Mối quan hệ giữa đầu tư & sản lượng

LờI Mở ĐầU Trong bối cảnh thế giới những năm gần đây luôn diễn ra những biến động mang tính chất toàn cầu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước trên thế giới đặc biệt là khu vực kinh tế Đông Nam á ASEAN như: dịch bệnh SARS ,dịch cúm gia cầm ,nạn khủng bố hay những cuộc khủng hoảng về chính trị…Trong khi các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển chững lại ,tốc độ tăng trưởng thấp thì nổi lên hai nền kinh tế là Việt Nam và Thái Lan với tốc độ tăng trưởng đáng nể .Nguyên nhân

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa đầu tư & sản lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của thành tựu trên chính là trong những năm qua nhờ cải thiện tốt môi trường đầu tư và có nhiều chính sách khuyến khích mà một lượng vốn đã đổ vào hai nước này.Đầu tư chính là nguồn gốc trực tiếp của sản lượng,của giá trị sản xuất và tăng trưởng ở bất kì một doanh nghiệp cấp vi mô hay nền kinh tế quốc dân ở một quốc gia nào. Mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng chính là mối quan hệ hai chiều tác đồng qua lại giữa hai yếu tố Đầu tư và Sản lượng,cách thức và cơ cấu tác động của những yếu tố này với nhau trong các mô hình kinh tế cũng như trong thực tiễn sản xuất doanh nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân.Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Đầu tư và sản lượng là một yêu cầu cấp thiết không chỉ trong lí luận kinh tế mà cả trong thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa WTO nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế,hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững. Chương I : Lí Luận chung về Đầu tư và sản lượng I.Lí luận về Đầu tư 1.Khái niệm chung về Đầu tư Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác…)và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Đầu tư theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm vi đầu tư theo nghĩa hẹp hơn đầu tư phát triển 2.Khái niệm về Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là hoạt động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, để nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Như vậy trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn. Một cách cụ thể, hoạt động đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động: Bỏ tiền ra để xây dựng mới hoặc sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng Mua sắm các thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ Tổ chức bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực Thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này Nhằm đạt được hai mục đích chính là Duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại Tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế và xã hội Đầu tư phát triển cũng mang đầy đủ những đặc điểm của hoạt động Đầu tư nói chung II.Lí luận về Sản lượng Sản lượng có thể hiểu chính là kết quả của quá trình sản xuất của một đơn vị kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định, Đơn vị kinh tế đó có thể là các đơn vị sản xuất cấp doanh nghiệp cho đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là chỉ tiêu về mặt số lượng quan trọng để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc của một nền kinh tế quốc dân và là căn cứ quan trọng để đo mức phát triển của các nước qua các năm và của các nước với nhau. Để đánh giá được sự phát triển kinh tế toàn diện, thông thường người ta sử dụng ba tiêu thức cơ bản là: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay đổi trong các chỉ tiêu xã hội, trong đó chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế có thể coi là quan trọng hơn cả.Theo mô hình kinh tế thị trường thước đo tăng trưởng kinh tế được xác định theo các chỉ tiêu của hệ thống tài sản quốc gia (SNA) bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu như : tổng giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân ….. 1.Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross Output) *Khái niệm chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất (GO) Tổng giá trị sản xuất là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định (thường là một năm) Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai cách : Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Thứ hai, tổng giá trị sản xuất được tính trực tiếp từ sản phẩm và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA) 2.Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Procduct) *.Khái niệm Tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một đơn vị thời gian nhất định(thường là 1 năm). Giá trị tăng thêm (VA- Value Added) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian. Đó là bộ phận giá trị mới do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao TSCĐ trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm). Giá trị tăng thêm và tổng sản phẩm quốc nội giống nhau về nội dung (các yếu tố hợp thành C1+V+m) nhưng khác nhau về phạm vi tính toán. Cả hai chỉ tiêu này đều là chỉ tiêu tuyệt đối thời kì được tính theo đơn vị giá trị(giá hiện hành, giá so sánh và giá cố định). *ý nghĩa : Đây là những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành , thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời gian nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi khoản thu nhập , nguồn gốc sự giàu có và phồn vinh của xã hội. Đó cũng là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả nền sản xuất xã hội . Nó không chỉ biểu hiện quả sản xuất chiều sâu mà cả hiệu quả tái sản xuất theo chiều rộng; là một trong những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế khác. +Tổng sản phẩm quốc nội là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, nghiên cứu khả năng tích luỹ, huy động vốn, tính toán các chỉ tiêu đánh giá mức sống dân cư, so sánh quốc tế, xác định trách nhiệm của mỗi nước đối với các tổ chức quốc tế. III.Mối quan hệ giữa Đầu tư và sản lượng 1.Đầu tư tác động đến sản lượng 1.1.Mô hình số nhân đầu tư. Mô hình số nhân đầu tư của Keynes là một lý thuyết kinh tế vĩ mô được sử dụng để giải thích sản lượng được xác định như thế nào trong ngắn hạn. Số nhân đầu tư phản ánh quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng, phản ánh mức sản lượng thay đổi bao nhiêu khi đầu tư biến đổi một đơn vị. Mối quan hệ này được thể hiện qua công thức sau: hay trong đó: k: số nhân đầu tư : mức gia tăng sản lượng : mức gia tăng đầu tư ở đây là kết quả, là nguyên nhân. Theo mô hình này của Keynes cho thấy tăng đầu tư sẽ làm tăng sẽ làm sản lượng tăng với mức khuyếch đại hay tăng theo cấp số nhân(k lần). Kết quả thực tế cho thấy mỗi đồng thay đổi trong một khoản đầu tư sẽ làm GDP thay đổi nhiều hơn một đồng, tức là số nhân k luôn lớn hơn 1. Vì sao lại vậy? Ta có , mà trong nền kinh tế đóng I = S Với MPC là xu hướng tiêu dùng biên. Ta luôn có 0<=MPC <=1 (MPS: xu hướng tiết kiệm biên) Ta thấy số nhân liên quan đến mức tiết kiệm và tiêu dùng tăng thêm. Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn nên độ khuyếch đại sản lượng càng lớn. Ngược lại khi MPS càng lớn thì k càng nhỏ nên độ tác động của đầu tư đến sản lượng càng nhỏ. ở đây chúng ta gặp một nghịch lý của tiết kiệm. Lẽ ra khi MPS tăng thì S tăng >>>> đầu tư tăng >>>> ảnh hưởng nhiều đến sản lượng nhưng thực tế lại không phải như vậy.Keynes chỉ ra rằng khi dân chúng cố gắng tiết kiệm nhiều hơn thì chưa chắc toàn thể quốc gia đã có tiết kiệm nhiều hơn. Chúng ta giải thích cho quá trình này rằng nếu mọi người đều cố gắng tiết kiệm và giảm tiêu dùng tại mức đầu tư kinh doanh cho trước thì doanh số bán sẽ giảm. Các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất. GDP sẽ giảm tới mức khi mọi người ngừng không tiết kiệm nhiều hơn so với mức đầu tư dự kiến của các doanh nghiệp. Như vậy tiết kiệm tiết kiệm và đầu tư thực tế sẽ giảm đi khi cố tiết kiệm nhiều hơn. Mức tiết kiệm cao sẽ làm giảm tiêu dùng dẫn đến giảm sản lượng sản xuất và tiếp tục làm giảm thu nhập từ đó làm giảm đâù tư và thu nhập cũng như tiết kiệm lại tiếp tục giảm xuống.Cuối cùng sản lượng sẽ thực sự giảm đi nhiều lần hơn mức tăng của tiết kiệm. Như vậy giữa đầu tư, tiết kiệm và sản lượng phải tạo được mối quan hệ cân bằng trong nền kinh tế. Mô hình số nhân có ảnh hưởng rất lớn trong các phân tích kinh tế vĩ mô, tuy nhiên mô hình này còn hạn chế là chưa tính tính tới nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô khác. Số nhân được phân tích trong điều kiện các nguồn lực chưa được sử dụng hết tức là khi sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng. Khi còn các nguồn lực chưa được sử dụng hết thì tăng tổng cầu sẽ làm mức sản lượng tăng thêm. Ngược lại khi nền kinh tế đã đạt mức tiềm năng cực đại thì sản lượng không thể tăng thêm khi tổng cầu mở rộng. Nói cách khác khi tăng đầu tư hay trong nền kinh tế vẫn còn dư thừa năng lực và lao động thì hầu hết sự gia tăng ấy sẽ làm cho sản lượng tăng. Như vậy, lý thuyết số nhân của Keynes đã phân tích mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng trong nền kinh tế. Nó là một công cụ quan trọng để phân tích vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên lý thuyết này còn nhiều hạn chế mà ngày nay chúng ta có thể khắc phục được bằng cách xem xét một cách tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố. 1.2.Mô hình Harrod- Domar. Đây là mô hình đơn giản, nổi tiếng nhất được ứng dụng rộng rãi do hai nhà kinh tế Harrod người Anh và Domar người Mỹ đưa ra độc lập vào những năm 1940. Đây là mô hình thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng nên còn được gọi là mô hình tăng trưởng Harrod-Domar. Mô hình tăng trưởng H-D lấy xuất phát điểm là đầu tư, thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và sự gia tăng tổng sản phẩm bằng phương trình: Trong đó: I : nguồn vốn cung ứng cho việc đầu tư k : hệ số ICOR : sản lượng gia tăng Để làm rõ mối quan hệ giữa sản lượng và đầu tư, H-D đưa ra công thức mà trong nền kinh tế đóng S = I g: tốc độ tăng trưởng kinh tế Y : sản lượng S : tổng tiết kiệm trong năm s : tỉ lệ tiết kiệm trên sản lượng () : mức gia tăng vốn đầu tư trong kỳ ý nghĩa của hệ số k là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác k là giá phải trả thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Chỉ tiêu ICOR dùng để xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Từ công thức : ta thấy được mối quan hệ giữa sản lượng và đầu tư. Theo lý thuyết của H-D tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g cần duy trì tỷ lệ tiết kiệm là s để đầu tư nếu hệ số ICOR không đổi. Đây là mối quan hệ dây chuyền vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất. Việc gia tăng vốn sản xuất lại trực tiếp làm gia tăng sản lượng. Phân tích này có một ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng kế hoạch. Nếu xác định được hệ số k thì vấn đề còn lại của công tác xây dựng đơn giản là việc ấn định tốc độ tăng trưởng để xác định nguồn vốn cần phải có là bao nhiêu hoặc từ nguồn vốn có thể qui lại việc xác định tốc độ tăng trưởng có thể đạt là bao nhiêu. Tuy nhiên việc nghiên cứu và vận dụng hệ số ICOR ở các nước phát triển và đang phát triển có điểm khác nhau. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao, nó phụ thuộc tốc mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất. ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển. ở mỗi nước bất kỳ khi nền kinh tế phát triển thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm 1 một đơn vị kết qủa sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng. Khi nước Mỹ có ICOR là 8 và Việt Nam có ICOR là 4 thì không thể nói Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn của Mỹ mà ở Mỹ có sự phát triển công nghệ theo chiều sâu hơn ở Việt Nam. Mô hình H-D có ý nghĩa trong thời kỳ đầu của giai đoạn phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên, do quá đơn giản nên mô hình này có nhược điểm là chỉ quan tâm đến yếu tố vốn mà bỏ qua vai trò của lao động, vai trò của thay đổi kỹ thuật công nghệ và vai trò của chính sách. Trên thực tế tiết kiệm và đầu tư mới chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế. Điều kiện đủ ở đây là phải sử dụng vốn hiệu quả phát triển đồng bộ các yếu tố khác như lao động, khoa học công nghệ, chính sách… Vì vậy khi vận dụng mô hình này cần kết hợp với các yếu tố tăng trưởng khác để có một sự xem xét toàn diện các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. 1.3.Các nhân tố đầu tư tác động đến sản lượng 1.3.1.Mô hình hàm sản xuất Cobb- Douglas - Những nhân tố tác động trực tiếp đến sản lượng a.Khoa học công nghệ (KHCN) Khoa học công nghệ là một trong những yếu tố tác động đến sản lượng thể hiện ở hàm sản xuất Cobb-Duglass Y=f(K,L,R,T) Trong đó: Y :sản lượng K:vốn L:lao động R:tài nguyên T:khoa học công nghệ KHCN được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện nay.Yếu tố KHCN cần được hiểu theo hai dạng: Thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt những kiến thức khoa học , nghiên cứu đưa ta những nguyên lý thử nghiệm về cải tiến sản phẩm quy trình công nghệ hay thiết bị kĩ thuật. Thứ hai, là sự áp dụng những kết quả nghiên cứu thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu tố KHCN được hiểu theo nghĩa toàn diện như thế đã được K.Marx xem như là”chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”. Còn Solow thì cho rằng: ”tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người có được trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật”. Samuelson khẳng định:”khoa học công nghệ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bình vững”. Hệ thống những biện pháp kĩ thuật mới , toàn diện, đồng bộ hoặc riêng lẻ để áp dụng vào quá trình sản xuất có tác dụng biến đổi quy trình công nghệ kỹ thuật cũ, nâng cao năng suất kỹ thuật, giảm nhẹ lao động chân tay nặng nhọc, cải tiến chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng gọi là tiến bộ kỹ thuật. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa cạnh tranh ngày càng gay gắt, KHCN biến đổi liên tục, phát triển với tốc độ chóng mặt đóng vai trò quan trong việc tăng sản lượng của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp.Thực tế cho thấy nền kinh tế nói chung hay bất kì một doanh nghiệp nào nắm giữ được công nghệ kỹ thuật tiên tiến , hàng đầu thì sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chiếm giữ thị phần lớn gắn liền với doanh thu khổng lồ. b.Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Đào tạo và phát triển lực lượng lao động (LLLĐ) chuyên môn kỹ thuật có ý nghĩa quyết định để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của đất nước. Lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất muốn tiến hành được cần phải có ba yếu tố : người lao động- chủ thể sáng tạo, tư liệu lao động và đối tượng lao động.Thực tế nhiều nước cho thấy, sự giàu có của xã hội không những chỉ phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, mức độ trang bị tài sản cố định cho nền kinh tế mà còn phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố con người. Đặc biệt trong thời đại ngày nay- nền kinh tế tri thức, tri thức của con người được xem như một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội. Dù điều kiện của KHKT phát triển ở mức độ nào không có con người sản xuất cũng không thể tiến hành được, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia. Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động, gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và đang phát triển. Hiện nay tăng trưởng của các nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn.nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. Đầu tư vào nguồn nhân lực gồm có các nội dung: +Đầu tư cho hoạt động đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng sản xuất phù hợp với dây truyền công nghệ. +Đầu tư cho công tác bảo hiểm, đặc biệt chú trọng bảo hiểm xã hội, tạo tâm lý an tâm cho người lao động, giúp cho họ tập trung vào sản xuất, nâng cao năng suất sản lượng. +Đầu tư vào dụng cụ bảo đảm an toàn lao động cho công nhân, tạo môi trường sản xuất tránh được tai nạn đáng tiếc, ảnh hưởng đến sản xuất. + Chế độ trả lương cho người lao động, thưởng nhằm khuyến khích, động viên cho người lao động. c.Đầu tư cho máy móc thiết bị Máy móc thiết bị là yếu tố trực tiếp tạo ra sản phẩm. Bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh nào khi tiến hành sản xuất đều phải mua sắm và lắp đặt hệ thống máy móc thiết bị. Nó có vai trò quyết định đến chất lượng, số lượng sản phẩm sản xuất ra. Do đặc điểm của máy móc thiết bị là giá trị bị hao mòn dần (trong đó có cả hao mòn hữu hình và vô hình). Do đó khi quyết định đầu tư mua sắm thiết bị , doanh nghiệp cần phải xem xét các yếu tố về tuổi thọ, sự thay đổi của KHCN, sự phù hợp với trình độ chuyên môn của công nhân…Từ đó lựa chọn máy móc thiết bị phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư mua mới, doanh nghiệp cần đầu tư vào quỹ khấu hao để định kỳ tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị duy trì sản xuất nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Việc đầu tư vào máy móc thiết bị phải tiến hành song song với trang bị KHKT phù hợp cùng với việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn phù hợp để vận hành máy móc thiết bị vào sản xuất. d. Đầu tư vào nguyên vật liệu Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm tất cả những nguyên liệu chính và phụ,vật liệu bao bì đóng gói. Đây là một khía cạnh quan trọng được ví như cơm gạo sản xuất. Nó quyết định giá thành của sản xuất, tính đều đặn và nhịp nhàng của quá trình sản xuất. Nếu nguyên vật liệu không được cung cấp một cách đầy đủ thì quá trình sản xuất sẽ bị ngưng trệ. Vì vậy một doanh nghiệp khi lựa chọn nguyên vật liệu đảm bảo các yêu cầu về đặc tính chất lượng nguồn cung cấp …Ngày nay với trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhiều vật liệu mới ra đời thay thế nguồn vật liệu truyền thống ngày càng khan hiếm, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các sản phẩm với nhiều tính năng công dụng vượt trội. Vì vậy các doanh nghiệp phải có lựa chọn thích hợp để giảm thiểu chi phí đảm bảo chất lượng sản phẩm. Bên cạnh cách tiếp cận trên,hiện nay trên thế giới còn một cách phân tích tăng trưởng kinh tế dựa theo các nhân tố là: Vốn(K), Lao động(L) và Năng suất các nhân tố tổng hợp(TFP) trong đó yếu tố TFP được hiểu là tổng hợp những nhân tố,chủ yếu là khoa học- công nghệ,có tác động đến sự tăng Năng suất lao động.Đầu tư vào nhân tố TFP chính là đầu tư vào trí tuệ,chất xám…phát triển những khu vực công nghệ cao,đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm…Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế của nhân tố TFP càng cao thể hiện trình độ sản xuất của nền kinh tế đó càng hiện đại,Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của tăng trưởng kinh tế,đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức hiện nay. 1.3.2.Các nhân tố tác động gián tiếp đến sản lượng – cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết của một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Khi một doanh nghiệp quyết định loại hình sản xuất hàng hoá và dịch vụ thì phải tìm hiểu về cơ sở hạ tầng vì nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. Cơ sở hạ tầng gồm : cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm. a.Cơ sở hạ tầng mềm Cơ sở hạ tầng mềm bao gồm: +Chính sách thu hút đầu tư +Thủ tục hành chính +Nguồn lao động: số lượng,chất lượng,giá cả +Văn hoá kinh doanh: phong tục,thái độ,kỹ thuật lao động… +Vị trí địa lý +Luật pháp,quy định +Môi trường đầu tư +Thái độ đối với các nhà đầu tư +Thái độ đối với các khu vực kinh tế dân doanh và đầu tư nước ngoài +Chi phí để đăng kí kinh doanh +Chi phí và thủ tục để thực hiện các quyết định đầu tư +Tính minh bạch về chất lượng +Chi phí phụ trội bên ngoài … +Mức độ can thiệp của chính quyền địa phương vào quyết định và quá trình quản lý đầu tư. Cơ sở hạ tầng mềm chủ yếu là những yếu tố khách quan, các doanh nghiệp rất khó có thể tác động làm thay đổi các yếu tố này.Vì vậy các doanh nghiệp phải có chính sách đầu tư phù hợp với mục tiêu hoạt động của mình và phù hợp với các yếu tố của cơ sở hạ tầng mềm. b.Cơ sở hạ tầng cứng Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm : + Nhà xưởng,khu chế xuất,đường xá. + Năng lượng, điện nước + Giao thông + Thông tin liên lạc + Các cơ sở hạ tầng khác: hệ thống xử lý chất thải, khí thải, hệ thống an toàn phòng cháy chữa cháy. Nếu các doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng, đáp ứng được quy trình sản xuất, điều kiện làm việc thì năng suất lao động cao, sản phẩm sản xuất ra ngày càng tăng. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu lựa chọn địa điểm có đầy đủ các yếu tố cơ sở hạ tầng cần thiết cho quá trính sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cần phải đầu tư xây dựng các công trình đường xá phục vụ sản xuất. 1.4.Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Như những lí luận ở trên ta đã biết tốc độ cũng như quy mô gia tăng vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc dân và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế.Tuy nhiên tác động của vốn đầu tư tới sản lượng của mỗi ngành, mỗi vùng - lãnh thổ kinh tế là không giống nhau về kết quả cũng như hiệu quả do đặc điểm vốn có của mỗi ngành kinh tế cũng như điều kiện, trình độ phát triển, xuất phát điểm của mỗi lãnh thổ kinh tế là không giống nhau. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành, các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịch cơ cầu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng và cũng đồng thời tác động đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Có thể dễ dàng nhận thấy với cùng một lượng vốn đầu tư, khi đầu tư vào khu vực công nghiệp, dịch vụ thường cho một khối lượng gia tăng sản lượng lớn hơn và tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn so với khi đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp do trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thường gặp phải những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học. Điều này cũng tương tự khi đầu tư vào các địa phương, vùng, lãnh thổ kinh tế có điều kiện tài nguyên thiên nhiên, địa thế, xuất phát điểm kinh tế,cơ sở hạ tầng…khác nhau. Như vậy trong điều kiện bình thường của nền kinh tế ứng với mỗi cơ cấu đầu tư sẽ có một cơ cấu sản lượng tương ứng hay có thể nói đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi quốc gia. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc hoạch định, thực hiện những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư, Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế,tín dụng,lãi suất … để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý, giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các ngành, vùng lãnh thổ, phát huy tối đa những lợi thế so sánh của những ngành mũi nhọn, những ngành thế mạnh hay những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn để làm động lực thúc đẩy các ngành, vùng lãnh thổ khác cùng phát triển. Đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn nữa. 2.Sản lượng tác động đến đầu tư - Lý thuyết gia tốc đầu tư. Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm cho trước cần phải có một khối lượng cụ thể vốn đầu tư hay để sản xuất cho một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Đầu tư tăng hay giảm phản ánh sự biến động của tổng vốn đầu tư ( k) gồm quỹ khấu hao để thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn và bộ phận đầu tư thuần, bộ phận vốn tăng lên trong kỳ. Mối quan hệ giữa sản lượng và vốn đầu tư được thể hiện như sau: (1) : vốn đầu tư tại thời điểm t : sản lượng tại thời điểm t x : là hệ số gia tốc đầu tư hay tỷ lệ phản ánh quan hệ giữa vốn và sản lượng =x* ( 2) Nếu x không đổi thì quy mô sản lượng sản xuất tăng kéo theo nhu cầu về vốn đầu tư tăng và ngược lại. Từ mô hình trên ta thấy : chi tiêu đầu tư tăng ( giảm) phụ thuộc vào nhu cầu tư liệu sản xuất. Nhu cầu tư liệu sản xuất tăng ( giảm) lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất. Khi mô sản phẩm cần sản xuất tăng và tăng nhanh sẽ làm cho chi tiêu đầu tư tăng theo và ngược lại, sản lượng phải liên tục tăng làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ ( hay không đổi so với năm trước). Theo lý thuyết này vốn đầu tư tăng cùng tỷ lệ với sản lượng ít nhất trong trung và dài hạn. Nếu x không đổi thì ở kỳ trước (t-1) giữa sản lượng và đầu tư cũng có mối quan hệ tương tự tức là: ( 3) Lấy (2) – (3) ta có: -) (4) trong đó: - là đầu tư ròng và bằng - D với D là khấu hao Do đó: - = - = = (5) và đầu tư ròng = (6) Như vậy theo lý thuyết này, đầu tư ròng là một hàm số của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng kỳ sau tăng so với kỳ trước thì >0 , đầu tư ròng >0. Mức tăng của đầu tư ròng phụ thuộc vào sự biến động của sản lượng. Nếu sản lượng tăng cao thì đầu tư ròng tăng càng lớn ( lớn hơn x lần). Nếu sản lượng giảm thì đầu tư ròng giảm. Nếu sản lượng trong thời gian dài không đổi đầu tư ròng sẽ bằng 0. = và khi =0 thì =0. Do vậy, nếu sản lượng năm sau giảm so với năm trước hoặc bằng 0 thì đầu tư cũng giảm theo hoặc bằng 0. Ưu và nhược điểm của lý thuyết gia tốc đầu tư --Ưu điểm: lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh sự tác động của sản lượng đến đầu tư. Nếu tích không đổi trong một thời gian nào đó thì lý thuyết này là cơ sở để dự báo quy mô vốn đầu tư tại năm nào đó. Nếu gọi và là vốn đầu tư thực hiện tại thời điểm t và t-1 , là vốn đầu tư mong muốn. λ là một hằng số ( 0< λ < 1) thì - = λ ( - ) Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa 2 kỳ chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và với vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1 . Nếu λ =1 thì = và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư ròng = - = - và theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì : - = δ ( - ) và do đó = δ ( - ) giả sử = δ * δ : hệ số khấu hao 0 < δ < 1 và do đó - = - δ *= δ ( - ) hoặc = δ ( - ) + δ * là tổng đầu tư và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư vì khi sản lượng tăng, mức tiêu dùng tăng ít, tiết kiệm tăng cao nên đầu tư tăng. -Nhược điểm. Lý thuyết giả định quan hệ giữa vốn và sản lượng cố định nhưng thực tế nó luôn biến động do sự tác động của các nhân tố khác. Mặt khác lý thuyết này xem xét đầu tư ròng ( bộ phận còn lại của vốn đầu tư sau khi đã trừ đi phần đầu tư bù cho khấu hao tài sản) chứ không phải tổng đầu tư. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ, điều này không đúng về nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng do cầu vượt quá cung…. 3.Tác động chuỗi ở góc độ doanh nghiệp, để sản xuất và bán được nhiều hàng hoá các doanh nghiệp buộc phải đầu tư nhiều hơn. Cụ thể họ phải đầu tư nhiều hơn vào hàng tồn kho, nghĩa là phải dự trữ thêm nhiều nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm để đảm bảo bán ra liên tục. Ngược lại khi sản xuất ít hàng hoá và dịch vụ hơn họ cần ít hàng tồn kho nghĩa là đầu tư ít hơn. Trên góc độ nền kinh tế, khi một đất nước có đầu tư tăng, thì nhiều nhà máy xí nghiệp, cơ sở sản xuất được tạo ra tạo công ăn việc làm cho người lao động đồng thời cầu về nguyên vật liệu để cung cấp cho các nhà máy sản xuất tăng, sản lượng tạo ra cho nền kinh tế tăng. Do đó thu nhập của quốc gia cũng như của người dân tăng lên dẫn đến tiết kiệm tăng mà tiết kiệm là một nguồn tạo vốn đầu tư là chủ yếu. Mặt khác khi thu nhập của người dân tăng thì nó sẽ kích thích tiêu dùng, cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nó lại kích thích sản xuất hay kích thích đầu tư mới. Khi đầu tư mới tăng lại dẫn đến sự gia tăng về sản xuất. Quá trình này cứ diễn ra như vậy tạo thành một dây chuyền. Chương II: Mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng trong thực tế nền kinh tế quốc dân. I.Tình hình đầu tư và tác động của nó đến sản lượng của nền kinh tế trên thế giới. 1.Trung Quốc Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội kế hoạch 5 năm lần thứ X của Trung Quốc (2001-2005)đã kết thúc .Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời gian “kế hoạch 5 năm lần thứ X” là 8,8%cao hơn so với mục tiêu “kế hoạch 5 năm lần thứ IX” đạt 8,2%. Năm 2005 tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 5,4% tổng giá trị GDP vượt qua 1500 tỷ USD. Năm 2002 tỷ lệ tăng GDP của Trung Quốc đạt 8,0% năm 2003 tỷ lệ này lên tới 9,1%, năm 2004 là 9,4%. Theo số liệu năm 2003, GDP bình quân đầu người đã đạt mức đột phá là 1000 USD, năm 2004 là 1200 USD. Thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ X bất kể là tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người đều cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng bình quân thế giới. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao như vậy nhờ thực hiện các biện pháp : Sau khi TQ ra nhập WTO các doanh nghiệp phải đối mặt với c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0222.doc
Tài liệu liên quan