Mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân của Vietcombank Ba Đình

Lời mở đầu Trong hầu hết sự phát triển về kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay và trong tương lai đều có sự tham gia của các khu vực kinh tế thuộc Nhà nước, Tư nhân, và nước ngoài. và mỗi khu vực này này đều có những đóng góp nhất định đối với mỗi nền kinh tế cụ thể, tuy nhiên theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới thì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực có đóng góp quan trong trong thúc đẩy qua trình phát triển của họ, mà khu vực kinh tế tư nhân thường là những do

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân của Vietcombank Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả Mỹ một nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới, có các công ty xuyên quốc gia khổng lồ, thì việc đóng góp cho nền kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực tư nhân. Đối với việt nam thì khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp to lớn những cho kinh tế nước nhà. Nhưng khu vực kinh tế này vẫn có những khó khăn trong đó khó khăn về vốn là vấn đề nan giải hiện nay. Hiện nay tôi đang thực tập tại VIETCOMBANK _Ba Đình, nên tôi chọn đề tài: "Mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân của ngân hàng ngoại thương nội chi nhánh _ Ba Đình", với dung gồm: Chương I : Tổng quan về tín dụng và khu vực kinh tế tư nhân. Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNT- CN Ba Đình đối với khu vực kinh tế tư nhân. Chương III : Một số ý kiến để mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân. Chương I Tổng quan về tín dụng và khu vực kinh tế tư nhân I.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm về tín dụng Tín dụng là danh từ để chỉ một số hành vi như bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu thương phiếu, kí thác, phát hành giấy bạ. Ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nghĩ ngay tới ngân hàng, tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay.Tuy nhiên khi nói tới ngân hàng người ta chỉ nghĩ là ngân hàng cho vay. Theo luật các tổ choc tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam điều 49 thì : tín dụng được thể hiện dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước. 1.1.2.Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng. xét về tính chất phát lý thì tín dụng được chia làm 3 loại như: cho vay tiền, cho vay, cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền và tín dụng qua chữa kí. Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết hoàn trả một khoản tiền và người đi vay cam kết trả một khoản tiền lớn hơn khoản ban đầu. Khoản chênh lệch này gọi là lãi. lãi phụ thuộc vào thời gian và số lượng khoản vay. Cho vay dựa trên phương án sản xuất kinh doanh của người đi vay và khoản vay còn được bảo dảm bằng tài sản của người đi vay. Đây là loại hình tín dụng gặp rủi ro cao. Do khách hàng có thể sử dụng tiền đúng mục đích như khế ước vay. Ngân hàng có thể chuyển một lần hay nhiều lần. Loại cho vay này dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau: + Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi: đây là nguyên tắc quan trọng nhất vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động. Ngân hàng phải tri trả khi khách hàng đến rút tiền. Nếu khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn điều này có thể làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản. để tránh điều nay ngân hàng phải quy định kỳ hạn nợ, khi đến hạn thì khác hàng phải trả nếu không thì ngân hàng có thể tự động trích số dư tài khoản tiền gửi của người đi vay hay phát mại tài sản đảm bảo. + Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: vì khi cho khách hàng vay thì ngân hàng còn phải thẩm định phương án sản xuất từ đó mới có phương án giải ngân. Nếu trong quá trình nếu phát hiện có vấn đề trong việc sử dụng tiền thì ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước thời hạn trong hợp đồng tín dụng, nếu thu không đủ khoản tiền đã cấp thì khoản tiền còn lại chưa thu được sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. nguyên tắc này rất quan trọng, khi ngân hàng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu của nền kinh tế trong những giai đoạn cụ thể. Còn khi cung ứng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh thì phải đáp ứng các mụch đích trong sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vị hoàn thành các mục tiêu của mình. + Vốn vay phải có tài sản đảm bảo: trong nền kinh tế thị trường các hoạt động nói chung và các hoạt động kinh tế nói riêng diễn ra vô cùng đa dạng và phức tạp, không có nhà quản trị ngân hàng nào có thể đự đoán chính xác những diễn biến có thễ xảy ra trên thị trường, do đó rủi ro là không thể tránh khỏi, để giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng càng tao ra được nhiều khoản thu càng tốt cho các khoản cho vay của mình và đảm bảo chình là nguồn thu thứ hai sau nguồn thu thứ nhất như: vốn lưu động, khấu hao, lợi nhuận, thu nhập … Đảm bảo tín dụng như là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn thu khác để thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản, tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới hình thức sau: Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay của ngân hàng Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay Tài sản đảm bảo là tín chấp hay bảo lãnh của người thứ ba Các loại đảm bảo tín dụng: *Đảm bảo đối vật: - Thế chấp tài sản: là việc bên vay vốn dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay, bên đi vay vẫn được quyền sử dụng tài sản thế chấp và chỉ phải giao giấy chủ quyển tài sản đó cho bên cho vay. - Cầm cố tài sản: là việc bên đi vay có nghĩa vụ phải giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. * Đảm bảo đối nhân: -Là sự cam kết của một người hay nhiều người về việc phải trả nợ cho ngân hàng nếu một khách hàng vay không trả được nợ cho ngân hàng, trong trường hợp này thì những người bảo lảnh phải có được uy tín hay phải có khả năng về tài chính đủ mạnh đảm bảo được sự tin tưởng của ngân hàng. 1.1.2.2. Cho vay dựa trên chuyển nhượng trái quyền. Cho vay dựa trên chuyển nhượng trái quyền là hình thức cho vay dựa trên cơ sở mua bán các cộng cụ tài chính như mua bán các hối phiếu lệnh phiếu … từ đó tạo ra nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ dựa trên khoảng thời gian còn lại của cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu. Về mặt pháp lý ngân hàng không cho vay mà là mua một trái quyền, ngân hàng bỏ tiền ra ứng trước giá trị của một thương phiếu chưa đến hạn thanh toán đổi lại ngân hàng được nắm quyền sở hữu và có quyền truy đòi khi đến hạn thanh toán, thủ tục chiết khấu cũng khác thủ tục vay va không có hợp đồng tín dụng. + Chiết khấu thương phiếu: Là một nghiệp vụ tín dụng, vì nó, vì nó đem lại ngay cho khách hàng một số tiền bình thường mà chỉ được chi trả khi nó đến hạn thanh toán trong thương phiếu. Nhưng về mặt pháp lỳ thì không phải là một khoản cho vay, vì ngân hàng không cho khách hàng vay số tiền mà khách hàng sẽ phải trả cho ngân hàng, mà ở đây ngân hàng ứng trước giá trị của một thương phiếu chưa đến hạn đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu thương phiếu đó, vì vậy ngân hàng sẽ được đòi lại khoản ứng trước đây bằng cách truy đòi trái phiếu khi đến hạn. Như vậy chiết khấu là việc ngân hàng ứng trước cho giá trị một thương phiếu đổi lấy việc chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu. + Mua uỷ nhiệm thu hay bao thanh toán hay còn gọi là cho vay uỷ nhiêm thu: Đây là trường hợp ngân hàng mua đứt các chứng quyền để đi đòi nợ, bao thanh toán có thể được xác định là một hợp đồng, mà trong đó các ngân hàng mua đứt các trái quyền của người bán đối với người mua là khách hàng của ngân hàng. 1.1.2.3. Tín dụng qua chữ ký. Tín dụng qua chữ ký có thể là kết quả của chữ ký của ngân hàng, trong hình thức này ngân hàng không phải bỏ tiền ra ngay mà ngân hàng cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng của mình khi mà khách hàng của mình không thực hiện đúng cam kết trả nợ như đã thoả thuận trước, do bảo lãnh bằng uy tín của mình nên bảo lãnh của ngân hàng còn gọi là bảo lãnh qua chữa ký. Về tính pháp lý thì loại tín dụng này dựa vào luật bảo lãnh cũng như các cam kết bảo lãnh và tái bảo lãnh, Bảo lãnh là đưa ra những cam kết dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo tài khoản ngoại bảng, các ngân hàng chỉ đưa vào tài khoản nội bẳng khi mà ngân hàng thực hiện chi trả cho khách hàng của mình ,bảo lãnh gồm: + Bảo lãnh ngân hàng : đây là hình thức rất quan trọng trong thực tế, nó giúp cho người mua hàng không phải kí quỹ và được trả chậm tiền hàng, và người bán tin tưởng giao hàng cho người mua. + Tín dụng chấp nhận : trong loại hình này ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính mình, và khách hàng của ngân hàng phải nộp số tiền cần thiết ngay trước khi hối phiếu đến hạn, lúc này chủ nợ có được sự đảm bảo thu được khoản nợ của mình do ngân hàng đứng ra chấp nhận chi trả. 1.1.3. Phân loại tín dụng trong các ngân hàng thương mại. 1.1.3.1. Phân loại tín dụng chung. + Tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn: sự khác nhau giữa tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung và dài hạn chính là thời gian giao vốn cho khách hàng sử dụng, tuỳ theo luật của từng quốc gia và trong từng thời kỳ mà thời gian ngắn hạn, trung và dài hạn được quy định khác nhau, ở Việt Nam hiện nay ngắn hạn là nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng, còn trung và dài hạn là lớn hơn 12 tháng. + Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng. Tín dụng không kèm theo cam kết của ngân hàng: trong hình thức cấp này thường áp dụng cho ngắn hạn và ngăn hàng có thể chấm dứt hợp đồng cho vay bất cứ lúc nào. Tín dụng phát sinh từ cam kết của ngân hàng: là hình thức mà ngân hàng cam kết một khoản tín dụng cụ thể hay một hạn mức tín dụng mà ngân hàng không thể tự do chấm dứt cam kết của mình khi phía khách hàng không có những những vi phạm như đã thoả thuận. + Tín dụng có thể huy động và không thể huy động. Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể chuyển nhượng để thu hồi tiền trước kì hạn đã định. Tín dụng không thể huy động: là tín dụng mà khi ngân hàng cấp ra là không thể chuyển nhượng để thu hồi vốn trước thời hạn định. 1.1.3.2.Tín dụng ngân quỹ. Tín dụng ngân quỹ là để thoả mãn nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. + Tín dụng huy động trái quyền: đây là việc huy động các trái quyền đối với khách hàng trong nước và nước ngoài, khi đó khoản tín dụng này nhằm sử dụng ngay giá trị của các trái quyền sau khi trừ đi khoản tiền chiết khấu mà lẽ ra đến hạn mới được nhận. + Tín dụng ngân quỹ: nhằm đảm bảo sự cân đối ngân quỹ của doanh nghiệp ngân quỹ của doanh nghiệp, doanh nghiệp thường xuyên có nhu cầu này vì có sự chênh lệch về thời gian các khoản chi phí và thu nhập của doanh nghiệp. Tạm ứng hay vượt chi tài khoản: hình thức này giúp cho doanh nghiệp đối phó với thiếu vốn lưu động rất ngắn, trong hạn mức và thời gian quy định thì nó đảm bảo cho tài khoản của doanh nghiệp dư nợ hay vượt chi, hình thức này không có sự đảm bảo nội tại nào mà chỉ căn cứ vào tình hình tài chính, mức độ và điều kiện hoạt động của tài sản. Tín dụng ngân quỹ thuần tuý : khi khoản tín dụng có tính chất dài hơn thì ngân hàng có thể cho vay theo hình thức có thể là vượt chi tài khoản với thời gian dài hơn và kèm theo những điều kiện đảm bảo cho khoản vay đó hoặc có thể chiết khấu chứng từ có kỳ hạn cố định, các chứng từ này có thể gọi là các chứng từ tài chính. Về thời hạn thì có thể là tín dụng tuần hoàn để đáp ứng nhu cầu thường xuyên, hay thời vụ để đáp ứng nhu cầu có tính chất thời vụ của doanh nghiệp. 1.1.1.3. Tín dụng thuê mua. Hoạt động thuê mua bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp các thiết bị, nhà cửa lớn, thời gian sử dụng lâu dài, mặt khác do người mua không đủ tiền hay họ chỉ cần sử dụng trong thời gian chưa hết thời gian khấu hao của thiết bị, do đó dã nảy sinh nhu cầu thu, để mở rộng tín dụng của mình các ngân hàng thương mại đã mua hoặc thuê các tài sản theo yêu cầu của khách hàng rồi cho họ thuê lại. Quá trình của nghiệp vụ cho thuê. (3) (4) (1) Ngân hàng (người cho thuê) (2) Nhà cung cấp Khách hàng (1) khách hàng làm đơn gửi ngân hàng nêu yêu cầu về tài sản cần thuê sau khi phân tích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng kí hợp đồng với khách hàng. (2) Ngân hàng tìm kiếm nhà cung cấp để ký hợp đồng hay người thuê chỉ định nhà cung cấp. (3) Khác hàng có thể gặp nhà cung cấp để nêu yêu cầu về quy các, chất lượng tài sản thuê, nhận tài sản, nhà cung cấp có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê. (4) Ngân hàng kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê hoặc thu hồi tài sản nếu thấy người thuê vi phạm. + Ngân hàng có thể mua tài sản để cho thuê hay mua tài sản của người đi thuê sau đó cho chính họ thuê lại hoặc thuê tài sản để cho thuê, trường hợp này được áp dụng khi mà thời gian trong hợp đồng thuê nhỏ hơn thời gian khấu hao của tài sản, hay Ngân hàng có thể mua trả góp để cho thuê trong trường hợp Ngân hàng thiếu vốn. + Đặc điểm của nghiệp vụ này là: Ngân hàng cho thuê thường là tài sản cố định do đó nó là tín dụng trung và dài hạn, thời hạn thuê có 2 phần đó là thời hạn cơ bản là thời hạn mà người đi thuê không được huỷ ngan hợp đồng do đó tiền mà ngân hàng thu được phải đủ cả gốc và lãi và thời hạn gia hạn thêm là người đi thuê có thể trả lại, mua lại, thuê tiếp…, trong nghiệp vụ thuê mua thì Ngân hang không cam kết bảo dưỡng tài sản, không chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại với tài sản. 1.1.3.4.Tín dụng tài trợ cho ngoại thương. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, hoạt động tài trợ ngoại thương có vai trò rất quan trọng, nó thúc đẩy thương mại quốc tế, làm giảm rủi ro cho những nhà xuất – nhập khẩu vì những khó khăn như:địa lý, tôn giáo, chính trị …các hoạt động ngoại thương gồm: + Tài trợ xuất khẩu gồm có các hình thức: - Tài trợ trong trường nhờ thu kèm chứng từ: là nhà xuất khẩu chuyển các chứng từ cho Ngân hàng nhờ thu, ngân hàng sẽ chuyển các chứng từ này tới Ngân hàng cần giao dịch, khi được chấp nhận thanh toán thì nhà xuất khẩu mới giao hàng. - Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu: là chiết khấu các hối phiếu kỳ hạn không thể huỷ ngang khi nó chưa đến hạn và hối phiếu này được bên xuất nhập khẩu không huỷ ngang. -Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ: là hình thức tín dụng Ngân hàng dựa trên khuôn khổ chiết khấu bộ chứng từ khi chưa đến hạn thanh toán, tỷ lệ thanh toán dựa phương thức chiết khấu. Thứ nhất là chiết khấu truy đòi nghĩa là Ngân hàng có quyền đòi lại nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhà xuất khẩu không thanh toán do đó lãi suất thấp. Thứ hai là chiết khấu miễn truy đòi nghĩa là Ngân hàng chịu hoàn toàn rủi ro nếu phía đối tác không thanh toán khi đao hạn do đó lãi suất cao. - Tam ứng cho nhà xuất khẩu: Ngân hàng có thể tài trợ bằng cách tạm ứng một khoản tín dụng cho nhà xuất khẩu trong khuôn khổ. Chủ yếu là trong ngắn hạn, nó phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu và sự nhạy cảm và đảm bảo về giá cả của hàng hoá. - Bao thanh toán: về bản chất đây là chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. đối với nghiệp vụ này Ngân hàng mua lại các khoản nợ, thanh toán ngay cho nhà xuất khẩu, cung cấp các dịch vụ như hạch toán sổ sách, uỷ nhiệm thu, các khoản sao kê định kỳ. Đây là hình thức tài trợ trong ngắn hạn. - Chiết khấu nợ dài hạn: đây là hình thức chiết khấu các khoản nợ dài hạn do xuất khẩu máy móc thiết bị có giá trị lớn mà nhà xuất khẩu bán dưới hình thức trả góp và Ngân hàng sẽ mua lại khoản nợ này. + Tài trợ nhập khẩu: - Tín dụng dành cho người đạt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu, đây là hình thức mà Ngân hàng nước xuất khẩu ký hiệp định với Ngân hàng và Chính phủ nước khác về việc tài trợ cho Ngân hàng và Chính phủ những khoản tín dụng tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hoá, thiết bị công nghệ từ nước tài trợ. - Tín dụng thuê mua vượt qua biên giới: với hình thức này Ngân hàng cấp cho doanh nghiệp một khoản tín dụng bằng cách mua hay thuê tài sản ở nước ngoài về cho thuê lại tài sản tài tại nước mình, do đó người thuê không cần nhiều vốn ngay mà vẫn được sử dụng những tài sản mình cần cho qua trình sản xuất. - Cho vay mở L/C: đây là nghiệp vụ mà các nhà nhập khẩu yêu cầu Ngân hàng mở thư tín dụng sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu theo yêu cầu Của nhà nhập khẩu khi họ đã trình đủ các chứng từ quy định, như vậy khoản tín dụng này được bảo đảm bằng bộ chứng từ hàng hoá, tuy nhiên ngân hàng có thể yêu cầu nhà nhập khẩu phải ký quỹ hay không. - Tạm ứng cho nhà nhập khẩu: Ngân hàng có thể tạm ứng cho nhà nhập khẩu khi họ thiếu vốn để thanh toán. Tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn và được bảo đảm bằng bộ chứng từ hàng hoá. - Chấp nhận của Ngân hàng: với các hối phiếu có kì hạn sẽ được Ngân hàng phía người nhập khẩu đóng dấu và chấp nhận thanh toán, khi người xuất khẩu có nhu cầu về tiền, Ngân hàng nhập khẩu sẽ thanh toán ngay có triết khấu cho bên bán và giữa lại hối phiếu, hối phiếu có thể được bán hay chiết khấu tại Ngân hàng nhập khẩu khi đến hạn. - Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu: theo hình thức này nhà nhập khẩu ký hợp đồng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ, hối phiếu này do Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu phát hành và chuyển đến cho nhà nhập khẩu, và nhà nhập khẩu dùng hối phiếu này để chiết khấu nhận tiền tại Ngân hàng phục vụ mình. 1.2. Khu vực kinh tế tư nhân: Theo kinh nghiệm của các nước phát triển như Mỹ, Nhật thì khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội cho những quốc gia này, chẳng hạn như Mỹ là một nước mà nỗi tiếng có nhiều công ty đa quốc gia nổi tiếng toàn cầu, nhưng đó chỉ là bề nỗi của nền kinh tế mỹ, còn khu vực kinh tế tư nhân mới là đóng góp lớn cho nền kinh tế Mỹ, quay trở về Việt Nam thì khu vực kinh tế tư nhân đã hình thành và phát triển khá sớm nhưng do nhiều hoàn cảnh của đất nước mà khu vực kinh tế này có những lúc đã bị lãng quên trong một thời gian dài, nhưng do cũng như những nứơc khác trên thế giới, khu vực này ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nên kinh tế nước nhà, và trong những năm gần đây đã được Đảng và Nhà nước quan tâm tạo nhiều điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển. 1.2.1. Chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân đã xuất hiện từ trước cách mạng tháng 8, nhưng khu vực kinh tế này chỉ phát triển mạnh mẽ từ sau cách mạng tháng 8 và đã có những đóng góp rất lớn cho miền bắc từ năm1955 – 1957 với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó co kinh tế cá thể và tư bản tư nhân và thành phần kinh tế này đã có những đóng góp rất lớn cụ thể như: năm 1955 có 51688 cơ sở công nghiệp tư nhân và tiểu thủ công nghiệp, với số lượng công nhân làm việc trong các cơ sở đó là 128622 công nhân, và đã tăng 54985 cơ sở và 161241 công nhân trong năm 1957, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 81,9% giá trị của toàn xã hội. Từ năm 1958 chuyển sang thời kỳ xây dung chủ nghĩa xã hội, khu vực kinh tế tư nhân bị xoá bỏ hoàn toàn, tuy nhiên khu vực kinh tế này vẫn tồn tại dưới hình thức ngầm, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì tư bản tư nhân bị quan niệm là thành phần bóc lột do đó bị liệt vào dạng bị cải tạo tuy nhiên về thực tế thì thì thành phần này vẫn tồn tại ngầm dù họ vẫn tham gia vào hợp tác xã, nhưng khi về nhà thì họ vẫn làm riêng tính về thu nhập của họ thì khi họ tham gia vào hợp tác chỉ thu được 30 %– 40% thu nhập của họ. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và mô hình kinh tế hợp tác không hiệu quả thì đến đại hội VI của đảng thì khu vực này chính thức được công nhận trở lại và nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho đất nước và hiện nay khu vực nay đang được sự quan tâm đặc biệt của đảng và nhà nước. Và điều này được thể hiện qua đại hội đảng IX của Đảng, đại hội khẳng định:’’ Kinh tế cá thể , tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị tri quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển … Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, tạo môi trương kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước … xây dựng tốt quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động” . 1.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Trải qua nhiều thăng trầm cùng với những khó khăn của đất nước, khu vực kinh tế tư nhân có những lúc được thừa nhận rồi không rồi lại được thưa nhận, nhưng với định hướng của đảng được khẳng đinh trong đại hội IX của Đảng thì trong những năm ngần đây khu vực kinh tế này đã có những bước phát triển về mọi mặt, khu vực kinh tế này đã, đang và sẽ có những đóng góp không nhỏ vào các mặt kinh tế xã hội của Việt Nam. Và ngày càng khẳng định được chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế của Việt Nam, và điều này được thể hiện qua những mặt sau: 1.2.2.1. Phát triển về số lượng. Với sự khuyến khích mạnh mẽ và tạo nhiều điều kiện thuân lợi của Nhà nước thì khu vực kinh tế tư nhân đã có nhưng đáng kể về số lượng. Về hộ kinh doanh cá thể: số hoạt động từ 1498611 hộ năm 1992 và tăng lên 2016259 hộ vào năm 1996, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 7, 68%/ năm, mỗi năm tăng 129412 hộ, từ năm 1996 đến 2000 số lượng hộ kinh doanh các thể hoạt động tăng châm, từ 1996 là 2016259 lên 213731 hộ năm 2000, tăng bình quân 1,47% /năm, mỗi năm tăng30364 hộ và đến cuối năm 2003 cả nước có khoảng 2,7 triệu hộ kinh doanh, 130000 trang trại và 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, sở dĩ có sự giảm về số lượng hộ cá thể là vì nhiều hộ đã chuyển lên thành lập công ty sau khi đã tích luỹ được trong một thời gian dài và những năm gần đây lại gặp nhiều điều kiện thuận lợi trong thành lập doanh nghiệp. Về doanh nghiệp: số lượng các doanh nghiệp tăng được thể hiện qua các năm như sau: năm 1991 cả nước có khoảng 414 doanh nghiệp, đến năm 1992 là 5189 doanh nghiệp và đến 1995 là 15276 doanh nghiệp, năm 1999 là 28700 doanh nghiệp, từ khi luật doanh nghiệp đi vào hoạt động 1/1/2000 thì đã tao ra một bước đột phá trong tăng số lượng các doanh nghiệp, tính từ năm 2000 đến tháng 5- 2004 cả nước có khoảng 93208 doang nghiệp đang ký thành lập mới,gấp hơn hai lần số doanh nghiếp được thành lập trong thời gian trước đó từ 1991- 1999 chỉ có 45000 doanh nghiệp được thành lập, tính đến cuối 2004 cả nước có khoảng 138208 doanh nghiệp đang ký thành lập theo luật doanh nghiệp, trung bình hàng năm tăng 3,75 lần so với trung bình của những năm trước 2000, vể cơ cấu thì tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đang ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991 – 1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000 – 2004. Trong khi đó cùng thời gian trên thì tỷ trong của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% đến 66%, trong 4 năm qua có khoảng 7165 công ty cổ phần thành lập gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 -1999. tỷ trong doanh nghiệp tư nhân giảm vì số lượng vố của đa số các doanh nghiệp thuộc khu vự này là nhỏ, do đó loại hình này thường không được tin tưởng bằng các loại hình khác hơn nữa các loại hình doanh nghiệp khác có thể hợp vốn của nhiều người có vốn nhỏ lại thành vốn lớn hơn và sẽ có nhiều vốn hơn để hoạt động. 1.2.2.2. Phát triển về quy mô vốn, lao động, lĩnh vực và địa bàn. Với sự ra đời của luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện rất nhiều trong việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp, do đã giảm rất nhiều về giấy tờ cũng như thời gian. Do đó số lượng doanh nghiệp không những đã tăng lên về số lượng mà số lượng vốn đang ký kinh doanh cũng tăng lên. như thời kỳ 1991 – 1999 vốn đang ký bình quân/1 doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2001 là 1.3 tỷ đồng, năm 2002 là 1.8 tỷ đồng và đến tháng 7 năm 2003 là 2.12 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn thấp nhất cũng là 5 triệu đồng và nhiều nhất là 200 tỷ đồng, như vậy là số lượng vốn đang ký kinh doanh không ngừng tăng lên qua các năm, số lượng vốn đang ký mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ, cụ thể như sau: năm 2000 số vốn đăng ký mới và bổ sung là 1,3 tỷ đồng ,năm 2001 là 2,3 tỷ đồng, năm 2003 là 3,6 tỷ đồng, và đến hết tháng 5 – 2004 là khoảng 1.8 tỷ đồng. Về lao động thì số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân liên tục tăng lên từ năm 1996 chỉ giảm vào năm 1997 còn lại đều tăng , so sánh với tổng lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm. năm 2000 số lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 4.643.844 người tăng so với năm 1996 được 778.681 người, từ năm 1996 đến năm 2000 tố độ tăng trung bình là 24,5%/năm trong khi đó ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng bình quân là 2,01%/năm, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tăng 487459 tăng 137,57%, trong khi đó các hộ kinh doanh cá thể tăng thêm được 291.222 người tăng 8,29%. Trong khu vực kinh tế tư nhân thì lao động trong công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 2.121.228 người chiếm 45,6%, lao động trong ngành thương mại và dịch vụ là 1753824 người, chiếm tỷ trọng 37,37%, lao động trong các ngành khác là 786.792 người chiếm 16,94%. Trong những năm gần đây tốc độ tăng vế số lượng doanh nghiệp tăng nhanh do đó số lượng trong các doanh nghiệp đã tăng, còn tốc độ tăng lao động trong các hộ kinh doanh cá thể thấp hơn của các doanh nghiệp đó là do số lượng các hộ kinh doanh cá thể tăng chậm so với các doanh nghiệp. Về lĩnh vực và địa bàn: khu vực kinh tế tư nhân phần đông là các doanh nghiệp, đã và đang hoạt động trong hầu hết các ngành nghề mà pháp luật không cấm, không chỉ hoạt động trong nông nghiệp mà còn trong cả các ngành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính, bảo hiểm , tư vấn. Sở dĩ khu vực này có khả năng hoạt động rộng vì một mặt là có số lương đông và tiềm lực về tài chính ngày càng được cải thiện do đã tích luỹ quay nhiều năm, một mặt là khu vực này có mặt ở hầu hết trên lãnh thổ cả nước do đó có thể phát hiện rất nhanh các nhu cầu ở các địa bàn trên cả nước. 1.2.3. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân. 1.2.3.1. tạo công ăn việc làm. Sự đóng góp lớn nhất của khu vực kinh tế tư nhân cho xã hội đó là giải quyết việc làm cho người lao động, khu vực kinh tế này hàng năm thu hút lao động mới và từ các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể chuyển sang, năm 2000 số lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 9,616733 triệu lao động, chiếm 79,89% tổng lao động, trong năm 2003 khu vực nhà nước có 3,858 triệu lao dộng chỉ chiếm gần 10% lực lượng lao động xã hội và với xu hướng ngày càng giảm số lao động trong khu cực kinh tế này. Do đó có tới hơn 90% lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác hàng năm nước ta có khoảng 1,4 -1,5 triệu người gia nhập thị trường lao động đó là một sức ép rất lớn đến thị trường lao động của nước ta, hơn nữa để đầu tư cho một suất lao động ở khu vực tư nhân tốn 35 triệu đồng, còn ở doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng như vậy khu vực kinh tế tư nhân có lợi thế tương đối so với khu vực nhà nước trong việc tao việc làm. Sự phát triển của kinh tế tư nhân làm tăng sự lựa chọn cho người lao động và người sử dụng lao động do đó làm tăng sự canh tranh cho thị trường lao động, vì có sự cạnh tranh nên mỗi một lao động muốn tham gia vào thì trường mà được nhiều người thuê và có thể thực hiện được mục đích của mình qua việc làm thì họ phải năng cao trình độ, còn đối với người sử dụng lao động muốn chọn được những lao động như mong muốn của họ thì họ cũng phải đáp ứng được những yêu cầu của ngươì lao động đặc biệt là những người lao động có tay nghề cao. Từ đây cũng đặt ra vấn đề đối với quản lý Nhà nước đối với lao động cũng như đối với các doanh nghiệp trong việc quản lý lao động ở doanh nghiệp mình, để năng cao năng xuất lao động và tránh hiện tượng chảy máu chất xám đang xảy ra cả ở phương diện đất nước lẫn các doanh nghiệp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tạo nên sự thay đổi cơ cấu xã hội đó là việc hình thành giới chủ doanh nghiệp, những người này nếu làm ăn có hiệu quả, thuê nhiều lao động va không vi phạm pháp luật thì sẽ được nhà nước tôn trọng. Chính phủ cũng đã chọn ngày 13 tháng 10 hàng năm là “Ngày doanh nhân Việt nam”, mặt khác khu vực kinh tế tư nhân phát triển cũng làm thay đổi quan hệ lao động, trước kia quan hệ lao động chỉ chủ yếu là quan hệ giữa nhà nước và người lao động mà đại diện cho nhà nước là những nhà lãnh đạo do Nhà nước bỏ nhiệm các vấn đề về lương bổng do nhà nước quy định, khi kinh tế tư nhân phát triển thì quan hệ lao động được xác lập là giữa người lao động và người sử dụng lao động, xét về quanh hệ lao động thì trong khu vực kinh tế tư nhân mang tính chất thực tế hơn, vì các quan hệ lao động đều phải tuân thủ theo luật lao động mà luật lao động lại do Nhà nước quy định. 1.2.3.2. Đóng góp vào GDP và thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân từ khi thực hiện luật doanh nghiệp, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, vốn đầu tư, quy mô hoạt động, các ngành nghề, góp phần vào việc phục hồi và phát triển đất nước, tốc độ tăng trưởng công nghiệp qua các năm từ 2000 – 2004 là 20%, như năm 2001 là 20,3%, năm 2002 là 19%, doanh nghiệp tư nhân đang chiếm một phần lớn trong các ngành công nghiệp, trong nông nghiệp đã có những đóng góp nhất định trong trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là chế biến thuỷ sản, cơ cấu nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tỷ trọng đóng góp trong GDP năm 2001 là 47,85%, năm 2002 là 42% và năm 2004 là 38,5% tỷ trọng có xu hướng giảm do năng suất lao động trong khu vực này giảm trong khi các khu vực khác tăng lên. 1.2.3.3. Về xuất khẩu. Khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp đáng kể vào xuất khẩu của việt nam, số lượng đang ký tham gia xuất khẩu tăng mạnh năm 1995 có 156 doanh nghiệp đến 2002 la 13774 doanh nghiệp, khu vực tư nhân tham gia xuất khẩu nhiều mặt hàng như may mặc, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu … tuy nhiên hoạt động xuất khẩu của khu vực tư nhân phân bố không đồng đều, chỉ tập trung ở những thành phố lớn, thành phố trực thuộc Trung ương, điều này đựơc cụ thể là thành phố hà nội xuất khẩu chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của hà nội và chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, thành phố HồChí Minh là 12%, một số tỉnh có tỷ trọng khá cao như Hà Giang là 60%, Bình Thuận là 45%, khu vực kinh tế tư nhân đã làm tăng thêm sư đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu và đã tìm kiếm được nhiều thị trường để phát triển, năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân đã vượt khu vực kinh tế nhà nước về xuất khẩu. 1.2.3.4. Đóng góp vào ngân sách. Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào ngân sách đang có xu hướng tăng lên, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên 7,4% năm 2002. tỷ lệ này tương đương với đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,2% ._.và 6% , khoản thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ dân doanh là năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001, doanh số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu, tăng 29,5% so với các năm trước. Đóng góp vào ngân sách của địa phương của các doanh nghiệp danh doanh lớn hơn nhiều so vớ trung ương, như thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15% tổng ngân sách, Bnh Định là 33%, Thái Nguyên là 17%... Ngoài ra hiệp hội các doanh nghiệp còn tham gia xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, đường nông thôn ở các địa phương. 1.2.3.5.Thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội. Với sự ra đời và đi vào hoạt động cảu luật doanh nghiệp thì số lượng các doang nghiệp đăng ký mới và đang ký mở rộng quy mô sản xuất, từ đó đã huy động được lượng lớn tiềm lực của nhân dân vào phát triển kinh tế, trong đó năm 2000 đạt 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là 3 tỷ USD, năm 2003 là 3,6 tỷ USD, riêng giai đoạn từ 2000 – 2004 đã cao gấp 4 lần so với thời kỳ 1991- 1999, trong đó có những tỉnh tăng gấp 10 lần, thậm chí có những tỉnh tăng cao đến 20 lần như tỉnh Hưng Yên, Quản Ninh… Từ tốc độ tăng số vốn hoạt động thì tỷ trọng đầu tư của khu vực này cũng tăng dần qua các năm, cụ thể như tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư của xa hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002 và tỷ trọng này là 27% năm2003 và năm 2004 là 32%, như vậy tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đã ngày càng tăng và đã vượt qua tỷ trọng của nhà nước. Theo dự đoán của bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư thì đến giai đoạn 2006 – 2010 tổng nhu cầu đầu tư là 130-140 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế tư nhân gồm cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài là khoảng 53%, hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của khư vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực Nhà nước, trong khi một đồng vốn của khu vực tư nhân tạo ra được 1,66 đồng doanh thu, thì một đồng vốn của các doanh nghiệp nhà nước chỉ tao ra được 0,71 đồng doanh thu. Mặt khác vốn của khu vực kinh tế tư nhân còn là vốn đầu tư chủ yếu của địa phương chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 chiếm 38% tổng số vốn toàn xã hội trong khi đó vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 36,5%. 1.2.3.6. Tạo môi trường kinh doanh. Sự phát triển ngày càng lớn và mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, tham gia vào hầu như tất cả các ngành nghề và moi lực vực, thì khu vực này đã và đang đóng góp rất lớn trong việc tao ra môi trường kinh kinh doanh, thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh quá trình hội nhập. Sự tham gia ngày càng nhiều vào tất cả các ngang nghề đã tao ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước, làm cho các doanh nghiệp phải cải thiện môi trường làm việc, công nghệ… để nâng cao năng suất lao động, cải tiến sản phẩm …, sự phát triển của kinh tế tư nhân thì các thị trường bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, như là thị trường hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sả, thị trường hàng khoa học và công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. 1.2.4. Hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân. Tuy đã phát triển rất nhanh và phát triển ở mọi nơi và mọi ngành nghề nhưng do xuất phát điểm thấp, từ các những khó khăn do lịch sử để lại, do điều kiện hoàn cảnh chung của cả nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân cũng còn có nhiều hạn chế. 1.2.4.1. Quy mô vốn. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể có nhiều khó khăn về vốn hoạt động, các loại hình doanh nghiệp cá thể có vốn rất nhỏ, 80,26% các loại hình doanh nghiệp có mức vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng, trông khi đó đối với doanh nghiệp Nhà nước là 23,03%. Do vốn nhỏ bé nên điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có thể mở rộng sản xuất kinh doanh và có thể thực hiện được kế hoạch sản xuất của mình, có rất nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực này có nhiều ý tưởng sản xuất tốt nhưng một phần do thiếu vốn do đó họ không thể thực hiện được kế hoạch của mình, do hạn chế về vốn nên họ chỉ tham gia vào các ngành không cần nhiều vốn như là các hoạt động thương mại ít đầu tư vào sản xuất, vì kinh doanh các hoạt động thương mại cần ít vốn hơn rất nhiều so với các ngành sản xuất, điều này cũng làm giảm sự phát triển của các ngành sản xuất, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này là 25 – 30 % trong tổng vốn là đàu tư vào tài sản cố định còn 70 – 75% là vốn lưu động. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình các chủ doanh nghiệp hay chủ hộ phải đi thuê tài sản từ các tổ chức, cơ quan … do đo cơ sở vật chất của họ không ổn định, do thiếu vốn nên họ thường không có được sự tin tưởng của các đối tác của mình, và làm ăn theo kiểu manh muốn chộp giật, không có những chiến lược dài hơi vì thiêu vốn Chỉ có 1/3 doanh nghiệp là được vay vốn ngân hàng, trong số những doanh nghiệp được vay vốn thì họ chỉ vay được 20 % trong tổng số vốn của họ còn lại 80% là huy động từ bạn bè, gia đình, vốn bản thân và sử dụng tín dụng thương mại đối với đối tác kinh doanh, thậm chí là nguồn vốn có mức lãi suất rất cao, đối với nguồn vốn huy động do sử dụng thì thường các họ phải chi phí “ngầm” cao hơn chi phí thực tế khi họ thoả thuận, làm tăng chi phí sản xuất. 1.2.4.2. Về chất lượng lao động. Khu vực kinh tế tư nhân với chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp này là rất nhỏ, bình quân mỗi một doanh nghiệp 1 doanh nghiệp có khoảng 19 lao động, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phát triển nhanh là do trình độ lao động của các doanh nghiệp này là thấp, các doanh nghiệp này thiếu nhân lực giỏi, thường thì lao động không được đào tạo bài bản, có chăng chỉ là các khoa ngắn hạn, do đó họ kho tiếp thu được những tiến bộ khoa học, cũng như kỹ năng của họ không cao do đó năng xuất lao động không cao, còn đối với những nhân lực giỏi thì học lại không mặn mà với những doanh nghiệp này do doanh nghiệp không đáp ứng được những tham vọng của họ, có những doanh nghiệp mà lao động không qua đào tạo chiếm tới 100%. Đối với các hộ kinh doanh cá thể và tiểu chủ thì họ sử dụng lao động trong gia đình và chỉ thuê rất ít công nhân, phần lớn là không qua đào tạo . 1.2.4.3. Trình độ khoa học công nghệ. Trong thời đại hiện nay khoa học công nghệ vô cùng quan trọng đối vối mọi mặt đời sống xã hội, các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng thành công những công nghệ hiện đại vào các hoạt động của mình và đã đạt được những thành quả rất lớn, xét về mặt băng chung thì trình độ công nghệ của nước ta so với trên thế giới thì trình độ công nghệ của nước ta có trình độ trung bình thấp, và khu vực kinh tế tư nhân cũng không là ngoại lệ. Hầu hết các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang sử dụng các trang thiết bị có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu so với thế giới, chẳng hạn như ở tỉnh Đồng Nai tỷ lệ là 93%, thành phố Hồ Chí Minh là 37,7% đang sản xuất bằng thủ công , 43,2% đang sản xuất bằng bán cơ khi, bán tự động. Trình độ khoa học lạc hậu một phần do mặt bằng chung một phần do sự thiếu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này, họ không có đủ vốn để mua những công nghệ tiến tiến, mà công nghệ không cao dẫn đến năng suất lao động không cao dẫn đế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là không lớn, kể cả thị trường trong và ngoài nước, mà cạnh tranh là yếu tố cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, và là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp, sản phẩm họ sản xuất ra có bán được thì họ mới có doanh thu để mà trang trải phí và có lợi nhuận, hơn nữa các doanh nghiệp đang tồn tại trong một môi trường cạnh tranh rất khốc liệt như hiện nay. 1.2.4.4. Trình độ quản lý. Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Đa số các chủ doanh nghiệp, trưởng thành từ thực tiễn và học hỏi qua bạn hàng, ước tính khoảng trên 80% trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn chỉ có một số được đào tạo qua trường lớp chính quy về quản trị doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế chung. Khoảng 85% các doanh nghiệp tư nhân được phát triển trên cơ sở hộ cá thể, 285 chủ doanh nghiệp là cán bộ nhà nước đã nghỉ theo chế độ.Chính vì quản lý và điều hành dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ, chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chuyên môn nên khó khăn trong việc cạnh tranh, hơn nữa trong điều kiện hội nhập như hiện nay.kiểu kinh doanh trên sẽ không còn phù hợp do hiện nay nó là rào cản sự phát triển của doanh nghiệp, chẳng hạn là làm ăn theo lối chộp giật, khó có khẳ năng tiếp thu những cái mới. Chương II Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNT_CN Ba Đình đối với khu vực kinh tế tư nhân 2.1. Khái quát về chi nhánh Ba Đình. 2.1.1. Quá trình hình thành. Ngân hàng ngoại thương việt nam được thành lập ngày 1/4/1963 được thành lập theo quyết định 115/CP ngày 30/10/1962 trên cơ sở tách từ cục ngoại hối ngân hàng TW nay là ngân hàng nhà nước, hoạt động dưới dự bảo lãnh của ngân hàng nhà nước là ngân hàng duy nhất được phục vụ kinh tế đối ngoại và hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước. Theo thời gian cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất nước nói chung và của kinh tế nói riêng, ngân hàng ngoại thương việt nam đã có những chiến lược nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước hiện tại và trong tương lai, và một trong những chiến lược ấy là mở rộng địa bàn hoạt động của ngân hàng trên khắp cả nước để đáp ứng các dịch vụ ngân hàng cho nhân dân. Với phương châm đó ngân hàng ngoại thương chi nhánh cấp I hà nội được thành lập năm 1985 hoạt động trên một địa bàn là trung tâm tài chính của cả nước, và để đáp nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng, do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của cả nước nói chung và của thủ đô nói riêng, cùng với xu hướng ngày càng nhiều các tổ chức tín dụng quốc tế đã, đang và sẽ vào việt nam, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang chuẩn bị vào WTO, thì việc mở rộng và phát triển mạng lưới là bước đi quan trọng cho sự phát triển của ngân hàng, chính vì lẽ đó mà ngân hàng ngoại thương chi nhánh Ba Đình được thành lập ngày 15/9/2004 theo quyết định số 480/QĐ NHNT – TCCB – DT ngày 23/8/2004 là chi nhánh cấp II hạch toán phụ thuộc vào chi nhánh cấp I Hà Nội. Địa bàn hoạt động của chi nhánh là trên địa bàn quận Ba Đình và các vùng lân cận, đây là khu vực tập trung dân cư đông đúc, là một trong các quận trung tâm của Thủ Đô với các hoạt động kinh tế sôi động là điều kiện thuận lới cho chi nhánh hoạt động và phát triển. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức. Theo quyết định số 525/QĐ/ TCCB – DDT ngày 31/10/2001 của chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ban phân cấp, uỷ quyền của chi nhánh cấp I đối với chi nhánh cấp II ngày 19/12/2001 của giám đốc chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, gồm có các phòng sau. CN cấp II Ba Đình Ban Giám Đốc Phòng kế toán dịch vụ ngân hàng Phòng quan hệ khách hàng Phòng hành chính ngân quỹ Mỗi phòng đều do một trưởng phòng và một phó phòng điều hành và giúp việc. đối với mỗi trưởng phòng có nhiệm vụ và quyền hạn sau: -Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước giám đốc chi nhánh Ba Đình về mọi mặt hoạt động của phòng mình - Xây dựng chương trình kế hoạch và biện pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng mình. - Có nhiệm vụ tham mưu giúp cho giám đốc trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của chi nhánh. Đề xuất những kiến nghị với chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội, Ngân hàng ngoại thương trung ương, Ngân hàng Nhà Nước thành phố,chính quyền địa phương trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách có liên quan đến phòng mình chiệu trách nhiệm. - Có trách nhiệm phối hợp với các phòng ban khác của chi nhánh khi sử lý các vấn đề nghiệp vụ có liên quan. - Ký trên các giấy tờ, chứng từ , văn bản giao dịch. - Phối hợp với các tổ chức Đảng, đoàn thể của cơ quan trong việc thự hiện các chế độ, chính sách quản lý đối với công chức, viên chức. Động viên công chức viên chức tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn. - Bố trí và sắp xếp cán bộ của phòng mình cho phù hợp, xây dựng nội quy làm việc và phương thứ điều hành, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. - Phân công trách nhiệm cho các phó trưởng phòng và các thành viên trong phòng. -Bảo quản các tài liệu và tài liệu mật theo quy định hiện hành. - Thực hiện các nhiệm vụ khác khi ban giám đốc chi nhánh giao. * Nhiệm vụ và quyền hạn của phó trưởng phòng . - Giúp trưởng phòng điều hành, chỉ đạo một số công việc do Trưởng phòng giao và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng và ban giám đốc chi nhánh về công việc được phân công. - Ký thay trưởng phòng trên các giấy tờ, chứng từ, văn bản giao dịch thuộc trách nhiệm phụ trách, trình ban giám đốc theo sự uỷ quyền của trưởng phòng và theo đúng sự phân cấp uỷ quyền của giám đốc chi nhánh. - Khi trưởng phòng đi vắng được thay mặt trưởng phòng giải quyết các cộng việc chung của phòng và chịu trách nhiệm về các công việc mà mình đã giải quyết. - Tham gia ý kiến với trưởng phòng trong việc thực hiện các mặt công tác của phòng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. * Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban + Phòng quan hệ khách hàng. - Tham gia giúp ban giám đốc để thực hiện các chính sách, chủ trương của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam về tiền tệ, tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, ngân hàng… - Nghiêm cứu, phân tích kinh tế địa phương, giúp ban giám đốc xây dựng chương trình KH- KT-XH của thành phố, chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà Nội và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. - Dự thảo các báo cáo sơ kết tổng kết quý, sáu tháng và năm của chi nhánh Ba Đình để báo cáo chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, giúp ban giám đốc xây dựng chương trình công tác quý, sáu tháng và năm của chi nhánh. - Giúp giám đốc về công tác pháp chế cảu chi nhánh Ba Đình và thực hiện thông tin tín dụng và thanh toán quốc tế. -Thực hiện nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ với các thành phần kinh tế theo luật của Ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng, mở tài khoản cho vay, theo dõi hợp đồng tín dụng, hồ sơ thanh toán xuất nhập khẩu và tính lãi theo định kỳ, thanh toán với nước ngoài theo đúng quy định của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. - Thẩm định và xem xét bảo lãnh đối với những dự án có mức ký quỹ dưới 100%, phát hành thư bảo lãnh đối với nước ngoài kể cả việc mở L/C và thanh toán L/C trả chậm với mức ký quỷ 100%. - Quản lý và kiểm tra mẫu dấu đối với các ngân hàng nước ngoài. - Phối hợp với các phòng xây dựng kế hoạch vốn theo quý, năm. - Thông báo và lưu giữ tỷ giá mua bán hàng ngày, tỷ giá thống kê tháng, lãi suất huy động, cho vay bằng VND và bằng ngoại tệ. - Mua bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế và cá nhân được phép mua bán ngoại tệ. - Thực hiện các báo cáo của phòng do chi nhánh cấp I quy định. - Thực hiện một số nghiệp vụ khác do ban giám đốc giao. + Phòng kế toán nghiệp vụ ngân hàng. ++ Bộ phận thông tin khách hàng. - Tiếp nhận và mở các hồ sơ khách hàng mới - Tiếp nhận quản lý và giải quyết các yêu cầu thay đổi về: chủ tài khoản, địa chỉ, kế toán trưởng, mẫu dấu, chữ ký… - Tiếp nhận và trả lời các thông tin tài khoản khách hàng: số dư tài khoản, hoạt động và ra chi tiết liên quan đến tài khoản thông qua nhiều hình thức bao gồm giao dịch trực tiếp và thông qua các phương tiện thông tin liên lạc. - In, chấm và trả sao kê, sổ phụ bảng phiếu tính lãi, cấp ấn chỉ cho khách hàng . - Giải đáp thắc mắc hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho khách hàng, phản ánh tình hình giao dịch và đề xuất chính sách thu hút khách hàng. ++ Bộ phận dịch vụ khác hàng. - Xử lý toàn bộ các giao dịch liên quan đến tài khoản tiền gửi cả bằng ngoại tệ và nội tệ của mọi đối tượng khách hàng với các loại tiền và băng mọi hình thức: tiền mặt, chuyển khoản, séc. - Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản tiền gửi, tiết kiệm,hỳ phiếu, trái phiếu cả bằng nội tệ và bằng ngoại tệ. -Xử lý các nghiệp vụ thanh toán thẻ và phát hành séc Vietcombank. - Xử lý nghiệp vụ mua, chuyển đổi ngoại tệ, séc du lịch bằng mọi hình thức và bán ngoại tệ theo hộ chiếu. - Chi trả kiều hối chuyển tiền nhanh - Quản lý các đại lý uỷ nhiệm thu hồi. - Tiếp nhận và kiểm tra tính pháp lý các chứng từ nhờ thu trong nước, nước ngoài, séc đích danh. - Trực tiếp thu chi tiền mặt, séc du lịch liên quan đến các nghiệp vụ trên theo hạn mức giám đốc giao cho. - Phát hành thư bảo lãnh ( dự thầu hay đấu thầu ) cho khách hàng trong nước ký quỹ 100% và các hồ sơ bảo lãnh của phòng tín dụng – tổng hợp thẩm định chuyển tiền đến. ++ Nghiệp vụ chuyển tiền và quản lý tài sản . - Tạo các bảng sao kê trả lương tự động, thực hiện các giao dịch chuyển tiền tự động(AFT), các giao dịch đầu tư tự động. - Hạch toán và quản lý hồ sơ tiền vay do phòng tín dụng chuyển xuống . - Sau khi kiểm tra, đối chiếu và tính lãi theo định kỳ cho khách hàng trên các tài khoản tiền gửi, tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền vay, chuyển kết quả đến cho bộ phận quản lý thông tin khách hàng để thông báo cho khách hàng. - Quản lý toàn bộ tài sản khách hàng ( các tài khoản nội bảng và tài khoản ngoại bảng liên quan, banrg kê tiết kiệm trái phiếu, kỳ phiếu). - Tạo diện, bảng kê, tạo file đi nước ngoài, đi liên hàng bù trừ. - Tạo thư nhờ thu, thanh toán báo cáo nhờ thu. - Đóng và lưu nhật ký chứng từ. - Thực hiện báo cáo thống kê theo quy định của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội. ++ Bộ phận quản lý chi tiêu nội bộ. - Quản lý thu nhập chi phí của khách hàng. - Thực hiện chế độ chi tiêu hành chính có hạn mức tối đa do chi nhánh quay định - Thực hiện một số nhiệm vụ do ban giám đốc giao cho. * Phòng hành chính – ngân quỹ. ++ Công tác hành chính. - Tham mưu cho ban giám đốc về những vấn đề chung của công tác hành chính, quản trị, sửu chữa nhỏ, mua sắm tài sản, vật liệu, thực hiện các hợp đồng về điện nước, điện thoại. - Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh, thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, in ấn, telex, fax, quản lý tài liệu mật và bảo quản tài liệu tại kho chi nhánh. - Quản lý, bảo quản tài sản của chi nhán, ô tô, kho vật liệu dự trữ của chi nhánh theo đúng chế độ quy định. - Thực hiện công tác lễ tân, công tác phục vụ các hợp đồng của chi nhánh. - Thực hiện bảo vệ cơ quan bằng cách phối hợp với các phường có liên quan. - Tham mưu cho ban giám đốc về chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên trong cơ qua, tổng hợp công tác thi đua trong cơ quan. ++ Công tác ngân quỹ. - Thu chi đồng Việt Nam và ngân phiếu. - Thu chi các loại ngoại tệ: tiền mặt, séc du lịch, giám định tiền thật, tiền giả. - Quản lý kho tiền, tài sản thế chấp,chứng từ có giá . - Thực hiện điều chuyển tiền mặt, đảm bảo định mức tồn quỹ VND, ngoại tệ, ngân phiếu, séc. - Thực hiện các báo cáo của phòng theo quy định của chi nhánh cấp I. ++ Thực hiện một số công việc khác do giám đốc giao. 2.1.3.Nhiệm vụ và phương hướng phát triển. Chi nhánh được thành lập và đi vào hoạt động nhằm mở rộng lượng khách hàng giao dịch, cung cấp các dịch vụ ngân hàng theo các yêu cầu của Ngân hàng ngoại thương chi nhánh cấp I hà nội và của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam như: Cho vay, thanh toán xuất nhập khẩu, mở tài khoản giao dịch cho khách hàng, phát hành và thanh toán thẻ, mua bán các loại ngoại tệ… để phục vục các khách hàng trong và ngoài nước hoạt động trên địa bàn Ba Đình và các vùng lân cận. Đối với hoạt đông tín dụng chi nhánh tập trung vào khách hàng là khu vực kinh tế tư nhân. Chi nhánh chỉ tập trung vào việc phát triển khách hàng là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và các khách hàng là thể nhân với các hình thức cho vay cầm cố, thế chấp tài sản là chứng từ có giá, các hoạt động tín dụng của chi nhánh đảm bảo tăng trưởng thận trọng, và ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng. Sang năm 2006 thực hiện chủ chương tăng cường hoạt động cho vay bán lẽ của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nhằm đa dạng hoá khách hàng và các sản phẩm tín dụng, chi nhánh Ba Đình sẽ chú trọng hơn nữa vào mảng khách hàng là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và đối tượng khách hàng là thể nhân trên địa bàn quận và các vùng lân cận trên cơ sở an toàn, bền vững, góp phần vào sự phát triển hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. 2.2. Khu vực kinh tế tư nhân Hà Nội. Cùng với sự phát triển của kinh tế tư nhân nói chung. Khu vực kinh tế tư nhân hà nội cũng có sự phát triển rất nhanh chóng và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, nhất là từ khi có luật doanh nghiệp ra đời và đi vào đời sống từ 1/1/2000. Và Nhà nước đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập doanh nghiệp do đó đã có sự tăng đột biến. Số lượng giai đoạn 2000-2002 bình quân mỗi năm có 3320 doanh nghiệp thành lập mơi. gần 276doanh nghiêp/tháng, trong năm 2003 bình quân mỗi tháng có khoảng gồm 500 doanh nghiệp được thành lập. Về vốn cùng với tốc độ tăng của các doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đang ký cũng tăng mạnh mẽ. Từ năm 2000 – 2003 số doanh nghiệp mới đang ký với tổng số vốn là 24000632 triệu đồng. Bình quân vốn đang ký kinh doanh của mỗi doanh nhgiệp giai đoạn 2000 – 2003 là 1,66 tỷ đồng. Loại hình doanh nghiệp được lựa chọn nhiều nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn, tính từ năm 2000 đến nay, tiếp đó là công ty cổ phần cũng trong giai đoạn này số lượng doanh nghiệp thay đổi nội dung là tương đối lớn và cũng làm tăng đáng kể lượng vốn đang ký bổ sung. Giai đoạn từ 2000 – 2003 có 3244 lượt đang ký bổ sung với tổng số vốn tăng đang ký tăng là 7236 tỷ bằng 1/3 số vốn của đang ký mới, số doanh nghiệp đang ký giảm vốn và giải thể không còn hoạt động là rất thấp. Đối với hộ kinh doanh cá thể và tiểu chủ thì chủ yếu tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ là hệ buôn bán nhỏ, nhận hàng của doanh nghiệp bán buôn bán lẻ hoặc làm đại lý. Do đó đã tạo thành một hệ thống bán lẽ và dịch vụ phục vụ tiêu dùng rộng kháp trên địa bàn. Với sự phát triển ngày một mạnh mẽ, khu vực kinh tế tư nhân Hà Nội đã và đang có sự đóng góp rất tích cực vào kinh tế hà nội nói riêng và cả nước nói chung. 2.2.1. Những đóng góp. 2.2.1.1. Vào GDP. Khư vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định được vai trò trong phát triển xã hội của thủ đô, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp trên 20% tổng sản phẩm quốc nội của thành phố và đang phát triển khá tốt trong các ngành kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân hà nội cũng có sự đóng góp quan trọng vào ngân sách của thành phố. Và sự đóng góp ngày càng tăng theo thời gian, cụ thể trong 5 năm từ 1996 – 2000 tổng số nộng gân sách 24683 tỷ đồng chiếm 4,3% ngân sách thành phố. Năm 2001 đóng góp 528,2 tỷ đồng chiếm 3,35 ngân sách thành phố, năm 2002 là 650 tỷ đồng chiếm 3,6%. 2.2.1.2.phát triển công nghiệp. Khu vực kinh tế tư nhân hà nội có những đóng góp to lớn trong phát triển công nghiệp, giai đoạn 1996 – 2002 giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,53% /năm, năm 2001- 2005 giá trị công nghiệp tăng bình quân là19,67%, khư vực kinh tế tư nhân tăng cao hơn khu vực kinh tế nha nước: giai đoạn 1991 đến 2000 là 10,05%, giai đoạn 2001 đến 2002 là 17,46%. Công nghiệp thuộc khư vực kinh tế tư nhân phát triên rất đa dạng và phong phú và tham gia vaò hầu hết các ngành. Tập trung nhiều cào các ngành như chế biến lương thực thực phẩm, đồ uống dệt may …qua các số liêu trên ta thấy rằng giá trị công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân hà nội tăng qua các năm và hầu như chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ không cao do đó giá trí trị sản phẩm không cao. Trong đó đóng góp trong các ngành công nghiệp chủ lực của thành phố hà nôị như sau: ngành cơ khí và kim khí tỷ trọng giá trị sản xuất cơ khí khu vực tư nhân năm 1995 chiếm 10,35%, năm 2002 là 10,08%, tốc độ tăng giai đoạn năm 1991 – 2000 là 21% và từ 2001- 2002 là 10%. + ngành dệt may khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình của toàn thành phố. Giai đoạn 1986 – 2000 là khoảng 20%/năm, năm 2001 – 2002 là 15,6%/năm, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong các ngành nay tăng từ 7,4% năm 1995 lên 10,4% năm 2002. + về điện tử tốc độ phát triển giai đoạn 1996 – 2000 là 76%/ năm, giai đoạn 2001 – 2002 là 25,3% trên/năm, trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng tương ứng là 12,4%/năm và 18,9%/năm. nhưng tỷ trọng còn thấp năm 1995 chiếm 5,84%, năm2002 chiếm 3,85%. +ngành chế biế lương thực thực phẩm giai đoạn 1996 - 2000 khu vực kinh tế tư nhân tăng 9,11%/ năm, giai đoạn 2001- 2002 là 24,93%/năm trong khi đó tốc độ tăng trung bình của thành phố là 9,87%/ năm giai đoạn 1996 – 2000, là 13,48%/năm giai đoạn 2001- 2002. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân tăng 15,1% năm 1995 lên 17,67% năm 2002. + về vật liệu xây dựng số lượng doanh nghiệp trong ngành này giảm mạnh giá trị sản suất khu vực kinh tế tư nhân tăng trung bình là 2,44%/năm giai đoạn 1996 – 2000, trong giai đoạn 2001 – 2002 là 11,5% thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế nhà nước. + về xây dựng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn. trong đó lớn nhất là vốn đầu tư để nâng cấp, cải tạo, đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại… đa số các doanh nghiệp kinh tế tư nhân hà nội có quy mô vốn bình quân là 2,5 tỷ đồng trong đó các doanh nghiệp có mức vốn dưới một tỷ xấp xĩ 80% tổng số. Tuy đã có tốc độ tăng trưởng song tỷ trọng giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân còn chiếm tỷ trọng thấp. 2.2.1.3. Phát triển nông nghiệp. Trong nông nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chiếm ưu thế tuyệt đối, phát triển khá tốt ở các hộ cá thể, hộ kinh tế trang trại và doanh nghiệp tư nhân đóng góp của kinh tế tư nhân trong sản xuất nông nghiệp toàn thành phố năm1995 là 96,2%, năm 2002 là 96,4%. 2.2.1.4.Phát triển các ngành dịch vụ. Khu vực kinh tế tư nhân tham gia các ngành như thương mại khách sạn nhà hàng đã phát triển tốt. Đóng góp quan trọng vào sản phẩm quốc nội dịch vụ thủ đô, các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính, bảo hiểm… vẫn do nhà nước và nước ngoài đảm nhận. Các doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và doanh thu trong giai đoạn 1995 – 2000 tốc độ tăng trung bình của khu vực của kinh tế tư nhân là 12,8%/ năm trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước là 4%/năm. Năm 2001 tăng 20,5%, Nhà nước là 12,6%. Năm 2002 tăng 10,9%, Nhà nước tăng 10,5%. Trong đó các hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân chiếm 64,3% năm 1995 và 69,0% vào năm 2002. Phương thức kinh doanh đã có sự thay đổi tích cực, một số công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần bước đầu phát triển hoạt động kinh doanh với quy mô lớn. Trên cơ sở xây dựng các siêu thị và cửa hàng tự chọn như siêu thị 218 Thái Hà với diện tích là 300 mét vuông, siêu thị sao Hà Nội là 200 mét vuông. 2.2.1.5. Hoạt động xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 101,4 triệu USD năm 2000 lên tới 7,23% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn. Năm 2001 là 112,3 triệu USD chiếm 7,48%, năm 2002 là 122,1 triệu USD chiếm 7,38% chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước. Nhưng trong 2 năm 2001 và 2002 tốc độc tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là 9,71%/ năm thì khu vực của Nhà nước là 8,72%, hoạt động nhập khẩu của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng giảm năm 2000 là 303,8 triệu USD xuống còn383,8 triệu USD năm 2002, tỷ trọng chiếm 10,13% năm 2000 xuống còn 8,47% năm 2002 trong kim ngạch xuất khẩu của Hà nội, hoạt động xuất khẩu tăng qua các năm và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu của thành phố, trong khi đó nhập khẩu của khu vực kinh tế tư nhân thành phố giảm về tuyệt đối và tương đối. 2.2.1.6. Giải quyết việc làm. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hà nội đã có sự đóng góp lớn trong việc giải quyết việc làm của Thủ đô, nếu chỉ tính riêng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội thì doanh nghiệp khư vực tư nhân đóng góp 21% tổng số lao động, nếu tính toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân thì chiếm 41% tổng số lao động trên địa bàn, hàng năm thì khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng cao. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trung bình tăng 13,5%/năm, doanh nghiệp tư nhân tăng 14,7%/năm. 2.2.2. Khó khăn về vốn. Vốn là vấn đề rất quan trọng đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, hiện nay vốn đã và đang là bài toán nan giải đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng, doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, bình quân một doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có mức vốn thực tế là 1,4 tỷ đồng. Trong đó chiếm 68% các doanh nghiệp có vốn dưới một tỷ đồng gồm 29% các doanh nghiệp số vốn từ 1- 5 tỷ đồng, trong cơ cấu vốn khoảng 45% giá trị tài sản cố định do đó bình quân mỗi một doanh nghiệp có khoảng trên dưới 500 triệu vốn lưu động, đó là một con số nhỏ bé để hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân rất khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thương mại và các nguồn tín dụng ưu đãi của nhà. Tỷ trọng tín dụng thương mại dành cho khu vực kinh tế tư nhân thường chỉ chiếm 10 - 20% tổng giá trị dư nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn Hà nội, vốn của các doanh nghiệp này vẫn chủ yếu hoạt động bằng vốn tự có của chủ doanh nghiệp, hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, vốn vay người quen , vốn chiếm dụng đối tác trong cơ cấu vốn vay của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân thì có tới hơn 72% là vay từ bạn bè bà con, chỉ có gần 28% là vay từ các ngân hàng thương mại, có 61,49% chủ doanh nghiệp trả lời không nhận được từ các ngân hàng thương mại do không có tài sản thế chấp, thủ tục phức tạp, lãi suất cao. Tính đến tháng 6/2003 dư nợ cho vay của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chỉ chiếm 11% tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế của các ngân hàng thương mại.Vấn đề tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng thì khó còn vốn ngoài ngân hàng thì chi phí cao, không chủ động và rủi ro cao và thương phải chấp nhận những điều kiện ràng buộc như mua bán chịu. Doanh nghiệp thường phải chịu mức giá “ngầm” cao hơn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0425.doc
Tài liệu liên quan