Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế & bảo vệ môi trường sinh thái

Lời nói đầu Phát triển kinh tế là đòi hỏi tất yếu với mỗi quốc gia nếu các quốc gia đó không muốn bị suy vong , thôn tính . Từ giữa thế kỷ 20 đến nay , cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ , kinh tế các nước phát triển rất mạnh mẽ đồng thời môi trường sống của con người cũng đã bị tàn phá hết sức nặng nề. Vấn đề nan giải được đặt ra tại nhiều quốc gia hiện nay là : làm thế nào tăng trưởng kinh tế mạnh mà không tàn phá môi trường tự nhiên . Để giải quyết vấn đề này , tăng

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế & bảo vệ môi trường sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng kinh tế phải kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái . Cơ sở lý luận cho vấn đề này đúng đắn nhất chỉ có thể là triết học Mác – Lênin . Do đó , tiểu luận này được làm với mục đích : phân tích rõ mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái dựa trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của triết học Mác - Lênin và việc thực hiện vấn đề này ở Việt Nam ta. Tuy nhiên , trong quá trình nghiên cứu còn nhiều thiếu sót , em rất mong nhận được sự góp ý và chỉnh sửa của cô . Chương 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Khái niệm mối liên hệ Từ xa xưa, con người luôn có khát vọng tìm hiểu , khám phá thế giới xung quanh , vén bức màn bí mật chi phối đời sống tự nhiên và xã hội . Do đó , con người luôn thắc mắc : Các sự vật , hiện tượng , quá trình có tác động qua lại lẫn nhau hay không hay chúng tồn tại độc lập , riêng biệt ? Và nếu chúng có mối liên hệ với nhau thì cái gì quyết định , chi phối mối liên hệ ấy ? Trong những giai đoạn khác nhau , câu trả lời cho các vấn đề trên rất khác nhau . Đối với vấn đề thứ nhất , trong lịch sử triết học , ta thấy hai quan niệm lớn sau : Theo chủ nghĩa duy vật siêu hình thì thế gới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt động , tĩnh tại . Với cách nhìn này thì con người “chỉ thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy , chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy , chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy , chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng .” Như vậy , các sự vật , hiện tượng trên thế giới đều không có mối liên hệ với nhau . Tuy nhiên có một số ít người theo quan điểm này cho rằng : các sự vật , hiện tượng có mối liên hệ với nhau nhưng các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau , như giới vô cơ và hữu cơ không có liên hệ gì với nhau và không chuyển hoá cho nhau . Đối lập với quan điểm trên thì chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng các sự vật , hiện tượng , quá trình khác nhau tồn tại độc lập nhưng đều có sự tác động qua lại , chuyển hoá lẫn nhau . Ví dụ như : môi trường của một đất nước biến đổi không chỉ tác động tới đời sống kinh tế - xã hội ở nước đó mà còn làm cho môi trường thế giới thay đổi theo , vì môi trường của một đất nước là một bộ phận của môi trường thế giới . Từ đó, các hoạt động của con người , giới tự nhiên thế giới cũng chịu ảnh hưởng dù ít hay nhiều. Trả lời vấn đề thứ hai , những nhà duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan đều đi tìm câu trả lời xuất phát từ bên ngoài hoặc bên trong con người . Theo các nhà triết học duy tâm khách quan như Platon , Hêghen cho rằng “ ý niệm tuyệt đối ” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng . Còn Beccli , nhà triết học duy tâm chủ quan đã đưa ra một mệnh đề nổi tiếng : “ Vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác ”. Điều này có nghĩa là : mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng được nhận biết dựa trên cảm giác của con người . Các nhà duy vật biện chứng đã có quan điểm hoàn toàn khác với các quan điểm trên . Họ thấy rằng , tuy trong thế giới xung quanh ta , các sự vật , hiện tượng thì vô cùng đa dạng , phong phú nhưng chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất . Điều này có nghĩa là mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất , biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất , là những kết cấu vật chất , hoặc có nguồn gốc vật chất , do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất . Các sự vật , hiện tượng luôn không ngừng biến đổi , chuyển hoá , là nguồn gốc , nguyên nhân và kết quả của nhau. Do vậy, tính thống nhất vật chất của thế giới vật chất là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng . Tuy nhiên, các sự vật , hiện tượng chỉ có thể biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động lẫn nhau đồng thời nhờ đó mà mối liên hệ giữa chúng được thể hiện. Những quan điểm đúng đắn trên đã được khoa học kiểm chứng : Trong giới tự nhiên vô sinh có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường. Ranh giới giữa chất và trường là tương đối , có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong giới tự nhiên hữu sinh có các trình độ tổ chức vật chất là sinh quyển , các axít nucléic (AND và ARN ) và chất đản bạch. Sự phát triển của sinh học hiện đại đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hoá giữa các trình độ tổ chức vật chất, cho phép nối liền vô cơ , hữu cơ và sự sống … Với những cơ sở trên , triết học duy vật biện chứng đã đưa ra khái niệm về mối liên hệ : Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định , sự tác động qua lại , sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật , hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật , của một hiện tượng trong thế giới . 1.2 Các tính chất của mối liên hệ Mối liên hệ giữa bất kỳ sự vật , hiện tượng nào đều có những đặc điểm chung . Đó là tính khách quan , tính phổ biến và tính đa dạng . Trước hết , mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng là tất yếu, khách quan vốn có của các sự vật , hiện tượng ấy . Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trên thế giới đều không thể tồn tại độc lập, riêng biệt mà phải có sự liên hệ với bên ngoài . Bởi như đã nói , thế giới vật chất là vô hạn , không sinh ra , không mất đi , trong nó chỉ có những quá trình vật chất biến đổi , chuyển hoá lẫn nhau . Con người cũng không thể quyết định các sự vật , hiện tượng có mối liên hệ hay không. Chẳng hạn , ngay chính bản thân con người , mặc dù là sinh vật bậc cao nhất trong tự nhiên nhưng cũng không thể tồn tại riêng biệt . Từ thời nguyên thuỷ , con người đã phải sống tụ tập để chống lại thú dữ , cùng nhau lao động để kiếm thức ăn . Cho đến nay cuộc sống văn minh , hiện đại hơn rất nhiều nhưng con người vì luôn có nhu cầu hiểu biết , giải trí , tình cảm … Do đó con người càng có sự liên hệ chặt chẽ với xã hội . Dù thích hay không , để tồn tại được , con người phải gắn bó liên hệ với xã hội . Thứ hai , mối liên hệ còn mang tính phổ biến .Vì mối liên hệ của các sự vật , hiện tượng mang tính khách quan nghĩa là sự vật , hiện tượng nào cũng có các mối liên hệ nên mối liên hệ có tính phổ biến . Một ví dụ điển hình là : trong xu thế toàn cầu hoá các nền kinh tế hiện nay và những vấn đề như ô nhiễm môi trường , bùng nổ dân số , bùng phát các bệnh nguy hiểm : HIV – AIDS , cúm gia cầm , … đòi hỏi tất yếu các quốc gia phải có sự hợp tác với các nước khác trên thế giới . Mặc dù , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt , cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định nhưng chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất , chung nhất . Những hình thức liên hệ riêng rẽ , cụ thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu . Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất , bao quát nhất của thế giới . Bởi thế , PH . Ăngghen viết : “ Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến ” Cũng với những lý do nêu trên , triết học gọi mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến . Thứ ba , tính đa dạng của mối liên hệ phổ biến . Vì thế giới vật chất vô hạn , các sự vật , hiện tượng trong đó cũng muôn hình , muôn vẻ nên mối liên hệ của chúng cũng mang tính đa dạng . Riêng bản thân các sự vật , hiện tượng luôn biến đổi nên mối liên hệ của chúng với bên ngoài cũng rất đa dạng . Do vậy, bên trong một sự vật , hiện tượng cũng có thể chứa nhiều mối liên hệ . Như mỗi con người chúng ta sống trong một gia đình , ngoài mối liên hệ bên trong với các thành viên gia đình , còn có mối liên với những cá nhân , tổ chức khác trong xã hội . Vì vậy , mối liên hệ của chúng ta rất đa dạng . 1.3 Phân loại mối liên hệ Dựa vào tính đa dạng có thể phân chia ra các mối liên hệ khác theo từng cặp : mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài , mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu , mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất , mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên , mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới , mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp , trong đó sự tác động qua lại phải thông qua trung gian mới thực hiện được , mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các giai đoạn phát triển của sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật v.v… Tuy nhiên sự phân chia các cặp chỉ mang tính chất tương đối . Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp đều có thể chuyển hoá cho nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả biến đổi vận động và phát triển của sự vật . Cụ thể như : nếu xét mối liên hệ của các thành viên trong gia đình với xã hội bên ngoài thì nó là mối liên hệ bên ngoài . Nhưng nếu xét mối liên hệ đó trong một quốc gia , để phân biệt các quốc gia khác nhau ( có sự khác nhau về chế độ chính trị , kinh tế , văn hóa , tôn giáo … ) thì nó lại là mối liên hệ bên trong . Nếu xét mối liên hệ giữa các công ty , xí nghiệp là những chủ thể độc lập kinh doanh trên một đất nước thì chúng có mối liên hệ bên ngoài . Tuy nhiên xét tổng quát nền kinh tế đất nước , chúng là những bộ phận đóng góp , xây dựng nền kinh tế nên mối liên hệ của chúng lúc này là mối liên hệ bên trong . Mỗi loại mối liên hệ nêu ra ở phần trên có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật . Ví dụ : Xét vai trò mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài . Mối liên hệ bên trong là sự quy định , tác động chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố , các mặt , thuộc tính bên trong sự vật . Do đó sự vận động , phát triển của sự vật do mối liên hệ bên trong quyết định . Còn mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng , không giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại , phát triển của sự vật . Tuy vậy trong trường hợp nhất định , mối liên hệ bên ngoài có thể giữ vai trò quyết dịnh . Nhân cách con người hình thành và phát triển phụ thuộc vào 3 yếu tố sau : tiền đề sinh học và tư chất di truyền học, môi trường xã hội và cuối cùng là thế giới quan cá nhân .Trong đó , tiền đề sinh học và tư chất di truyền là ở bên trong con người ; thế giới quan cá nhân bao gồm toàn bộ các yếu tố như quan điểm , lý luận, niềm tin , định hướng giá trị … chịu sự tác động rất lớn từ môi trường xã hội . Ta thấy môi trường xã hội là yếu tố quyết định tới sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua sự tác động của gia đình , nhà trường , xã hội tới cá nhân . Như vậy , trong trường hợp này , mối liên hệ bên ngoài ( môi trường xã hội ) đóng vai tró quyết định tới sự vận động và phát triển của sự vật ( nhân cách ) chứ không phải là mối liên hệ bên trong ( tiền đề sinh học, tư chất di truyền học , thế giới quan cá nhân ). Các cặp mối liên hệ khác cũng có quan hệ biện chứng như cặp mối liên hệ nêu trên , cùng với đặc trưng riêng . Trong các cặp trên thì mối liên hệ bản chất , mối liên hệ tất nhiên , mối liên hệ chủ yếu … giữ vai trò chủ đạo . Tuy nhiên , tuỳ theo các mối quan hệ hiện thực xác định mà các mối liên hệ tương ứng trong các cặp đó có thể giữ vai trò quyết định . Mặc dù việc phân loại chỉ mang tính tương đối nhưng cho ta xác định rõ vai trò , vị trí của mỗi loại mối liên hệ . Thông qua đó, con người có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình . 1.4 Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Như ta đã biết , mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng tức là các sự vật , hiện tượng không chỉ có một mối liên hệ mà đều có nhiều mối liên phong phú , đa dạng . Do đó , khi nhận thức bất kỳ một sự vật , hiện tượng nào , chúng ta phải nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận , giữa các yếu tố , giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác . Đây chính là quan điểm toàn diện. Có như vậy , sự vật mới được nhận thức đúng đắn . Để nhận xét một con người , chúng ta không thể chỉ nhận xét người đó trong mối quan hệ với chính chúng ta mà phải thông qua các mối quan hệ khác , cả môi trường của họ nữa . Có như vậy , ta mới có cái nhìn bao quát , khách quan nhất về con người đó . Việc nhận xét người đó mới đúng đắn . Đồng thời , quan điểm toàn diện còn đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ , xác định được vị trí , vai trò của chúng trong sự tồn tại , vận động và phát triển sự vật . Trên cơ sở đó , trong hoạt động thực tiễn , ta có các phương pháp tác động phù hợp vào sự vật , đem lại hiệu quả cao nhất . Để thực hiện mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh ” , một mặt , chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta ; mặt khác , phải biết tranh thủ thời cơ , vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại . Nói tóm lại , thông qua việc tìm hiểu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến , giúp cho chúng ta có phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực , tránh được các quan điểm tiêu cực , một chiều sai lầm . Chương 2 . Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường 2.1.1 Mối liên hệ giữa con người và tự nhiên Chúng ta đã biết không có sự vật nào tồn tại một cách riêng lẻ mà tất cả đều có mối liên hệ với các sự vật khác . Con người chúng ta cũng vậy . Ngoài mối liên hệ với những người khác trong xã hội để thoả mãn các nhu cầu về giải trí , thẩm mỹ , tình cảm … , con người còn có mối liên hệ mật thiết với tự để thoả mãn nhu cầu thiết yếu nhất là ăn , uống , chỗ ở và mặc . Để đáp ứng được nhu cầu đó , con người phải tiến hành sản xuất vật chất . Sản xuất vật chất là điều kiện tồn tại cơ bản của mọi xã hội . Nếu không có nó thì xã hội sẽ tiêu vong. Chính trong quá trình đó , mối liên hệ giữa giới tự nhiên , con người và xã hội hình thành . Mối liên hệ đó thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa các yếu tố tự nhiên và xã hội . Trước hết , con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội : không có con người sống tách biệt . Do đó , con người là “một bộ phận của tự nhiên ” , là sản phẩm cao nhất của tự nhiên , sống dựa vào tự nhiên , nằm trong lòng của tự nhiên , gắn với tự nhiên bằng trăm nghìn mối dây liên hệ . Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng , vô tận , thì xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên . Không dừng lại ở đó , C. Mác và Ph . Ăngghen cho rằng , con người và xã hội không phải là những bộ phận bình thường mà là những bộ phận đặc biệt của cái toàn thể kia . Những bộ phận ấy , một mặt , tuân theo các quy luật của tự nhiên ; mặt khác , tuân theo các quy luật của bản thân chúng , có bản chất riêng của chúng . Cùng với thời gian , những bộ phận ấy ngày càng phát triển , ngày càng hoàn thiện , do đó càng có nhiều khả năng quyết định tính chất , chiều hướng biến đổi của cái toàn thể kia , tức là của tự nhiên . ở đây hoạt động có ý thức của con người ngày một tăng lên , ngày một hiệu quả . Quan trọng hơn nữa , C. Mác đã xếp sự thống nhất giữa con người và tự nhiên như một vấn đề xã hội vì “ bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội ; vì chỉ có trong xã hội , tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con người ” 1 Đây là sự thống nhất động , là một quá trình lịch sử luôn biến đổi và phát triển . Sự thống nhất đó được thực hiện thông qua lao động của con người trong quá trình sản xuất vật chất , thông qua thực tiễn . C.Mác đã từng viết :“ Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên , một quá trình , trong đó , bằng hoạt động của chính mình , con người làm trung gian , điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên . Bản thân con người đối diện với thực thể của tự nhiên với tư cách là lực lượng của tự nhiên . Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình , con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ : tay và chân , đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó , và làm thay đổi tự nhiên , con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó ” 2 Trong quá trình đó con người vẫn luôn luôn dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng tự nhiên . Đó là quá trình lịch sử tự nhiên thống nhất : “ chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau” 3 Như vậy , con người và tự nhiên có mối liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau . Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế Theo quan điểm như trên của C. Mác và Ph . Ăngghen , do con người có mối liên hệ chặt chẽ với tự nhiên nên mọi hoạt động sản xuất của con người cũng có tác động tới tự nhiên (cải tạo tự nhiên ) và ngược lại tự nhiên cũng có tác động tới hoạt động sản xuất của con người (gây ra điều kiện khó khăn hoặc thuận lợi ) . Tuy nhiên , trong một thời gian dài , con người đã đánh giá nhẹ hoặc thậm chí quên đi mối liên hệ biện chứng này mà chỉ mải mê cải tạo hiện thực , nâng cao đời sống của mình . Trong giai đoạn nguyên thuỷ , con người chủ yếu săn bắn, hái lượm , sử dụng những thứ có sẵn trong tự nhiên . Lúc này , tự nhiên đối với con người như một lực lượng thần bí . Môi trường tự nhiên vẫn còn nguyên vẹn . Khi công cụ lao động ngày càng phát triển thì xã hội ngày một tiến lên. Con người sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn và môi trường sống của con người , hệ sinh thái đã có biến đổi ở một số mặt nhưng chưa có biến động lớn nào . Bước sang giai đoạn công nghiệp hoá , khoa học kỹ thuật phát triển mạnh chưa từng thấy, đem lại cho con người khả năng cải tạo tự nhiên một cách mạnh mẽ . C.Mác đã viết : “ Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào , với những tư liệu lao động nào . ” Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định , do đó , nó là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo giới tự nhiên . Trong quá trình phát triển của xã hội , lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và hoàn thiện . Chính điều này đã làm con người quên đi sự tác động của tự nhiên với bản thân và cho rằng mình “ thống trị ” tuyệt đối . Công nghiệp hoá là giai đoạn tất yếu cho tất cả các quốc gia nếu không muốn tụt hậu , suy vong . Lúc này , sự đi lên của một nền kinh tế được thể hiện qua chỉ số tăng trưởng kinh tế . Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định . Thế là , các quốc gia chạy đua nhau tăng quy mô , sản lượng bằng mọi cách . Loài người với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật đã khai thác tối đa thiên nhiên mà không cần biết hậu quả ra sao . Hậu quả là , con người đã phải trả giá cho sự coi nhẹ mối liên hệ biện chứng giữa mình với tự nhiên : Các điều tra thực trạng môi sinh toàn cầu cho thấy, mức độ ô nhiễm khí quyển mấy chục năm qua do các chất khí độc hại được thải ra từ các xí nghiệp công nghiệp và từ các thiết bị công nghiệp tiêu dùng là một hiểm hoạ đặc biệt .Theo các nhà nghiên cứu , hàng năm nền công nghiệp thế giới đã thải vào môi trường 200 triệu tấn khí SO2 , 150 triệu tấn oxit nitơ và 110 triệu tấn bụi độc hại. Do vậy mà trên thế giới có tới 50 % dân số thành thị phải sống trong môi trường có khí SO2 vượt quá tiêu chuẩn, hàng tỷ người phải sống trong môi trường bụi than và bụi phấn vượt quá mức cho phép … Những năm cuối thế kỷ XX , khắp nơi lo ngại về nguy cơ thay đổi khí hậu toàn cầu theo chiều hướng xấu đi : Lượng mưa tăng vọt gây lũ lụt , triều biển cường bất thường , bão lốc … xảy ra ở Trung Quốc , ấn Độ , Việt Nam , Tây Âu và đặc biệt là ở Vênêzuêla . Động đất khủng khiếp xuất hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ , Đài Loan . Băng tuyết xuất hiện ở xứ nóng châu Phi . Trong khi nhu cầu dùng nước ngày càng tăng , hoạt động kinh tế và lối sống đô thị hiện đại đang làm suy kiệt thuỷ vực của trái đất , kể cả nguồn nước ngầm. Nhiều dòng sông nhỏ bị biến mất . Khoảng 40 % dân số trên trái đất bị thiếu nước . Đối với lớp đất bao phủ bề mặt trái đất thì sự canh tác và lối sống của con người có gọi là mang tính huỷ diệt trực tiếp nhất . Trong vòng ba thập niên gần đây , loài người đã mất đi gần 2 tỉ ha đất màu mỡ , biến chúng thành sa mạc và đất chết . Ngoài ra , còn có các hiểm hoạ đang ngày càng có xảy ra nhiều hơn , dữ dội hơn như mưa axit , thủng tầng ôzôn, … làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư . Chính G .H Brônstan , Chủ tịch Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới nhận định , trừ chiến tranh hạt nhân ra thì sự biến đổi của khí hậu là mối đe doạ lớn nhất đối với loài người. Nó không những đe doạ sự tồn vong của con người mà còn uy hiếp cả tương lai của trái đất . 4 Như vậy , tự nhiên đã “ trả thù” lại con người, vì con người đã tàn phá tự nhiên . Ph . Ăngghen đã dạy : “ Sự việc nhắc nhở chúng ta từng giờ từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác , như một người sống bên ngoài tự nhiên , mà trái lại, bản thân chúng ta , với cả xương thịt , máu mủ và đầu óc của chúng ta , là thuộc về giới tự nhiên , chúng ta nằm trong lòng tự nhiên , và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta , khác với tất cả sinh vật khác , là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác .” 5 . Xuất phát bài học nêu trên , loài người đã xem xét lại toàn bộ thái độ ứng xử của mình với tự nhiên và có quan điểm toàn diện hơn khi xem xét tới vấn đề tăng trưởng kinh tế . Mỗi quốc gia đều nhận thức thấy rõ rằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường hoàn toàn có mối liên hệ với nhau . Khi tăng trưởng kinh tế mà gắn với bảo vệ môi trường thì cái giá phải trả cho nền kinh tế phát triển là quá đắt - đó là sự nguy hại đến sức khoẻ của chính người dân quốc gia đó . Trung Quốc là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu thế giới hiện nay . Kết quả phân tích về ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc cho thấy, trong số 20 thành phố có bầu không khí bị ô nhiễm nặng nề thì mỗi năm có thêm 1,5 triệu người bị bệnh viêm phế quản mãn tính, 17 ,7 vạn người mắc bệnh tim phổi và có 2,3 vạn người bị chết do bệnh đường hô hấp . Mặt khác , việc bảo vệ môi trường tự nhiên không có nghĩa là con người phải ngừng tác động vào môi trường tự nhiên , chờ cho môi trường tự nhiên phục hồi theo quy luật tự nhiên của nó , hay phải tạm ngừng phát triển để giữ cân bằng sinh thái cho cả hệ thống . Trong xã hội hiện đại , không có chỗ cho những phương án yếm thế cực đoan theo kiểu như vậy . Trái lại , các nguồn lực tự nhiên , trong điều kiện hiện nay , vẫn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển , vẫn cần thiết phải được khai thác ở mức độ nhất định . Điều này đã dẫn tới sự ra đời khái niệm phát triển kinh tế . Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu , thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống . Với khái niệm phát triển kinh tế , việc thúc đẩy quốc gia phát triển được xem xét một cách toàn diện : không chỉ thúc đẩy kinh tế phát triển mà cần phải gắn với các yếu tố xã hội khác và có cả bảo vệ môi trường sinh thái . Đó là sự vận dụng đúng đắn nguyên lý mối liên hệ phổ biến đảm bảo cho việc con người không phải trả giá cho sự phát triển của mình. Đây là sự phát triển bền vững : “ Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại , nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. ” Đây là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới . Nhận thức rõ vai trò to lớn của vấn đề bảo vệ môi trường , trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá , Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện chiến lược phát triển bền vững . Đây là chủ trương hết sức đúng đắn , thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản . C.Mác đã phân tích một cách khoa học rằng , nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ phá hoại con người công nhân mà còn phá hoại sự tuần hoàn vật chất giữa con người và đất đai bị kiệt quệ , rằng “ mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho đất đai trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn màu mỡ lâu dài của đất đai ” 6 Tuy nhiên , việc tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay còn nhiều điều đáng bàn . Hiện trạng môi trường Việt Nam , trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá hiện nay Bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập Trong những năm qua , Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị , nghị quyết bảo vệ môi trường sinh thái . Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27 – 12 – 1993 và Chủ tịch nước ký Quyết định công bố ngày 10 – 1 – 1994 đã góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội gắn với bảo vệ môi trường . Tiếp đến tháng 6 – 1998, Bộ Chính trị có Chỉ thị số 36 - CT/ TW về công tác bảo vệ môi trường . Năm 2004 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 153 ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định phát triển bền vững về môi trường là một trong ba nội dung cơ bản của định hướng này . Tiếp đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 41 – NQ/ TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước . Tuy nhiên , vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta còn nhiều bất cập . Nguyên nhân chủ yếu là do các cấp uỷ và chính quyền các cấp chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường , chưa biến nhận thức , trách nhiệm thành hành động cụ thể của từng cấp , từng ngành và từng người cho việc bảo vệ môi trường ; chưa đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường , thường chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế mà ít quan tâm việc bảo vệ môi trường ; nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường của Nhà nước và doanh nghiệp , cộng đồng dân cư rất hạn chế . Bên cạnh đó , khuôn khổ pháp lý còn thiếu đồng bộ , năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu , mức đầu tư bảo vệ môi trường còn thấp , nhiều vấn đề chưa đặt ra và giải quyết đúng với tầm quan trọng của nó . Môi trường nước ta đang bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng 2.2.2.1 Thực trạng rừng Việt Nam không cho phép tiếp tục khai thác tài nguyên rừng và xuất khẩu gỗ Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế – xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái quan trọng. Thế nhưng , trong quá trình phát triển , độ che phủ của rừng nước ta đã giảm sát tới mức báo động : chỉ còn 28 % diện tích tự nhiên của cả nước. Chất lượng của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức : 70 % thuộc dạng nghèo kiệt . Trên thực tế chỉ còn 10 % là rừng nguyên thuỷ . ở nhiều tỉnh miền núi , độ che phủ của rừng tự nhiên nhất là rừng già còn lại rất thấp . Ví dụ , ở Lai Châu chỉ còn 7, 88 % , Sơn La là 11, 95 % và Lào Cai là 5, 38 % . Đồi núi mất cây cỏ , đất bị xói mòn nghiêm trọng , gia tăng sự cố môi trường , lượng tích nước bị biến động , không có chỗ chứa nước khiến nước chảy nhanh về xuôi gây nhiều lụt lội . Sau đó , do thiếu cây nên không điều tiết được khí hậu , hạn hán cũng thêm phần khốc liệt. Nguồn nước cạn kiệt , sông Hồng giảm mức nước (2004 – 2005 ), sông Cửu Long cũng vậy , còn ở Tây Nguyên và Bình Thuận , Nam Trung Bộ , Đông Nam Bộ , mấy năm nay khô hạn kéo dài , thiếu nước cho người và động vật uống , không có nước cho sản xuất . Rừng ngập mặn , đầm phá đang bị khai thác quá mức , hầu như không còn khả năng phục hồi và tái sinh . Việc sử dụng rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản một cách tuỳ tiện , ồ ạt trên quy mô lớn làm bờ biển mất khả năng cố định sa bồi , gây xói lở bờ biển , làm mất nguồn thức ăn , nơi cư trú và sinh sản của các loài thuỷ sản . Môi trường biển đang bị đe doạ Sức ép dân số và tốc độ công nghiệp hoá , đô thị hoá nhanh ở các vùng ven biển gây ra nhiều hậu quả xấu đối với tài nguyên ven biển và trong lòng biển . Các thành phố , khu công nghiệp vùng ven biển đổ một lượng nước thải không qua xử lý và một phần chất thải rắn vào sông , biển gây nên ô nhiễm môi trường nước . Các trung tâm du lịch nằm ven biển hàng năm cũng xả ra một khối lượng lớn nước thải và rác thải chảy ra biển . Việc khai thác dâù khí cũng gây ra ô nhiễm vùng biển . Hậu quả là các hệ sinh thái biển và ven biển bị suy thoái nghiêm trọng . Đa dạng sinh học bị đe doạ . Nhiều nhóm động vật quý hiếm như thú biển , đồi mồi , chim biển , các thảm thực vật biển bị thu hẹp dần. Chất lượng môi trường sống trong các hệ sinh thái bị suy giảm , bị thay đổi theo chiều hướng xấu ; đa dạng loài và nguồn gen đặc hữu bị tổn thất hoặc suy thoái , có nơi tới mức nghiêm trọng . Ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp và các làng nghề ở các khu công nghiệp , đặc biệt là các khu công nghiệp cũ , môi trường đang bị ô nhiễm do các chất thải độc hại chưa được xử lý theo đúng quy định . Môi trường lao động tại các cơ sở sản xuất không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh lao động , làm gia tăng tỷ lệ công nhân mắc bệnh nghề nghiệp nhất là trong các ngành hoá chất , luyện kim , vật liệu , xây dựng, khai thác mỏ … Làng nghề ở Việt Nam phát triển rất mạnh , hiện nay cả nước có 4139 làng nghề , thì có tới 90 % làng nghề gây ô nhiễm nặng , do các làng nghề đổ chất thải trực tiếp ra ao , hồ gây ô nhiễm nặng cho nguồn nước , nước mặt và đất . Công nhân thường xuyên hít phải khói than , lưu huỳnh và thường xuyên tiếp xúc với hoá chất nên nhiều người mắc bệnh viêm phổi , ung thư , đau mắt ... Có nơi do không xử lý chất thải , khi chất thải phân huỷ đã gây hôi thối , làm ô nhiễm không khí và nguồn nước ở mức báo động như ở những nơi nuôi lợn với quy mô lớn , làm miến dong, bánh đa , nấu rượu … Môi trường đô thị hiện nay bị ô nhiễm nặng Môi trường ở nhiều đô thị nước ta đang bị ô nhiễm do chất thải rắn chưa được thu gom , nước thải chưa được xử lý theo đúng quy định . Trong khi đó khí thải , tiếng ồn , bụi từ các phương tiện giao thông nội thị và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với kết cấu hạ tầng yếu kém càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thật sự lâm vào tình trạng báo động. Hệ thống cấp thoát nước lạc hậu , xuống cấp , không đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng . Mức độ ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần . T._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0476.doc
Tài liệu liên quan