Mở rộng Thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Cổ phần May 10

CỘNG HOÀ XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----o0o---- LỜI CAM ĐOAN Kính gửi: - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Khoa thương mại Tên tôi là: Bùi Tá Hiểu Lớp : Thương mại quốc tế Khoá : 47 Hệ : Chính quy Mã SV : CQ460996 Trong thời gian thực tập theo quy định của Nhà trường, tôi được thực tập tại Phòng xuất nhập khẩu, công ty cổ phần May 10 (Sài Đồng – Long Biên – Hà Nội). Tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty Cổ

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng Thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại Công ty Cổ phần May 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần May 10” cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Tôi xin cam đoan bài báo cáo này hoàn toàn do tôi tìm hiểu, nghiên cứu và viết trong quá trình thực tập tại công ty, không sao chép chuyên đề, luận văn của các khoá trước. Nếu vi phạm tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Người viết Bùi Tá Hiểu LỜI MỞ ĐẦU Dệt may là một ngành công nghiệp có đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu cao nhưng phần lớn các sản phẩm dệt may đều được sản xuất dưới hình thức gia công. Tuy gia công không phải là hoạt động chủ lực mà Việt Nam hướng tới trong bước phát triển ngành dệt may nhưng hiện nay, gia công hàng may mặc xuất khẩu đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của ngành. Công ty cổ phần May 10 là một trong những công ty được thành lập đầu tiên trong ngành dệt may, chuyên sản xuất và kinh doanh hàng may mặc trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước chưa phát triển, các doanh nghiệp may mặc Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, cũng như rất nhiều các doanh nghiệp dệt may khác, công ty cổ phần May 10 cũng tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế bằng hình thức gia công sản phẩm cho các đối tác nước ngoài. Sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần May 10, tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty Cổ phần May 10” làm báo cáo thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài nghiên cứu là tìm hiểu hoạt động gia công và công tác mở rộng thị trường gia công hàng may mặc xuất khẩu tại công ty nhằm đưa ra một số giải pháp khả thi cho hoạt động gia công tại công ty cổ phần May 10. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả gia công hàng xuất khẩu may mặc tại công ty cổ phần May 10 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những lí luận cơ bản của gia công hàng may mặc xuất khẩu và công tác mở rộng thị trường, những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động gia công hàng may mặc xuất khẩu và thực trạng hoạt động này tại công ty cổ phần May 10. Báo cáo gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề về mở rộng thị trường gia công xuất khẩu và vài nét về hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam Chương II: Thực trạng thị trường gia công xuất khẩu và công tác mở rộng thị trường gia công xuất khẩu của công ty CP May 10 Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty CP May 10. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU VÀ VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM 1. Một số vấn đề về mở rộng thị trường gia công xuất khẩu 1.1 Thị trường và mở rộng thị trường 1.1.1 Khái niệm thị trường Thị trường là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa, được biểu hiện bằng các hoạt động mua bán, trao đổi, diễn ra trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Như vậy theo nghĩa rộng, thị trường chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, nơi gặp gỡ của cung và cầu. Nội dung, bản chất của thị trường là hoạt động trao đổi thông qua các hoạt động trao đổi lợi ích mà người mua và người bán thỏa mãn nhu cầu của mình.. Các tổ chức kinh doanh không chỉ bán mà họ còn mua khối lượng lớn các nguyên liệu, các bộ phận thành phẩm, dịch vụ lắp đặt, thiết bị phụ trợ, vật tư,… Các tổ chức mua hàng hoá và dịch vụ là để thoả mãn nhiều mục đích khác nhau: Kiếm lời, giảm bớt chi phí, đáp ứng những nhu cầu của công nhân viên và thoả mãn những nghĩa vụ pháp lý. Như vậy “thị trường các doanh nghiệp bao gồm tất cả các cá nhân và tổ chức mua hàng hoá và dịch vụ để sử dụng vào việc sản xuất ra các sản phẩm khác hay những dịch vụ khác để bán, cho thuê hay cung ứng cho những người khác để kiếm lời.” 1.1.2 Chức năng của thị trường Thị trường là môi trường chủ yếu cho các hoạt động kinh doanh, gắn liền với các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, do đó nó thực hiện các chức năng cơ bản sau: + Chức năng thừa nhận và thực hiện Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của thị trường. Khi quá trình trao đổi được diễn ra, điều đó cũng đồng nghĩa với việc thị trường thực hiện chức năng thừa nhận và chức năng trao đổi. Thị trường thừa nhận tính hai mặt của hàng hóa đem trao đổi là giá trị và giá trị sử dụng. Về giá trị, thị trường chấp nhận về giá cả nghĩa thị trường chấp nhận chi phí sản xuất. Thừa nhận giá trị của hàng hóa bao hàm cả sự thừa nhận của người tiêu dùng, đó là sự phù hợp giữa chất lượng sản phẩm, giá bán và khả năng thanh toán của khách hàng. Về mặt giá trị sử dụng, thị trường thừa nhận những lợi ích do sản phẩm mang lại, lợi ích này được phản ánh ở thị hiếu tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, và tâm lý tiêu dùng. + Chức năng điều tiết Thông qua các quy luật kinh tế, thị trường thực hiện chức năng điều tiết của mình. Đó là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu. Quá trình điều tiết này diễn ra ở cả hai thái cực, điều tiết sản xuất và điều tiết tiêu dùng. Thị trường có thể khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của một ngành sản xuất nào đó, từ đó tạo ra sự cân đối cung – cầu về một loại hàng, thay đổi cơ cấu sản xuất của các ngành, các vùng lãnh thổ. Thị trường còn điều tiết việc tiêu dùng các sản phẩm xã hội, có thể làm thay đổi mặt hàng tiêu dùng, cơ cấu tiêu dùng của dân cư. Với sự tác động của thị trường, người tiêu dùng sẽ cân nhắc, tính toán để gia tăng lợi ích của mình, cũng như sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. + Chức năng thông tin Thị trường luôn phản ánh đời sống kinh tế, chính trị và xã hội trong từng thời kỳ, thị trường là nơi chứa đựng các thông tin cho các nhà kinh doanh và người tiêu dùng. Đối với các nhà kinh doanh, quá trình nghiên cứu thị trường giúp họ có được những thông tin cần thiết như: Số lượng và cơ cấu cung –cầu hàng hóa, đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng, khả năng thanh toán, tình hình cạnh tranh…Từ đó giúp các nhà kinh doanh có chính sách Marketing cần thiết, ứng xử hợp lý với thị trường. Đối với người tiêu dùng, thị trường sẽ cung cấp các thông tin về hàng hóa, dịch vụ, giá cả, về các dịch vụ của nhà kinh doanh … Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là môi trường truyền tin giữa hai chủ thể. Nhà kinh doanh, thông qua thị trường giới thiệu, quảng cáo về sản phẩm của mình. Người tiêu dùng, thông qua thị trường phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của họ, những đòi hỏi mà các nhà kinh doanh phải đáp ứng. Việc thực hiện các chức năng của thị trường không tách rời nhau mà đan xen vào nhau. Cùng một hoạt động, thị trường có thể đồng thời thực hiện nhiều chức năng. 1.1.3 Vai trò của thị trường Thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô, cũng như đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế quốc dân, sự hoạt động của thị trường giúp cho quá trình trao đổi hàng hóa được diễn ra suôn sẻ, nhờ đó mà quá trình tái sản xuất được tiếp diễn bình thường. Đối với các doanh nghiệp, thị trường là bộ phận chủ yếu nhất trong môi trường kinh doanh. Thị trường là nơi hình thành và thực hiện các mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với môi trường xung quanh, giữa doanh nghiệp với cộng động dân cư cũng như hệ thống kinh tế quốc dân. Thị trường là nơi cung cấp các yếu tố “Đầu vào” và tiêu thụ “Đầu ra” cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy nghiên cứu nắm bắt được nhu cầu thị trường, từ đó xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm thỏa mãn và định hướng cho sự phát triển nhu cầu thị thị trường là nhiệm vụ quan trọng của hoạt động Marketing 1.1.4 Một số vấn đề về mở rộng thị trường 1.1.4.1 Sự cần thiết của mở rộng thị trường Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế, do vậy sự cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước là không thể tránh khỏi. Doanh nghiệp muốn phát triển thì phải củng cố được các thị trường đã chiếm lĩnh được và ngày càng mở rộng những thị trường mới. Trước hết, mở rộng thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp củng cố được vị trí của mình trên thị trường do gia tăng được thị phần so với các doanh nghiệp khác. Mặt khác, khi xâm nhập được vào một thị trường nào thì thương hiệu công ty và thương hiệu sản phẩm của công ty sẽ được phổ biến rộng rãi trong thị trường. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có những bước phát triển bền vững hơn. Thứ hai, khi thị trường được mở rộng sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng nhanh được doanh số bán, từ đó gia tăng được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thứ ba, việc mở rộng ra các thị trường mới sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào một hoặc một số ít thị trường chính, từ đó tránh được những ảnh hưởng tiêu cực khi thị trường truyền thống có những thay đổi theo chiều hướng xấu. 1.1.4.2 Nội dung của mở rộng thị trường Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó cho phép đánh giá quy mô và tiềm năng của thị trường và là cơ sở để lựa chọn thị trường và đoạn thị trường cần xâm nhập. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng để xác lập các chính sách marketing thích ứng với từng thị trường và môi trường của nó. Mỗi môi trường kinh doanh có sự khác biệt và thay đổi theo thời gian, do vậy công tác nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng khi muốn mở rộng thị trường. Việc nghiên cứu thị trường bao gồm những nội dung sau đây: - Hàng hoá trên thị trường: Việc nghiên cứu hàng hoá phải được tiến hành trên cả mặt định tính và định lượng. Về mặt định tính, phải nghiên cứu hàng hoá trên cơ sở nghiên cứu về nhu cầu của thị trường, chu kì sống của sản phẩm, tính chất thời vụ của tiêu dùng để rút ra được kết luận là sản phẩm đó có thể xâm nhập vào thị trường đó được không. Về mặt định lượng, cần nghiên cứu nếu hàng hoá đó xâm nhập vào thị trường đó thì có hiệu quả không thông qua các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí,… - Dung lượng thị trường: Việc thâm nhập vào thị trường có hiệu quả không phải xem xét trên sức mua của thị trường đó, tức dung lượng sản phẩm mà thị trường cần cung cấp. Việc nghiên cứu này thực chất là nghiên cứu về lượng cầu mà thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, sức cung của nhà cung cấp, nhà phân phối hiện tại trên thị trường để xác định xem dung lượng thị trường lớn hay nhỏ. - Giá cả hàng hoá: Doanh nghiệp cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới giá của sản phẩm, từ đó có cơ sở để xác định giá thâm nhập thị trường. - Nghiên cứu bạn hàng và các đối thủ cạnh tranh: về các thông tin như tư cách pháp lý, năng lực tài chính, uy tín và mức độ ảnh hưởng trên thị trường, quan điểm kinh doanh… b. Lựa chọn thị trường mục tiêu Thị trường tổng thể luôn bao gồm một số lượng lớn khách hàng với những nhu cầu, đặc tính và sức mua rất khác nhau. Sẽ không thể có một doanh nghiệp cá biệt nào có đủ khả năng cung ứng nhu cầu và ước muốn của mọi khách hàng tiềm năng. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp chỉ có một hoặc một vài thế mạnh xét trên một phương diện nào đó trong việc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu và ước muốn của thị trường. Do đó, việc lựa chọn đoạn thị trường mục tiêu là rất cần thiết. Sau khi đã có những thông tin cần thiết về thị trường mà doanh nghiệp muốn thâm nhập thì bước tiếp theo doanh nghiệp cần chọn phân đoạn thị trường nào thích hợp nhất để tiến hành thâm nhập. Thông thường, khi lựa chọn thị trường mục tiêu, doanh nghiệp dựa vào các yếu tố sau đây: - Quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường Một đoạn thị trường được coi là hiệu quả nếu doanh thu từ thị trường ấy bù đắp được những chi phí bỏ ra và có lợi nhuận không chỉ hiện tại mà cả tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định đúng đắn quy mô và sức tăng trưởng của thị trường luôn là vấn đề đầu tiên khi lựa chọn thị trường mục tiêu. Để đánh giá quy mô và mức tăng trưởng của đoạn thị trường, doanh nghiệp cần thu thập và phân tích các chỉ tiêu cần thiết như doanh số bán, sự thay đổi của doanh số bán, mức lãi và tỷ lệ thay đổi mức lãi,… - Mức độ hấp dẫn về cơ cấu thị trường Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì họ không phải là người bán duy nhất và các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp không chỉ đáp ứng cho một nhóm khách hàng. Doanh nghiệp thường xuyên phải đối phó với áp lực cạnh tranh và những đòi hỏi của khách hàng. Do vậy, mức độ hấp dẫn về cơ cấu thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Theo mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter thì doanh nghiệp sẽ phải chịu các tác động từ đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sức ép từ các nhà cung cấp, cạnh tranh giữa các hãng trong ngành, sức ép từ phía khách hàng và sự đe doạ của hàng thay thế. Như vậy, để phân tích được áp lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá ảnh hưởng của năm nhóm nhân tố đó tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Đe doạ từ sự gia nhập của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Sức ép từ phía khách hàng Sức ép từ phía nhà cung cấp Cạnh tranh giữa các hàng trong ngành Đe doạ của hàng thay thế Sơ đồ 1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter - Các mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp Một đoạn thị trường rất hấp dẫn vẫn có thể bị loại bỏ nếu chúng không ăn khớp với các chiến lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp cứ cố gắng theo đuổi sức hấp dẫn của thị trường vượt quá khả năng và mục tiêu của họ thì nguồn lực doanh nghiệp sẽ bị phân tán, khó tập trung cho các mục tiêu chiến lược. Vì vậy, khi lựa chọn thị trường mục tiêu, doanh nghiệp cần có những đánh giá xác đáng về các đoạn thị trường đó, đồng thời kết hợp với khả năng sẵn có của doanh nghiệp, trong tương quan với các đối thủ cạnh tranh để lựa chọn cho mình một hay vài đoạn thị trường để tập trung nguồn lực của mình nhằm đạt được mục tiêu đề ra. c. Nghiên cứu và lựa chọn bạn hàng Nghiên cứu bạn hàng là hoạt động nghiên cứu tìm hiểu về các doanh nghiệp có thể hợp tác làm ăn với mình. Các đối tác phải đảm bảo độ tin cậy cao thì mới có thể tiến tới hợp tác làm ăn kinh doanh. Đối tác càng có uy tín và thiện chí thì khả năng thực hiện hợp đồng càng cao và có thể thiết lập các quan hệ làm ăn lâu dài. Khi lựa chọn đối tác cần căn cứ vào các tiêu chí sau: Khả năng thanh toán: Đây là tiêu chí quan trọng khi lựa chọn bạn hàng. Đối tác có tiềm lực về tài chính và khả năng thanh toán nhanh chóng thì càng thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm các chi phí và thu hồi vốn nhanh. Chức năng, quyền hạn của đối tác: đối tác có quyền hạn và chức năng cao hơn của doanh nghiệp thì khả năng đàm phán và các ưu thế sẽ nghiêng về phía đối tác hơn. Trong kinh doanh, yếu tố giao dịch và đàm phán rất quan trọng. Doanh nghiệp cần xác định các lợi thế của mình trong các cuộc đàm phán để giành phần thắng lợi. Uy tín của đối tác trên thị trường: đây là tiêu chí quan trọng để quyết định hợp tác làm ăn. Đối tác có uy tín trên thị trường chứng tỏ họ được nhiều nhà sản xuất tin tưởng và hợp tác. Doanh nghiệp có thể lựa chọn những đối tác đã có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường để thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài. Tinh thần thiện chí: doanh nghiệp phải xem xét thái độ của đối tác có sẵn sàng liên kết, hợp tác hay không. Vì như vậy hai bên sẽ dễ dàng trao đổi và thảo luận các vấn đề mà cả hai cùng có lợi, giảm bớt các tranh chấp, tiết kiệm thời gian và chi phí. 1.1.4.3 Biện pháp mở rộng thị trường Doanh nghiệp có thể quyết định thâm nhập một hay nhiều khúc của thị trường cụ thể tuỳ theo chiến lược phát triển và chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tập trung vào một khúc duy nhất của thị trường tức là chọn phục vụ một mức nhu cầu nào đó ứng với một nhóm người tiêu dùng nhất định. Thứ hai, doanh nghiệp chỉ hướng vào nhu cầu của người mua hay doanh nghiệp chỉ tập trung vào việc thoả mãn một mức nhu cầu nào đó của khách hàng. Thứ ba, doanh nghiệp cũng có thể chỉ hướng vào một nhóm người tiêu dùng cụ thể nào đó. Thứ tư, doanh nghiệp chọn một vài khúc thị trường không liên quan đến nhau để phục vụ. Cuối cùng doanh nghiệp cũng có thể chọn cách chiếm lĩnh toàn bộ thị trường 1.2 Gia công xuất khẩu 1.2.1 Khái niệm về gia công xuất khẩu Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa thì gia công quốc tế được hiểu như sau: Gia công xuất khẩu là phương thức hợp tác sản xuất và trao đổi hàng hoá giữa các nước, theo đó, nước nhận gia công nhận nguyên liệu hoặc nhiên liệu và có thể cả thiết bị, máy móc của nước gia công để sản xuất ra thành phẩm theo những định mức, tiêu chuẩn cụ thể; và giao những thành phẩm đó cho nước gia công với những điều kiện do hai bên thoả thuận. Tiền công được trả bằng tiền hoặc bằng hàng. Phương thức này được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước dưới hình thức hợp tác sản xuất, chủ yếu là giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, phương thức gia công xuất khẩu rất được coi trọng. Phương thức này được xem là một một biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dồi dào, có tay nghề khá và khai thác cơ sở công nghiệp đã xây dựng trong buổi đầu thời kì công nghiệp hoá nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu nguyên liệu, vật tư (như sản xuất sợi, dệt vải, sản xuất hàng may mặc, dệt thảm,...). Mặt khác, đó cũng là biện pháp để tiến dần tới trình độ sản xuất hoàn chỉnh, như trong việc lắp ráp xe hơi. 1.2.2 Đặc điểm của hoạt động gia công xuất khẩu a. Đặc điểm của hoạt động gia công Phương thức gia công xuất khẩu rất phổ biến trong buôn bán ngoại thương của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế và quy định của pháp luật của các nước nên phương thức này phát triển ở mỗi nước rất khác nhau nhưng nhìn chung gia công xuất khẩu vẫn mang các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất: Sản xuất gắn liền với thương mại: Trong hoạt động gia công xuất khẩu bên đặt hàng vừa là nhà cung cấp trang thiết bị cho sản xuất, trong nhiều trường hợp còn cung cấp cả nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất và là người mua hàng nên đặc điểm này là đặc điểm cơ bản nhất của gia công xuất khẩu. Bên nhận gia công tiến hành sản xuất và nhận tiền công gia công. Phần lớn các hoạt động gia công sẽ cung cấp cả nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất, nhưng hiện nay có những trường hợp chỉ cung cấp máy móc thiết bị còn nguyên vật liệu do bên nhận gia công đảm nhận theo những yêu cầu của bên đặt gia công. Điều này đã thể hiện sự phát triển ngày càng cao của hoạt động gia công, phản ánh đúng sự vận động và phát triển của xã hội. Thứ hai: Gia công là phương thức sản xuất hàng hoá theo đơn đặt hàng: Bên đặt gia công sẽ đặt hàng cho bên gia công để sản xuất sản phẩm nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Văn bản để chứng tỏ tính pháp lý của đơn đặt hàng đó là hợp đồng gia công. Thứ ba: Nội dung của gia công bao gồm: sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt gia công. Sau khi ký hợp đồng gia công và đi vào sản xuất, bên nhận gia công sẽ phải tiến hành toàn bộ các công đoạn để sản xuất ra các sản phẩm hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu của bên đặt gia công với nguyên vật liệu do bên đặt gia công cung cấp hoặc yêu cầu. Toàn bộ các công đoạn từ khâu đưa nguyên vật liệu vào sản xuất đến khi sản phẩm hoàn thành và tiến hành đóng gói đều do bên gia công đảm nhận. Thứ tư: Khi tiến hành gia công có thể tiến hành chuyển giao công nghệ: Khi tiến hành ký kết hợp đồng gia công, tuỳ theo trình độ khoa học công nghệ của bên nhận gia công mà các doanh nghiệp đặt gia công có thể tiến hành chuyển giao công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý để bên nhận gia công có thể hoàn thành được hợp đồng. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ phải được thực hiện trên cơ sở luật pháp của hai bên. Thứ năm: Bên đặt gia công phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của quyền sở hữu công nghiệp đối với hàng hoá gia công. Khi đặt gia công, các mẫu mã mà bên đặt gia công giao cho bên nhận gia công để sản xuất hàng hóa phải là những mẫu mã thuộc quyền sở hữu của bên đặt gia công. Các mẫu mã này phải được bên đặt gia công đăng kí bản quyền tác giả và bên đặt gia công phải chịu mọi trách nhiệm nếu phát hiện những mẫu mã đó là vi phạm quyền tác giả. Thứ sáu: Bên đặt gia công có quyền cử thanh tra để kiểm tra, giám sát việc gia công tại nơi nhận gia công theo thỏa thuận giữa các bên nhằm tránh tình trạng sai sót trong khi sản xuất hàng gia công. Bên nhận gia công giao sản phẩm hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đề ra và nhận tiền công. b. Lợi ích của hoạt động gia công xuất khẩu - Đối với nền kinh tế quốc dân Hoạt động gia công có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Hoạt động gia công thu hút một lượng lớn lao động phổ thông, do đó góp phần giải quyết một lượng lớn lao động thất nghiệp cho đất nước, tăng thu nhập cho người dân. Thông qua hoạt động gia công, nước ta tận dụng được nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội cho đất nước. Đây cũng là một thế mạnh của gia công xuất khẩu tại Việt Nam. Đặc điểm của hoạt động gia công là bên đặt gia công cung cấp cho bên nhận gia công trang thiết bị máy móc cũng như kinh nghiệm quản lý để phục vụ hoạt động sản xuất hàng hoá và nhận tiền công. Do đó gia công góp phần thu hút thêm vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài, đồng thời tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Gia công chủ yếu là trong các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, khu vực công nghiệp cần nhiều lao động và là khu vực kinh tế cần hiện đại hóa trước tiên nếu muốn hiện đại hóa nền kinh tế. Do được trang bị về máy móc công nghệ nên nền sản xuất trong nước được tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại của thế giới, từ đó nâng cao được trình độ khoa học kỹ thuật trong nước. Ngoài ra, được tiếp xúc với các trang thiết bị cũng như kinh nghiệm quản lý, các doanh nghiệp trong nước sẽ dần dần tiếp thu được các tiến bộ trong sản xuất, nâng cao được chất lượng hàng hoá và rút kinh nghiệm để tiến hành sản xuất xuất khẩu trực tiếp. Bên cạnh đó, hoạt động gia công còn góp phần kích thích xuất khẩu trong nước. Hiện nay, phần lớn các hợp đồng gia công đều tự cung cấp nguyên phụ liệu để tiến hành sản xuất, do đó hoạt động này sẽ góp phần tăng vốn đầu tư kỹ thuật và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Nhờ gia công hàng hoá xuất khẩu mà có thể kết hợp xuất khẩu một số nguyên phụ liệu sẵn có trong nước, nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ. - Đối với doanh nghiệp gia công xuất khẩu Gia công xuất khẩu bên cạnh những lợi ích đối với nền kinh tế còn có lợi ích không nhỏ đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động này. Các doanh nghiệp được tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại, từ đó hiện đại hoá các trang thiết bị sản xuất trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động gia công còn giúp doanh nghiệp tiếp thu các kinh nghiệm quản lý tiên tiến, từ đó nâng cao khả năng quản lý doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Gia công xuất khẩu chủ yếu là cho các nước phát triển. Họ cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước các mẫu hàng để sản xuất. Chính sự cung cấp đó đã góp phần đưa các doanh nghiệp Việt Nam tiếp xúc với thị trường thế giới. Thông qua các mẫu mã mà họ cung cấp, các doanh nghiệp của ta có thể phân tích để từng bước định hình được phong cách tiêu dùng của thế giới, tiến tới tự cung cấp mẫu mã và tiến hành sản xuất xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 1.2.3 Phân loại hoạt động gia công xuất khẩu Căn cứ vào các tiêu chí, chúng ta có thể phân loại hoạt động gia công xuất khẩu như sau: a. Căn cứ theo quyền sở hữu nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, gia công xuất khẩu có các hình thức sau: - Hình thức nhận nguyên liệu giao sản phẩm: Trong hình thức này, bên nhận gia công sẽ tiến hành sản xuất bằng các bán thành phẩm hoặc nguyên phụ liệu do bên đặt gia công cung cấp và sau thời gian sản xuất sẽ thu lại sản phẩm hoàn chỉnh và trả phí gia công. Theo hình thức này thì trong thời gian gia công quyền sở hữu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm vẫn thuộc về bên đặt gia công. Bên nhận gia công không phải mua nguyên liệu nên được miễn các loại thuế đầu vào như thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cho phần nguyên liệu này. Đây là hình thức sơ khai của gia công xuất khẩu, tuy nhiên hình thức này không mang lại hiệu quả kinh tế cao vì bên nhận gia công chỉ được nhận tiền công. Bên cạnh đó, khi tiến hành nhận gia công theo hình thức này, bên nhận gia công sẽ bị phụ thuộc về nguyên liệu sản xuất còn bên đặt gia công có rủi ro là mất số nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm mà không nhận được hàng hoá nếu bên nhận gia công làm sai. - Hình thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm: Theo hình thức gia công này, bên đặt gia công sẽ cung cấp các tài liệu kỹ thuật, các mẫu mã sản phẩm cho bên nhận gia công sản xuất và mua lại hàng hoá sau khi đã sản xuất xong. Các nguyên liệu trong quá trình sản xuất sẽ do bên nhận gia công đảm nhận theo sự chỉ định của bên đặt gia công hoặc tự tìm nhà cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Như vậy, trong hình thức gia công này, quyền sở hữu nguyên vật liệu được chuyển giao từ bên nhận gia công sang bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ được hưởng số tiền là tiền công gia công và chi phí nguyên vật liệu dành cho sản xuất. Đây là hình thức phát triển cao của gia công xuất khẩu. Trong hình thức gia công này, bên nhận gia công có thể chủ động sản xuất theo kế hoạch của mình, đặc biệt nếu bên nhận gia công hoàn toàn tự mua nguyên phụ liệu thì sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động gia công. Ngoài ra, bên nhận gia công còn có thể mở rộng thị trường nguyên phụ liệu thông qua việc xây dựng mối quan hệ với các nhà cung cấp nguyên phụ liệu do bên đặt gia công chỉ định. Tuy nhiên, phương thức này có những bất lợi với bên nhận gia công là nếu không mua nguyên phụ liệu của nhà cung cấp do bên đặt gia công chỉ định thì sai hợp đồng, nhưng nếu mua lại thường hay bị ép giá. Bên đặt gia công có lợi thế là không bị mất số nguyên phụ liệu nếu bên nhận gia công làm sai, do vậy giảm bớt rủi ro trong quá trình đặt gia công đồng thời không phải chịu các chi phí trả trước cho số nguyên phụ liệu. Đây là hai phương thức chủ yếu của các doanh nghiệp khi tiến hành gia công xuất khẩu cho doanh nghiệp nước ngoài. b. Căn cứ theo giá cả gia công - Hợp đồng thực chi, thực thanh: Là hình thức gia công mà trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí trong quá trình gia công bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu, sửa chữa máy móc, trang thiết bị mà bên nhận gia công đã bỏ ra trong quá trình gia công cộng thêm phí gia công. - Hợp đồng khoán: Là hình thức gia công mà trong đó người ta đã xác định một mức giá nhất định cho mỗi sản phẩm bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bên vẫn thanh toán cho nhau theo định mức đó. Mục đích của hình thức gia công này là khuyến khích bên nhận gia công phải chú trọng vào tiết kiệm nguyên vật liệu và chi phí nhân công. Bên nhận gia công cũng phải nắm rõ giá định mức để tránh bù lỗ trong quá trình gia công. c. Căn cứ theo mức độ cung cấp nguyên phụ liệu: - Bên đặt gia công cung cấp 100% nguyên phụ liệu và bên nhận gia công sản xuất sản phẩm theo định mức đã thỏa thuận trong hợp đồng, sau đó sẽ trả lại thành phẩm cho bên đặt gia công hoặc sẽ giao cho bên thứ ba theo chỉ định. - Bên nhận gia công chỉ nhận nguyên liệu chính theo định mức còn nguyên liệu phụ thì tự khai thác theo đúng yêu cầu của khách hàng. - Bên nhận gia công không nhận bất cứ nguyên liệu phụ nào của khách hàng mà chỉ nhận ngoại tệ để mua nguyên liệu theo đúng yêu cầu d. Căn cứ theo nghĩa vụ của bên nhận gia công - CM (cutting and making): Người nhận gia công chỉ tiến hành pha cắt và chế tạo sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công - CMP (cutting, making and packaging): Người nhận gia công phải pha cắt, chế tạo và đóng gói sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. - CMPQ (cutting, making, packaging and quota fee): Người nhận gia công ngoài việc cắt may, đóng gói sản phẩm còn phải trả phí hạn ngạch theo quy định những mặt hàng được quản lí bằng hạn ngạch. Hiện nay công ty Cổ phần May 10 chỉ thực hiện gia công hàng may mặc xuất khẩu thông qua hai hình thức: gia công nhận nguyên liệu, giao thành phẩm và gia công mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Tuy nhiên, số hợp đồng gia công nhận nguyên liệu, giao thành phẩm của công ty đã giảm đi đáng kể, thay vào đó là hợp đồng mua nguyên liệu, bán thành phẩm bởi các hợp đồng này sẽ làm tăng giá trị gia công mà công ty nhận được. Số hợp đồng mua nguyên liệu, bán thành phẩm chiếm 70% – 80% trong tổng số hợp đồng gia công mà công ty May 10 nhận được. 2 Vài nét về hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam 2.1 Tình hình chung về hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam Từ sau khi đổi mới năm 1986, Đảng và Nhà nước đã và đang cố gắng xây dựng nền kinh tế Việt Nam ngày càng vững chắc. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế Việt Nam, đi kèm với nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư gián tiếp cũng sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Theo chiều hướng phát triển này, hoạt động gia công quốc tế của Việt Nam sẽ càng có cơ hội phát triển cả về quy mô lẫn tốc độ, không chỉ bó hẹp ở thị trường truyền thống mà sẽ vươn ra toàn cầu. Hiện tại có thể nói hoạt động gia công quốc tế của Việt Nam đang có những thành tựu vượt bậc so với giai đoạn trước. Trong hoạt động gia công quốc tế, Việt Nam tham gia chủ yếu ở vai trò bên nhận gia công. Có thể đánh giá sự phát triển của hoạt động gia công Việt Nam qua một số chỉ tiêu sau: 2.1.1 Kim ngạch gia công xuất khẩu Kim ngạch gia công hàng xuất khẩu không ngừng tăng lên trong các năm qua. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng gia công Việt Nam Đơn vị tính: Triệu USD Năm 2005 2006 2007 2008 Xuất gia công 5.912,4 7.759,0 8.912,4 10.319,2 (Nguồn: Bộ Tài Chính) Theo như bảng trên, kim ngạch gia công hàng hoá xuất khẩu của nước ta trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2008 luôn tăng với tốc độ nhanh. Năm 2005, kim ngạch gia công xuất khẩu đạt 5.912,4 triệu USD thì sang năm 2006 đã tăng lên 7.759,0 triệu USD, tăng 31.2% so với năm 2005. Năm 2007, kim ngạch gia công xuất khẩu tăng lên 15% so với năm 2006. Năm 2008 tăng lên 16% so với năm 2007. Như vậy có thể thấy rằng gia công xuất khẩu của Việt ._.Nam đang phát triển nhanh và mạnh mẽ. 2.1.2 Phương thức gia công Trước đây, khi tham gia vào hoạt động gia công xuất khẩu, Việt Nam chỉ đơn thuần cung cấp nhân lực gia công còn toàn bộ nguyên vật liệu dùng cho quá trình gia công phải nhập khẩu từ phía bên đặt gia công. Nguyên nhân của việc này là do khoa học công nghệ của nước ta quá lạc hậu so với thế giới, không thể sản xuất ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn của khách hàng đặt ra. Nhưng hiện nay chúng ta đã chú trọng tới việc tận dụng nguyên liệu có sẵn trong nước để chế biến một số nguyên phụ liệu đủ tiêu chuẩn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nhằm tăng hiệu quả của hoạt động gia công xuất khẩu. Việc bỏ vốn đầu tư thêm để sản xuất và sử dụng tối ưu nguồn nguyên phụ liệu trong nước là một định hướng sáng tạo để phát huy các lợi thế sẵn có của Việt Nam, làm cho khái niệm gia công không còn mang tính chất làm công, làm thuê nữa. Khi sử dụng các nguyên phụ liệu cho hợp đồng gia công quốc tế được sản xuất tại Việt Nam sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong việc: - Tăng khả năng tiêu thụ nguyên phụ liệu do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. - Tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong nước, tăng thu nhập cho người lao động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. - Tăng thêm doanh thu cho các doanh nghiệp trong nước, nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập quốc dân. - Tạo thị trường cho những sản phẩm được sản xuất bởi các doanh nghiệp Việt Nam nhưng chưa có điều kiện xuất khẩu sang nước ngoài. 2.1.3 Chủng loại hàng gia công Từ trước tới nay, tỷ trọng cơ cấu hàng gia công chủ yếu là mặt hàng may mặc, giầy dép, thêu ren, túi xách,… Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng các mặt hàng gia công trong đó có các mặt hàng phức tạp đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật cao như các sản phẩm linh kiện điện tử, máy nhắn tin. Đặc biệt, Việt Nam đang phát triển ngành gia công phần mềm, một ngành công nghiệp cần nhiều chất xám. Đây cũng là một bước phát triển lớn của gia công quốc tế tại Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có kinh nghiệm sản xuất hàng gia công và trình độ nhân công được nâng lên nên một số hãng danh tiếng trên thế giới đã đến Việt Nam đặt gia công như Pierr Cardin (may mặc Pháp), Reebok, Columbia, Nike, Everon,… Các hợp đồng gia công ký với Mỹ ngày càng nhiều đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành dệt may, giày dép, linh kiện điện tử nói riêng và gia công quốc tế nói chung. 2.1.4 Thị trường gia công xuất khẩu của Việt Nam Hiện nay, tỷ trọng những mặt hàng xuất khẩu thô, hàng nông sản lợi nhuận thấp, hàng gia công trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là rất cao. Trên 60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất khẩu dạng thô, gia công, giá trị gia tăng thấp. Trong nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu thì may mặc và giày dép tuy là những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhưng chủ yếu là do xuất gia công. Bên cạnh đó, hàng hóa xuất khẩu hầu hết chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới và tính cạnh tranh thấp. Cụ thể, 16 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ đô la Mỹ năm 2007 đều thuộc về các nhóm xuất thô và gia công như: xăng dầu, may mặc, thủy sản, cà phê, gạo và một số mặt hàng khác. Như vậy, có thể nói rằng thị trường gia công của các doanh nghiệp Việt Nam trải rất rộng, có thể kể tới các thị trường là: Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, EU, Canada,… và đặc biệt là Mỹ. Các thị trường như Hàn Quốc, Hồng Kông chủ yếu gia công các mặt hàng như giày dép, hàng may mặc do các doanh nghiệp thuộc các thị trường này thường nhận được những đơn hàng gia công của các doanh nghiệp EU, Mỹ,… và về đặt gia công lại với các doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản thường đặt các doanh nghiệp Việt Nam gia công các mặt hàng như giày dép, hàng may mặc,…. Có thể kể đến các tên tuổi lớn đặt gia công tại Việt Nam như Nike, Adidas, Pierr Cardin,… 2.2 Môi trường pháp lý cho hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam Môi trường luật pháp có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên môi trường quốc tế. 2.2.1 Môi trường luật pháp trong nước Hiện nay, luật pháp trong nước đang ngày càng được hoàn thiện để các doanh nghiệp có một hành lang pháp lí lành mạnh, ổn định giúp cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định. Trong những năm gần đây, chính phủ luôn coi mặt hàng dệt may là mặt hàng phát triển chiến lược của Việt Nam. Chính vì vậy mà Việt Nam luôn có những văn bản pháp luật để hướng dẫn và quy định về xuất khẩu, những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp dệt may. Đối với các nguyên phụ liệu của ngành dệt may nhập khẩu từ nước ngoài hoặc mua trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu thì không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng. Doanh nghiệp dệt may nếu đầu tư mới thì số thu nhập thu được từ đầu tư mới đó được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo (Luật khuyến khích đầu tư trong nước, chương 3 điều 10 khoản 1). Hồ sơ xin visa đã được giảm bớt nhiều giấy tờ. Hồ sơ xin visa không cần phải có ba loại chứng từ như trước đây bao gồm hợp đồng xuất khẩu, báo cáo quy trình sản xuất, tờ khai nhập nguyên phụ liệu mà chỉ kiểm tra tờ khai nhập khẩu nguyên phụ liệu hoặc tờ khai nhập khẩu nguyên liệu chính, đồng thời chấp nhận các loại chứng từ vận tải khác thay cho vận đơn. Đây là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may bởi các thủ tục hồ sơ đã giảm rõ rệt, đẩy nhanh quá trình làm thủ tục, tránh những chi phí phát sinh không cần thiết. Năm 2006, Bộ Thương mại đã ra thông báo mới: các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may số lượng dưới hai muơi tá không cần phải có sự phê duyệt của liên bộ. Đây là một thông báo rất có lợi cho các doanh nghiệp gia công xuất khẩu hàng mẫu cho bạn hàng kiểm tra vì số lượng hàng mẫu thường không lớn, nếu xin đủ giấy phép thì sẽ mất nhiều thời gian, gây kéo dài hợp đồng và tăng thêm chi phí sản xuất. Mặt khác, thông báo này cũng rất có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu hạn ngạch (xuất khẩu ít) sang Mỹ năm 2006 và các doanh nghiệp không bị giới hạn số lần xuất khẩu các lô hàng với số lượng ít như trên trong một năm. Luật Dân sự sửa đổi năm 2005 cũng đưa ra các quy định về hợp đồng gia công hàng hoá và các trường hợp giao chậm hàng cũng như việc chấm dứt, thanh lý hợp đồng, tiền công gia công,… Ngày 23/01/2006 Chính phủ ban hành Nghị đinh 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý, mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá đối với nước ngoài. Chương VI nghị định này quy định cụ thể các vấn đề về gia công cho thương nhân nước ngoài như đối tượng nhận gia công, các điều khoản chủ yếu của hợp đồng gia công, định mức tỷ lệ hao hụt nguyên vật liệu, phụ liệu vật tư, vấn đề thanh khoản hợp đồng gia công,… Chính các quy định trong nghị định này hình thành khung pháp lý cho các doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động gia công ở Việt Nam. Chính phủ còn ban hành thông tư quy định chi tiết như thông tư 113/TT-BTC ngày 25/12/2005 của Bộ Tài chính quy định các yêu cầu quản lý của Nhà nước với hàng hoá đặc thù. Thông tư 32/2007/TT-BTC ngày 09/04/2007 quy định về đối tượng miễn thuế giá trị gia tăng. Nước ta đã áp dụng biện pháp cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, giúp các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan và thông quan hải quan nhanh chóng. Như vậy luật pháp Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện, tạo những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh nói riêng và các doanh nghiệp dệt may nói chung. Tuy vậy, các hỗ trợ từ phía chính phủ vẫn chưa thật sự đầy đủ, khiến cho các doanh nghiệp của nước ta giảm khả năng cạnh tranh so với các đối thủ nước ngoài. Ví dụ như Bộ Tài chính quy định chi phí dành cho quảng cáo không quá 7% tổng chi phí, làm hạn chế khả năng mở rộng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi cũng với quy định về chi phí quảng cáo như vậy, các doanh nghiệp nước ngoài được phép dành chi phí quảng cáo tối đa 50% tổng chi phí. Đây là một bất lợi lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. 2.2.2 Luật pháp nước ngoài Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu, luật pháp nước ngoài ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều các tổ chức quốc tế và khu vực, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nói chung phải hiểu tường tận về các quy định cũng như luật pháp của nước và tổ chức mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Ví dụ như khi Việt Nam tham gia vào tổ chức ASEAN thì Việt Nam phải tuân thủ theo các điều khoản CEPT/ AFTA. Theo điều khoản đó thì Việt Nam phải giảm thuế xuất nhập khẩu xuống từ 0 – 5% trong vòng 10 năm. Khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì phải thực hiện hiệp định về hàng dệt may (ATC). Theo hiệp định này thì các nước phải dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch dệt may giai đoạn cuối cùng là 01/01/2005. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với những vụ kiện chống bán phá giá và các tiêu chuẩn kỹ thuật rất khắt khe khi tham gia vào các thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản... Đây cũng là một thử thách rất lớn mà các doanh nghiệp dệt may của nước ta gặp phải khi tham gia vào thị trường nước ngoài. 2.3 Lợi ích của hoạt động gia công xuất khẩu đối với Việt Nam Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, điều này không chỉ mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế mà đi cùng với nó là những thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập mà nếu không vượt qua được thì nền kinh tế sẽ chịu sự chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay những mặt hàng chúng ta đang sản xuất được thì các nước khác đã sản xuất được nhiều. Bên cạnh đó, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề thấp và tình trạng thiếu vốn trầm trọng,… là những nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Trong bối cảnh đó, gia công xuất khẩu đã tạo cơ hội cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. 2.3.1 Tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng Đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, để phát triển đất nước Việt Nam cần rất nhiều vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu không chỉ giúp chúng ta tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội mà còn có thể kết hợp xuất khẩu được một số nguyên liệu, vật tư mà trong nước đang sản xuất được, từ đó mở rộng ngành hàng xuất khẩu. Kim ngạch gia công xuất khẩu của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng 30%/năm đã góp phần không nhỏ vào nguồn thu ngoại tệ dùng để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế phát triển. 2.3.2 Thu hút lao động xã hội, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo sự ổn định chính trị - xã hội Lợi ích kinh tế của các nhà kinh doanh gia công quốc tế chủ yếu xuất phát từ chênh lệch giữa giá gia công giữa các nước. Gia công quốc tế phần lớn phát triển ở những ngành sử dụng nhiều lao động và đòi hỏi về tay nghề không cao. Với vai trò bên nhận gia công, Việt Nam đang tận dụng được lợi thế về nguồn lao động, đặc biệt là giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong xã hội với trình độ tay nghề thấp. Thêm vào đó một số mặt hàng lại mang tính chất thời vụ cho nên nguồn nhân lực nhàn rỗi theo thời vụ cũng được tận dụng. Điều này góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao đời sống cho người lao động. 2.3.3 Góp phần tăng cường mối liên hệ sản xuất giữa các ngành Nhờ phát triển gia công xuất khẩu mà hàng loạt ngành nghề liên quan đã có cơ hội và điều kiện phát triển, tiêu biểu là ngành cơ khí và ngành sản xuất các loạt phụ kiện. Đối với cơ khí, khi ngành gia công xuất khẩu càng phát triển thì nhu cầu về các thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất tăng. Điều này tạo điều kiện cho ngành cơ khí trong nước phát triển. Mặt khác, các mặt hàng gia công xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các mặt hàng giày dép, may mặc, phần mềm, vì vậy mà nhu cầu về các loạt phụ liệu như chỉ, khuy cúc, nhãn mác, các loại khoá kéo,… là rất lớn. Những loại phụ kiện này chủ yếu là do các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sản xuất. Nhờ vậy mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có cơ hội phát triển. 2.3.4 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam là thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài do có nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, có dân số đông và giá nhân công rẻ. Đặc biệt, trong mặt hàng da giày và dệt may thế giới thì Việt Nam được đánh giá khá cao do có nguồn nhân công rẻ, tay nghề cao. Hoạt động gia công xuất khẩu tạo cơ hội cho hàng gia công Việt Nam xâm nhập vào các thị trường trên thế giới, nhờ đó mà thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Vốn đầu tư nước ngoài có thể vào dưới các hình thức nhe hợp đồng hợp tác kinh doanh, các hoạt động liên doanh liên kết. Rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các đơn hàng đã nâng cao được trang thiết bị sản xuất nhờ sự giúp đỡ từ phía khách hàng nước ngoài. Như vậy có thể nói rằng hoạt động gia công xuất khẩu đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Tuy gia công không phải là phương thức xuất khẩu mà chúng ta hướng tới trong tương lai nhưng thông qua hoạt động gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những nền tảng vững chắc về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng thế giới, đồng thời tiếp thu các thành tựu về quản lý và khoa học kỹ thuật để dần nâng cao được chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian nghiên cứu thị trường, từ đó tiến tới xuất khẩu trực tiếp ra thị trường thế giới. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU VÀ CÔNG TÁC MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 2.1 Giới thiệu chung về công ty CP May 10 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty CP May 10 Công ty cổ phần May 10 (Garco 10) là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên sản xuất và kinh doanh hàng may mặc. Công ty thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex), có tên giao dịch quốc tế là GARMENT 10 JOINT STOCK COMPANY, tên viết tắt là GARCO 10. Trụ sở chính của công ty đặt tại Phường Sài Đồng, quận Long Biên, Hà Nội. Điện thoại: (84) – 04 – 827.6923 Fax: (84) – 04 – 827.6925 Tiền thân của công ty cổ phần May 10 ngày nay là các xưởng quân trang được thành lập ở các chiến khu toàn quốc từ năm 1946. Đến nay, sau hơn 60 năm hoạt động, công ty cổ phần May 10 đã trở thành một trong những công ty may mặc hàng đầu của Việt Nam, trực thuộc Bộ Công nghiệp. a. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp ( 1946 – 1954) Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, do nhu cầu quân trang, quân phục phục vụ bộ đội nên các tổ may được hình thành đáp ứng yêu cầu. Ngày 19/12/1946 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số nhà xưởng, nhà máy ở Hà Nội đã rời lên chiến khu Việt Bắc với nhiệm vụ phục vụ bộ đội về quân trang, tổ chức thành hai hệ xưởng sản xuất quân trang: hệ chủ lực và hệ bán công xưởng. Để giữ bí mật, các cơ sở sản xuất quân trang của quân ta đều được đánh bí số của quân đội như X1, X30, AM1, BK1, CK1, … và đây chính là tiền thân của công ty cổ phần May 10. Tại chiến khu Việt Bắc, hai xưởng may nhỏ là AK1 và CK1 được sát nhập lại thành xưởng may Hoàng Văn Thụ, sau đó ít lâu đổi thành xưởng may X1. Năm 1951 – 1952 nha quân nhu giải thể các bán công xưởng ở Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình lấy xưởng may ở liên khu 3 đóng ở Cầu Vàng (Yên Định – Thanh Hoá) rồi tập hợp các xưởng may khác lập thành xưởng may chủ lực X40. Đến năm 1952, xưởng May 1 ở Việt Bắc đổi thành xưởng May 10 với bí số X10. Năm 1952, do quy mô lớn hơn nên xưởng X10 di chuyển về Định Hoá (Bộc Nhiêu – Thái Nguyên) b. Giai đoạn 1954 – 1960 Năm 1954 kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, xưởng May 10 trở về Hà Nội để có điều kiện sản xuất tập trung hơn. Cùng thời gian này, xưởng May X40 ở Thanh Hoá cũng được lệnh chuyển ra Hà Nội sát nhập với xưởng May 10 và lấy Hội Xá, Bắc Ninh làm địa điểm chính. Như vậy cuối năm 1956 đầu năm 1957 xí nghiệp May 10 được mở rộng thêm, máy móc được trang bị thêm, nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp May 10 vẫn là may quân nhu trang bị cho quân đội nhưng mặt hàng sản xuất thì nhiều hơn, phức tạp hơn so với thời kì kháng chiến. c. Giai đoạn 1961 – 1964 Tháng 2/1961 xí nghiệp May 10 được chuyển sang Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý, từ đấy nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất theo kế hoạch của Bộ Công nghiệp nhẹ giao. Tuy chuyển đổi việc quản lý nhưng mật hàng chủ yếu mà xí nghiệp May 10 đảm nhiệm vẫn là sản xuất quân trang, quân phục phục vụ cho quân đội, tỷ lệ hàng năm chiếm tới 90% - 95%, còn thừa năng lực, xí nghiệp mới sản xuất thêm một số mặt hàng phục vụ xuất khẩu và dân dụng. Phần này chỉ chiếm 5% - 10%. Tuy nhiên cũng có những năm tỷ lệ này ít hơn. Như vậy, sau 4 năm (1961- 1964) chuyển sang Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý, từ một nhà máy sản xuất theo chế độ bao cấp sang phải tự hạch toán, thích ứng với thị trường nên bước đầu, xí nghiệp gặp không ít khó khăn. d. Giai đoạn 1965 – 1972 Năm 1965, giặc Mỹ đem không quân bắn phá miền Bắc để chặn nguồn chi viện cho miền Nam, xí nghiệp May 10 nằm cạnh trục đường 5, con đường giao thông huyết mạch, gần kho xăng dầu và cạnh sân bay Gia Lâm nên đã trở thành mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ. Trước tình hình đó, xí nghiệp đã hiểu rõ nhiệm vụ mới và nhanh chóng chuyển hướng hoạt động sản xuất, nhiệm vụ chủ yếu vẫn là sản xuất quân trang phục vụ quân đội. e. Giai đoạn 1973 – 1975 Năm 1973, hiệp định Paris được kí kết, Mỹ rút quân về nước. Nhận thức rõ cuộc chiến tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta sắp đến ngày kết thúc, cán bộ công nhân May 10 được cấp trên giao nhiệm vụ may nhiều quân trang phục vụ quân giải phóng. f. Giai đoạn năm 1975 – 1985 Đây là giai đoạn xí nghiệp chuyển hướng sang may gia công và kinh doanh hàng xuất khẩu. Thị trường chủ yếu của công ty là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Sản lượng và chất lượng của công ty ngày càng được tăng lên. g. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Đến năm 1987, do việc sát nhập các Bộ, xí nghiệp May 10 được đổi tên thành công ty May 10. Thời kì này công ty tiếp tục mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới. Năm 1990, nhà máy có 4 phân xưởng may. Năm 1992, số lượng công nhân viên là 1437 người. Tháng 1/1992 công ty chuyển về trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp). Ngày 23/04/1993, công ty May 10 được thành lập theo quyết định số 216 CNN/TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ, căn cứ theo quyết định số 388 – HĐBT của Chính phủ ngày 02/11/1991, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 106286 ngày 07/04/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội cấp. Từ thời điểm đó tới nay, trước tình hình biến động của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty khác, công ty May 10 vẫn đứng vững và phát triển với các mặt hàng sản xuất chủ yếu là các loại áo sơ mi, áo jacket, quần âu,… Năm 2004, trước yêu cầu cổ phần hoá các doanh nghiệp của Nhà nước, công ty May 10 đã tiến hành cổ phần hoá theo quyết định số 105/2004/QĐ-BCN của Bộ Công nghiệp với số vốn điều lệ là 54 tỷ đồng, trong đó, Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần và bán ra cho nhân viên trong công ty 49%. Trị giá thực tế của công ty May 10 tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2003 để cổ phần hoá là 191.582.176.851 đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại công ty là 54.364.533.575 đồng. (theo Quyết định số 2342/QĐ-TCKT ngày 03 tháng 9 năm 2004 của Bộ Công nghiệp) Như vậy, trong quá trình phát triển từ một đơn vị nhỏ bé, thiết bị lạc hậu chỉ sản xuất những sản phấm đơn giản, chủ yếu phục vụ quân đội, đến nay, May 10 không chỉ là đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đối mới, mà còn trở thành một trong những doanh nghiệp may hàng đầu của Việt Nam. Hiện nay, May l0 có 14 xí nghiệp thành viên, 8.000 lao động, 4.000 máy móc thiết bị hiện đại ngang tầm quốc tế. Năng lực mỗi năm đạt 18 triệu sản phẩm, trong đó 80% sản lượng được xuất khẩu đi các nước châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản... với những thương hiệu nổi tiếng thế giới như Pierre Cardin, Alain Delon, Seildensticker, Camel, Pharaon Series, Bigman, Cléopetre... 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của công ty Chức năng của công ty Công ty cổ phần May 10 trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam có chức năng chính là sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc như: áo sơ mi các loại, áo Jacket các loại, quần âu, quần soóc, bộ ngủ, quần áo bảo hộ lao động,… phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Phương thức chính để sản xuấtcủa công ty là nhận gia công toàn bộ, sản xuất hàng xuất khẩu dưới hình thức xuất FOB và sản xuất hàng phục vụ tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, công ty còn có thêm một số chức năng sau: Tổ chức thực hiện các chính sách bán sản phẩm, vận chuyển hàng hoá, kết nối kênh phân phối tại thị trường trong và ngoài nước. Chức năng dự trữ, bảo vệ, quản lý chất lượng hàng hoá, nghiên cứu và phát triển mặt hàng mới. Thu thập và phân tích các thông tin thị trường, các hoạt động của công ty để đưa ra các quyết định điều chỉnh, bổ sung về việc sản xuất kinh doanh sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, lợi nhuận của công ty,… Thực hiện các hoạt động hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ chức năng pháp nhân trước pháp luật. Nhiệm vụ của công ty Trong giai đoạn hiện nay, công ty đề ra một số nhiệm vụ cụ thể như sau: Công ty phải đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Đảm bảo công ăn việc làm ổn định, cải thiện và không ngừng nâng cao điều kiện làm việc cũng như đời sống cho cán bộ công nhân viên. Hoạch định công ty cổ phần May 10 trở thành một doanh nghiệp may thời trang với tầm vóc lớn trong nước cũng như trong khu vực. Phát triển đa dạng hoá sản phẩm, đẩy mạnh phát huy sản phẩm mũi nhọn và không ngừng nâng cao chất lượng và hệ thống quản lý chất lượng. Hoạch định cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của công ty. Nâng cao thị trường trong nước, ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu. Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật và của Nhà nước. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý sản xuất Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần May 10 được tổ chức theo kiểu trực tuyến và chức năng. Các phòng ban không trực tiếp ra quyết định xuống các bộ phận trực thuộc mà chủ yếu làm nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc trong quá trình chuẩn bị ban hành và thực hiện quyết định thuộc phạm vi của mình. a. Tổng giám đốc Tổng giám đốc có trách nhiệm và quyền hạn lớn nhất công ty, là người đại diện về pháp nhân của công ty, điều hành và chịu trách nhiệm các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của công ty và nhà nước. Tổng giám đốc có quyền chỉ đạo, giao nhiệm vụ, kiểm tra, bổ nhiệm, bãi miễn, khen thưởng, kỉ luật tuỳ theo mức độ mà Hội đồng khen thưởng, kỷ luật công ty xem xét thông qua. b. Phó tổng giám đốc Là người giúp việc cho Tổng giám đốc, được uỷ quyền thay mặt Tổng giám đốc giải quyết công việc khi Tổng giám đốc đi vắng. Phó tổng giám đốc phụ trách phòng kế hoạch, phòng kinh doanh, phòng QA và các xí nghiệp may. c. Ban giám đốc điều hành Giúp việc cho Tổng giám đốc điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Tổng giám đốc về các công việc được giao, trực tiếp quản lý các phòng như khối văn phòng, phòng kỹ thuật và các phân xưởng phụ trợ, các xí nghiệp may địa phương, phòng kho vận, phòng đào tạo. d. Các trưởng phòng, giám đốc xí nghiệp thành viên, các quản đốc phân xưởng Các bộ phận này đều dưới quyền phân công và chỉ đạo của Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và giám đốc điều hành, có trách nhiệm điều hành và quản lý con người, máy móc, các trang thiết bị trong đơn vị mình quản lý để tổ chức sản xuất tốt, mang lại hiệu quả cao nhất. e. Các phòng ban chức năng - Phòng kế hoạch: Quản lý công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch, xuất nhập khẩu, công tác cung ứng vật tư sản xuất, soạn thảo và thanh toán các hợp đồng, tổ chức tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu. - Phòng kinh doanh: Nghiên cứu, thăm dò và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng hệ thống các kênh phân phối tại thị trường trong nước, cung cấp vật tư, trang thiết bị theo yêu cầu đầu tư phát triển và kịp thời phục vụ Tổng GĐ CT HĐQT ĐDLĐ về ATSK Phó tổng GĐ GĐ điều hành ĐDLĐ về MT ĐDLĐ về CL GĐ điều hành GĐ điều hành P. Kinh doanh Phòng QA Tổ kiểm hoá Tổ quản trị Trưởng ca A Phòng kế hoạch 5 xí nghiệp may Tổ hòm hộp Trưởng ca B Văn phòng Ban đầu tư Phòng TCKT Các PX phụ trợ XN địa phương Phòng kho vận Trường đào tạo Tổ cắt A Tổ là A Các tổ cắtmay Các tổ may Tổ cắt B Tổ là B Nguồn: Ban tổ chức hành chính công ty May 10 Phòng kĩ thuật sản xuất, đàm phán ký hợp đồng tiêu thụ với các khách hàng trong nước, đặt hàng sản xuất với phòng kế hoạch,… - Phòng kỹ thuật: Xây dựng các loại định mức cho quá trình sản xuất như định mức nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm, định mức lao động, định mức thời gian,… đồng thời nghiên cứu ứng dụng phục vụ sản xuất, nghiên cứu đổi mới máy móc, thiết bị theo yêu cầu của công ty. - Ban đầu tư phát triển: Có nhiệm vụ nghiên cứu tìm tòi để nhập các thiết bị máy móc, thiết bị theo yêu cầu của công ty. - Phòng tài chính kế toán: Có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác kế toán tài chính của công ty nhằm sử dụng đồng tiền và đồng vốn đúng mục đích, đúng chế độ chính sách, hợp lý và phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Văn phòng công ty: Có chức năng giải quyết về nghiệp vụ quản lý sản xuất kinh doanh, vừa làm nhiệm vụ về hành chính và xã hội: tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương, hành chính, quản trị, y tế, nhà trẻ, bảo vệ quân sự và các hoạt động xã hội theo chính sách và pháp luật hiện hành. - Phòng chất lượng (phòng QA): Duy trì, kiểm tra, kiểm soát chất lượng từ khâu đầu vào đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất để sản phẩm xuất xưởng đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật đã quy định. - Phòng kho vận: có nhiệm vụ quản lý việc nhập kho và xuất kho các nguyên vật liệu sản xuất, các bán thành phẩm và thành phẩm, quản lý quá trình vận chuyển sản phẩm đến các hệ thống tiêu thụ… - Các phân xưởng phụ trợ là phân xưởng cơ điện, phân xưởng thêu - giặt – là, phân xưởng bao bì, trường Công nhân kỹ thuật may thời trang. 2.1.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm vừa qua của công ty CP May 10. Trong 4 năm từ năm 2005 – 2008, công ty đã có sự thay đổi lớn trong quá trình sản xuất kinh doanh, đó là quá trình chuyển từ công ty nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là một sự biến chuyển lớn mà cán bộ công nhân viên của công ty đã tích cực phấn đấu để đạt được. Mặc dù mới hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần nhưng công ty đã không ngừng tăng trưởng và phát triển, ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường nội địa và thị trường thế giới. Bảng 2: Tình hình SXKD của công ty CP May 10 trong thời gian từ 2005 -2008 Đơn vị tính: Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 1 Doanh thu 458,668 552,984 631,684 481,2 2 Lợi nhuận 12,964 14,391 15,83 16,5 3 Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu 417,872 482,465 505,347 383,5 4 Doanh thu từ hoạt động bán hàng nội địa 39,769 69,533 65 97,7 (Nguồn: Phòng kế toán – tài chính của công ty) Doanh thu Doanh thu là chỉ tiêu đầu tiên đánh giá kết quả kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào. Trong những năm qua, doanh thu của công ty có xu hướng tăng từ 458,668 tỷ đồng năm 2005 lên 481,2 năm 2008, trong đó các năm có sự biến động như sau: Năm 2006 doanh thu tăng 94,316 tỷ đồng, tăng lên 552,984 tỷ tương ứng tăng 20,56% so với năm 2005. Năm 2007 doanh thu tăng 78,7 tỷ đồng so với năm 2006. Tuy nhiên, sang năm 2008, doanh thu giảm xuống chỉ còn 481,2 tỷ đồng, giảm 150,484 tỷ đồng tương ứng giảm 23,82% so với năm 2007. Nguyên nhân của sự giảm doanh thu này là do sự giảm doanh thu từ hoạt động xuất khẩu. Tuy năm 2008 doanh thu giảm mạnh nhưng nguyên nhân từ môi trường bên ngoài tác động, không phải từ nội bộ công ty. Mặt khác, xét theo cả quá trình thì doanh thu trong quá trình từ năm 2005 – 2008 có xu hướng tăng. Đây là một chiều hướng tốt, thể hiện công ty đang ngày càng phát triển. Lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá công ty làm ăn có hiệu quả hay không, các hoạt động của công ty có được thực hiện tốt hay không. Trong năm 2005, lợi nhuận công ty đạt 12,964 tỷ. Năm 2006, lợi nhuận tăng thêm 15,17% so với năm 2005, tương ứng tăng 1,427 tỷ đồng, năm 2007 lợi nhuận tăng 1,439 tỷ đồng so với năm 2006. Năm 2008, lợi nhuận tăng nhẹ chỉ tăng 0,67 tỷ đồng so với năm 2007, tương ứng tăng 4,23%. Năm 2008, tuy doanh thu giảm nhưng lợi nhuận vẫn tăng là do nhiều nguyên nhân, trong đó co sự tiết kiệm trong chi phí sản xuất, chi phí quản lí và chi phí bán hàng của công ty. Các xí nghiệp của công ty đã chuyển sản xuất từ hai ca thành một ca, làm năng suất lao động tăng thêm 10%, trong khi đó chi phí về điện năng giảm được 8%. Bên cạnh đó, doanh thu từ hoạt động gia công tăng 20% nên lợi nhuận của công ty vẫn duy trì được và tăng nhẹ so với năm 2007. Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu Là một công ty kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu nên doanh thu từ hoạt động này hàng năm chiếm từ 75% - 80% tổng doanh thu của toàn bộ công ty. Năm 2005, doanh thu từ hoạt động này đạt 417,872 tỷ đồng thì sang năm 2006 tăng lên 482,465 tỷ đồng, tức là tăng thêm 64,593 tỷ đồng so với năm 2005. Năm 2007, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tăng thêm 22,882 tỷ đồng so với năm 2006 tương ứng với tăng 4,7%. Năm 2008, doanh thu này giảm xuống còn 383,5 tỷ đồng, tương đương với giảm 121,847 tỷ. Như vậy, doanh thu của năm 2006 là cao nhất. Năm 2008, doanh thu giảm xuống là do có sự khó khăn từ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng, trong đó có công ty cổ phần May 10. Sang năm 2008, sự suy thoái của nền kinh tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới doanh thu xuất khẩu của công ty. Doanh thu của hoạt động xuất khẩu giảm xuống 24,11% so với năm 2007. Trong tình hình mới này, công ty cần có các biện pháp cụ thể để tìm được các đơn đặt hàng mới, bên cạnh đó cần chú trọng phát triển thương hiệu của công ty, đặc biệt với sản phẩm xuất khẩu chủ đạo như sơ mi nam và veston để nâng cao được doanh thu và mở rộng thị tr._. lớn này. Việt Nam đã gia nhập WTO, tức là Việt Nam đã được hưởng mọi chính sách ưu đãi khi xuất khẩu hàng hoá sang các nước là thành viên của WTO, trong đó có các sản phẩm dệt may. Đồng thời sẽ được đối xử công bằng khi có tranh chấp trong kinh doanh quốc tế. Như vậy May 10 sẽ có những điều kiện thuận lợi hơn để mở rộng thị trường gia công xuất khẩu cho mình. Trong những năm qua Việt Nam đã và đang tăng cường quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ thương mại với hơn 150 nước trên thế giới. Không chỉ thế Việt Nam còn rất tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, APEC, ASEM…; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường cho May 10 là rất lớn. 3.1.3.2 Thách thức Việt Nam đang trong tiến trình gia nhập AFTA, thực hiện tiến trình CEPT nên tất cả các sản phẩm dệt may sẽ bị giảm dần mức bảo hộ của Nhà nước. Thách thức lớn nhất và cũng là mối quan tâm lớn nhất không chỉ của riêng May 10, của ngành dệt may mà của cả Chính Phủ Việt Nam là phải đối mặt với sự cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm dệt may của các nước thành viên ở cả thị trường trong nước và thị trường khu vực khi từ 01/06/2006 sẽ xoá bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ bằng phi thuế quan. Sự cạnh tranh trên thị trường dệt may hiện nay cũng rất quyết liệt, trong đó Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh lớn với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá, chất lượng hàng hoá và giá rẻ do họ có thể tự túc toàn bộ từ khâu cung cấp nguyên phụ liệu cho tới công nghệ sản xuất cho ngành dệt may; một số nước ASEAN như Phillipines, Thái Lan, Indonesia là những nước xuất khẩu dệt may lớn, đã có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy giá nhân công ở Việt Nam rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác nhưng họ lại có ưu thế hơn trong việc cung cấp nguyên phụ liệu, họ có thể tự túc được vải và các phụ kiện may chất lượng cao, vì vậy mà giá thành sản phẩm của họ vẫn thấp hơn so với Việt Nam. Bên cạnh các nước này thì Mehico, Canada và các nước vùng Caribe đang là những quốc gia có xu thế và có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dệt may trong những năm tới và họ sẽ là những đối thủ cạnh tranh mạnh của nước ta trong việc cung cấp các sản phẩm dệt may. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO nên Việt Nam được hưởng các lợi ích từ hiệp định ATC. Theo những điều khoản trong hiệp định này các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản…sẽ dần xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu các sản phẩm dệt may từ các nước là thành viên của WTO theo một lộ trình đã định sẵn, theo đó bắt đầu từ ngày 01/01/2005 sẽ xoá bỏ hết hạn ngạch dệt may đối với các nước thành viên của WTO. Hơn thế hầu hết các đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam, các nước trong khu vực và có tiềm năng xuất khẩu lớn đều là thành viên của WTO. Chính vì vậy các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang phải đương đầu với những thử thách vô cùng khó khăn. Việc xoá bỏ hạn ngạch từ 01/01/2005 các chuyên gia dự đoán sẽ có sự bùng nổ xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ và EU. Đơn giá sản phẩm sẽ tiếp tục giảm, các nước và các nhà cung cấp sẽ giảm xuống nên sản xuất trong nước của các nước nhập khẩu (trong đó có Việt Nam) sẽ suy giảm và nhiều công ăn việc làm sẽ biến mất. Tại các thị trường xuất khẩu chủ yếu, các sản phẩm của Công ty cũng đang phải cạnh tranh quyết liệt với các sản phẩm của các nước khác và còn vấp phải các rào cản từ phiá các nhà nhập khẩu. Khi xuất khẩu vào EU, May 10 vấp phải các rào cản kỹ thuật, đó chính là những quy định về chất lượng, môi trường và trách nhiệm xã hội; nếu như các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Công ty vượt qua được các rào cản này thì khả năng cạnh tranh của May 10trên thị trường EU sẽ được nâng lên rất nhiều và nó sẽ trở thành sự lựa chọn hàng đầu đối với người tiêu dùng EU. Đối với thị trường Mỹ, hiệp định thương mại Việt Nam-Mỹ được ký kết đã mở ra nhiều cơ hội mới cho May 10 xong thời gian được xuất khẩu tự do quá ngắn, nó không đủ cho Công ty thực hiện các bước cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững tại thị trường Mỹ, đồng thời Việt Nam cũng phải cạnh tranh với rất nhiều đối thủ khác tại đây như Mehico, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc-các nước này chiếm trên 60% lượng hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Còn thị trường Nhật Bản tuy không áp đặt Quota đối với các sản phẩm dệt may của Việt Nam nhưng May 10 rất khó cạnh tranh trên thị trường này do Trung Quốc đã chiếm gần 80% thị phần; thêm vào đó nền kinh tế Nhật Bản đang tiếp tục bị suy thoái nên sức mua của người dân vẫn giảm, vì vậy Công ty khó khăn lại càng khó khăn hơn trong việc xuất khẩu sang Nhật Bản. Như vậy May 10 và các đơn vị thành viên phải đương đầu với rất nhiều thử thách, nếu không được đầu tư đúng mức về mọi phương diện thì khó có thể đứng vững trên thị trường thế giới. 3.2 Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường gia công xuất khẩu của công ty cổ phần May 10 3.2.1 Nhóm giải pháp về sản phẩm 3.2.1.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động Một công ty muốn tăng khả năng cạnh tranh thì rất cần chú trọng đến việc nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm và phải chú ý đến việc đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng chứ không phải sản xuất tràn lan. Do đó để giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm thì điều cần thực hiện là phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đưa vào sản xuất, tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của khách hàng về chủng loại hàng hóa, quy trình sản xuất, quy cách kỹ thuật, nhãn mắc, bao bì, chú trọng nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động. Bên cạnh việc triển khai và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002, các chứng chỉ xã hội SA8000 và chứng chỉ về môi trường ISO14000 cũng rất cần thiết trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng cần phải có sự thay đổi từ hệ thống nhà xưởng. Công ty cần đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu và trong sản xuất. Kiểm tra quá trình sản xuất đảm bảo sản xuất các sản phẩm đúng yêu cầu kĩ thuật. Đối với các sản phẩm không đạt yêu cầu cần phải loại bỏ ngay. Bên cạnh đó đốc thúc các tổ trưởng tổ sản xuất phải có sự kiểm tra chặt chẽ các thông số kỹ thuật ngay từ khi sản phẩm mới ở giai đoạn đầu. Phòng QA ngoài việc kiểm tra thường xuyên các quy trình sản xuất thì cũng phải kiểm tra đột xuất tại các dây chuyền nhằm khắc phục ngay những sai sót, tránh trường hợp đến khi hoàn thành xong mới kiểm tra, sẽ mất nhiều thời gian sửa lại số lượng lớn hàng bị hỏng. Ngoài việc người công nhân làm đúng chất lượng thì các tổ trưởng tổ sản xuất cũng cần được đào tạo để nâng cao ý thức trong việc đọc quy trình sản xuất để công nhân làm theo. Ở công ty đã có những trường hợp tổ trưởng đọc sai quy trình sản xuất khiến các mã hàng đã được sản xuất xong toàn bộ phải tháo ra sửa lại, làm giảm năng suất lao động và ảnh hưởng tới thu nhập của người lao động. Bảo quản, lưu trữ nguyên phụ liệu cẩn thận, tránh những ảnh hưởng làm giảm phẩm chất của nguyên phụ liệu. Công ty cần xây dựng hệ thống kho hàng chắc chắn, đạt tiêu chuẩn về độ ẩm, độ thoáng và an toàn về các tiêu chuẩn phòng chống cháy nổ, đảm bảo không xảy ra hiện tượng mất mát, hao hụt nguyên phụ liệu và thành phẩm nhập vào kho. Việc bảo quản các thành phẩm cũng rất quan trọng. Nếu trong quá trình sản xuất sản xuất ra các sản phẩm đủ tiêu chuẩn nhưng chỉ vì khâu bảo quản không tốt mà chất lượng bị giảm xuống thì cũng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. Do vậy các cán bộ phòng QA phải tăng cường kiểm tra chất lượng hàng nhập về, phòng kho vận phải chịu trách nhiệm bảo quản nguyên phụ liệu và thành phẩm không bị suy giảm phẩm chất. Các thành phẩm trước khi xuất xưởng phải được thực hiện nghiêm ngặt theo hệ thống chất lượng ISO. Chia ca sản xuất một cách hợp lí để vừa tạo được năng suất cao mà lại tiết kiệm được chi phí. Các cán bộ quản lý trong phân xưởng phải quản lí tốt tiến độ sản xuất trong phân xưởng mình, đảm bảo được tiến độ sản xuất theo đúng kế hoạch. Tăng cường tính chuyên môn hóa trong sản xuất để tăng năng suất lao động, tránh tình trạng công nhân bộ phận này nghỉ thì điều công nhân của bộ phận khác sang làm thay. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới năng suất mà lại hay xảy ra các sai sót do công nhân không thạo việc. 3.2.1.2 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Nhân lực là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Nếu có cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ và hiện đại nhưng nguồn nhân lực không đảm bảo, tay nghề yếu kém thì cũng không thể sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng. Hiện nay công ty CP May 10 đã có một trường đào tạo nghề để đào tạo và nâng cao tay nghề cho công nhân, tuy nhiên, công ty vẫn cần phải có những giải pháp để nâng cao hơn nữa nguồn nhân lực của mình. - Đầu tư hơn nữa vào các trường dạy nghề của mình như đầu tư vào cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị giảng dạy cho phù hợp với trình độ của công nghiệp sản xuất may mặc đang được sử dụng trong các doanh nghiệp để sau khi được đào tạo các học viên có thể thích nghi ngay với môi trường làm việc thực tế. - Tăng cường hợp tác đào tạo với các trường đại học có đào tạo về kỹ thuật dệt may như đại học Bách Khoa, đại học Mỹ thuật Công nghiệp, đại học kiến trúc… để đào tạo một đội ngũ kỹ sư thực hành, các nhà thiết kế thới trang chất lượng cao. Đồng thời tổ chức cho họ được đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm về công nghiệp thời trang của các nước trên thế giới. - Kết hợp chặt chẽ với các trường đại học khối kinh tế như đại học Kinh Tế Quốc Dân, đại học Thương Mại, Đại học Ngoại Thương…trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và các cán bộ kinh tế cho Công ty. Sau mỗi khoá học hay tập huấn nên cấp chứng chỉ tốt nghiệp và có thể coi đó như là một trong những tiêu chuẩn để trẻ hoá đội ngũ cán bộ quản lý. Trong việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ quản lý cần có sự kết hợp hợp lý giữa các lớp cán bộ để đảm bảo cho May 10 có được một đội ngũ cán bộ vừa năng động sáng tạo, vừa giàu kinh nghiệm. Thường xuyên tổ chức đào tạo lại cho các cán bộ công nhân viên của Công ty để họ nâng cao trình độ năng lực của mình và đồng thời cập nhật kịp thời khoa học kỹ thuật hiện đại để ứng dụng vào trong sản xuất. Trên cơ sở đó làm tăng hiệu quả quản lý và làm tăng năng suất lao động. Đa dạng hoá kỹ năng của người lao động để đảm bảo cho họ có khả năng thích ứng nhanh với các khâu sản xuất khi có sự điều chỉnh dây truyền sản xuất trong doanh nghiệp, làm cho cơ cấu lao động không bị ảnh hưởng khi doanh nghiệp có những biến đổi. Đồng thời nó cũng giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi phí phát sinh do những thay đổi trong sản xuất dẫn tới sự chuyển dịch lao động trong doanh nghiệp. Hàng năm Công ty nên mở các cuộc thi tay nghề giỏi cho người lao động để họ có thể được học những kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất thực tiễn của nhau. Mặt khác nó giúp cho Công ty có thể phát hiện ra những nhân tài trong nội bộ, từ đó có những kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kịp thời và cụ thể đối với từng lao động. Với các biện pháp trên, May 10 sẽ có một đội ngũ công nhân sản xuất trực tiếp lành nghề, có khả năng tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, ít bị sai sót nên sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh hơn trên thị trường và dễ thâm nhập vào các thị trường hơn. Một đội ngũ quản lý giỏi, linh hoạt, năng động, sáng tạo và giàu kinh nghiệm sẽ giúp cho May 10 có những chiến lược cụ thể và những bước đi vững chắc trong công tác mở rộng thị trường xuất khẩu. 3.2.1.3 Hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ cho việc gia công Theo như đánh giá của các chuyên gia thì công nghệ sản xuất của ngành dệt may Việt Nam nói chung và của Công ty CP May 10 nói riêng là lạc hậu 10 năm so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó công nghệ sản xuất ngày càng có ý nghĩa quyết định hơn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Điều đó buộc May 10 cần nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ của mình với chi phí thấp nhất và phù hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam. Để làm được điều đó Công ty cần: Nhập khẩu các thiết bị dệt may hiện đại, sau đó học tập các nguyên tắc thiết kế để tự thiết kế lại và cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất của May 10. Những bộ phận nào mà trong nước chưa sản xuất được thì có thể tiến hành nhập khẩu. Nhập các thiết bị dệt may tương đối hiện đại nhưng mức độ tự động hoá còn thấp, sau đó sẽ tiến hành nghiên cứu để nâng cấp mức tự động hoá của thiết bị vừa nhập. Ban kỹ thuật và đầu tư của Công ty cần phối hợp với các cơ quan tiến hành nghiên cứu chế tạo các thiết bị phục vụ cho công nghiệp dệt may trong việc thiết kế và chế tạo các loại máy móc, thiết bị quá đắt không thể nhập khẩu được. Khai thác các thông tin qua mạng Internet; tăng cường liên doanh liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp dệt may tiên tiến và hiện đại của nước ngoài để tìm kiếm và đổi mới công nghệ hiện đại, tìm kiếm sự trợ giúp của các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước trong lĩnh vực dệt may. Coi hiện đại hoá công nghệ sản xuất là một quá trình phát triển từ thấp tới cao, xác định được mức công nghệ sản xuất phù hợp với mình. Từ đó để lựa chọn công nghệ sản xuất và hiện đại hoá dần dần từng bước. 3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao tính cạnh tranh, uy tín và thương hiệu của công ty 3.2.2.1 Nâng cao tính cạnh tranh, thương hiệu và uy tín của công ty Trong xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc nâng cao tính cạnh tranh của công ty là một điều tất yếu. Sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần May 10, từ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, em xin đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh, thương hiệu và uy tín của công ty của công ty. Cụ thể như sau: Không ngừng nâng cao tay nghề của người lao động. Công ty cũng cần nâng cao chất lượng của ban quản lý sản xuất tại các phân xưởng và đội ngũ thiết kế. Hàng may mặc là một mặt hàng nhạy cảm với gu thẩm mĩ nên cần có những sản phẩm mang tính thẩm mĩ cao, hợp thời trang,… Đây sẽ là một điểm mạnh, thu hút được khách hàng nếu công ty có một đội ngũ thiết kế giỏi, nắm bắt được xu hướng của thị trường. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thì công ty cần đảm bảo chất lượng đối với từng mã hàng. Các cán bộ trong phân xưởng sản xuất phối hợp với phòng QA kiểm tra chất lượng của sản phẩm ngay tại dây chuyền sản xuất và trước khi xuất kho, đảm bảo không có sản phẩm lỗi, hỏng khi xuất xưởng. Ngoài ra cần xây dựng kế hoạch sản xuất cụ thể, rõ ràng, chính xác nhằm đảm bảo giao hàng đúng thời hạn, tránh phải bồi thường do chậm hợp đồng mà công ty còn mất đi uy tín của mình với khách hàng. Đảm bảo thực hiện hợp đồng đúng các điều khoản đã kí, không để xảy ra tình trạng thiếu hụt sản phẩm sau khi đã xuất hàng vì điều này sẽ làm mất uy tín của công ty và tăng chi phí bồi thường, khắc phục. Để đảm bảo được điều này các cán bộ trong phòng kho vận của công ty cần kiểm tra kĩ lưỡng số lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu. Ban đầu tư của công ty cũng cần đầu tư công nghệ, xây dựng chiến lược về một số mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Nâng cao năng suất lao động, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất nhằm giảm bớt những khoản chi phí không cần thiết, nâng cao được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đối với những bạn hàng lâu năm, công ty nên có những chính sách ưu ái và thường xuyên có sự liên lạc để duy trì mối quan hệ. Có thể không cần phải tuần nào cũng liên lạc, điều này sẽ gây ra sự khó chịu đối với khách hàng. Công ty nên liên lạc hàng tháng, có thể bằng e-mail để cung cấp cho khách hàng những mẫu sản phẩm mới, giá chào gia công đối với các mặt hàng,… Như vậy vừa tránh cho khách hàng quên mất công ty mà còn có thể cung cấp cho họ những thông tin về công ty, giúp cho sự thương lượng về hợp đồng trở nên nhanh chóng trong một số điều khoản. Công ty cần có trách nhiệm cao với cộng đồng xã hội. Đây cũng là biện pháp để công ty nâng cao được uy tín của mình trong kinh doanh. 3.2.2.2 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để củng cố và thiết lập nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết với các bạn hàng. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế hiện nay doanh nghiệp nào không chủ động hội nhập thì sẽ bị tụt hậu và có khả năng sẽ bị đào thải ra khỏi nền kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá đang làm nảy sinh nhiều thách thức cho nhiều công ty khác nhau và những thách thức này không ngừng thay đổi. Hơn thế trong kinh doanh, doanh nghiệp không tồn tại một cách độc lập mà nó tồn tại trong rất nhiều các mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là trong kinh doanh gia công xuất khẩu. Công ty Cổ phần May 10 không phải là một ngoại lệ. Tăng cường liên doanh liên kết sẽ giúp cho công ty và các đơn vị thành viên nhanh chóng đổi mới công nghệ sản xuất, thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn, tận dụng được cơ sở vật chất của các đối tác ở nước ngoài. Vì vậy chi phí để sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của Công ty sẽ giảm đi rất nhiều, hơn thế May 10 còn có thể nhanh chóng thâm nhập và mở rộng thị trường qua việc sử dụng các kênh phân phối đã được hình thành sẵn của các đối tác. Để đạt được kết quả cao trong công tác mở rộng thị trường gia công xuất khẩu Công ty Cổ phần May 10 cần chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới. Công ty cần tích cực tham gia và chủ động tổ chức các buổi triển lãm, hội chợ quốc tế vì đó là những cơ hội tốt để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, tìm kiếm các đối tác trong kinh doanh và qua đó Công ty thấy rõ được vị thế của mình giữa các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác Công ty cần thúc đẩy việc mở các văn phòng đại diện, các cửa hàng bán lẻ, thiết lập hệ thống phân phối của mình tại các nước nhập khẩu, tạo cơ hội hiểu rõ hơn về thị trường và khai thác thị trường có hiệu quả hơn. Chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như Internet, thông qua các đại lý… Trong giao dịch đàm phán với các khách hàng nước ngoài, Công ty cần xây dựng cho mình đội ngũ những người thông thạo ngoại ngữ, thông thạo nghiệp vụ chuyên môn, hiểu biết và có khả năng phản ứng nhanh. Công ty không nên quá phụ thuộc vào việc giao dịch qua e-mail để thiết lập các quan hệ đối tác, nên tiếp tục giao dịch với các khách hàng của mình qua điện thoại hay các cuộc viếng thăm trực tiếp. Khi đã thiết lập được các mối quan hệ với khách hàng thì việc duy trì các mối quan hệ đó sẽ giúp Công ty Cổ phần May 10 rất nhiều trong việc khắc phục các bất lợi về khoảng cách với thị trường dệt may thế giới. 3.2.2.3 Xây dựng và phát triển thương hiệu. Thương hiệu có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thương hiệu của sản phẩm và của doanh nghiệp sẽ giúp May 10 thâm nhập và mở rộng thị trường dễ dàng hơn, vì vậy mà Công ty cần đầu tư ưu tiên cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Để tạo ra thương doanh nghiệp dệt may có uy tín, Công ty cần sản xuất một vài thương hiệu sản phẩm với đẳng cấp và chất lượng khác nhau cho các nhóm khách hàng mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên hiện nay trên thị trường thế giới có khá nhiều các thương hiệu may mặc đã nổi tiếng của các trung tâm thời trang lớn của nước ngoài, vì vậy thương hiệu thời trang Việt Nam rất khó có thể thâm nhập được vào. Các thương hiệu may mặc nổi tiếng đó đã tồn tại trong rất nhiều năm, được các nhà sản xuất đầu tư với một chi phí khổng lồ. Do đó trước mắt Công ty nên tập trung nguồn lực để xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu có uy tín về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn và có trách nhiệm cao với cộng đồng nhằm thu hút các đơn đặt hàng lớn, ổn định và có giá cả phù hợp từ phía các nhà nhập khẩu đã có thương hiệu nổi tiếng và thuộc đẳng cấp cao. Thực tế cho thấy May 10 đã có hướng đầu tư vào xây dựng và phát triển thương hiệu và bước đầu có những thành công với thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu uy tín nên họ luôn nhận được các đơn hàng lớn, ổn định và giá cao hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Như vậy để có được những kết quả cao hơn trong việc mở rộng thị trường gia công xuất khẩu thì xây dựng và quảng bá thương hiệu của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp là bước đi phù hợp nhất cho Công ty trong giai đoạn hiện nay. 3.2.3 Đảm bảo thực hiện đúng thời hạn các điều khoản trong hợp đồng. Sự đúng hạn cũng được coi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong việc xuất khẩu hàng hoá. Chỉ có việc thực hiện các đơn hàng đúng hạn thì Công ty mới cạnh tranh được với các nhà cung ứng khác mà đặc biệt là Trung Quốc. Để làm được việc này May 10 phải tăng cường sự liên kết giữa các xí nghiệp thành viên. Văn phòng Tổng công ty phải là đầu mối đưa ra các khuyến cáo về đầu tư, xu hướng tiêu dùng, hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp thành viên…để đảm bảo cho nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một lô hàng dệt may lớn mà vẫn đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu đồng nhất và có chất lượng cao. 3.2.4 Tiếp tục tăng cường đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất . Theo như đánh giá của các chuyên gia thì công nghệ sản xuất của ngành dệt may Việt Nam nói chung và của Công ty Cổ phần May 10 nói riêng là lạc hậu 10 năm so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó công nghệ sản xuất ngày càng có ý nghĩa quyết định hơn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Điều đó buộc May 10 và các đơn vị thành viên cần nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ của mình với chi phí thấp nhất và phù hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam. Để làm được điều đó Công ty Cổ phần May 10 cần: - Nhập khẩu các thiết bị dệt may hiện đại, sau đó học tập các nguyên tắc thiết kế để tự thiết kế lại và cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất của Công ty. Những bộ phận nào mà trong nước chưa sản xuất được thì có thể tiến hành nhập khẩu. Cuối cùng phổ biến và nhân rộng thiết bị vừa cải tiến cho các xí nghiệp thành viên. - Nhập các thiết bị dệt may tương đối hiện đại nhưng mức độ tự động hoá còn thấp, sau đó sẽ tiến hành nghiên cứu để nâng cấp mức tự động hoá của thiết bị vừa nhập. - Ban kỹ thuật và đầu tư của Công ty cần phối hợp với các cơ quan tiến hành nghiên cứu chế tạo các thiết bị phục vụ cho công nghiệp dệt may trong việc thiết kế và chế tạo các loại máy móc, thiết bị quá đắt không thể nhập khẩu được. - Khai thác các thông tin qua mạng Internet; tăng cường liên doanh liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp dệt may tiên tiến và hiện đại của nước ngoài để tìm kiếm và đổi mới công nghệ hiện đại, tìm kiếm sự trợ giúp của các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước trong lĩnh vực dệt may. 3.3 Một số ý kiến đề xuất 3.3.1 Đề xuất đối với các cơ quan Nhà nước Để công ty phát triển thuận lợi và bền vững, ngoài những cố gắng và nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty mà còn có sự hỗ trợ rất lớn từ phía các cơ quan chức năng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để công ty nhập khẩu máy móc thiết bị mới, hỗ trợ công ty trong việc nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. Đơn giản hóa các thủ tục Hải quan và thủ tục hành chính để công ty có thể nâng cao hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu vì thủ tục rườm rà làm công ty mất đi một khoản chi phí thời gian - yếu tố quan trọng trong kinh doanh hiện đại. Bên cạnh đó ngành Hải Quan cần có sự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức hoạt động của mình, vì tuy đã có nhiều thay đổi nhưng Hải Quan vẫn là ngành gây nhiều phiền hà nhất cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một số cán bộ Hải Quan biến chất, có những hành vi tiêu cực gây mất niềm tin đối với khách hàng nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, ngành Hải Quan cần phải làm trong sạch trong ngành. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học viên theo học ngành may nhằm khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư ngành may như hiện nay. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang và marketing nhằm khắc phục những điểm yếu cơ bản của ngành may là yếu trong khâu thiết kế và khâu nghiên cứu tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác, từng bước tạo lập các cơ sở để cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang nước ngoài những sản phẩm mang thương hiệu Việt. Điều này sẽ giúp cho kim ngạch xuất khẩu của ngành may tăng mạnh, đất nước thu được một nguồn ngoại tệ lớn. Các chính sách xuất nhập khẩu phải nhất quán, ổn định để hoạt động của các doanh nghiệp không bị xáo trộn, giữ được chữ tín đối với khách hàng. Bộ Công Thương, Bộ Tài Chính và Chi cục Hải Quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý gia công xuất khẩu theo hướng có hiệu quả hơn, đảm bảo cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các hợp đồng gia công. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường Hiện nay, thông tin là yếu tố sống còn đối với các doanh nghiệp. Chính vì vậy, để mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc thì một vấn đề không thể xem nhẹ là phải xây dựng được một hệ thống thông tin thị trường có khả năng cung cấp thông tin chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp. - Coi hiện đại hoá công nghệ sản xuất là một quá trình phát triển từ thấp tới cao, xác định được mức công nghệ sản xuất phù hợp với mình. Từ đó để lựa chọn công nghệ sản xuất và hiện đại hoá dần dần từng bước. 3.3.2 Đề xuất với Tập đoàn dệt may Việt Nam Tổng công ty dệt may Việt Nam cần cung cấp những thông tin cần thiết một cách kịp thời cho các doanh nghiệp trong ngành, tránh tình trạng thông tin chậm chạp làm ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp. Cần xây dựng một trung tâm nguyên phụ liệu đủ tiêu chuẩn để cung cấp cho các doanh nghiệp trong ngành, giảm tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụ liệu, tăng hàm lượng nội địa trong sản phẩm may. Việc có một trung tâm nguyên phụ liệu, trước mắt sẽ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, sau đó từng bước phát triển ngành nguyên phụ liệu Việt Nam. 3.3.3 Đề xuất đối với công ty cổ phần May 10 Ngoài các biện pháp nhằm mở rộng thị trường gia công hàng may mặc xuất khẩu như đã trình bày ở trên, em cũng xin đưa ra những kiến nghị đối với lãnh đạo công ty để công ty đạt được hiệu quả cao hơn trong sản xuất. Công ty nên xây dựng các chính sách thỏa đáng nhằm thu hút lực lượng lao động có tay nghề cao và đưa ra các biện pháp kích thích lao động làm việc năng suất, chất lượng, nhiệt tình cống hiến cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ với các bạn hàng nhằm duy trì các đơn đặt hàng thường xuyên và không bị mất khách hàng Nâng cao năng lực sản xuất, duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa khả năng sản xuất các loại mặt hàng để đáp ứng nhu cầu của thị trường, chú trọng vào sản xuất các mặt hàng truyền thống của công ty, các mặt hàng có giá trị cao. Giảm tối đa các loại chi phí vận chuyển, chi phí văn phòng, các chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng nhưng vẫn phải giữ được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại cho các phân xưởng để nâng cao khả năng sản xuất. Tập trung đầu tư cho đội ngũ thiết kế mẫu để dần dần tiến tới xuất khẩu trực tiếp. Có các biện pháp nhằm thăm dò thông tin về sản phẩm, thị trường, khách hàng,… để góp phần sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường một cách tốt nhất. Tăng vốn hiểu biết về thị trường quốc tế và luật pháp quốc tế,… để tránh rơi phải tình trạng vì thiếu hiểu biết mà bị phạt, bị áp dụng những biện pháp hạn chế xuất khẩu, gây mất thị trường của công ty. KẾT LUẬN Ngành dệt may luôn là một trong những ngành xuất khẩu trọng tâm được Nhà nước chú trọng quan tâm hàng đầu bởi ngoài việc thu được nguồn ngoại tệ về cho đất nước, đây còn là ngành tạo ra một lượng việc làm lớn cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Nhà nước và nỗ lực của chính mình, các doanh nghiệp dệt may nói chung và công ty cổ phần May 10 nói riêng đang dần dần phát triển, tiến ra thị trường thế giới. Các sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu của công ty đang ngày càng được khách hàng ưa chuộng bởi chất lượng cao, đồng đều. Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Mở rộng thị trường gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty Cổ phần May 10” đã trình bày một số nội dung về gia công hàng may mặc xuất khẩu, công tác mở rộng thị trường, phân tích thực trạng tại công ty cổ phần May 10, từ đó đề ra các giải pháp có thể vận dụng để nâng cao hiệu quả công tác mở rộng thị trường gia công hàng may mặc xuất khẩu tại công ty. Tuy gia công hàng may mặc không phải là chiến lược phát triển lâu dài của công ty nhưng bằng phương pháp này, công ty có thể từng bước xâm nhập thị trường nước ngoài, tạo tiền đề cho xuất khẩu trực tiếp ra thị trường quốc tế. Tuy trải qua 15 tuần thực tập tại công ty cũng như được sự giúp đỡ nhiệt tình của Cô Nguyễn Thị Liên Hương cũng như các cô chú, anh chị trong các phòng ban của công ty May 10 nhưng bài báo cáo của em có thể còn nhiều thiếu sót, em mong được sự góp ý của các thầy cô để báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn Cô Nguyễn Thị Liên Hương và các cô chú, anh chị trong các phòng ban của công ty cổ phần May 10 trong quá trình thực tập đã giúp đỡ em để em hoàn thành được bài báo cáo của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Kỹ thuật ngoại thương – PGS – TS Đoàn Thị Hồng Vân, NXB Thống kê năm 2005 Nghị định 57/1998/NĐ – CP có hiệu lực ngày 31/07/1998 Luật khuyến khích đầu tư trong nước Quyết định số 36/2008/QĐ-Ttg của thủ tướng chính phủ ngày 10/03/2008 Các tài liệu tham khảo tại công ty cổ phần May 10 Một số website khác MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter 9 Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất hàng gia công xuất khẩu tại công ty CP May 10 41 Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng gia công Việt Nam 18 Bảng 2: Tình hình SXKD của công ty CP May 10 trong thời gian từ 2005 -2008 35 Bảng 3: Doanh thu các mặt hàng gia công xuất khẩu năm 2005-2008 46 Bảng 4: Cơ cấu các mặt hàng gia công của công ty 2005 – 2008 49 Bảng 5: Cơ cấu doanh thu gia công XK các thị trường trong thời gian 2005 -2008 52 Bảng 6: Bảng hợp đồng gia công thực hiện trong năm 2005 - 2008 58 Bảng 6: Mục tiêu tăng trưởng của ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2020 65 Bảng 7: Chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành Dệt may Việt Nam 66 tới năm 2020 66 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2136.doc
Tài liệu liên quan