuy nhiên, đây lại là nguồn vốn mà NH phải chi trả lãi nhiều nhất nên có thể làm tăng chi phí trả lãi từ đó làm giảm thu nhập của NH. Chính vì thế, trong thời điểm cụ thể NH cần phải cân nhắc hợp lý giữa khả năng huy động vốn và khả năng mở rộng hoạt động cho vay. Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền huy động khá ổn định trong đó tiền gửi ngoại tệ chiếm khoảng 20-30% tổng nguồn vốn huy động. Tuy chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động được nhưng tiền gửi ngoại tệ còn tăng chậm, thậm chí năm 2006 còn giảm khoảng 13% so với năm 2005. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn theo thành phần kinh tế cũng có một số vấn đề cần quan tâm. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế - nguồn vốn có lãi suất huy động thấp và có mối quan hệ với việc mở rộng hoạt động cho vay của NH đối với các DN – chưa được khai thác tốt, thậm chí đang có xu hướng giảm. Năm 2005, nguồn vốn huy động được từ các tổ chức kinh tế đạt 5.08 tỷ đồng tăng 1.28 tỷ đồng so với năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng 33.7%, nhưng đến năm 2006 thì lại giảm xuống chỉ còn 3.48 tỷ đồng chưa đạt mức năm 2004. Như vậy, có thể nói hoạt động huy động vốn chưa thực sự ổn định. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động giảm mạnh trong năm 2006 chủ yếu là do tiền gửi của các tổ chức kinh tế giảm mạnh. Điều này phản ánh một thực tế hiện nay tại NH là mặc dù có Hệ thống thanh toán hiện đại và đã thực hiện giao dịch một cửa nhưng hoạt động tiếp thị, quảng bá sản phẩm của NH tới KH là còn yếu kém. Bên cạnh đó, mức lãi suất nguồn vốn huy động của NH lại không có sự khác biệt so với NH khác trên cùng địa bàn. Những điều kiện thuận lợi của NH như cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, thiết bị một cửa… đã bị những điều này làm giảm đi đáng kể, chính vì thế NH cần phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế này. 1.2.2. Hoạt động tín dụng. Trong thời gian qua, nhìn chung hiệu quả của việc sử dụng vốn tại chi nhánh NHCT Cửa Lò đã có những bước phát triển mới. Bảng 2: Hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Cửa Lò Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số cho vay 27.9 32.4 59 Doanh số thu nợ 20.1 28.3 35.8 Tổng dư nợ 23.6 27.7 50.9 (Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh NHCT Cửa Lò) Qua bảng trên, ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ và tổng dư nợ đều tăng qua các năm từ 2004 đến 2006. Doanh số cho vay từ 27.9 tỷ đồng năm 2004 đã tăng lên 32.4 tỷ đồng năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng 16% và đến 2006 thì con số này đã tăng lên 59 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng so với năm 2005 là 82%. Doanh số thu nợ cũng đạt được những kết quả tương tự, từ 20.1 tỷ đồng năm 2004 đã tăng lên 28.3 tỷ đồng năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng 40.8% và đến năm 2006 đã tăng lên 35.8 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng so với năm 2005 là 26.5%. Tổng dư nợ đến ngày 31/12/2006 tại chi nhánh đạt 50.9 tỷ đồng tăng 23.2 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng so với năm 2005 là 83.8% trong khi đó dư nợ của năm 2005 chỉ tăng 17.4% so với năm 2004. Điều này cho thấy, năm 2006 là một năm mà hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò diễn ra rất sôi động. Mặc dù doanh số cho vay và tổng dư nợ của năm 2006 chưa thể là cơ sở để khẳng định được mức độ an toàn của nguồn vốn song đã phần nào cho thấy sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên của chi nhánh NHCT Cửa Lò nhất là các nhân viên của Phòng khách hàng - những người trực tiếp thực hiện công tác cho vay và thu nợ. Bảng 3: Chất lượng dư nợ tại chi nhánh NHCT Cửa Lò. Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền T.trọng (%) Số tiền T.trọng (%) Số tiền T.trọng (%) Tổng dư nợ 23.6 100 27.7 100 50.9 100 Nợ đủ tiêu chuẩn 22.87 96.9 26.9 97.1 49.7 97.6 Nợ quá hạn dưới 360 ngày 0.56 2.38 0.62 2.25 0.96 1.9 Nợ có khả năng mất vốn 0.17 0.72 0.18 0.65 0.24 0.5 (Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh NHCT Cửa Lò) Qua bảng trên, ta có thể thấy cơ cấu dư nợ theo chất lượng đã được cải thiện đáng kể. Mặc dù quy mô các khoản nợ quá hạn dưới 360 ngày và nợ có khả năng mất vốn có tăng khoảng từ 0.1 đến 0.34 tỷ đồng từ năm 2004 đến năm 2006 nhưng tỷ trọng so với nợ đủ tiêu chuẩn đã giảm rõ rệt. Hơn thế nữa, năm 2006 là năm tổng dư nợ cho vay tăng trưởng vượt bậc đạt 83.8% so với năm 2005 nhưng vẫn nâng cao được tỷ trọng các khoản nợ đủ tiêu chuẩn từ 96.9% năm 2004 lên 97.1% năm 2005 và tiếp tục tăng lên 97.6% vào năm 2006, giảm mạnh các khoản nợ xấu nhất là khoản nợ có khả năng mất vốn từ 0.72% năm 2004 xuống 0.65% năm 2005 và chỉ còn 0.5% vào năm 2006. Như vậy là bên cạnh việc tăng tổng dư nợ cho vay nhất là vào năm 2006, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã từng bước nâng cao tỷ trọng của các khoản nợ đủ tiêu chuẩn, giảm tỷ trọng của những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm mục tiêu lành mạnh tình hình TC của NH. 1.2.3. Các hoạt động dịch vụ. ² Thanh toán chuyển tiền trong nước. Trong thời gian qua, NHCT Việt Nam đã có nhiều cải tiến và nâng cấp hệ thống chuyển tiền, cung cấp nhiều tiện ích hiện đại cho KH. Từ tháng 11/2005 tại Trụ sở chính NHCT Việt Nam đã chính thức sử dụng chương trình thanh toán song phương hai chiều với Kho bạc Nhà Nước Việt Nam. Ngoài ra, hệ thống chuyển tiền điện tử mới đã đáp ứng được mục tiêu mở rộng mạng lưới thanh toán trong và ngoài hệ thống NHCT Việt Nam, đáp ứng yêu cầu về thời gian, về mức độ xử lý tự động, vẫn cung cấp dịch vụ song phương với những đối tác lớn như Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Tháng 4/2006, chi nhánh NHCT Cửa Lò đã chính thức thực hiện giao dịch một cửa, tham gia Hệ thống INCAS của NHCT Việt Nam. Bên cạnh đó, dịch vụ thanh toán của NHCT Việt Nam được nhận giải thưởng “Cúp vàng sản phẩm uy tín chất lượng” của Hội sở hữu công nghệ Việt Nam do KH bình chọn sẽ là cơ hội để chi nhánh NHCT Cửa Lò có thể nâng cao doanh số thanh toán trong nội bộ hệ thống NHCT Việt Nam cũng như ngoài hệ thống. Năm 2006 chính vì thế là năm mà chi nhánh NHCT Cửa Lò đạt doanh số thanh toán chuyển tiền trong nước xấp xỉ 15 tỷ đồng tăng 89% so với năm 2005, trong đó thanh toán nội bộ tăng 123.8%, thanh toán ngoài hệ thống tăng 50.1%. ² Kinh doanh ngoại tệ. Do đặc điểm kinh tế của vùng và vị thế của bản thân, nên hoạt động KD ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Cửa Lò chủ yếu chỉ dừng lại ở việc mua bán ngoại tệ của các cá nhân có người thân đi xuất khẩu lao động hoặc có nhu cầu cất trữ ngoại tệ… chứ chưa mở rộng ra KD ngoại tệ trên thị trường liên NH. Năm 2006 thu từ hoạt động KD ngoại tệ (chủ yếu là USD) đạt 36.14 triệu đồng tăng 57.7% so với năm 2005. Tại chi nhánh NHCT Cửa Lò KH có nhu cầu mua bán ngoại tệ với số lượng lớn luôn được áp dụng tỷ giá ưu đãi hoặc được hưởng khuyến mại tuỳ vào từng thời điểm cụ thể. Ngoài ra, chi nhánh cũng có những hình thức khác để thu hút KH mua bán ngoại tệ như ưu đãi tỷ giá đối với những KH có tiền gửi tiết kiệm hoặc tài khoản tại chi nhánh hoặc là những KH thường xuyên giao dịch tại đây. ² Dịch vụ thẻ. Đầu năm 2006, tại trụ sở của chi nhánh NHCT Cửa Lò đã chính thức lắp đặt máy rút tiền tự động ATM. Chi nhánh có thể thực hiện mở tài khoản cho tất cả các loại thẻ của NHCT Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế do nhu cầu KH chưa có nên hiện tại chi nhánh chỉ mới phát hành các loại thẻ ghi nợ như C-Card, G-Card, S-Card hay mới đây là Incombank Epartner cho đối tượng KH có mức thu nhập trung bình, còn các loại thẻ như Visa, Master hay các loại thẻ tín dụng khác còn chưa được phát hành ở đây. KH được các giao dịch viên hướng dẫn cụ thể về tính năng, công dụng cũng như cách sử dụng của mỗi loại thẻ. Mặc dù cách xa trung tâm thẻ của NHCT Việt Nam nhưng KH sau khi làm thủ tục mở tài khoản tại chi nhánh NHCT Cửa Lò 3 ngày là có thể nhận được thẻ. Tuy năm 2006 chi nhánh NHCT Cửa Lò mới thực hiện việc phát hành thẻ cho KH nhưng đã phát hành được trên 500 thẻ vượt chỉ tiêu do NHCT Việt Nam giao là 450 thẻ. Trong năm 2007, chi nhánh phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu phát hành thêm 500 thẻ mà NHCT Việt Nam giao cho. Trong tháng 1/2007, chi nhánh cũng đã phát hành được hơn 150 thẻ cho KH trên địa bàn. ² Dịch vụ chi trả kiều hối và các dịch vụ khác. Chi nhánh NHCT Cửa Lò có thể thực hiện chuyển tiền nhanh qua Western Union, điện SWIFT hay phối hợp với công ty bảo hiểm cung cấp các dịch vụ bảo hiểm… Mới đây, NHCT Việt Nam còn cho ra mắt một dịch vụ mới là nhận tiền kiều hối qua thẻ Epartner. Thời gian gần đây, lao động của tỉnh Nghệ An nói chung và của thị xã Cửa Lò nói riêng đi xuất khẩu lao động rất nhiều, vì thế đây là một cơ hội để chi nhánh NHCT Cửa Lò có thể nâng cao doanh số chi trả kiều hối. Bên cạnh đó việc kết hợp với các công ty bảo hiểm để KH có thể nộp tiền bảo hiểm tại NH là một tiện ích đáp ứng kịp thời nhu cầu của KH trong và ngoài thị xã. Năm 2005, NHCT Việt Nam được các NH đại lý trao tặng danh hiệu “Ngân hàng có tỷ lệ điện SWIFT thanh toán đi thẳng cao nhất”, dịch vụ chi trả kiều hối được đánh giá là đạt chất lượng tốt, nhanh và chi phí thấp. Giá trị sản phẩm dịch vụ của NHCT Việt Nam đã được khẳng định chính là một điều kiện thuận lợi khi chi nhánh NHCT Cửa Lò thực hiện cung cấp các dịch vụ này. Do nhu cầu của KH chưa có nên tại chi nhánh chủ yếu chỉ thực hiện thanh toán tiền được chuyển từ nước ngoài về qua Western Union chứ chưa thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền ra nước ngoài. Khi nhận được điện, nhân viên phòng kế toán giao dịch sẽ thông báo với KH đến nhận tiền bằng hình thức gọi điện thoại hoặc gửi thư tín nếu KH không có số điện thoại. Mức phí cho dịch vụ chi trả kiều hối là 0.05% tính trên số tiền, tối thiểu là 2USD; nếu KH lĩnh tiền mặt bằng VNĐ sẽ không mất phí còn nhận bằng ngoại tệ thì phí là 0.15% tính trên số tiền và tối thiểu là 2USD và không có giới hạn số tiền mà người nhận có thể nhận tại NH. Đặc biệt các KH đến nhận tiền ở đây khi có nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ cũng được ưu đãi về tỷ giá và được nhận khuyến mại như đã nói ở trên. Năm 2006 vừa qua, chi nhánh đã thực hiện chi trả kiều hối cho 2.105 lượt người, tăng 875 lượt người so với năm 2005 với tổng số tiền chi trả 2.154.131USD tăng 1.432USD so với năm 2005. Đạt được những tiến bộ này là do chi nhánh đã cố gắng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các giao dịch viên, tăng cường hoạt động tiếp thị, chăm sóc khách hàng chu đáo… với mục tiêu tạo thêm thu nhập, góp phần thu hút ngoại tệ về Việt Nam nhiều hơn. Ngoài các dịch vụ chi trả kiều hối và thanh toán khác, mới đây chi nhánh NHCT Cửa Lò đã phối hợp với một số cơ quan trên địa bàn triển khai dịch vụ mới là trả tiền lương cho nhân viên qua tài khoản tại NH. Điều này có thể giúp chi nhánh mở rộng phạm vi ảnh hưởng đồng thời cũng tạo thêm một kênh huy động vốn. 1.2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh. Kết quả hoạt động KD của chi nhánh NHCT Cửa Lò trong thời gian gần đây có thể được khái quát qua bảng sau: Bảng 4: Kết quả kinh doanh của chi nhánh NHCT Cửa Lò Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng thu 3.575,12 3.985,44 5.702,96 Tổng chi 3.387,56 3.767,21 5.220,90 Chênh lệch thu chi 187,56 218,23 482,06 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHCT Cửa Lò) Qua bảng trên, ta có thể thấy trong 3 năm gần đây tình hình hoạt động KD tại chi nhánh NHCT Cửa Lò đạt kết quả khá khả quan. Từ 2004 đến 2006 liên tục đều có lãi và đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2004 tổng thu đạt 3.575,12 triệu đồng thì đến 2005 đã tăng lên 3.985,44 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng 11,48%, trong khi đó tổng chi cũng đạt được kết quả tương tự trong năm 2005 cụ thể tăng 379,65 triệu đồng so với 2004 tương ứng với tốc độ tăng trưởng 11,21%. Như vậy trong năm 2005, chi nhánh NHCT Cửa Lò đều đã tăng được tổng thu chi nhưng tốc độ tăng thu lớn hơn tăng chi, chính vì thế mà chênh lệch thu chi của năm 2005 vẫn tăng 16,35% so với năm 2004. Sang đến năm 2006 kết quả mà chi nhánh NHCT Cửa Lò đã đạt được có thể nói là có rất nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Kết quả tổng thu chi đều tăng vượt bậc so với năm 2005, cụ thể như sau: tổng chi năm 2006 tăng 1.717,52 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng 43,09%, và tổng chi tăng 1.453,69 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng 38,59%, chênh lệch thu chi tăng đến 263,83 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 121% - một con số rất khả quan. 2. Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh NHCT Cửa Lò. 2.1. Khái quát cơ sở pháp lý về cho vay. 2.1.1. Điều kiện vay vốn. Theo Quyết định ngày 03 tháng 04 năm 2006 của Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam, khi cho vay NH coi điều kiện quan trọng nhất là phương án, DA SXKD của KH. DA phải có tính khả thi về cả mặt kỹ thuật và TC bởi vì nó đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay trong tương lai của KH. Đối với các DA lớn, NH sử dụng các biện pháp tính toán dòng tiền thu nhập trong tương lai của DA do người vay đệ trình và xem xét các vấn đề về thị trường đầu vào, đầu ra của DN trong quá trình hoạt động sau này. NH yêu cầu KH có mức vốn tự có tối thiểu tham gia vào dự án khoảng 30% bởi vì có vốn của mình tham gia vào DA thì KH sẽ thận trọng trong hoạt động KD hơn là hoàn toàn bằng đồng vốn đi vay mượn. Tuy nhiên, trong thực tế do thiếu kỹ năng cơ bản về một phương án SXKD, đặc biệt là việc tính toán các chỉ tiêu TC và khả năng phân tích thị trường nên nhiều KH không viết được một đề án SXKD đáp ứng được các yêu cầu của NH để được chấp thuận vay vốn. Một điều kiện bắt buộc đối với hầu hết các đối tượng vay vốn đó là có đảm bảo tiền vay. Đảm bảo tiền vay có thể dưới nhiều hình thức nhưng thông thường NH chỉ cho vay tối đa là 70% giá trị TS thế chấp. Trên thực tế khoản vay này thường thấp hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn của các DN do TS thế chấp thường là bất động sản được tính theo giá Nhà nước, mà giá đó thường thấp hơn giá thị trường tại một thời điểm tương đương. Tuy những năm gần đây, NH đã bớt coi trọng yếu tố này song đây vẫn là một trở ngại lớn đối với KH có nhu cầu vay vốn nhất là các DNVVN. Ngoài điều kiện KH phải có đủ năng lực PL và năng lực hành vi dân sự cũng như có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, còn có một số quy định riêng cho từng đối tượng KH là cá nhân, hộ gia đình hay DN. 2.1.2. Đảm bảo tiền vay. Theo quyết định tại Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Thông tư 07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện một số quy định về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng có hai hình thức bảo đảm tiền vay: Thứ nhất: Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng TS. Biện pháp này bao gồm 3 hình thức: cầm cố, thế chấp bằng TS của KH vay vốn, hoặc của bên thứ ba, hoặc đảm bảo bằng TS hình thành từ vốn vay. Điều quan trọng nhất khi nhận TSĐB đó là NH cần phải đánh giá được giá trị của nó, chính vì thế NH phải thành lập tổ định giá. Thành phần tổ định giá do Giám đốc quyết định nhưng tối thiểu phải có 2 cán bộ và trong từng trường hợp cụ thể phải có thêm lãnh đạo của phòng Khách hàng hoặc thành viên Ban giám đốc. Đối với TS hình thành từ vốn vay KH phải có tín nhiệm với NH, tối thiểu phải được xếp loại B, có phương án, dự án kinh doanh khả thi và có hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết. Thứ hai: Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng TS: - NH lựa chọn KH để cho vay không có bảo đảm bằng TS phải là những KH có uy tín, phải được xếp loại A, KD có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay, có DA, phương án SXKD khả thi và có hiệu quả. - NH cho cá nhân hộ gia đình nghèo và có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Mặc dù trong quy định là vậy nhưng trên thực tế thì hầu hết KH muốn vay vốn ở chi nhánh NHCT Cửa Lò đều phải có TS thế chấp (trừ trường hợp cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên). 2.1.3. Các hình thức cho vay. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vốn vay của KH và khả năng kiểm tra, giám sát việc KH sử dụng vốn vay của NH, NHCT Cửa Lò và KH có thể lựa chọn các phương thức cho vay sau: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức cho vay, cho vay theo DA, cho vay trả góp, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng, cho vay hợp vốn, cho vay theo hạn mức thấu chi. Các phương thức trên về lý thuyết là có thể áp dụng được với tất cả các KH có nhu cầu, nhưng trên thực tế hiện nay ở NHCT Cửa Lò chủ yếu là áp dụng phương thức cho vay từng lần đối với KH và mới đây bắt đầu cho vay theo hình thức tín chấp, còn các phương thức khác được áp dụng rất hạn chế. Trong phương thức cho vay từng lần, mỗi lần vay vốn KH phải gửi đến cho NH các tài liệu như: phương án, DA SXKD, chứng từ có liên quan đến nhu cầu vay vốn (hợp đồng mua bán, giấy báo giá…). Đây chính là nhược điểm của phương thức cho vay từng lầ._.công cụ quan trọng nhất để NH mở rộng hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động cho vay. Tuy nhiên lãi suất cũng chính là công cụ khó điều chỉnh nhất. Ngoài ra, một trong những điều quan tâm của DN khi đến vay vốn NH là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho DN. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thỏa thuận với KH, hài hòa lợi ích NH và DN. Lãi suất cho vay của chi nhánh NHCT Cửa Lò trong thời gian qua so với các NH trên cùng địa bàn rẻ hơn và được điều chỉnh linh hoạt hơn. Tuy nhiên so với nhu cầu của KH thì vẫn chưa đáp ứng được nhất là đối với các DNVVN. Do đặc thù kinh tế của vùng và khả năng của NH mà trong thời gian qua cũng như chiến lược trong thời gian tới đối tượng NH sẽ hướng tới vẫn chủ yếu là các DNVVN. Cho vay DNVVN thường có rủi ro cao hơn. Chính vì thế mà không thể thực hiện biện pháp giảm lãi suất cho vay như các NH khác áp dụng cho các DN lớn đã có quan hệ tín dụng lâu dài. Tuy nhiên NH vẫn có thể xem xét để đưa ra các mức lãi suất khác nhau áp dụng cho các ngành nghề sản xuất KD đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích hỗ trợ; các KH vay vốn với số lượng lớn hoặc có quan hệ vay trả thường xuyên, được NH tín nhiệm thì có thể xem xét mức lãi suất thấp hơn. 2.5. Cải tiến quy trình tín dụng. Thứ nhất: vấn đề đảm bảo tiền vay. Trước hết, cần phải thấy rằng, với môi trường kinh tế luôn thay đổi thì rủi ro luôn rình rập đối với KH và cả NHTM, vì vậy cho vay có TSĐB là điều kiện khá tiên quyết của NHTM đối với KH, và vấn đề quản lý TSĐB tiền vay được đặt ra là một yêu cầu tất yếu. Quản lý TSĐB là một mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay, thu hồi nợ và xử lý các khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc quản lý đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục những TS mà NHCT Việt Nam lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị TSĐB để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu KH bổ sung TSĐB. Chính vì thế, NH cần quan tâm thực hiện tốt các vần đề: - vấn đề đánh giá TSĐB khi NH đồng ý nhận TS là hết sức quan trọng bởi vì chất lượng của TSĐB, mà cụ thể là giá trị thị trường của TSĐB tại thời điểm NH xử lý TSĐB sẽ có tính chất quyết định đến nguồn thu hồi nợ của NH. - hoàn thiện hồ sơ pháp lý (Chứng thư sở hữu của TS, đăng ký Giao dịch đảm bảo, công chứng chứng thực, các thoả thuận trọng hợp đồng…) của TSĐB đối với khoản vay bởi vì đây là điều kiện quyết định đến quyền truy đòi nợ của NH. - việc nhận TSĐB là quyền sử dụng đất hoặc bất động sản liên quan đến đất thuê của DN, nhất là trường hợp phải xử lý phát mại TS là quyền sử dụng đất, hay TS nằm trên đất được giao (của DN Nhà nước, hợp tác xã) hay đất thuê là hết sức phức tạp. Nếu khi nhận TSĐB phần đánh giá giá trị thương mại của TS gắn với vị trí lô đất để đánh giá cao về TS thì sau này trường hợp NH buộc phải xử lý TSĐB sẽ khó khăn phức tạp và giá trị thu hồi thấp. Chính vì thế NH cần phải thận trọng và hiểu đúng về các quy định có liên quan khi nhận TSĐB. Ngoài ra, NH có thể đa dạng các hình thức đảm bảo tiền vay, chẳng hạn như cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu của DN. Các DN bán hàng nhưng do người mua chưa kịp thanh toán, dẫn đến làm cho DN bị thiếu vốn lưu động. Trong trường hợp này NH có thể giúp DN thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu, tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ mà NH thẩm định một cách chặt chẽ. Thứ hai: Thủ tục vay vốn. Một trong những nguyên nhân khiến cho hầu hết các KH ngại tiếp xúc với tín dụng NH đó là thủ tục vay vốn. Vì vậy, NH phải đơn giản hoá thủ tục cho vay bằng cách giảm bớt số lượng giấy tờ không cần thiết mà chỉ tập trung vào các loại giấy tờ trọng tâm như giấy phép KD, giấy phép đăng ký thành lập DN, báo cáo kết quả KD, bảng cân đối tài khoản… đối với đối tượng KH là các DN. Đối với KH là cá nhân, hộ gia đình vay phục vụ tiêu dùng thì cần những giấy tờ chứng minh hoạt động đó chẳng hạn như giấy chứng nhận mua bảo hiểm cho xe ô tô… Thứ ba: NH nên mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay tín chấp. Đây là hình thức cho vay mà NH dựa trên uy tín và kết quả hoạt động SXKD của KH. Thông thường, NH áp dụng hình thức cho vay tín chấp đối với KH đã có quan hệ lâu dài, tin cậy đối với NH. NH có thể xem xét cho vay các DNVVN khi sản phẩm của nó được sử dụng phục vụ cho hoạt động của DN lớn. Trong trường hợp này cần có sự đảm bảo của các DN lớn đó và cam kết của bản thân DNVVN về mục đích sử dụng vốn vay. Tuy nhiên trong cả hai trường hợp trên KH phải có đủ số liệu thực tế để chứng minh được tình hình TC của mình là lành mạnh, có TS cố định và TS lưu động đủ lớn, những hàng hoá và dịch vụ đang SXKD có hiệu quả và ổn định trên thị trường. 2.6. Thực hiện tốt chính sách marketing. Marketing là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó chỉ ra rằng KD không chỉ là sự may rủi và sự thành đạt không thể dựa vào mánh khoé, mà còn tuỳ thuộc vào trình độ nghệ thuật của từng nhà KD, dựa trên cơ sở nắm bắt thông tin thị trường, am hiểu nhu cầu của người tiêu dùng và tiến trình trao đổi, đồng thời phải tạo ra được những cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu KH, trên cơ sở đó mà thực hiện mục tiêu của DN. Marketing thâm nhập vào lĩnh vực NH chậm hơn so với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá. Marketing NH không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và duy nhất, mà cho rằng lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng và là thước đo trình độ marketing của mỗi NH. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của marketing NH là tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường. Chức năng của bộ phận marketing NH là làm cho sản phẩm dịch vụ NH thích ứng với nhu cầu thị. Chính vì thế NH phải thực hiện tốt chính sách marketing. Đối với từng đối tượng KH phải áp dụng các biện pháp marketing khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế và khả năng quan sát của NH. NH có thể xem xét một số biện pháp sau: ² Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quảng cáo là phương thức truyền thông không trực tiếp nhằm giới thiệu sản phẩm dịch vụ NH hoặc thông qua các phương tiện truyền tin. Quảng cáo của NH là hoạt động mang tính chiến lược, là đầu tư dài hạn để duy trì lợi thế cạnh tranh của NH. Tuy nhiên, chi phí quảng cáo ngày càng tăng lên nên để nâng cao hiệu quả quảng cáo, NH phải thực hiện theo những tiến trình nhất định: trước hết phải xác định mục tiêu quảng cáo, tiếp đó NH phải xác định được các yêu cầu của quảng cáo như giảm tính vô hình của sản phẩm dịch vụ NH, nội dung quảng cáo phải rõ ràng… để từ đó có thể lựa chọn phương tiện quảng cáo thích hợp. ² Trực tiếp tiếp cận KH: Lợi thế của phương thức này là sự gia tăng cơ hội giao tiếp giữa KH và NH, giúp KH nhận được thông tin về NH nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời, còn NH có cơ hội để giới thiệu cung ứng sản phẩm dịch vụ mới, duy trì KH hiện tại, giảm chi phí quảng cáo, tăng hiệu quả thị trường mục tiêu, có điều kiện để tính toán và đánh giá chính xác kết quả, phát huy được tính linh hoạt trong những quan hệ giao tiếp trực tiếp giữa KH và nhân viên NH, đặc biệt là hạn chế được sự theo dõi của đối thủ cạnh tranh. Cán bộ tín dụng khi đi dự hội thảo, hội nghị tranh thủ làm quen với các DN và giới thiệu hộ đến giao dịch với NH mình… Tiếp tục tổ chức tốt hội nghị KH, qua đó củng cố mối quan hệ gắn bó giữa KH và DN. Hiện nay, tại chi nhánh NHCT Cửa Lò, Phòng kinh doanh vẫn đảm trách luôn cả công tác marketing do số lượng nhân viên của NH còn ít chưa thể thành lập riêng một phòng được. Chính vì thế NH cần nhanh chóng khắc phục để lập ra một Phòng marketing, nâng cao tính chuyên nghiệp của các cán bộ phụ trách hoạt động này cũng đồng thời để Phòng kinh doanh chú tâm hơn vào hoạt động nghiệp vụ của mình từ đó mới đảm bảo yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động 2.7. Nâng cao chất lượng các dịch vụ. Chất lượng hoạt động KD của các NHTM là một vấn đề khá trừu tượng, khó có tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá bởi đặc thù của ngành NH. Chất lượng hoạt động KD của các NHTM là khả năng tập hợp các đặc tính hoạt động KD của nó để thoả mãn nhu cầu của KH và các bên có liên quan. Hay đứng trên góc độ lợi ích, chất lượng hoạt động KD của NHTM chính là sự thoả mãn nhu cầu về mặt lợi ích của các bên liên quan trong hoạt động KD của NHTM. Một trong những nội dung để đánh giá chất lượng hoạt động KD của NHTM là dựa trên phương diện KH của NH. KH là đối tác chính trong hoạt động KD của NH. Trong quá trình hoạt động KD, theo quy luật thì các KH sẽ lựa chọn mua dịch vụ tại NH nào có khả năng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Vì vậy, đối với một NH cụ thể, đảm bảo chất lượng hoạt động KD trên phương diện KH chính là tìm câu trả lời cho câu hỏi: NH phải làm gì và làm thế nào để được KH lựa chọn là người cung cấp dịch vụ cho họ? Hay làm thế nào thu hút và giữ KH mua dịch vụ của chính NH mà không phải là mua dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh? Nâng cao chất lượng các dịch vụ đến với KH vừa tạo sự tiện ích cho KH khi quan hệ với NH, giúp NH thu hút khách cũng như tạo mối dây liên hệ giữa NH với KH có thể là thông qua những khoản ký thác và cho phép hình thành những đảm bảo TC an toàn cho NH. Trong cạnh tranh giữa các NH, chất lượng phục vụ KH chính là một nhân tố ảnh hưởng đến sức mạnh của NH. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, NH cũng cần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các dịch vụ NH, đặc biệt là dịch vụ thanh toán, với tiện ích ngày càng cao: nhanh, chính xác và an toàn, thủ tục thuận tiện để thu hút KH thuộc khu vực kinh tế tư nhân đến với NH ngày càng nhiều qua đó phát triển mối quan hệ NH – KH từ đó hỗ trợ cho hoạt động tín dụng, nắm bắt KH tốt hơn. 2.8. Coi trọng công tác tổ chức cán bộ. Con người là nguồn lực quý báu nhất, là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động tín dụng con người lại càng đóng vai trò quan trọng do toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát… đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Trong thực tế DA của KH nói chung và của các DNVVN nói riêng rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để đảm bảo công tác thẩm định tốt là một khâu vô cùng quan trọng quyết định cho vay có hiệu quả hay không đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có một kiến thức tổng hợp. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Thêm vào đó, để đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới, đòi hỏi NH cần đổi mới phương thức KD từ bị động đến thế chủ động hơn, tích cực tìm kiếm các khả năng cho vay. Để thực hiện điều này đòi hỏi NH phải tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt là có tâm huyết với nghề, với ngành, đi sâu đi sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đại đa số nhân viên của NHcó trình độ cao nhưng tuổi đời còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, số lượng nhân viên còn quá ít nên mỗi nhân viên phải đảm nhận một khối lượng công việc rất lớn làm giảm hiệu quả công việc. Chính vì thế việc làm trước mắt của NH là bên cạnh việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên hiện tại thì cũng cần nhanh chóng có kế hoạch tuyển thêm nhân viên có đủ trình độ để đáp ứng khối lượng công việc ngày càng lớn. 2.9. Xây dựng văn hoá kinh doanh tại NHCT Cửa Lò. Từng bước xây dựng văn hoá trong KD, bởi vì có thể nói văn hoá KD trong NH là yếu tố then chốt tạo điều kiện cho NH hoạt động hiệu quả cao và nhân tố hạt nhân để xây dựng thành công văn hoá trong KD chính là yếu tố con người. Văn hoá KD được hiểu là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động KD của chủ thể, là cái văn hoá mà chủ thể tạo ra trong quá trình KD, hình thành nên những kiểu KD ổn định và đặc thù của chính họ. Nói cách khác văn hoá KD tạo nên bản sắc riêng của một DN, đồng thời là sức mạnh lâu bền của DN thể hiện qua sức mạnh của sản phẩm trên thương trường. NH là một DN thực hiện hoạt động KD tiền tệ, do đó văn hoá KD trong NH có những nét tương đồng với văn hoá DN đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng, bởi vì sản phẩm của NH có những đặc điểm riêng đó là mang tính dịch vụ, tính vô hình và tính rủi ro cao. Sản phẩm của NH là sản phẩm dịch vụ, quá trình cung ứng không tách rời quá trình tiêu dùng khiến cho NH không có sản phẩm dịch vụ dở dang và KH chỉ có thể cảm nhận được sản phẩm của NH thông qua sự hài lòng hay tiện ích mà dịch vụ NH cung ứng cho họ. Chính vì thế mà xây dựng văn hoá KD trong NH cần phải đáp ứng các đặc thù riêng mà chỉ lĩnh vực NH mới có. Môi trường KD trong NH đầy ắp rủi ro nhưng không vì thế mà quá đặt áp lực nặng nề lên nhân viên mà phải làm thế nào để môi trường KD vừa mang tính cạnh tranh nhưng cũng mang đậm một nét văn hoá đặc trưng nào đó. Để phát huy hiệu quả của việc xây dựng văn hoá KD, NH cần quan tâm đến một số vấn đề sau: Thứ nhất: xây dựng hình ảnh chung về NH bằng cách đưa ra các quy tắc hành động và phương châm riêng của mình, xây dựng những quy tắc nêu lên cách ứng xử của nhân viên với KH cũng như các chế độ ưu đãi đối với nhân viên. NH có thể tạo ra phong cách KD riêng bằng cách: tạo ra một không gian đầy ấm cúng và mang đến cho KH cảm giác gần gũi dễ tiếp cận khi đến giao dịch tại NH; phát hành tờ rơi hướng dẫn dịch vụ bởi đây là phần không kém quan trọng trong việc tăng thêm giá trị cho sản phẩm dịch vụ NH, nó tạo ra sự thuận tiện cho KH, giúp KH dễ dàng tiếp cận tới các dịch vụ mà họ mong muốn. Thứ hai: mối quan hệ giữa KH và NH. Một trong những nét văn hoá trong KD NH là tạo niềm tin đối với KH, làm cho KH cảm thấy hài lòng về NH. Để nâng cao văn hoá trong KD, NH cần phải có chiến lược phục vụ KH tận tình theo phương châm “cung ứng dịch vụ với nụ cười thân thiện” bởi vì chỉ cần một nụ cười thân thiện hay một cử chỉ đúng mực của nhân viên cũng đủ để gây ấn tượng tốt đầu tiên với KH. Chính vì thế phải luôn thể hiện sự niềm nở, nhiệt tình đối với KH, luôn luôn bí mật, không tiết lộ thông tin cá nhân của KH như số dư tiền gửi, tiền vay, tình hình TC…nếu chưa thực sự cần thiết. Hãy kết bạn với KH. Kết bạn ở đây không đơn thuần là mối quan hệ KD, mua bán, mà còn là tình người, làm cho KH luôn có cảm giác thân thiết, được trân trọng. Đây là bước đầu của chiến thuật “đắc nhân tâm” để đạt đến sự thành công trong công việc KD. Hãy chân thành với KH. Mọi hoạt động đều tuân thủ nguyên tắc “thành công của KH là thành công của chính NH”. Từ đó, mỗi nhân viên phải luôn có nụ cười trên môi, luôn niềm nở, nhiệt tình hướng dẫn, tư vấn về mọi thủ tục, hồ sơ vay, gửi, thanh toán.... Có KH thì NH mới tồn tại, hoạt động, phát triển và thu được lợi nhuận, không có KH đồng nghĩa với sự thu hẹp và tự diệt vong. Thứ ba: mối quan hệ giữa NH và nhân viên NH. Đối xử với nhân viên như những người làm chủ bởi đây là nền tảng cho lý tưởng KD mới thể hiện sự tôn trọng con người. NH tạo ra mọi cơ hội đồng đều cho mọi người có thể nâng cao năng lực của mình, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm, nhưng đối với các thành tích khác nhau thể hiện qua kết quả thì phải có sự đãi ngộ dứt khoát khác nhau. Đây chính là cách thức tạo ra một tập thể những con người làm việc có khác nhau về “chất”. Bên cạnh đó, cần nắm vững được những mong muốn của đội ngũ nhân viên, cộng tác viên từ đó khơi dậy được tinh thần hăng hái, sáng tạo của mọi người. Thứ tư: mối quan hệ giữa nhân viên và nhân viên. Để mọi người cùng đồng tâm hiệp lực xây dựng NH, cần tuân thủ nguyên tắc vàng “đoàn kết- hoà đồng”. Đặc trưng của văn hoá là sự chia sẻ, thống nhất, gắn bó, đoàn kết giữa các cá nhân tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong sự đa dạng để thực hiện mục tiêu chung. Đoàn kết mới kích thích khả năng làm việc theo nhóm của tập thể nhân viên trong NH. Để các nhân viên trong NH có cơ hội để hoà nhập và hiểu nhau, NH nên tổ chức các cuộc liên hoan, vui chơi, picnic, các cuộc thi văn nghệ, các hoạt động ngoại khoá… 3. Một số kiến nghị. 3.1. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Việt Nam . Định hướng KD có tính chiến lược của NHCT Việt Nam là kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng và lành mạnh nợ trong hạn, không đặt ra mục tiêu tăng trưởng nóng, nhưng cũng không quá thận trọng vì có thể sẽ bỏ qua những cơ hội kinh doanh tốt. NHCT Việt Nam đã và đang được tổ chức lại theo mô hình NH hiện đại, chuyên nghiệp hoá theo nhóm KH và nhóm sản phẩm dịch vụ kể từ 11/2003. Hình thành bộ phận quản lý rủi ro, quản lý TS Nợ, TS Có, chuyển bộ máy kiểm tra nội bộ từ mô hình phân tán sang tập trung và trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Tổng giám đốc. Từng bước hoàn thiện hơn hệ thống cơ chế, chính sách về quản lý, điều hành và quy trình nghiệp vụ. Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh cho các đơn vị trực thuộc nhằm khuyến khích, thúc đẩy các đơn vị hoạt động có hiệu quả hơn. tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc trên cùng một địa bàn. Nghiên cứu chế độ khen thưởng có tính chất khuyến khích cán bộ tín dụng mở rộng tín dụng. Trung tâm điều hành chủ động cho phép các chi nhánh tham gia với tư cách là thành viên của các quỹ bảo lãnh tín dụng, của hiệp hội phát triển DNVVN hoặc các DA phát triển DNVVN… Việc gia nhập các tổ chức trên sẽ tạo điều kiện cho các NH tham gia có được những thông tin chính xác hơn, cập nhật hơn và từ đó chủ động tiếp cận với các KH có nhu cầu một cách hiệu quả nhất. Trung tâm cũng giữ vai trò là người cung cấp các bản tin về rủi ro tín dụng, trong đó nêu lên những nhận định đánh giá về rủi ro của các DN trên địa bàn và cảnh báo cho các chi nhánh những trường hợp khẩn cấp có dấu hiệu lừa đảo, hoặc mất khả năng thanh toán. Trung tâm nghiên cứu và phát triển một hệ thống báo cáo TC với những nội dung chuẩn để cung cấp cho KH là các DN. Trung tâm cũng cần nghiên cứu và đưa ra một hệ thống phân loại rủi ro làm cơ sở tham chiếu cho các chi nhánh cấp dưới. Đồng thời trung tâm cũng cần nghiên cứu và đưa ra một số chỉ tiêu TC bình quân của một số ngành kinh tế trọng điểm như tỷ suất lợi nhuận bình quân, tỷ lệ hoàn vốn, tỷ lệ thanh toán để làm tham chiếu cho việc quyết định lãi suất cho vay của các chi nhánh đối với KH của họ. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng theo nghĩa rộng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi quản lý TS cho vay. Để đảm bảo cho hệ thống thông tin của NHCT Việt Nam hoạt động có hiệu quả, là nơi tin cậy giúp các cán bộ tín dụng nắm được các thông tin cần thiết, NHCT cần kết nối với các hệ thống thông tin khác của NHNN, Bộ thương mại, Bộ công nghiệp… thu thập thông tin tín dụng toàn ngành NH và thông tin kinh tế khác; thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các chủ đầu tư; tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu tín dụng chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các chi nhánh của NHCT; xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn hệ thống bao gồm: thông tin kinh tế, thông tin tổng hợp định kỳ, thông tin hoạt động tín dụng của KH bất kỳ, thông tin xếp hạng tín dụng, thông tin hạn mức tín dụng… 3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Tăng cường năng lực TC, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và phòng chống rủi ro của các tổ chức tín dụng. Nhanh chóng thúc đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nợ của các NHTM, giải quyết những khoản nợ tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh. Tăng cường quản lý các khoản trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM. Giảm thiểu các quy định có tính can thiệp vào quy trình nghiệp vụ, vào thẩm quyền và trách nhiệm đối với các quyết định KD, quyền tự chủ về nhân sự, TC, tiền lương của các tổ NHTM. Giảm dần bảo hộ các NHTM trong nước, đặc biệt về hoạt động tín dụng và cơ chế tái cấp vốn, tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong KD, giảm dần bao cấp đối với NHTM Nhà nước, áp dụng đầy đủ hơn các quy chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực TC - NH. Tuy nhiên điều quan trọng là cải cách NH phải phối hợp đồng bộ với cải cách DN, nhất là các DN Nhà nước, trong đó trọng tâm là gắn xử lý nợ của hệ thống NH với xử lý nợ của DN Nhà nước. Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng, đổi mới cơ chế quản lý tín dụng của NHNN. Tiếp tục đổi mới chính sách cung ứng tín dụng phù hợp theo yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ và chính sách TC quốc gia. Chính sách tín dụng của NHNN phải là cơ sở, định hướng cho các tổ chức tín dụng xác định mục tiêu, mức độ, cơ cấu về huy động nguồn vốn cũng như đầu tư tín dụng cho nền kinh tế. Trong điều hành chính sách tín dụng, cần nghiên cứu tiến tới tách bạch chức năng cơ quan chủ quản với chức năng cơ quan giám sát. Tiếp tục ban hành các văn bản quy định nhằm đảm bảo an toàn hệ thống như bảo hiểm tiền gửi, TS đảm bảo tín dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm… Về cơ chế cho vay vốn, NHNN chỉ nên xây dựng một thể lệ tín dụng chung theo hướng chỉ quy định những điều hạn chế hoặc không được thực hiện, vì trong nền kinh tế hiện đại, xu hướng sẽ chuyển dần các loại tín dụng cho vay theo thời hạn truyền thống hiện nay sang hình thức tín dụng DA là chủ yếu. 3.3. Kiến nghị với Nhà Nước Như ta đã biết, hoạt động cho vay của bất cứ NHTM nào cũng chịu sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước bởi vì hoạt động của các NHTM có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động cho vay của các NHTM chịu ảnh hưởng của các văn bản, hệ thống chính sách PL của Nhà nước. Chính vì thế mà cơ chế chính sách Nhà nước nếu được thực hiện một cách đồng bộ, tạo môi trường hoạt động KD, cạnh tranh lành mạnh giữa các DN nói chung và các NH nói riêng là điều kiện để NH có thể mở rộng hoạt động cho vay của mình cũng như các DN có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng. Nhà nước cần có những chính sách cụ thể hơn nữa nhằm tạo ra môi trường KD thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế nhất là khu vực kinh tế tư nhân và các DNVVN. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, đây là khu vực đã có những đóng góp quan trọng vào việc khai thác các nguồn tài nguyên, lao động, kỹ thuật… để phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá. Với những lợi thế của mình, các DNVVN đã có mặt ở hầu hết trong các lĩnh vực sản xuất KD của nền kinh tế, đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, đa dạng, phong phú, chất lượng cao từ đó góp phần giải quyết một vấn đề nan giải hiện nay đối với Nhà nước ta đó là vấn đề việc làm cho người lao động nhất là lao động phổ thông. Đặc biệt đối với khu vực nông thôn, các DNVVN đã có những đóng góp to lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời hỗ trợ các DN lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Các DNVVN chủ yếu sử dụng các công nghệ trung gian vào SXKD và luôn tìm cách sử dụng tối đa những công nghệ đó, tìm hiểu những phương pháp sử dụng hiệu quả và đặc biệt là tìm cách sáng tạo, cải tiến công nghệ ở một mức nào đó, chính vì thế quá trình này đẩy nhanh tốc độ chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, tránh lãng phí nguồn lực về tri thức cho quốc gia. Bên cạnh đó, do KD với quy mô nhỏ nên các chủ DN sẽ được đào tạo, rèn luyện làm quen với môi trường KD, giúp họ có cơ hội trở thành những nhà DN lớn, tài ba. Chính vì vai trò to lớn của các DNVVN mà Nhà nước cần có những chính sách thuận lợi để các DNVVN này có điều kiện phát triển hơn nữa, phát huy vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế. Những chính sách khuyến khích sự phát triển của các DNVVN không chỉ giúp các DN có thể phát triển mạnh mẽ hơn trước mà còn tạo điều kiện cho nó có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn tín dụng NH, đồng thời cũng qua đó mà NH có thể yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào khu vực này góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KD của bản thân các NHTM. Ở nước ta hiện nay, thị trường vốn chưa thực sự phát triển chính vì thế mà kênh huy động vốn chủ yếu của các DN là từ nguồn vốn tín dụng NH. Do vậy, bên cạnh việc nâng cao hiệu quả của thị trường tín dụng, Nhà nước cần có những giải pháp để phát triển thị trường vốn để giải quyết nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, giảm áp lực đối với thị trường tín dụng. Đây là một vấn đề rất quan trọng bởi vì, việc giảm được áp lực cho thị trường tín dụng sẽ đảm bảo cho cả thị trường vốn và thị trường tín dụng phát triển bền vững, thực hiện đúng chức năng và phát huy hết vai trò của mình đối với thị trường TC nói riêng và đối với nền kinh tế thị trường nói chung. Chính vì thế trong thời gian tới, để phát triển thị trường vốn cần tập trung vào một số vần đề như: phát triển và hoàn thiện các định chế TC – tín dụng phi NH với các công cụ như quỹ đầu tư, công ty đầu tư, công ty TC…; phát triển mạnh thị trường trái phiếu bằng cách mở rộng cho nhiều thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ hơn; củng cố thật mạnh và có bước đột phá thị trường chứng khoán, không để xảy ra tình trạng phát triển quá nóng. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ PL, trong đó cần chú ý tới việc đồng bộ các văn bản hướng dẫn luật, nhất là đối với các văn bản luật có liên quan đến hoạt động của NH (như Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự…). Mặt khác, cần chú ý tới việc thực hiện của các cơ quan thực thi pháp luật các cấp, nhằm xây dựng được môi trường KD thông thoáng, lành mạnh hơn, qua đó tạo điều kiện cho các NH hoạt động ngày càng có hiệu quả, an toàn và bền vững. Cần chú ý tới việc nâng cao năng lực quản lý của các NHTM như quan tâm xử lý nợ tồn đọng của các DN Nhà nước để lành mạnh hoá tình hình TC của NH, tiếp tục triển khai Dự án hiện đại hoá Ngân hàng do Ngân hàng thế giới – WB tài trợ, có chế độ lương phù hợp để thu hút và giữ được những chuyên gia giỏi của NH. Ngoài ra, cần chú ý xây dựng cơ sở hạ tầng của thị trường, nhất là việc phát triển thông tin và sớm ban hành được chế độ kế toán theo chuẩn mực quốc tế, có quy định để đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong việc công bố các số liệu TC, báo cáo TC của các DN, nhằm tạo cơ sở tin cậy cho các NH cho vay, đầu tư được an toàn hơn. KẾT LUẬN Hoạt động cho vay của các NHTM có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn của NH là không thể thiếu đối với các DN nhất là ở Việt Nam khi mà các hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu… chưa thực sự phát triển thì có thể nói đây là kênh huy động vốn lớn nhất của DN. Hoạt động cho vay của NHTM chính vì thế mà ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đã đạt được thì hoạt động cho vay của các NHTM vẫn còn nhiều điều đáng quan phải quan tâm. Trong thời gian qua, hệ thống NH Việt Nam nói chung và NHCT Việt Nam nói riêng đã cung cấp một lượng vốn lớn cho các KH có nhu cầu, nhất là các DN, góp phần phát triển nền kinh tế. Chi nhánh NHCT Cửa Lò là một đơn vị mới được nâng cấp nên quy mô hoạt động còn nhỏ bé, chính vì thế trong quá trình thực tập tại đây tôi đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để mở rộng quy mô của hoạt động cho vay nhằm thực hiện được các mục tiêu của chi nhánh đã đề ra. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ lý luận và sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và NHCT Cửa Lò đã giúp đỡ tôi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này. Cửa Lò, tháng 4 năm 2007 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Hữu Tài (2002), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê Phan Thị Thu Hà (2006), Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê Lê Văn Tư (1998), Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê Feredric S.Miskin (1999), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật Peter Rose (2005), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính Ngân hàng công thương Cửa Lò, Báo cáo tổng kết công tác kinh doanh các năm 2003, 2004, 2005, 2006 Ngân hàng công thương Cửa Lò, Báo cáo tài chính các năm 2003, 2004 ,2005, 2006 Ngân hàng công thương Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2004, 2005 Ngân hàng công thương Việt Nam (2006), Các văn bản hiện hành liên quan đến công tác tín dụng trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam, Hà Nội Trang web của NHCT Việt Nam MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại 3 1. Khái niệm và vai trò của cho vay 3 1.1. Khái niệm cho vay 3 1.2. Vai trò của cho vay 8 2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại 10 2.1. Cho vay ngắn hạn 10 2.2. Cho vay trung và dài hạn 11 2.3. Cho vay có đảm bảo 13 2.4. Cho vay không có đảm bảo 14 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 14 3.1. Nhân tố từ phía ngân hàng 14 3.2. Nhân tố từ phía khách hàng 17 3.3. Các nhân tố khách quan bên ngoài 19 Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 20 1. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 20 1.1. Nhiệm vụ và bộ máy tổ chức kinh doanh của chi nhánh 20 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh 21 2. Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 29 2.1. Khái quát cơ sở pháp lý về cho vay 29 2.2. Thực trạng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 31 2.3. Đánh giá khái quát thực trạng cho vay tại chi nhánh 41 Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 49 1. Phương hướng phát triển của chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò trong thời gian tới 49 2. Một số giải pháp mở rộng cho vay tại chi nhánh Ngân hàng công thương Cửa Lò 55 2.1. Công tác huy động vốn 55 2.2. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay 56 2.3. Đa dạng hoá các hình thức cho vay 59 2.4. Điều hành linh hoạt lãi suất 59 2.5. Cải tiến quy trình tín dụng 60 2.6. Thực hiện tốt chính sách marketing 62 2.7. Nâng cao chất lượng các dịch vụ 63 2.8. Coi trọng công tác tổ chức cán bộ 64 2.9. X ây dựng văn hoá kinh doanh 65 3. Một số kiến nghị 67 3.1. Đối với Ngân hàng công thương Việt Nam 67 3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 68 3.3. Kiến nghị với Nhà nước 69 Kết luận 72 Danh mục tài liệu tham khảo 73 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5572.doc
Tài liệu liên quan