Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Lời mở đầu. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế với đặc trưng nổi bật là tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ, đã và đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài chính- ngân hàng của từng quốc gia. Nền kinh tế mở cửa cũng là lúc các ngân hàng phải mở cửa. Từ đó kinh doanh ngoại tệ ra đời và ngày càng trở nên có ý nghĩa đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, thương mại xuất nhập khẩu và đầu tư của đất nước. Trước những thành tựu đã đạt được trên phươn

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g diện kinh tế đối ngoại như: Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung hợp tác Liên minh Châu Âu, trở thành thành viên chính thức của Asean, … đồng thời cũng là lúc xuất hiện nhu cầu ngoại tệ ngày càng lớn của khách hàng, phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Điều đó đặt ra một thách thức lớn đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc thu hút khách hàng và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó bên cạnh các hoạt động kinh doanh truyền thống như huy động vốn, cho vay, đầu tư, thanh toán, ngân hàng ngày nay còn phát triển nhiều dịch vụ kinh doanh mới để thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế trong đó có hoạt động kinh doanh ngoại tệ mà tương lai sẽ trở thành một trong những hoạt động kinh doanh lớn nhất của ngân hàng hiện đại. Trên cở sở nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề và qua quá trình thực tập tại Sở giao dịch NHNo em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo và PTNT Việt Nam. Nội dung của chuyên đề bao gồm ba chương: Chương I: Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại. Chương II : Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo & PTNN Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo- Tiến sỹ Đào Văn Hùng cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng – Tài Chính, các cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ Sở Giao Dịch NHNo & PTNT Việt nam đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho em nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này. Dù đã cố gắng tìm hiểu, tập hợp và phân tích nhưng với kiến thức lí luận cũng như thực tế còn nhiều hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự hướng dẫn, góp ý của các thầy, cô giáo và các cô, chú, anh chị đang làm việc tại nơi em thực tập để luận văn của em được hoàn chỉnh hơn. Trần Thanh Hà./. Chương I: Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại. 1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Định nghĩa ngân hàng thương mại. Ngân hàng là một tổ chức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Ngày càng nhiều các tổ chức đã và đang cố gắng cung cấp những dịch vụ của ngân hàng đặt các Ngân hàng thương mại trước sự cạnh tranh gay gắt. Phản ứng của các ngân hàng là nâng cao các dịch vụ sẵn có và nghiên cứu mở rộng phạm vi cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới. Theo phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp có thể định nghĩa: ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chực năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngày 12/11/1997 : Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Các họat động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại Qua khái niệm về ngân hàng thương mại trên, ta thấy NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, có các hoạt động kinh doanh chủ yếu sau : - Huy động vốn bằng việc nhận tiền gửi tiết kiệm và phát hành các chứng chỉ tiền gửi khác... - Tín dụng ngắn trung và dài hạn. - Phục vụ nhu cầu thanh toán của khách hàng - Các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc đá quý, các dịch vụ tư vấn, bảo quản và quản lý tài sản của khách hàng, bảo lãnh, dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi giới và đầu tư chứng khoán… 1.2. Họat động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại . 1.2.1. Khái niệm về kinh doanh ngoại tệ . Khái niệm. Ngoại hối là phương tiện thanh toán thể hiện dưới dạng ngoại tệ hoặc các khoản phải thu, phải trả bằng ngoại tệ. Theo khái niệm này thì ngoại hối bao gồm hối phiếu, séc bằng ngoại tệ và số dư có trên tài khoản tại Ngân hàng nước ngoài. Hoạt động ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư, cho vay, bảo lãnh, mua, bán và các giao dịch khác về ngoại hối. Như vậy kinh doanh ngoại hối nằm trong các hoạt động ngoại hối. Kinh doanh ngoại hối theo nghĩa rộng bao gồm việc mua bán ngoại hối, đảm bảo ổn định số dư trên tài khoản kinh doanh ngoại hối tại nước ngoài và tìm cách thu lời thông qua chênh lệch tỉ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau. Theo nghiã hẹp người ta hiểu khái niệm kinh doanh ngoại hối chỉ đơn thuần là việc mua và bán số dư có trên tài khoản bằng ngoại tệ, hay còn gọi là kinh doanh ngoại tệ . Như vậy không phải ai cũng có thể tiến hành mua bán ngoại tệ một cách tự do được mà phải có tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng nước ngoài. Phạm vi hoạt động của kinh doanh ngoại hối là thị trường ngoại hối . Đặc điểm hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động phức tạp chứa nhiều rủi ro. Các rủi ro thường gặp là: rủi ro về giá và rủi ro về khả năng thanh toán. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường mở. Vì vậy để thực hiện nó cần có cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại. Đồng thời hoạt động này đòi hỏi nhà kinh doanh phải có đủ chuyên môn về nhiều lĩnh vực, có các kỹ năng nhất định và nhanh nhạy với thị trường. Nhà kinh doanh phải có trí tuệ cao cùng những nỗ nực thường xuyên để xác định những gì đang diễn ra trên thị trường, xác định được tỷ giá đang biến động theo hướng nào từ đó ra quýêt định hợp lí. 1.2.2. Vai trò của kinh doanh ngoại tệ . Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến việc trao đổi hàng hoá ngày càng sâu sắc, không chỉ vượt ra khỏi vùng mà còn vượt qua biên giới quốc gia. Vì vậy đã làm nảy sinh việc thanh toán giữa các cá nhân, tổ chức, chính phủ của một quốc gia này với một quốc gia khác trong các quan hệ kinh tế quốc tế như: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế mà cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hoá, thu chi từ đầu tư nước ngoài, nhận viên trợ nước ngoài, các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài… Nhằm đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các hoạt động trên, Ngân hàng thương mại đã cung cấp nhiều dịch vụ trong đó kinh doanh ngoại tệ là một trong những hoạt động đầu tiên và đang ngày càng được mở rộng và phát triển. Nó có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đối với bản thân ngân hàng. 1.2.2.1. Đối với nền kinh tế. Kinh doanh ngoại tệ giúp cho các doanh nghiệp mua bán ngoại tệ dễ dàng, nhằm bôi trơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu và các hoạt động dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ. Qua đó rút ngắn được qúa trình tích luỹ vốn làm tăng tốc độ chu chuyển vốn dẫn đến nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ổn định các hoạt động khác trong nền kinh tế do các doanh nghiệp trong nền kinh tế có quan hệ mạng lưới với nhau. Tạo cho các doanh nghiệp khả năng tránh rủi ro trong thanh toán bằng ngoại tệ. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng chính các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng để phòng chống rủi ro do tỷ giá hối đoái biến động theo hướng không có lợi từ lúc kí hợp đồng cho đến khi thanh toán. Đó là sử dụng các hợp đồng trong kinh doanh ngoại tệ như hợp đồng kì hạn, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi Swap. Kinh doanh ngoại tệ giúp cho các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ để đầu tư phục vụ mục đích của họ. 1.2.2.2. Đối với bản thân ngân hàng. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng: Đây là một loại hình dịch vụ do ngân hàng cung cấp nhằm thoả mãn nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng. Các nhu cầu của khách hàng có thể là: đổi ngoại tệ để đi du lịch, mua bán ngoại tệ sau các hợp đồng xuất nhập khẩu, mua ngoại tệ để kí quĩ trong thanh toán L/C… Như vậy nếu một ngân hàng luôn đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng, tức là có thể cung ứng đầy đủ ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu mua hợp lí và mua hết ngoại tệ nếu khách hàng có nhu cầu bán thì rõ ràng ngân hàng đó sẽ có ưu thế hơn trong việc cung cấp dịch vụ so với các ngân hàng khác trong cạnh tranh. Do đó hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại tệ ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng có thể tham gia vào thị trường ngoại hối để kinh doanh kiếm lợi nhuận cho chính mình. Lợi nhuận kiếm được có thể chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Hàng ngày con số giao dịch trên thị trường ngoại hối là rất lớn. Có thể nói đây là thị trường có qui mô lớn nhất trên toàn thế giới. Nếu hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt hiệu quả tốt, tức là trạng thái ngoại tệ dương, ngân hàng còn có thể đáp ứng nhu cầu vay ngoại tệ của khách hàng. Kinh doanh ngoại tệ luôn gắn liền với thanh toán quốc tế. Để thanh toán tiền ra nước ngoài các doanh nghiệp luôn phải có quan hệ với một ngân hàng nào đó, vì vậy ngân hàng có thể quản lí được ngoại tệ của khách hàng. 1.2.3. Một số thuật ngữ chính trong kinh doanh ngoại tệ. Tỷ giá: Hầu hết các quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình. Thương mại, đầu tư, các quan hệ tài chính quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh toán giữa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền với nhau. Hai đồng tiền được trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này gọi là tỷ giá. Như vậy tỷ giá được định nghĩa như sau: Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. Vd: 1USD=15447 VND. Phương pháp yết tỷ giá: Tỷ giá được niêm yết trên thị trường và tại các ngân hàng theo các cách: EUR/USD , USD/JPY. Trong đó đồng tiền đứng trước gọi là đồng tiền yết giá, đồng tiền đứng sau gọi là đồng tiền định giá. Có hai cách yết tỷ giá là : yết tỷ giá trực tiếp và yết tỷ giá gián tiếp. + Yết tỷ giá trực tiếp: là phương pháp yết giá ngoại tệ theo nội tệ, ở đây ngoại tệ đóng vai trò là hàng hoá- hàng hoá đặc biệt trong quan hệ với nội tệ. Thông qua yết giá trực tiếp thì giá của một đơn vị ngoại tệ được bộc lộ ra bên ngoài, đó là một đơn vị ngoại tệ đổi được bao nhiêu đơn vị nội tệ. + Yết tỷ giá gián tiếp: giá một đơn vị đồng bản tệ đổi được bao nhiêu đơn vị ngoại tệ. Giá của đồng ngoại tệ chưa bộc lộ ra ngoài mà phải làm một phép tính mới biết được. Ví dụ: 1 GBP=1.555 USD là yết giá gián tiếp tại Mỹ thì tỷ giá trực tếp sẽ là: 1 USD=1/1.555 GBP=1.553 GBP. Cả hai cách yết tỷ giá trên đều xét từ góc độ quốc gia còn trên thị trường ngoại hối quốc tế thì tất cả các đồng tiền đều được yết giá so với đồng USD trong đó USD đều đóng vai trò là đồng tiền yết giá, trừ 5 đồng tiền sau đóng vai trò là đồng tiền yết giá so với USD: EUR, GBP, SDR, AUD, IEP. Các loại tỷ giá: Tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra: tỷ giá mua vào là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền yết giá. Tỷ giá bán ra là tỷ giá tại đó ngân hàng sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá. Tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản: tỷ giá tiền mặt áp dụng cho các ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch, thẻ tín dụng. Tỷ giá chuyển khoản áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ là các khoản tiền gửi tại ngân hàng. Thông thường tỷ giá mua tiền mặt thấp hơn và tỷ giá bán tiền mặt cao hơn tỷ giá chuyển khoản. Tỷ giá chéo: Định nghĩa: tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác định thông qua đồng tiền thứ ba. Trên thực tế do vai trò của đồng USD rất lớn nên tỷ giá chéo được định nghĩa là tỷ giá giữa hai đồng tiền không có sự tham gia của đồng USD. Hay nói cách khác tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ đều được suy ra từ tỷ giá giữa chúng với USD. Ví dụ trên thị trường có hai tỷ giá : GBP/USD, USD/JPY thì tỷ giá GBP/JPY là tỷ giá chéo. Tỷ giá chéo tồn tại do có một số tỷ giá giữa hai ngoại tệ không được ngân hàng niêm yết, để tính được tỷ giá giữa chúng phải thông qua tỷ giá của chúng được niêm yết với USD. Trạng thái ngoại tệ. Trạng thái ngoại tệ của một tổ chức phản ánh hiện trạng hoạt động ngoại tệ của tổ chức đó. Khi ngân hàng hay tổ chức bán ngoại tệ ra nhiều hơn mua vào thì sẽ có trạng thái ngoại tệ âm và ngược lại nếu ngân hàng mua ngoại tệ vào nhiều hơn bán ra thì trạng thái ngoại tệ sẽ dương. Trạng thái ngoại tệ được tính từ bảng cân đối ngoại tệ bao gồm tài lản có, tài sản nợ và các khoản đã kí kết nhưng chưa thực hiện. Trạng thái ngoại tệ ròng= ( tài sản có ngoại tệ + ngoại tệ mua vào) _ ( tài sản nợ ngoại tệ + ngoại tệ bán ra). Trạng thái ngoại tệ của mỗi ngân hàng thường được xác định vào cuối mỗi ngày. Nó được tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày hôm trước và chênh lệch giữa doanh số mua vào, doanh số bán phát sinh trong ngày của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn. Nguyên tắc tính tổng trạng thái ngoại tệ: + Quy đổi trạng thái ngoại tệ của từng ngoại tệ sang đồng Việt Nam thep tỷ giá quy đổi trạng thái. + Cộng các trạng thái ngoại tệ dương với nhau để tính tổng trạng thái ngoại tệ dương, cộng các trạng thái ngoại tệ âm với nhau để tính tổng trạng thái ngoại tệ âm. Theo quy định, tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày không được vượt quá 30% vốn tự có của Tổ chức tín dụng tại thời điểm đó, tổng trạng thái ngoại tệ âm cũng không được vượt quá 30% vốn tự có của Tổ chức tín dụng tại thời điểm đó. Thông thường các hoạt động trên thị trường tiền tệ như cho vay ngoại tệ và vay ngoại tệ ảnh hưởng đến luồng luân chuyển ngoại tệ và trạng thái ngoại tệ nhưng không làm thay đổi trạng thái ngoại tệ ròng mà chỉ những giao dịch mua bán ngoại tệ mới làm thay đổi trạng thái ngoại tệ ròng. Ví dụ: Khi cho vay ngoại tệ sẽ tạo ra luồng tiền ra ngoại tệ nhưng không ảnh hưởng đến trạng thái ngoại tệ ròng vì sự tăng lên của dư nợ cho vay bên tài sản có đồng thời với việc giảm số dư tương ứng trên tài khoản NOSTRO( cũng là một tài sản có của ngân hàng). Khi vay ngoại tệ: tạo ra luồng tiền vào của ngoại tệ nhưng không ảnh hưởng đến trạng thái ngoại tệ ròng vì sự tăng lên số dư trên tài khỏan NOSTRO bằng với sự tăng lên của nguồn vốn đi vay bên phía tài sản nợ. 1.2.4. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại . Các nghiệp vụ trong kinh doanh ngoại tệ của một Ngân hàng thương mại đồng thời cũng là các loại giao dịch diễn ra trên thị trường ngoại hối. 1.2.4.1. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ giao ngay.(Spot) Giao dịch hối đoái giao ngay là thoả thuận giữa hai bên về việc mua một đồng tiền và bán một đồng tiền khác tại một tỷ giá xác định với ngày thanh toán( hay ngày giá trị) thông thường là hai ngày kể từ khi kí hợp đồng. Như vậy trong mật hợp đồng giao ngay sẽ có các chi tiết như: ngày kí hợp đồng hay ngày giao dịch, ngày giá trị của hợp đồng, tỷ giá giao dịch và khối lượng giao dịch. Giao dịch giao ngay là loại hình giao dịch phổ biến nhất trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá trong giao dịch giao ngay có thể là tỷ giá được niêm yết sẵn trên thị trường còn đối với loại ngoại tệ không được niêm yết trực tiếp thì ngân hàng phải xác định tỷ giá bằng phương pháp tính chéo. Hàng ngày các nhà kinh doanh ngoại tệ của một ngân hàng phải theo dõi số dư tài khoản kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng mình và lượng ngoại tệ mua vào bán ra để đánh giá tình trạng số dư tài khoản của từng loại ngoại tệ. Trường hợp số dư của một ngoại tệ quá cao hay quá thấp thì phải điều chỉnh ngay. Một ví dụ về nghiệp vụ giao ngay: Một khách hàng là nhà nhập khẩu muốn mua của ngân hàng A 10000 USD để thanh toán tiền hàng với một nhà xuất khẩu Mỹ đồng thời yêu cầu ngân hàng A làm ngân hàng đại lí cho mình trong điều khoản của thanh toán quốc tế. Giả sử khách hàng tại Mỹ lại có tài khoản tại ngân hàng N là một ngân hàng mà ngân hàng A có tài khoản tại đó. Ngân hàng A sẽ giao dịch với ngân hàng N bằng một giao dịch giao ngay, trong đó ngân hàng A yêu cầu mua 10000 USD của ngân hàng N với tỷ giá do ngân hàng N niêm yết , thanh toán bằng cách ghi nợ trên tài khoản của ngân hàng A tại ngân hàng N và ghi có vào tài khoản của khách hàng là nhà xuất khẩu Mỹ tại ngân hàng N. Tại Việt Nam ngân hàng A sẽ ghi nợ vào tài khoản của khách hàng là nhà nhập khẩu hoặc thu bằng tiền. Ngân hàng A sẽ vừa thu phí của hoạt động thanh toán quốc tế vừa hưởng chênh lệch nếu tỷ giá mua USD của ngân hàng N nhỏ hơn tỷ gía bán USD cho khách hàng Việt nam. Các ngân hàng tiến hành các giao dịch giao ngay theo nhu cầu của khách hàng và đầu cơ cho chính mình. Khi ngân hàng dự đoán tỷ giá sẽ tăng trong thời gian tới nó sẽ mua ngoại tệ của một ngân hàng khác bằng một hợp đồng giao ngay sau đó khi ngoại tệ lên giá đúng như dự kiến nó sẽ bán ngay số ngoại tệ đã mua trước đó cũng bằng cách trao ngay. Nếu dự đoán của ngân hàng là đúng thì ngân hàng sẽ có lãi còn nếu tỷ giá biến động theo xu hướng ngược lại thì ngân hàng sẽ bị lỗ. Việc đầu cơ này có độ rủi ro cao và tương đối mạo hiểm nhưng đôi khi ngân hàng cũng vẫn thực hiện. ý nghĩa kinh tế của nghiệp vụ giao ngay: là đảm bảo trôi chảy việc thanh toán ngoại tệ giữa các nước được ngân hàng thực hiện cho khách hàng và cho chính mình. Kinh doanh chênh lệch tỷ giá - Nghiệp vụ arbitrage ngoại tệ . Kinh doanh chênh lệch tỷ giá là việc tận dụng cơ hội giá cả không thống nhất giữa các thị trường nhằm mục đích kiếm lời mà không hề chịu rủi ro. Nó liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị trường và bán lại ở một thị trường khác : nếu hai ngân hàng cùng yết tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra nhưng tỷ giá mua vào ở ngân hàng này lại lớn hơn tỷ giá bán ra ở ngân hàng kia thì có thể tận dụng cơ hội này để kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Như vậy việc làm này có thể được hiểu là mua ngoại tệ ở nơi rẻ và bán ra ở nơi đắt. Nghiệp vụ này thể hiện dưới hai dạng là kinh doanh giản đơn và kinh doanh phức tạp. Kinh doanh giản đơn là chỉ tiến hành giao dịch trên hai thị trường còn kinh doanh phức tạp là tiến hành giao dịch trên ba thị trường trở lên tại cùng một thời điểm. Nghiệp vụ này được áp dụng chủ yếu giữa các ngân hàng với nhau tuy nhiên trong thực tế các thành viên tham gia vào thị trường ngoại đều có thể kinh doanh, kể cả những nhà kinh tế có nguồn thu ngoại tệ cao, muốn kiếm lời khi phát hiện ra thị trường này có thể yêu cầu ngân hàng nơi họ có tài khoản thực hiện nghiệp vụ acbit cho họ. Đây thường là những người rất nhanh nhạy với thị trường. Ngân hàng khi đó sẽ thực hiện nghiệp vụ acbit với tư cách là thực hiện theo yêu cầu của khách hàng và thu phí. Tuy nhiên việc mua bán ngoại tệ như vậy có xu hướng làm bình quân tỷ giá giữa các thị trường khác nhau. Xét qua ví dụ sau: Giả sử có các tỷ giá: GBP/USD: 1,9809- 39 ở NY USD/DEM: 1,6097- 17 ở Frankfurt GBP/DEM: 3,1650 – 70 ở London. Tất cả các tỷ giá được yết ở đây đều là tỷ giá giao ngay. Để khai thác cơ hội kinh doanh thu lợi nhuận acbit, nhà kinh doanh lẽ thực hiện các giao dịch sau: Từ NY nhà kinh doanh bán ra một triệu USD được: 1609700 DEM ở Frankfurt. Dùng số DEM này để mua GBP ở London: 1609700/3,1670= 508272,81 GBP. Bán GBP vừa mua được ở NY:508272,81*1,9809=1006837,61 USD. Lợi nhụân do kinh doanh chênh lệch tỷ giá : 1006837,61-1000000=6837,81. Lợi nhuận này là lợi nhuận phi rủi ro vì các giao dịch được diễn ra đồng thời nên nó không tạo ra trạng thái ngoại tệ dương hay âm. Nhưng cơ hội này chỉ có được trong thời gian rất ngắn vì các thị trường sẽ tự điều tiết làm cho tỷ giá ngoại tệ trở nên cân bằng giữa các thị trường. Như ở ví dụ trên, DEM sẽ lên giá so với USD ở Frankfurt và kẽ giảm giá so với GBP ở London và cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá sẽ chấm dứt. Như vậy các cơ hội acbit chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn, nếu không nhanh nhạy sẽ không thể nắm bắt và tận dụng được. 1.2.4.2. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn Định nghĩa: nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kì hạn là một thỏa thuận giữa hai bên về việc thực hiện một giao dịch ngoại tệ trong đó các yếu tố của giao dịch như tỷ giá, trị giá hợp đồng, ngày giá trị được xác định tại thời điểm giao dịch nhưng việc thực hiện chúng lại là một thời điểm khác trong tương lai. Tỷ gía kì hạn được xác định thông qua tỷ giá giao ngay và lãi suất của các đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá kì hạn được tính sao cho nó bù đắp được chênh lệch lãi suất có thể thực hiện giữa hai đồng tiền giao dịch. Tỷ giá kỳ hạn thường thấp hơn hoặc cao hơn tỷ giá giao ngay. Công thức: Tỷ giá kỳ hạn = tỷ giá giao ngay + ( hoặc trừ ) phần chênh lệch(PCL) Tỷ giá giao ngay´số ngày´chênh lệch lãi suất cùng kỳ hạn PCL = 360´100 Sự chênh lệch về lãi suất ngắn hạn giữa hai đồng tiền mua bán được lợi dụng như một nghiệp vụ acbit về lãi suất. Theo đó các ngân hàng dùng bản tệ để mua số ngoại tệ cần thiết theo tỷ giá thanh toán ngay để gửi các ngân hàng nước ngoài trong một thời hạn nhất định và đồng thời bán số ngoại tệ đó theo tỷ giá có kì hạn. Thời hạn này chính bằng thời hạn của khoản tiền gửi tại nước ngoài. Vào ngày đến hạn, ngân hàng sẽ rút khoản ngoại hối gửi tại nước ngoài( cộng với lãi được hưởng) và thanh toán cho người mua số ngoại hối đã thoả thuận. Tuy nhiên chức năng kinh tế chủ yếu của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kì hạn là tránh rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngoại thương. Thông qua việc thoả thuận một nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kì hạn với ngân hàng, cả người xuất khẩu lẫn người nhập khẩu đêù có thể tính toán trước được hiệu qủa kinh doanh của mình. Việc đảm bảo chống lại rủi ro về tỷ giá được thể hiện ở chỗ những khoản ngoại tệ trong tương lai mới thu về hoặc mới cần đến không phải được tính toán bằng tỷ giá giao ngay tại thời điểm đó được xác định ngay vào lúc nghiệp vụ có kì hạn được thoả thuận. Với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro, hợp đồng kì hạn được dùng để cố định một khoản thu nhập hay chi trả trong tương lai theo một tỷ giá đã biết trước bất kể sự biến động của thị trường. Có nghĩa là khi mua ngoại tệ có kì hạn, nhà nhập khẩu sẽ được bảo hiểm rủi ro trong trường hợp tỷ giá tăng, bằng cách dùng đồng bản tệ mua trước một khoản ngoại tệ trong tương lai mà chưa cần giao ngay số bản tệ. Ngựơc lại bán ngoại tệ có kì hạn cho phép các nhà xuất khẩu bán trước một khoản ngoại tệ mà họ sẽ nhận được nhằm loại trừ rủi ro xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ giảm giữa thời điểm ký hợp đồng và thời điểm thanh toán hợp đồng. Giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn còn được sử dụng nhằm mục đích đầu cơ của các ngân hàng. Hầu hết nó phát sinh khi người ta chờ đợi biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền trong thời gian sắp tới hoặc khi một loại tiền tệ bị mất giá trầm trọng do khủng hoảng chính trị. Hậu quả là có sự dịch chuyển ồ ạt từ loại tiền tệ yếu sang loại tiền tệ được xem là chắc chắn hơn và điều đó dẫn đến tỷ giá kỳ hạn của ngoại tệ yếu giảm một cách mạnh mẽ so với bình thường. Tóm lại: Việc thoả thuận một nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn được thực hiện hôm nay. Việc hoàn tất nghiệp vụ này được thực hiện sau một thời gian nhất định. Những thời hạn phổ biến là: 1, 2, 3, 6, 12 tháng. 1.2.4.3. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ hoán đổi- SWAP. Định nghĩa: nghiệp vụ SWAP là nghiệp vụ mua bán đồng thời một khoản tiền nhất định theo tỷ giá giao ngay và tỷ giá kì hạn, do đó ngày giá trị của hai giao dịch là khác nhau. Nghiệp vụ hoán đổi là một nghiệp vụ đặc biệt kết hợp giữa nghiệp vụ giao ngay và nghiệp vụ kỳ hạn. Ngân hàng đồng thời thực hiện một giao dịch theo tỷ giá giao ngay và một giao dịch theo tỷ giá kì hạn theo hướng ngược lại với cùng một bạn hàng và cùng một khoản tiền. Tỷ giá giao ngay´chênh lệch lãi suất´thời hạn/(360´100) Mức Swap = 1+lãi suất nội tệ ´ thời hạn/(360´100) Ví dụ: một ngân hàng dùng DEM mua USD của một ngân hàng khác theo tỷ giá thanh toán ngay, đồng thời bán luôn cho ngân hàng đó số USD trên theo tỷ giá có kì hạn để thu DEM. Hoặc người ta cũng có thể thực hiện theo hướng ngược lại. Nghĩa là ngân hàng bán USD cho một ngân hàng khác theo tỷ giá thanh toán ngay đồng thời mua lại của ngân hàng đó số USD theo tỷ giá có kì hạn. Nói chung nghiệp Swap được xem là việc trao đổi ngoại tệ có các kì hạn thanh toán khác nhau. Sự chênh lệch giữa tỷ giá mua bán ngay và tỷ giá mua bán có kì hạn được gọi là mức SWAP. Trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ giao ngay hay có kì hạn, ngân hàng chỉ hoạt động một chiều để phục vụ khách hàng, điều đó nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay hoặc tỷ giá kì hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng nghiệp vụ đối ứng bán hoặc mua lại. Do đó ngân hàng không tự cân bằng được trạng thái ngoại tệ của mình mà luôn đối mặt với rủi ro về trạng thái ngoại tệ. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ có thể khắc phục được rủi ro trên. Trong giao dịch Swap số tiền mua và bán luôn bằng nhau nên không làm thay đổi trạng thái ngoại tệ của ngân hàng. Đồng thời nghiệp vụ này cũng là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá của ngân hàng khi mà tỷ giá thay đổi ngựơc với dự đoán. Nghiệp vụ Swap có ưu điểm hơn nghiệp vụ giao ngay và nghiệp vụ kì hạn trong một số trường hợp sau: một doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh nghiệp này vừa nhận được một khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu và muốn đổi lượng ngoại tệ này ra nội tệ để tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh và chi trả trong nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng có nhu cầu về ngoại tệ trong thời gian tới để thanh toán lô hàng nhập khẩu. Thay vì kí kết hợp đồng để bán ngoại tệ giao ngay và mua ngoại tệ bằng hợp đồng kì hạn, doanh nghiệp này sẽ sử dụng hợp đồng Swap. Như vậy doanh nghiệp sẽ vừa tránh được rủi ro tỷ giá vừa giảm chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ dùng một hợp đồng Swap thay cho hai hợp đồng riêng biệt. Đối với Ngân hàng thương mại, Swap là công cụ hữu hiệu tạo ra trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại hối. Vì vậy giao dịch này thường được các ngân hàng thực hiện với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không phải đi vay trên thị trường. Nghiệp vụ Swap còn giúp các ngân hàng cân bằng được tình trạng mất cân đối về hối đoái trong các nghiệp vụ nhận gửi và cho vay. 1.2.4.4. Nghiệp vụ quyền chọn Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng quyền chọn là một sự thoả thuận bằng hợp đồng giữa người mua và người bán về quyền chọn mua( call- option) hoặc quyền chọn bán( put-option) một loại ngoại tệ nhất định với một khối lượng nhất định theo một tỷ giá cố định vào một thời điểm cụ thể trong tương lai. Người mua quyền có quyền chứ không phải là nghĩa vụ mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó. Do đó người mua quyền phải trả cho người bán quyền một lượng tiền nhất định, đó là giá của quyền mua hoặc quyền bán. Từ đó sinh ra một thị trường thứ hai là thị trường mua bán các quyền chọn mua và quyền chọn bán. Người mua quyền chọn cũng có thể không thực hiện quyền của mình nếu thấy bất lợi. Nếu huỷ hợp đồng người mua sẽ mất tiền đã bỏ ra để mua quyền nhưng nếu thực hiện thì họ còn bị mất một lượng lớn hơn rất nhiều tương đương với trị giá hợp đồng. Người bán quyền chọn có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nếu người mua muốn. Theo quyền chọn kiểu Mỹ thì việc thực hiện giao dịch có thể được tiến hành vào bất kì thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực hợp đồng. Còn đối với quyền chọn Châu Âu thì việc thực hiện giao dịch chỉ được tiến hành vào ngày đến hạn của hợp đồng Các loại quyền chọn mua và bán ngoại tệ. Quyền chọn mua: người mua quyền chọn mua ngoại tệ có quyền chọn mua một lượng ngoại tệ cụ thể theo tỷ giá cố định từ trước vào ngày đến hạn hợp đồng. Để giành được quyền chọn đó anh ta phải trả cho người bán một khoản tiền đảm bảo ngay khi kí hợp đồng. Quyền chọn mua thường được các nhà nhập khẩu dùng để đảm bảo sẽ mua được lượng ngoại tệ trong tương lai với tỷ giá biết trước. Vào ngày đến hạn của hợp đồng nếu tỷ giá tăng anh ta sẽ thực hiện quyền chọn mua của mình và người bán có nghĩa vụ cung cấp một lượng ngoại tệ với tỷ giá như đã thoả thuận. Còn nếu tỷ giá giảm anh ta sẽ huỷ bỏ hợp đồng và mua ngoại tệ trên thị trường, người bán quyền sẽ được hưởng khoản chi phí mua quyền. Phần lỗ của nhà nhập khẩu là giá của quyền chọn mua. Quyền chọn bán : người mua quyền chọn bán có quyền bán một lượng ngoại tệ nhất định theo một tỷ giá cố định vào ngày đến hạn hợp đồng và cũng phải trả cho người bán một khoản tiền nhất định ngay khi kí hợp đồng. Quyền chọn bán thường được các nhà xuất khẩu áp dụng. Vào thời điểm đến hạn của hợp đồng nếu tỷ giá trên thị trường thấp hơn tỷ giá trên hợp đồng thì người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện hợp đồng và người bán quyền chọn bán có nghĩa vụ phải mua số ngoại tệ tại tỷ giá như đã thoả thuận còn nếu lúc đó tỷ giá trên thị trường cao hơn tỷ giá trong hợp đồng thì người có quyền chọn sẽ huỷ bỏ hợp đồng mà bán ngoại tệ ra thị trường , bỏ qua phí quyền chọn và người bán quyền là người được hưởng số tiền đó. Như vậy hợp đồng quyền chọn là công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư. Các ngân hàng thường là bên bán quyền chọn và họ là người đưa ra các loại phí cho quyền chọn bán và quyền chọn mua vừa đảm bảo sự có lợi cho ngân hàng và tính cạnh tranh trên thị trường So với nghiệp vụ kì hạn và nghiệp vụ Swap thì nghiệp vụ quyền chọn có ưu điểm hơn ở chỗ: Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kì hạn, Swap Nghiệp vụ quyền chọn mua bán ngoại tệ Vào ngày đến hạn cả hai bên đều phải thực hiện hợp đồng. Vào ngày đến hạn người mua quyền chọn có thể thực hiện hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã kí để tận dụng những cơ hội thị trường lúc đó. Tỷ giá phụ thuộc vào sự tăng giảm lãi suất của các loại ngoại tệ tham gia. Tỷ giá được xác định trước, là sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Không phải trả phí. Luôn phải trả phí quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán cho người bán quyền chọn . Tóm lại nghiệp vụ quyền chọn về ngoại tệ không những phòng chống rủi ro do sự biến động tỷ giá mà còn tận dụng được các cơ hội của thị trường để kiếm lời do đó rất phổ biến trên thị trường ngoại hối quốc tế và được các ngân hàng sử dụng ngày càng nhiều. Tuy nhiên để sử dụng nghiệp vụ này đòi hỏi một thị trường phát triển tương đối hoàn chỉnh, các chủ thể tham gia thị trường có khả năng phân tích dự đoán sự biến động thị trường . 1.2.4.5 Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai (giao sau) Kinh doanh ngoại tệ giao sau là một thoả thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc ._.chuyển giao ngoại được thực hiện vào một ngày trong tương lai. Qua định nghĩa thì hợp đồng giao sau có điểm giống hợp đồng kì hạn đó là tỷ giá được xác định tại thời điểm giao dịch nhưng việc thực hiện hợp đồng lại là một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai ra đời sau nghiệp vụ kì hạn và có một số điểm khác biệt: Về loại ngoại tệ giao dịch: hợp đồng kì hạn áp dụng đối với tất cả các loại ngoại tệ còn hợp đồng giao sau chỉ giới hạn cho một lố loại ngoại tệ: GBP,CAD,DEM,JPY,CHF,AUD. Về thời hạn giao dịch: các bên tham gia hợp đồng kì hạn có thể lựa chọn bất kì thời hạn nào, thường là hệ số của 30 ngày nhưng trong hợp đồng giao sau chỉ có một vài ngày giá trị nhất định trong một năm: ngày thứ tư của tuần thứ ba các tháng 3,6,9,12. Về trị giá của giao dịch : trị giá giao dịch kì hạn thường rất lớn, trung bình là trên 1 triệu USD còn trị giá của giao dịch giao được qui định là bội số của một con số nào đó theo từng loại ngoại tệ cụ thể. Ví dụ qui định đối với GBP là 62500. Vì vậy trị giá của hợp đồng giao sau có thể nhỏ đủ để thu hút nhiều người tham gia. Về việc thực hiện hợp đồng: việc thực hiện hợp đồng đối với giao dịch kì hạn là bắt buộc vào thời điểm đến hạn của hợp đồng, trong khi chủ thể của hợp đồng giao sau có thể chuyển nhượng hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào trước khi đến hạn. Nói chung hợp đồng giao sau ít khi tồn tại cho đến lúc đến hạn của hợp đồng, chỉ có 2% số hợp đồng được duy trì đến thời điểm cuối. Tóm lại hợp đồng giao sau thực chất chính là hợp đồng kì hạn được tiêu chuẩn hoá về loại ngoại tệ giao dịch, khối lượng ngoại tệ giao dịch và ngày được chuyển giao ngoại tệ . Ngoài ra hợp đồng giao sau còn có một đặc điểm nổi bật đó là tính thanh khoản cao. Măc dù hợp đồng kì hạn rất linh hoạt về phương diện thời hạn và loại ngoại tệ, số tiền giao dịch nhưng chúng hạn chế về mặt thanh khoản bởi vì các bên tham gia hợp đồng không thể bán hợp đồng khi thấy có lời cũng không thể xoá bỏ hợp đồng khi thấy bất lợi. Trong khi đó hợp đồng giao sau có tính thanh khoản cao hơn vì người mua hợp đồng tương lai có thể chuyển nhượng hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Người mua hợp đồng tương lai luôn phải có một khoản kí quỹ tại sở giao dịch. Tài khoản kí quĩ được điều chỉnh hàng ngày theo mức lãi hay mức lỗ của hợp đồng. Nếu tỷ giá giao ngay của ngày hôm nay lớn hơn tỷ giá thoả thuận thì người có hợp đồng tương lai được hưởng một khoản lãi và được ghi tăng tài khoản kí quỹ còn nếu tỷ giá thấp hơn tỷ giá trong hợp đồng thì tài khoản kí quĩ sẽ ghi giảm. Nếu tài khoản kí quĩ giảm xuống dưới mức qui định thì khách hàng có hợp đồng giao sau sẽ phải nộp thêm tiền vào để tiếp tục duy trì hợp đồng. Hợp đồng giao sau kà một công cụ dùng để đầu cơ và tránh được rủi ro tín dụng nhờ biện pháp kí quĩ còn nó không thực sự có ý nghĩa trong việc phòng chống rủi ro hối đoái. 1.2.5. Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động phức tạp chứa đựng nhiều rủi ro nên cần thiết phải xác định rõ các loại rủi ro có thể xảy ra và có biện pháp quản lí rủi ro phù hợp để đảm bảo hoạt động được an toàn hiệu quả. Các rủi ro thường gặp trong kinh doanh ngoại tệ : 1.2.5.1. Rủi ro về giá. Là rủi ro xảy ra khi giá cả biến động theo chiều bất lợi đối với trạng thái ngoại tệ hoặc trạng thái luồng tiền. Rủi ro về giá bao gồm các loại rủi ro sau: Rủi ro về giá do trạng thái ngoại hối : Trạng thái ngoại hối là yếu tố chủ quan do ngân hàng quyết định duy trì trạng thái ngoại tệ của mình như thế nào. Trạng thái ngoại tệ của một ngân hàng có thể là dương hoặc âm do mua vào nhiều hay bán ra nhiều. Nếu một ngân hàng đang có một trạng thái ngoại tệ dương thì việc tăng lên của tỷ giá hối đoái sẽ có lợi cho ngân hàng vì nó có thể bán ngay ngoại tệ ra để hưởng chênh lệch còn khi tỷ giá giảm thì ngân hàng sẽ không có quyết định nào. ngược lại đối với một trạng thái ngoại hối âm thì tỷ giá tăng không có lợi cho ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro này ngân hàng phải kiểm soát trạng thái ngoại tệ bằng cách lập hạn mức cho từng loại ngoại tệ và hạn mức tổng cho tất cả các loại ngoại tệ. Rủi ro tỷ giá trong cá hợp đồng mua bán ngoại tệ. Ngân hàng mua bán ngoại tệ cho khách hàng và cho chính bản thân mình. Trong quá trình đó luôn tiềm ẩn rủi ro do tỷ giá biến động ngược chiều so với dự tính đòi hỏi ngân hàng luôn phải có những phòng ngừa trước. Các phương pháp mà ngân hàng có thể sử dụng: Sử dụng các hợp đồng kì hạn: thông qua các hợp đồng kì hạn ngân hàng có thể cố định tỷ giá mua hay tỷ giá bán từ đó cả ngân hàng và khách hàng có thể cố định khoản thu nhập hay chi trả của mình trong tương lai. Tuy nhiên sử dụng phương pháp này cũng đồng nghĩa với việc đánh mất những cơ hội kinh doanh kiếm lợi cho ngân hàng khi tỷ giá biến động theo hướng có lợi. Sử dụng hợp đồng quyền chọn: thông qua hợp đồng này một mặt khách hàng thoả mãn nhu cầu về ngoại tệ của mình mặt khác khách hàng có quyền không thực hiện hợp đồng nếu thấy hoạt động trên thị trường là có lợi hơn cho mình. Sử dụng hợp đồng hoán đổi ngoại tệ: thông qua hợp đồng này ngân hàng sẽ có một giao dịch giao ngay và đồng thời tạo một giao dịch kì hạn ngược chiều để cân bằng sự mất cân đối về ngoại tệ trong các nghiệp vụ tiền gửi và cho vay. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ: việc mua bán nhiều ngoại tệ như: USD, JPY, EUR… sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng dự trữ nhiều loại ngoại tệ, từ đó phân tán rủi ro,tránh gây tổn thất nặng nề cho ngân hàng khi tập trung quá nhiều vào một loại ngoại tệ mà tỷ giá ngoại tệ đó đột nhiên biến động mạnh. Với việc đa dạng hoá các lọai ngoại tệ trong kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng đa dạng và phát triển các thêm các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ khác nhau như qui đổi, điều chuyển vốn giữa các ngoại tệ với nhau trên các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại các ngân hàng nước ngoaì nhằm đảm bảo cho thanh toán xuất nhập khẩu, hưởng chênh lệch tỷ giá và lãi suất. 1.2.5.2. Rủi ro về khả năng thanh toán. Là rủi ro xuất hiện khi phía đối tác trong các hợp đồng mua bán ngoại tệ không có khả năng chi trả khi hợp đồng đến hạn. Đối với hợp đồng giao ngay thì rủi ro này không có ảnh hưởng vì việc hoàn tất giao dịch chỉ diễn ra sau khi kí hợp đồng hai ngày. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng khác nhau tuỳ thuộc vào việc không chi trả này diễn ra trước hoặc vào ngày giá trị của hợp đồng ngoại tệ. Nếu phát hiện ra khả năng không chi trả được của đối tác trước ngày giá trị của hợp đồng thì mức độ thiệt hại sẽ ít nghiêm trọng hơn. Trong trường hợp này ngân hàng có thể huỷ bỏ hợp đồng để tránh rủi ro mất tiền. Rủi ro trong khả năng thanh toán sẽ nghiêm trọng hơn khi phía đối tác bị phá sản vào ngày đến hạn phải trả trong hợp đồng trong khi phía ngân hàng đã hoàn tất việc thanh toán theo hợp đồng hoặc đã có kế hoạch cho số ngoại tệ sắp nhận được. Trong trường hợp này ngân hàng có thể bị mất 100% vốn. 1.2.6. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ Hoạt động của một ngân hàng ảnh hưởng rất nhiều tới toàn bộ nền kinh tế vì nó đáp ứng được nhu cầu cho nền tảng của mọi hoạt động đó là vốn. Trong đó kinh doanh ngoại tệ cũng đóng một vai trò không nhỏ vì nó gắn bó chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Nhưng cũng chính từ nhu cầu khác nhau của nền kinh tế thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới có điều kiện tồn tại và phát triển. Mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình thể hiện sức mạnh của nền kinh tế và khả năng tài chính của mỗi quốc gia đó thông qua sức mạnh đồng tiền mà quốc gia sử dụng và thế giới biết đến. Các nước lại có quan hệ kinh tế với nhau và phát triển trong sự hợp tác, hoà nhập. Kinh nghiệm cho thấy không một quốc gia nào có thể tự phát triển một cách riêng rẽ. Từ nguyên lí chung đó thương mại quốc tế dựa trên lí thuyết về lợi thế so sánh ra đời và ngày càng phát triển. Không những chỉ buôn bán hàng hoá trong và ngoài nước, các chính sách mở cửa thu hút đầu tư từ nước ngoài vào ngày càng nhiều dẫn đến đầu tư quốc tế tăng đáng kể trong một số năm gần đây. Đây là hai nhân tố chính tạo điều kiện cho kinh doanh ngoại tệ ra đời và tồn tại. Thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế là biểu hiện của một nền kinh tế mở_ bối cảnh cho kinh doanh ngoại tệ phát triển. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ chịu ảnh hưởng của các nhân tố: 1.2.6.1. Nhân tố nội tại của bản thân ngân hàng. Đây là những nhân tố thuộc về chủ quan của mỗi ngân hàng như: cơ sở vật chất, trình độ cán bộ, nhân viên ngân hàng, chiến lược kinh doanh, mục tiêu phát triển, uy tín và khả năng tài chinh của ngân hàng, mạng lưới khách hàng… Vì là những nhân tố chủ quan nên ngân hàng có thể thường xuyên kiểm soát được. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp và là một trong những nghiệp vụ của một ngân hàng hiện đại nên nó đòi hỏi một lự đầu tư lớn cả về con người lẫn công nghệ. Về mặt công nghệ, nó đòi hỏi phải có mạng cập nhật và xử lý thông tin hiện đại. Về mặt con người nó đòi hỏi phải có trình độ cao, kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn tương đối vững, có khả năng nắm bắt và phân tích thị trường linh hoạt, nhanh nhạy để có những quyết định phù hợp nhất đông thời cũng cần có những nhân viên giao dịch có khả năng thu hút khách hàng và tạo hình ảnh tốt cho ngân hàng trong nhận thức của khách hàng. Chiến lược kinh doanh của hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng phải phù hợp với mục tiêu phát triển chung của ngân hàng. Đó là tăng khả năng sinh lợi, an toàn trong kinh doanh và tăng sức mạnh trong cạnh tranh. Chiến lược này cũng nằm trong chiến lược tổng hợp cua rmột ngân hàng, do đó có mối quan hệ tác nghiệp với các chiến lược hoạt động khác như hoạt động tín dụng, thanh toán quốc tế… giúp cho các hoạt động ngân hàng phát triển đồng bộ và có hiệu quả. Mạng lưới khách hàng mà ngân hàng đang có quan hệ cũng như các quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài càng phát triển thì càng thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Rất nhiều nghiệp vụ khác của Ngân hàng thương mại liên quan đến ngoại tệ ngoài hoạt động kinh doanh ngoại tệ như: huy động vốn bằng ngoại tệ, cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế… Các nghiệp vụ này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, do đó phát triển nghiệp vụ này sẽ có điều kiện phát triển và mở rộng nghiệp vụ khác. Trong đó hoạt động thanh toán quốc tế và cho vay ngoại tệ có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ. 1.2.6.2. Chính sách quản lí ngoại hối quốc gia. Chính sách quản lí ngoại hối là những quy định pháp lí, những thể lệ của nhà nước trong vấn đề quản lí ngoại tệ, quản lí vàng bạc đá quí, các chứng từ có giá trị ngoại tệ cũng như đối với việc trao đổi sử dụng mua bán trên thị trường nội địa và quan hệ thanh toán, tín dụng với nước ngoài. Nội dung chính sách quản lí ngoại hối là quản lí và kiểm soát các luồng vận động của ngoại hối từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại. Đồng thời chính sách quản lí ngoại hối cũng quản lí và kiểm soát sự lưu thông và sử dụng ngoại hối mà chủ yếu là vàng bạc đá quí và đặc biệt là ngoại tệ trong phạm vi mỗi quốc gia. Với việc thực hiện nội dung này, chính sách ngoại hối không những góp phần phát triển ngoại thương, tạo sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế mà còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định giá trị tiền tệ quốc gia và ổn định sự phát triển của nền kinh tế quóc dân. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà quốc gia đó quản lí kinh doanh ngoại hối theo những chính sách riêng. Cho đến nay các nhà nghiên cứu và quản lí sắp xếp chính sách quản lí ngoại hối theo các loại hình sau: Chính sách nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương. Với chính sách này nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối tức là toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại do nhà nước độc quyền nắm giữ. Chính phủ áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do chính phủ quy định và tất cả các giao dịch ngoại hối phải tuân theo mức tỷ giá này. Vì vậy tỷ giá chính thức do nhà nước công bố rất xa so với tỷ giá trên thị trường do cung cầu quyết định. Các tổ chức, đơn vị khi tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do áp dụng tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp bù, ngược lại nếu lãi thì phải nộp cho ngân sách nhà nước. Cơ chế quản lí này phù hợp với nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Chính sách nhà nước quản lí có điều tiết: Nhà nước tiến hành điều tiết gắn chặt theo diễn biến thị trường. nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ nhất định để phát huy tính tích cức của thị trường, hạn chế nhược điểm của cơ chế thị trường nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. - Chính sách tự do quản lí ngoại thương, ngoại hối. Theo chính sách này ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường. Thị trường sẽ quyết định tỷ giá, cân bằng ngoại hối mà không phải bằng sự can thiệp của chính phủ. Với cơ chế quản lí ngoại hối này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại có cơ hội để phát triển, mở rộng cả về quy mô, số lượng và loại hình. Tuy nhiên sự đa dạng và bình đẳng của các Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường hối đoái đã gây sức ép, tăng sức cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Chính sách quản lí ngoại hối có tác động mạnh tới sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Việc áp dụng chế độ quản lí ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào điều kiện của từng nước. Một chính sách quản lí ngoại hối đúng đắn và phù hợp trong từng thời kì sẽ đóng vai trò là đòn bẩy khuyến khích phát triển ngoại thương, hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Ngược lại nếu chính sách quản lí ngoại hối quá cứng nhắc, không hợp lí sẽ gây nhiều trở ngại, kìm hãm hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cản trở lự phát triển của thị trường ngoại hối. 1.2.6.3. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. Trong nền kinh tế mở mỗi chính phủ phải quyết định việc lựa chọn chế độ tỷ giá là như thế nào: cố định, thả nổi hoàn toàn hay thả nổi có điều tiết. Trong mỗi quyết định về chế độ tỷ giá thì đòi hỏi phải có những chính sách kinh tế phù hợp để đạt được những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Tuy nhiên những chính sách đó cũng có tác động rất lớn đến tỷ giá. Nói cách khác giữa tỷ giá hối đoái và các biến số vĩ mô khác trong nền kinh tế có mối quan hệ tác động nhiều chiều với nhau. Tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở cung cầu về ngoại tệ. Một số yếu tố cơ bản tác động lên tỷ giá hối đoái là: lạm phát, trạng thái cán cân thanh toán quốc tế, chênh lệch lãi suất giữa các nước, cá cú sốc chính trị, khủng hoảng kinh tế, thói quên nắm giữ tiền của người dân…. Một biến động nhỏ của tỷ giá cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động của nền kinh tế như: tỷ giá tăng hay đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ sẽ làm tăng cạnh tranh trong thương mại quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển, nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến phá giá đồng nội tệ. Từ đó chính phủ lại phải có biện pháp để nâng giá nội tệ lên bằng cách mua ngoại tệ vào. Tất cả các nhân tố tác động lên tỷ giá hối đoái đều có tác động, chi phối đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại và của thị trường ngoại hối làm thêm phần sôi động của hoạt động mang tính chất quốc tế này. Do đó có thể nói biến động của tỷ giá hối đoái có tác động rất sâu sắc tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ. 1.2.6.4. Tình hình kinh tế, chính trị xã hội. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động mua bán liên quan đến các đồng tiền nên chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi nước. Thực tế cho thấy các quốc gia có nền kinh tế phát triển là quốc gia có mối quan hệ kinh tế đa dạng với các nước do đó hoạt động ngoại hối hay hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở quốc gia đó cũng rất phát triển. Sự phát triển này ban đầu nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các hoạt động trong nền kinh tế như thương mại và đầu tư nước ngoài, mặt khác đến một trình độ nào đó các ngân hàng sẽ tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế, kinh doanh cho chính mình để kiếm lời và bảo hiểm rủi ro. Còn ở các nước đang phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói chung còn đơn giản, nhu cầu giao dịch ngoại tệ không lớn, trình độ thành viên tham gia thị trường hạn chế. Một quốc gia có tình hình kinh tế, chính trị ổn định sẽ tạo môi trường tốt thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển và các hoạt động tài chính tiền tệ cũng trở nên sôi động hơn. Đồng bản tệ của quốc gia cũng có giá trị hơn và ổn định trên thị trường, giành được một tỷ giá hối đoái thuận lợi trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ với nước ngoài. Hoạt động ngoại thương phát triển dẫn đến hoạt động thanh toán quốc tế phát triển, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì buôn bán với nước ngoài là bộ phận lớn tuyệt đối trong việc cung và cầu ngoại tệ. Ngược lại một quốc gia có nền kinh tế không ổn định, tình hình chính trị phức tạp sẽ kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế và làm giảm sút hiệu quả việc buôn bán quốc tế, gây tâm lí lo ngại cho các nhà đầu tư…. Lúc đó, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường hối đoái sẽ không còn ý nghĩa sâu sắc nữa. Trước năm 1986 sở dĩ nền kinh tế nước ta nghèo nàn lác hậu là do duy trì chế độ kế hoạch hoá tập trung quá lâu, nền kinh tế hầu như khép kín với thế giới, chỉ buôn bán chủ yếu với các nước XHCN, kim ngạch xuất nhập khẩu thấp, đầu tư nước ngoài rất hạn chế, tỷ giá do nhà nước cố định…. Tất cả những nhân tố trên tác động tiêu cực đến nền kinh tế, cụ thể là kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, các yếu tố tác động đến tỷ giá, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường hối đoái là không cần thiết. Vì vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại không có môi trường, điều kiện để phát triển mở rộng cũng như nâng cao hiệu quả. Trong quá trình đổi mới hiện nay, việc phát triển theo cơ chế thị trường, đổi mới các chính sách ngoại thương, ngoại hối, thay đổi chế độ tỷ giá từ cố định sang thả nổi có điều tiết của nhà nước là xu thế tất yếu khi nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động này trong các Ngân hàng thương mại. Những nhân tố tác động tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại đều năm trong mối quan hệ tổng thể, chặt chẽ với nhau. Môi trường kinh tế chính trị xã hội phát triển ổn định là cở để thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tạo tiền đề cho thị trường ngoại hối hình thành và phát triển, giúp các Ngân hàng thương mại mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Hệ thống các chính sách về quản lí ngoại hối và điều hành tỷ giá là công cụ pháp lí điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường, từ đó lại có tác động trở lại các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Do đó ngân hàng phải biết tổng hợp phân tích những nhân tố trên để chủ động ra những quyết định có lợi cho mình. Chương II : Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 2.1. Bối cảnh chung tác động đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong nước. Vài nét về thị trường ngoại hối Việt Nam. 2.1.1.1. Sự ra đời của thị trường ngoại hối Việt Nam. Trước năm 1991, nền kinh tế Việt Nam rất chậm phát triển, vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước độc quyền ngoại thương nên mọi nguồn thu ngoại tệ đều thuộc sở hữu nhà nước và tập trung tại ngân hàng nhà nước. Với điều kiện như vậy thị trường ngoại hối theo đúng nghĩa chưa được hình thành mà chỉ tồn tại dưới dạng sơ khai. Mặc dù vậy, thời kì này thị trường ngoại hối cũng được chia thành hai loại: thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Thị trường có tổ chức được thành lập nhằm chủ yếu là mua ngoại tệ để thực hiện mục tiêu tập trung mọi nguồn ngoại tệ vào ngân hàng, phục vụ cho nhu cầu dự trữ và phát triển của nền kinh tế. Thành viên tham gia chủ yếu là các ngân hàng, xí nghiệp, công ty quốc doanh và các cá nhân có ngoại tệ. Mọi hoạt động mua bán đều phải thực hiện theo điều lệ quản lí ngoại hối ban hành kèm nghị định số 161- HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của hội đồng bộ trưởng. Thị trường tự do: trong giai đoạn này, thị trường tự do không được pháp luật thừa nhận. Tại thông tư số 33/NH-thị trường ngày 15 tháng 3 năm 1989 hướng dẫn thi hành đièu lệ quản lý ngoại hối đã nói rõ: “ việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ được thực hiện thông qua Ngân hàng và các tổ chức kinh doanh dịch vụ được phép thu đổi ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua bán trao đổi ngoại tệ trên thị trường tự do.” Mặc dù vậy thị trường tự do vẫn mặc nhiên tồn tại và phát triển, đặc biệt là các thành phố lớn như: hà nội, hải phòng, sài gòn… Năm 1991 được coi là năm đánh dấu sự ra đời của thị trường ngoại hối chính thức ở Việt Nam. Ngày 16 tháng 8 năm 1991 ngân hàng nhà nước ra quyết định số 207/NHQĐ, thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ với tư cách là một thị trường chính thức. Thị trường này tồn tại đến năm 1994 thì được thay thế bằng thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bởi quyết định số 203/ NHQĐ của thống đốc ngân hàng nhà nước. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng nhà nước tổ chức giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường có tổ chứccho giao dịch ngoại tệ giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường, tạo cơ sở hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai. Mặt khác, thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Bên cạnh hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng khác chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế, góp phần làm cho thị trường ngoại hối thêm sôi động. Đây cũng được xem như là hoạt động trên thị trường có tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Tuy nhiên, một trong những mục tiêu quan trọng của NHNN là tập trung nguồn ngoại tệ và chống thất thu ngoại tệ, nên việc bán ngoại tệ cho các cá nhân được qui định rất chặt chẽ và hạn chế. Một thực tế không thể phủ nhận đó là thị trường tự do vẫn tồn tại và hoạt động, nhằm thoả mãn nhu cầu cho các tổ chức cá nhân khi họ không có đủ điều kiện mua ngoại tệ của nhà nước. Tuy nhiên lố lượng giao dịch trên thị trường này là không đáng kể so với trên thị trường chính thức. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Khái niệm: đây là thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường, do NHNN tổ chức giám sát và điều hành. Như vậy các tổ chức cá nhân muốn mua bán ngoại tệ đều phải thông qua các tổ chức tín dụng chứ không đưọc phép giao dịch trực tiếp trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được kết nối với thị trường quốc tế, cập nhật các thông tin về tỷ giá trên thị trường ngoại hối. 2.1.1.2. Diễn biến trên thị trường ngoại tệ trong năm 2002. Thị trường ngoại tệ trong năm qua nhìn chung tương đối ổn định, đó là một trong những thành công của việc thực thi chính sách tiền tệ, trong đó hai thành công lớn nhất là kiểm soát được lạm phát và quản lí tỷ giá. Năm 2002 trước những diễn biến trên thị trường tiền tệ- lãi suất đồng Việt Nam, nhập siêu tăng cao, ước tính 2,53 tỷ USD, thì thị trường ngoại tệ lại tương đối ổn định, lãi suất USD và EURO ở mức thấp. Đô la mỹ xuống giá trên ba khía cạnh: lãi suất rất thấp, chỉ bằng 1/4 lãi suất tiền gửi VND cùng kì hạn, tốc độ tăng giá thấp trong nhiều năm qua, và tăng thấp hơn giá vàng. Trong hai tháng cuối năm nếu lãi suất tiền gửi VND kì hạn trên 1 năm tới 8,64%/ năm thì lãi suất tiền gửi USD chỉ có 2,0% đến 2,2%/ năm, cao hơn lãi suất của FED, LIBOR và SIBOR, do các Ngân hàng thương mại đang mở rộng cho vay USD các dự án lớn trong nước với lãi suất thấp, không phải gửi ra nước ngoài. Tỷ giá năm 2002 được dự đoán là tăng thấp nhất cũng phải bằng năm 2001, tức tăng 3,8%-4% lên trên 15550 VND/USD nhưng đến giữa tháng 12 năm 2002 chỉ xoay quanh mức 15100-15400 VND/USD. Tỷ giá biến động như trên là do hai nguyên nhân: Về khách quan, năm 2002 các nguồn ngoại tệ tiền mặt chuyển vào Việt Nam tăng cao. Với trên 2,5 triệu Việt kiều, 310000 người Việt Nam đi xuất khẩu lao động chuyển về nước trong cả năm ước tính đạt 2,2 tỷ USD. Gần 2,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam trong cả năm 2002 chi tiêu tại nước ta một lượng ngoại tệ rất lớn. Ngoài ra còn các nguồn ngoại tệ tiền mặt do người Việt Nam đi công tác nước ngoài theo các dự án mang về, người Việt Nam làm việc cho các dự án nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam… Do đó mặc dù năm nay nhập siêu lớn nhưng do nguồn ngoại tệ tiền mặt tăng cao, cộng với lãi suất diễn biến ngược chiều, làm hạn chế tình trạng đầu cư ngoại tệ và sự dịch chuyển tiền tệ theo hướng ngược lại trước đây: từ USD sang VND. Về chủ quan, NHNN tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công cụ điều hành tỷ giá và quản lí ngoại hối. Tỷ giá do NHNN công bố hàng ngày giữ ổn định tương đối, có điều chỉnh tăng nhẹ phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế và trên thị trường liên ngân hàng, theo hương khuyến khích xuất khẩu. Từ ngày 01 – 07 – 2002, NHNN quyết định nới rộng biên độ giao dịch trong kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Từ tháng 09 – 2002, mở rộng đối tượng được làm dịch vụ chi trả kiều hối. Từ tháng 04 – 2002, điều chỉnh giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 12% xuống còn 08% và từ tháng 12 – 2002 tiếp tục giảm xuống còn 05%. Từ tháng 10 – 2002, trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại được quyết định mở rộng , tăng gấp đôi, từ 15% lên 30%. Ngày 04 – 12 – 2002, Thống đốc NHNN quyết định tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các TCTD và Kho bạc NN từ 1,2%/năm lên 1,35%/năm, cao hơn lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ, có tác dụng tích cực về việc tăng lãi suất huy động vốn USD, thu hút ngoại tệ từ xã hội vào hệ thống ngân hàng. Nghiệp vụ Swaps hoán đổi ngoại tệ cho các Ngân hàng thương mại được sử dụng linh hoạt để đáp ứng nhu cầu VND cho nền kinh tế. Chỉ riêng đợt Tết nguyên đán Nhâm Ngọ dầu năm 2002 NHNN dã hoán đổi 160 triệu USD cho các Ngân hàng thương mại đáp ưng nhu cầu tiền mặt chi trả cho dân cư và doanh nghiệp. Với các nguyên nhân và biện pháp nói trên nên các luồng ngoại tệ thu hút vào và chu chuyển qua hệ thống ngân hàng tăng cao và ổn định. Riêng Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng thương mại dẫn đầu về hoạt động ngoại hối, tính đến hết tháng 11 – 2002, tổng nguồn vốn huy động ngoại tệ đạt 3.727 triệu USD, chiếm 69.8% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng này và vẫn tăng khá so với đầu năm. Tại Hà Nội, ước tính đến hết năm 2002, tổng nguồn tiền gửi và vốn huy động ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại quy đổi đạt 53.865 tỷ VND, tương đương khoảng 3,5 tỷ USD, chiếm 43,9% tổng nguồn vốn huy đọng các tổ chức tín dụng trên địa bàn và vãn đạt tốc độ tăng 24,3%so với năm 2001 gần tương đương với tốc độ tăng vốn huy động VND là 25,5%. Tại Tphố Hồ Chí Minh, cũng ước tính đến hết thang 12 năm 2002, tồng nguồn vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 35.869 tỷ đồng, tương đương 2,33 tỷ USD chiếm 40% tổng nguồn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn và đạt mức tăng tới 29,1% so với năm trước. Như vậy nguồn vốn ngoại tệ của dân cư, của các tổ chức và các doanh nghiệp thu hút được và đang do các Ngân hàng thương mại quản lý chỉ ở riêng 02 Tphố lớn này đã lên tới 5,83 tỷ USD và vẫn tăng ổn định. Đáng lưu ý là dư nợ cho vay ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế ở cả 02 trung tâm lớn này đến thời đỉểm tương tự chỉ có 2,51 tỷ USD. Như vậy cung ngoại tệ lớn hơn cầu, chênh lệch trên 3,32 tỷ USD được các Ngân hàng thương mại đầu tư trên thị trường tiền gửi và chuyển đầu tư cho vay ở địa phương khác. 2.1.2. Công tác quản lí ngoại hối và điều hành tỷ giá. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lí ngoại hối được đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động. Lĩnh vực này thu hút không chỉ cá tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp trong nước mà còn là sự qun tâm của các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các Chính phủ nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc đang có kế hoạch gia nhập. Nguyên nhân kà do: quản lí ngoại hối mà nội dung của nó gồm các chính sách liên quan dến ngoại tệ trong các lĩnh vực tỷ giá, vay nợ nước ngoài, kiều hối, chuyển ngoại tệ của cá nhân ra nước ngoài… Đó cũng là vấn đề liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, quyền lợi của cá nhân, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa, hội nhập, khi các mối quan hệ với nước ngoài đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội. Theo xu hướng chung của quản lí kinh tế trong cơ chế thị trường, công tác quản lí ngoại hối trong thời gian qua đã thực sự hướng vào mục tiêu: giảm sự can thiệp bằng các công cụ hành chính, tự do hoá kinh doanh theo pháp luật. Đặc biệt trong năm 2002 công tác này đã tạo các tác động thuận chiều cho việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ với những nội dung cơ bản : Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản chính sách: do nền kinh tế có nhiều biến động phức tạp, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên đã xuất hiện yêu cầu phải sửa đổi hệ thống văn bản chính sách về quản lí ngoại hối. Từ năm 1999 đến nay, hầu hết các chính sách về quản lí ngoại hối đã được đổi mới với năm nghị định của chính phủ, nhiều quyết định của thủ tướng chính phủ và văn bản hướng dẫn của NHNN và đều phù hợp với yêu cầu và sự phát triển của thị trường ngoại hối trong nước. Trong năm 2002 chính sách quản lý ngoại hối tiếp tục được đổi mới với một số nội dung chính: Giảm tỷ lệ kết hối từ 40% xuống 30%. Mở rộng biên độ tỷ giá từ 0,1% lên 0,25%. Qui định về quản lí ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán của tổ chức và cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Qui định mới về trạng thái ngoại hối. Mở rộng đối tượng làm dịch vụ chi trả kiều hối. Cho đến nay hầu hết các._.m. Về hoạt động kinh doanh như một chi nhánh, Sở giao dịch có những định hướng như sau: Công tác huy động vốn: Sở giao dịch phấn đấu tăng nguồn huy động( mỗi năm tăng khoảng 35%) để đáp ứng tất cả các nhu cầu vay vốn của khách hàng, đặc biệt tập trung vào các nguồn tiết kiệm không kì hạn, tiền gửi thanh toán vì các nguồn này có chi phí tương đối thấp nên có thể tăng lợi nhuận cho Sở giao dịch. Công tác cho vay: Mở rộng cho vay với nhiều đối tượng khách hàng hơn nữa vì trước đây khách hàng của Sở giao dịch chủ yếu là các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp quốc doanh. Sở giao dịch chưa khai thác đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà hiện nay mô hình doanh nghiệp này rất phát triển. Đồng thời Sở giao dịch có thể cho vay dự án theo hình thức cho vay hợp vốn, cho vay đồng tài trợ vì hiện nay các khu chế xuất, khu công nghiệp đang ra đời rất nhiều và đứng trước sự lựa chọn giữa hợp tác đầu tư với nước ngoài hay vay vốn của ngân hàng. Hầu hết các dự án phát triển khu công nghiệp mới này rất khả thi. Ngoài ra Sở giao dịch cũng tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng như mua bán ngoại tệ, thanh toán điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ thanh toán séc du lịch, séc lữ hành, thẻ tín dụng… Gắn mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao với tiếp tục mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, kết hợp giữ khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất đảm bảo ổn định tín dụng có mức tăng trưởng ít nhất 20%. Trong từng nghiệp vụ, Sở giao dịch đưa ra các hình thức mới, phù hợp hơn, kích thích khách hàng hơn và bao hàm cả yếu tố cạnh tranh với các ngân hàng khác. 3.1.2. Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ Về lĩnh vực ngoại tệ thì NHNo không thể so sánh với Ngân hàng Ngoại thương và cũng không có nhiều lợi thế trong cạnh tranh hơn các Ngân hàng thương mại khác như NHCTVN, NHĐT&PTVN cộng thêm một số ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài… Tuy nhiên NHNo cũng đã có những cố gắng tích cực và có những thành công nhất định trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của Sở giao dịch và đặc biệt là của phòng kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch. Trước những thách thức đặt ra, Sở giao dịch cần xác định cho mình những kế hoạch định hướng cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong thời gian tới,cụ thể là: Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, các đối tác có lợi trong kinh doanh ngoại tệ để tranh thủ vốn, kỹ thuật nghiệp vụ và kinh nghiệm quản lí, công nghệ ngân hàng. Quan tâm hơn nữa tới chiến lược Marketing ngân hàng nhằm mở rộng thị trường, thu hút khách hàng để tăng cả cung lẫn cầu, làm tăng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ với khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng. Cụ thể: đáp ứng mọi nhu cầu hợp lí của khách hàng về mua bán ngoại tệ phù hợp với qui định quản lí ngoại hối, không để tình trạng thiếu ngoại tệ làm cho khách hàng phải đi đến ngân hàng khác. Khai thác triệt để các khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là khách hàng xuất khẩu, tìm mọi cách để mua được số ngoại tệ của doanh nghiệp này. Văn bản 901A là một công cụ đắc lực. Chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải nằm trong chiến lược phát triển tổng hợp của ngân hàng. Kinh doanh ngoại tệ phối hợp và hỗ trợ cho các hoạt động như thanh toán quốc tế, cho vay ngoại tệ… Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh tiến tới xây dựng một cơ cấu ngoại tệ hợp lí, cân đối giữa vai trò của EUR và USD trong cơ cấu ngoại tệ. Đồng thời quản lý tốt trạng thái của từng loại ngoại tệ, không để trạng thái ngoại tệ dương hay âm xảy ra quá lâu dễ dẫn đến rủi ro. 3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch. Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động điển hình không thể thiếu của ngân hàng hiện đại. Đồng thời đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro và bị ảnh hưởng của nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội. Sở giao dịch cần thường xuyên đưa ra những giải pháp, chiến lược để trước hết là đối ứng với những biến động thường xuyên của thị trường, sau đó là vì lợi ích của khách hàng và lợi nhuận ngân hàng. Vì đây cũng là một loại hình kinh doanh hơn nữa lại là kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt, đó là ngoại tệ, do đó để thành công trong kinh doanh cần có chiến lược Marketing phù hợp. Nội dung của nó bao gồm: chiến lược về khách hàng, chiến lược về thị trường. Thành công đối với một ngân hàng là cân bằng cả ba lợi ích: lợi ích khách hàng, lợi ích của cán bộ nhân viên ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng. Giải pháp khách hàng. Vận dụng nguên lí của Marketing nên đầu tiên phải phân loại khách hàng. Khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với Sở giao dịch được phân chia theo các đối tượng sau: Thứ nhất: Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Loại khách hàng này mở tài khoản tiền gửi, tiền vay vừa bằng nội tệ vừa bằng ngoại tệ tại ngân hàng với mục đích chính là phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình một cách thuận lợi. ở các nước trên thế giới loại tiền gửi này ngân hàng không trả lãi, nhưng dành cho khách hàng những tiện nghi trong thanh toán, giao dịch. Trong huy động nguồn vốn, nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì nguồn vốn này ngân hàng không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp, rất có lợi cho ngân hàng khi dùng nguồn vốn này để cho vay. Mặt khác ngân hàng còn tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong khâu thanh toán, do khâu dịch vụ của ngân hàng tạo nên. Một NHTM nếu chỉ có khách hàng nhập khẩu sẽ luôn thiếu ngoại tệ vì chỉ có bán ngoại tệ, hoặc cho vay ngoại tệ cho đơn vị nhập khẩu. Ngược lại, một ngân hàng nếu chỉ có khách hàng xuất khẩu sẽ thừa ngoại tệ. Để cân bằng được trạng thái đó, Sở giao dịch phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu và khách hàng nhập khẩu như: - Tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu sử dụng vốn trên tài khoản một cách linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời để thanh toán, chi trả tiền vật tư hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh. - Ngân hàng dành cho các doanh nghiệp những điều kiện phục vụ thuận lợi như mở thư tín dụng với các điều kiện ký quỹ thấp nhất, sẵn sàng xác nhận thư tín dụng nếu doanh nghiệp yêu cầu, có chính sách ưu đãi về phí trong giao dịch quốc tế cho doanh nghiệp. - Tư vấn cho khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng để rủi ro có thể thấp nhất trong buôn bán thương mại và thanh toán quốc tế… Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Thông qua các nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân hàng có thể điều tra cho khách hàng tình trạng tài chính, uy tín của đối tác kinh doanh, cũng như chọn ngân hàng để đề nghị đối tác chuyển tiền cũng như thông báo các thư tín dụng để từ đó có thể hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh đối với khách hàng Việt Nam của mình. Cần học hỏi kinh nghiệm của Citibank: ngân hàng này cung cấp cho khách hàng không chỉ đầu vào mà còn cả đầu ra, tìm thị trường xuất khẩu cho khách hàng. Nhờ vậy Citibank đã khống chế được đường đi của đồng vốn vay bằng cách : cho vay ngoại tệ và thực hiện thanh toán giữa các doanh nghiệp. Thứ hai: Khách hàng là tầng lớp dân cư. Phương thức thanh toán trong tầng lớp dân cư chủ yếu là thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp. Tâm lí ưa thích tiền mặt đã có từ lâu do nền kinh tế chậm phát triển. Tiềm năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Mỗi gia đình, cá nhân có một khoản dự trữ tiền mặt để phục vụ nhu cầu giao dịch hằng ngày nhưng chưa gửi vào ngân hàng làm phân tán nguồn vốn nội lực của đất nước. Nhưng điều này sẽ trở nên nguy hiểm hơn nếu người dân lại thích giữ và chi trả bằng ngoại tệ, nguyên nhân của hiện tượng đô la hoá. Vì vậy cần có biện pháp thu hút người dân mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng, kể cả tài khoản ngoại tệ và nội tệ. Như vậy vừa tăng nguồn vốn có chi phí thấp cho ngân hàng, vừa phát triển được hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội. Ngoài ra ngân hàng có thể thay chính phủ kiểm soát được lượng ngoại tệ lưu trữ trong công chúng, tránh đến mức tối đa hiện tượng găm giữ ngoại tệ. Nhờ có tài khoản ngoại tệ tạ ngân hàng, ai cũng có thể tham gia vào thị trường ngoại tệ, điều này góp phần làm cho thị trường ngoại tệ sôi động hơn, cung cầu ngoại tệ có điều kiện gặp nhau nhiều hơn, mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Thứ ba: Khách hàng là người nước ngoài đang sống ở Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài.. Do tâm lý của người nước ngoài và Việt kiều ở nước ngoài chưa tin tưởng và quen thuộc hoạt động của NHTM trong nước, do vậy họ rất chần chừ trong việc gửi ngoại tệ hay bán ngoại tệ vào ngân hàng, Sở giao dịch cần có những chính sách để thu hút nguồn ngoại tệ này một cách có hiệu quả: - Tăng cường quảng cáo, hướng dẫn khách hàng có nhu cầu nhận tiền lựa chọn những hình thức chuyển tiền phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài, cung cấp các ngân hàng đại lý của Sở giao dịch NHNo ở mỗi nước cho từng khách hàng có nhu cầu. Thông qua các đại lý hoặc quan hệ đại lý ở nước ngoài để tuyên truyền, tiếp thị về khả năng, uy tín, công nghệ của ngân hàng mình và các đại lý đó sẽ là đầu mối huy động kiều hối và gửi về nước. - Trong hoạt động dịch vụ kiều hối phải tổ chức trao trả nhanh chóng, thuận tiện, dịch vụ phí chuyển tiền hợp lý và áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để họ có thể bán cho ngân hàng, hạn chế việc người dân khi nhận được kiều hối qua ngân hàng sau đó lại rút ra và bán cho thị trường tự do. Sở giao dịch có thể ấn định tỷ giá mua kiều hối và ngoại tệ của du khách cao hơn tỷ giá mua chính thức mà ngân hàng công bố, còn cao hơn bao nhiêu tuỳ theo tình hình diễn biến của tỷ giá tại thời điểm mua của ngân hàng. - Xây dựng một hệ thống thu đổi ngoại tệ rộng khắp và hoạt động hữu hiệu để mọi cá nhân người Việt Nam cũng như người nước ngoài có ngoại tệ trong tay dễ dàng chuyển đổi nhanh chóng thành đồng Việt Nam để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Sở giao dịch nói riêng cũng như NHNN phải tăng cường khâu kiểm tra đối với các đại lý thu đổi ngoại tệ, để tránh tình trạng tư nhân lợi dụng núp dưới ngân hàng để thu ngoại tệ một cách hợp pháp. Sở giao dịch có thể mở thêm các bàn thu đổi ngoại tệ tại những nơi thường xuyên có khách nước ngoài ra vào Việt Nam như : tại các sân bay quốc tế( Nội Bài, Tân Sơn Nhất), tại biên giới, cửa khẩu… Khách hàng sẽ thấy việc cung cấp dịch vụ của ngân hàng rất tốt vì bất cứ ở đâu cũng thâý sự phục vụ của ngân hàng. Thứ tư : Khách hàng là các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Sở giao dịch ngày càng mở rộng quan hệ của mình với các ngân hàng thế giới nhằm thu hút vốn và công nghệ ngân hàng hiện đại của họ bằng cách thiết lập mối quan hệ đại lý. Trên quan hệ đại lý các ngân hàng có thể mở tài khoản để thực hiện các giao dịch thanh toán, hoặc để tài trợ vốn cho huy động XNK, cho vay thương mại lẫn nhau. Có như vậy, Sở giao dịch mới tìm được một lượng ngoại tệ rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài. Để làm được điều đó SGD NHNo phải không ngừng: - Nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế. - Hiện đại hoá, nâng cao hơn nữa hệ thống thanh toán quốc tế để đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an toàn và rẻ. Xét về phục vụ khách hàng, thông qua việc mua bán ngoại tệ, huy động và cho vay ngoại tệ, Sở giao dịch đã giúp các đơn vị kinh tế tiêu thụ được số ngoại tệ thu về do xuất khẩu hàng hoá, cũng như có ngoại tệ để thanh toán hàng hoá nhập khẩu. Giải pháp về thị trường. Sở giao dịch trong mối quan hệ với khách hàng phải tìm nhiều nguồn ngoại tệ khác nhau. Vì vậy, bên cạnh Sở giao dịch phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu và khách hàng nhập khẩu, Sở giao dịch cần phải tham gia vào các thị trường hối đoái cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt khi các đồng tiền có xu hướng biến động, tham gia thị trường hối đoái để có thể bảo tồn được nguồn vốn ngoại tệ cho bản thân ngân hàng và cho nguồn ngoại tệ của quốc gia. Để chuẩn bị cho việc tham gia thị trường hối đoái với mức độ cao hơn, Sở giao dịch NHNo cần phải nắm một số yêu cầu sau đây: - Về điều kiện kỹ thuật: Điều kiện kỹ thuật quan trọng đầu tiên là hệ thống liên ngân hàng, khả năng thanh toán bù trừ và khả năng điều hoà ngoại tệ trong SGD NHNo. Hệ thống giao dịch: trang bị mạng vi tính, hệ thống Telex, Fax và hệ thống thông tin Reuters, DowJones. - Về điều kiện pháp lý: Xây dựng nội quy giao dịch ngày càng tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế. - Điều kiện con người: Điều kiện con người có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tham gia thị trường hối đoái trong nước và quốc tế. Chỉ có thể đào tạo đội ngũ kinh doanh hối đoái tinh thông nghiệp vụ và có khả năng nắm bắt được các diễn biến thị trường thì mới có thể tham gia vào các hoạt động thị trường đồng thời có thể làm chủ được các giao dịch hối đoái như giao dịch SWAP, OPTION… Ngoài đội ngũ các cán bộ phân tích, cán bộ ngân quỹ, cần chú trọng các cán bộ kiểm soát. Giải pháp về nghiệp vụ. 3.2.3.1. Đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ. Tại Sở giao dịch, trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới chỉ thực hiện nghiệp vụ mua bán ngay, mua bán có kì hạn và nghiệp vụ SWAP( nhưng số lượng rất ít). Ngoài ra, các nghiệp vụ khác như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai chưa được thực hiện. Điều này không phải do Sở giao dịch mà do quy định của NHNN. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn mang tính sơ khai, đơn giản, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ. Việc đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp cho Sở giao dịch mở rộng qui mô kinh doanh, phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường, tạo sự tăng trưởng về lượng và chất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đồng thời hỗ trợ các hoạt động khác, góp phần vào sự phát triển tổng thể các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đưa vào thực hiện các nghiệp vụ mới này không phải là đơn giản, nhanh chóng. Nó không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về nghiệp vụ, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm, hiện đại hoá trang thiết bị… từ phía ngân hàng mà còn cần có sự ủng hộ tham gia từ phía khách hàng. Vì vậy bên cạnh trang bị kiến thức nghiệp vụ và đào tạo kĩ năng cho cán bộ kinh doanh ngoại tệ, Sở giao dịch cần giới thiệu giúp khách hàng hiểu rõ về nghiệp vụ đó để họ sử dụng chúng làm công cụ phòng ngừa rủi ro và tính toán hiệu quả trong kinh doanh. Trước mắt, khi các nghiệp vụ này chưa được áp dụng, Sở giao dịch cần tiếp tục nâng cao các nghiệp vụ đang thực hiện. Đối với nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay: - Mở rộng qui mô thực hiện nghiệp vụ bằng các chính sách thu hút khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với mình đồng thời tăng cường mở rộng quan hệ với các Ngân hàng thương mại khác cả trong và ngoài nước. - Hạ thấp phí giao dịch trong điều kiện cho phép. - Thanh toán đúng, đủ, đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ và giữ uy tín với khách hàng. Đối với nghiệp vụ kì hạn và nghiệp vụ Swap: Có sự phối hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và các nghiệp vụ khác, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ, huy động ngoại tệ, thanh toán quốc tế. Khi mở rộng cho vay bằng ngoại tệ, tăng khối lượng thanh toán quốc tế thì đồng nghĩa với việc phải tính toán cụ thể thời hạn, số lượng ngoại tệ sẽ phải mua, phải bán cho các nhu cầu tương lai. Đồng thời ngân hàng cũng phải giúp cho khách hàng hiểu rõ về nghiệp vụ và lợi ích của chúng đối với khách hàng. 3.2.3.2. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh. Hiện nay đồng USD vẫn là đồng tiền được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế. Trong các Ngân hàng thương mại, từ huy động vốn đến cho vay, dự trữ, kinh doanh ngoại tệ đến các dịch vụ thanh toán quốc tế cũng sử dụng USD là chủ yếu. Mặc dù gần đây Sở giao dịch cũng tiến hành mua bán các đồng tiền khác như EUR và JPY nhưng tỷ trọng của các giao dịch này vẫn không thể so sánh với USD. Tâm lí ưa chuộng USD đã từng gây khó khăn cho Sở giao dịch mỗi khi có sự biến động tỷ giá USD/VND. Để phân tán rủi ro trong kinh doanh thì cần phải đa dạng hoá các loại ngoại tệ sử dụng. Do đó Sở giao dịch phải lập kế hoạch cụ thể về một cơ cấu ngoại tệ hợp lí theo hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào USD, nên có chiến lược nhằm tăng tỷ trọng dự trữ ngoại tệ bằng EUR trong tổng dự trữ ngoại tệ vì đây cũng là một ngoại tệ mạnh đang cạnh tranh với USD. Tuy nhiên cơ cấu đó cũng phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 3.3. Một số kiến nghị với NHNN và NHNo . Kiến nghị với NHNN. Vì NHNN là người đưa ra nhứng chính sách, quy định về quản lí ngoại hối và điều hành tỷ giá, những nhân tố tác động chung đến kinh doanh ngoại tệ nên Sở giao dịch có thể kiên nghị với NHNN về những chính sách quy định có thể thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch cũng như tại các Ngân hàng thương mại khác và để phát triển hoàn thiện thị trường ngoại hối trong tương lai. Cụ thể những kiến nghị đó là: Về công tác quản lí ngoại hối của NHNN: Sau một thời gian thực hiện việc kết hối ngoại tệ theo quyết định 173/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ra ngày 12/09/1998 và thông tư số 08/1998/TT-NHNN7 ngày 30/09/1998 của NHNN hướng dẫn thi hành quyết định 173/QĐ-TTg, mặc dù ngân hàng đã kết hối được một lượng ngoại tệ không nhỏ, tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán đối ngoại của ngân hàng, song theo theo quy định phải bán ngay 50% số ngoại tệ thu được từ nguồn thu vãng lai cho ngân hàng trong thời gian 15 ngày kể từ ngày ngoại tệ được ghi có vào tài khoản tiền gửi đã được các tổ chức kinh tế lợi dụng để di chuyển ngoại tệ từ tài khoản ở ngân hàng này sang tài khoản ở ngân hàng khác, gây khó khăn cho việc kết hối của ngân hàng. Nhưng về phía ngân hàng, khi các doanh nghiệp cần ngoại tệ lại không đáp ứng được đầy đủ và đúng hạn và do đó đây là trở ngại đối với cả doanh nghiệp và cả đối với ngân hàng, bởi vậy để đảm bảo cho ngân hàng thực hiện kết hối ngoại tệ, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng linh hoạt, có hiệu quả và thực hiện nghiêm túc chế độ quản lý ngoại hối, chính sách kết hối nguồn vốn ngoại tệ thu từ xuất khẩu, NHNN nên quy định đối một số doanh nghiệp có hoạt động XNK thường xuyên và doanh số hoạt động lớn thì các ngân hàng không thực hiện kết hối nguồn ngoại tệ này mà để doanh nghiệp sử dụng nhưng có sự kiểm soát của ngân hàng, đối với số khác thì ngân hàng có thể kết hối ngay toàn bộ số ngoại tệ thu được để tránh tình trạng các doanh nghiệp này khi chưa sử dụng có thể chuyển số ngoại tệ này từ tài khoản ở ngân hàng này sang tài khoản ở ngân hàng khác. NHNN nên giảm dần tỷ lệ kết hối xuống bằng 0%. Tăng cường quản lí ngoại hối khu vực biên giới với trung quốc, Lào, Campuchia. Vì trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới đường bộ diễn ra sôi động và rất phức tạp, đã phát sinh nhiều tiêu cực liên quan đến chuyển tiền, thanh toán qua biên giới. Về chính sách tỷ giá hối đoái. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước. Nên giảm giá, giữ giá hay tăng hơn nữa đồng tiền Việt Nam- ý kiến của các nhà kinh tế rất trái ngược nhau: NHNN và các nhà kinh doanh nhập khẩu thì vẫn muốn giữ ổn định tỷ giá như hiện nay, các nhà chuyên doanh xuất khẩu thì muốn phá giá đồng bản tệ với lý do để đẩy mạnh xuất khẩu phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước. Các quan điểm trên cũng dễ hiểu, vì chúng xuất phát từ lợi ích của từng nhóm tác nhân kinh tế. Quan điểm ở đây là tiếp tục củng cố vị thế của đồng Việt Nam thông qua sự can thiệp linh hoạt cuả NHNN, không để cho đồng Việt Nam bị mất giá quá lớn (như trường hợp Thái Lan tuy có kích thích xuất khẩu, có thể tạo thêm chỗ làm việc trong nước nhưng tiềm tàng nguy cơ bùng nổ lạm phát cao). ý kiến này xuất phát từ 3 căn cứ sau: - Mặc dù đồng nội tệ mạnh lên, về nguyên lý có lợi cho nhập khẩu có hại cho xuất khẩu, nhưng xét về toàn cục cái lợi vẫn nhiều hơn. Điều này là bởi có đến 80% hàm lượng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, phụ tùng trong sản phẩm xuất khẩu còn phải nhập khẩu để sản xuất cho xuất khẩu, trong khi hạng mục xuất khẩu "thuần tuý" (chủ yếu sản phẩm chế biến đơn giản) chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu chung. Do vậy, việc đồng Việt Nam lên giá vẫn đang còn có lợi cho xuất khẩu. - Xét về sức mua ngang giá, mặc dù chưa có những nghiên cứu chính thức, nhưng ý kiến chung được đồng tình là đồng USD tiêu ở Việt Nam có sức mua gấp khoảng 4-5 lần so với các nền kinh tế phát triển. Như vậy, để đồng tiền nội địa tiếp tục mạnh dần lên có tác dụng giảm bớt khoảng cách trên, có lợi cho thu nhập của nhiều vùng kinh tế. - Có một đồng tiền mạnh là một trong những điều kiện kiên quyết để làm cho nó trở thành đồng tiền có thể chuyển đổi được. Đây cũng là mục tiêu chính sách tiền tệ của nước ta. Việc làm mạnh đồng nhân dân tệ ở Trung Quốc gần đây có thể là một bước đi của họ theo hướng này. Mặt khác, cũng không nên để đồng tiền Việt Nam lên giá quá cao tuy lạm phát có thể xuống nhưng cán cân thương mại sẽ xấu đi, xuất khẩu giảm sút, nhập khẩu tăng lên, thúc đẩy chi phí sản xuất trong nước, hậu quả là thu hẹp công ăn việc làm và chứa đựng nguy cơ suy thoái kinh tế. Qua đó ta thấy rằng tỷ giá hối đoái vừa là mục tiêu, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô trong cùng một thời gian ở mức lý tưởng như: Tỷ giá hối đoái nói riêng và chính sách ngoại hối nói chung đều nằm trong khuôn khổ chính sách tiền tệ quốc gia, nó là một trong những công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng trong cạnh tranh thương mại, ảnh hưởng trực tiếp đến các cân thanh toán quốc tế, tới giá cả và các hoạt động kinh tế đối nội cũng như đối ngoại. Mặt khác, việc điều chỉnh tỷ giá linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường và áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước. Từ sự nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn Việt Nam trong thời gian qua, cũng như xu hướng chung của các nước trên thế giới trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước là thích hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Những nguyên lý cần tuân theo khi áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết. - Việc xác định tỷ giá và đều chỉnh tỷ giá phải dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái, cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường vốn và sự tác động qua lại giữa thị trường vốn và thị trường hối đoái. - Xác định một số ngoại tệ "rỏ ngoại tệ" chủ yếu, để xác định tỷ giá, có thể là USD, GBP, JPY, FRF. - Đối với nước ta việc xác định tỷ giá trong từng thời kỳ phải đảm bảo đồng thời được việc khuyến khích xuất khẩu, giữ được sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu buộc các nhà sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, tăng tính cạnh tranh trong kinh doanh, thực hiện chiến lược thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế. Bảo vệ hàng nội địa trước sự cạnh tranh của hàng ngoại, thu hút được vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. - Chính sách tỷ giá nằm trong khuôn khổ chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, do đó nhằm đảm bảo tính đồng bộ của chính sách tỷ giá trước tiên là với chính sách tiền tệ, tiếp theo là với các chính sách kinh tế khác. - Việc điều chỉnh tỷ giá không được phép gây ra những cơn sốc, phá vỡ lòng tin đối với chính sách đổi mới kinh tế nói chung và đối với chính sách tiền tệ nói riêng . - Cơ chế vận hành chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết + Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối + Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất. Điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa sát với tỷ giá thực tế thông qua công thức: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa X Giá hàng nội Tỷ giá hối đoái thực tế = Giá hàng ngoại Việc điều chỉnh thực chất là xét tới yếu tố lạm phát của đồng bản tệ được dùng so sánh. Cơ chế này nhằm giảm bớt gánh nặng lạm phát cho các nhà sản xuất xuất khẩu, tăng tính cạnh tranh với hàng ngoại, kích thích xuất khẩu. + Điêù chỉnh lãi suất tiền gửi bằng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế. + Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tới mức tự cân bằng hợp lý. Về việc phát triển thị trường ngoại tệ. Phát triển thị trường ngoại tệ trong nước có ý nghĩa quan trọng trong hỗ trợ chính sách tỷ giá, thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại. NHNN trong thời gian tới nên cho các Ngân hàng thương mại được áp dụng các công cụ mới trên thị trường như : hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hoàn thiện các công cụ đã có gồm hợp đồng kì hạn, Swap và giao ngay cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Một đề xuất với NHNN là yêu cầu một tỷ lệ kí quĩ trong các hợp đồng kì hạn để phòng ngừa rủi ro. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được khi bản thân nền kinh tế có những quan hệ kinh tế đối ngoại có liên quan đến nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ. Do đó ngoài những đề xuất trực tiếp về quản lí ngoại hối, điều hành tỷ giá, phát triển các nghiệp vụ trên thị trường ngoại tệ còn phải đề nghị NHNN có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu, thu hút đầu tư… Kiến nghị với NHNo. - Cải tiến quy trình mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch cũng như của chi nhánh với khách hàng. - Chỉ đạo các chi nhánh chỉ tiến hành mua bán qua Sở giao dịch và báo cáo kịp thời để Sở giao dịch có thể theo dõi, xử lí trạng thái ngoại tệ. - Hiện đại hoá ngân hàng bằng cách áp dụng các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh và đảm bảo hoà nhập quốc tế. Muốn vậy trước hết phải tăng cường trang thiết bị cho phòng kinh doanh ngoại tệ, đảm bảo mỗi người có một máy tính có nối mạng. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản chính phủ, của ngành về quản lí ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ. Bổ xung thêm lao động đảm bảo đủ biên chế để hoàn thành công việc, hạn chế tình trạng làm việc quá tải và phải làm thêm giờ. Hỗ trợ công tác đào tạo và đào tạo lại kể cả trong nước và ngoài nước vì đây là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Tổ chức hội nghị tổng kết hàng năm về hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhằm tạo điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa Sở giao dịch và các chi nhánh. Đồng thời tăng cường tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế cho cán bộ lãnh đạo và nhân viên của Sở giao dịch để nâng cao nghiệp vụ. Kết luận. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, việc phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại là tất yếu. Hoạt động này vừa đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường mở, tức là phục vụ cho hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, thu ngoại tệ về cho đất nước, nó còn mang lại cho Ngân hàng thương mại lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Đồng thời cũng giúp cho Ngân hàng thương mại nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế( tất nhiên điều này là rất khó) và từng bước tiến tới xây dựng một mô hình ngân hàng hiện đại, trong đó kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động không thể thiếu. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp chứa nhiều rủi ro nên buộc các nhà hoạch định phải nghiên cứu thận trọng, các nhà thực hiện hay chính là các Ngân hàng thương mại phải có sự đầu tư cao không những về công nghệ ngân hàng với trang thiết bị hiện đại mà còn đòi hỏi trình độ đội ngũ kinh doanh phải có năng lực, hiểu biết sâu về ngoại hối, kinh doanh ngoại tệ, tương đối nhạy cảm với những biến đổi của thị trường. Vì vậy những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của hoạt động này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thành với nội dung cơ bản như sau: Chương 1 : Trình bày những lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng thương mại, cũng như điều kiện để có hoạt động này và các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Chương 2 : Trên cơ sở lí luận ở chương I, phân tích những nhân tố tác động trong thực tế tại Việt Nam đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại nói chung và phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo. Qua đó đánh giá những mặt làm được và khả năng cạnh tranh vủa Sở giao dịch, những hạn chế tồn tại làm giảm năng lực cạnh tranh của Sở giao dịch, đồng thời tìm ra nguyên nhân của hạn chế đó. Chương 3 : Nêu ra định hướng phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch trong thời gian tới và những giải pháp để thực hiện các định hướng đó trên có sở lí thuyết nghiên cứu ở chương 1 và thực trạng phân tích ở chương 2. Đồng thời cũng nêu lên một số kiến nghị cần thiết đối với NHNN và NHNo Việt Nam. Mục đích của đề tài là nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo song do tính phức tạp và mới mẻ của vấn đề, cộng với sự hiểu biết còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tế, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Phụ lục : Báo cáo kinh doanh ngoại tệ và trạng thái ngoại tệ hàng ngày Ngày tháng năm 1. Mua bán ngoại tệ với khách hàng bằng Việt Nam đồng: Giao dịch Ngoại tệ Mua Bán Tỷ giá chuyển khoản Mua cao nhất Bán thấp nhất Giao ngay USD EUR JPY Kỳ hạn USD Dưới 31 ngày 31-120 121-180 Eur Dưới 31 ngày 31-120 121-180 JPY Dưới 31 ngày 31-120 121-180 2.Trạng thái ngoại tệ cuối ngày: Ngoại tệ Trạng thái ngoại tệ Mua Bán Tỷ giá quy đổi trạng thái Trạng thái ngoại tệ cuối ngày USD EUR JPY Ngoại tệ khác Tổng trạng thái ngoại tệ dương (%): Tổng trạng thái ngoại tệ âm (%): Tài liệu tham khảo 1. TS Nguyễn Văn Tiến Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê 2. Lê Văn Tư- Lê Tùng Vân Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh án quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, NXB Thống kê MBA Nguyễn Ninh Kiều Thị trường ngoại hối và thanh toán quốc tế, NXB thống kê PGS- TS Lê Văn Tề Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NXB Thống kê 5. PGS Đinh Xuân Trình Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục 6. Tạp chí ngân hàng 7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 8. Tạp chí kinh tế châu á thái bình dương 9. Tạp chí tài chính- tiền tệ mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0346.doc
Tài liệu liên quan