Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam bước vào những năm đầu của thế kỉ 21 đầy thử thách, sự biến động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây đã tác động nhiều mặt đến nền kinh tế nước nhà. Tuy vậy, năm 2007 vẫn là một năm thành công của kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,48%, không những thế, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2007 lên tới 20,3 tỷ. Những con số ấn tượng này góp phần khẳng định hơn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với việc gia nhập WTO, V

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư. Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong đó quy mô vốn đầu tư là một vấn đề sống còn. Quy mô vốn đầu tư chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, quan trọng nhất phải kể đến lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận. Nghiên cứu đề tài về “Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư” chúng tôi muốn đưa ra những lý luận cũng như những tình hình về mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư, lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận trong những năm gần đây. Và qua đó, đưa ra một số ý kiến về giải pháp khắc phục những điểm còn hạn chế và biện pháp mở rộng quy mô vốn đầu tư. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này. Nhóm 6 Chương I Lý luận chung về mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư A.Những vấn đề lý luận chung về lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư I. Quy mô vốn đầu tư: 1.Đầu tư và đầu tư phát triển: Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...) và tăng tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và tài sản vô hình ( những phát minh sáng chế, bản quyền...). Các kết quả đạt được của đầu tư phát triển góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. 2. Quy mô vốn đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng: 2.1. Khái niệm vốn đầu tư: Theo luật đầu tư Việt Nam 2005: vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Xét về bản chất nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào tái sản xuất xã hội. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith khẳng định “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. nhưng có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì đầu tư không bao giờ tăng lên” Quy mô vốn đầu tư trong một thời kỳ nhất định được biểu hiện bằng đơn vị giá trị thông qua lượng tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh ( cả tài sản cố định và lưu động). Trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong nền kinh tế quy mô vốn đầu tư phản ánh tốc độ tăng trưởng cũng như sức mạnh của doanh nghiệp hay nền kinh tế. 2.2. Đặc trưng của vốn đầu tư: Vốn đại diện cho một đơn vị tài sản: được biểu hiện bằng những tài sản vô hình hoặc hữu hình. Vốn phải vận động sinh lời: được biểu hiện bằng tiền. Để biến tiền thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện, vận động và phải có khả năng sinh lời. Vốn phải tập trung tích tụ đến một mức độ nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Khi xác định được chủ sở hữu đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. Vốn có giá trị về mặt thời gian.Vốn luôn vận động sinh lời và gía trị của vốn biến động theo thời gian. 2.3. Nội dung cơ bản của vốn đầu tư: Nội dung cơ bản của vốn đầu tư trên góc độ nền kinh tế bao gồm: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Vốn lưu động bổ sung: bao gồm những khoản đầu tư dùng để mua sắm nguyên vật liệu, thuê mướn lao động... làm tăng thêm tài sản lưu động của xã hội. Vốn đầu tư phát triển khác: là tất cả các khoản đầu tư khác của xã hội nhằm tăng thêm năng lực phát triển của xã hội, nâng cao chất lượng dân trí, cải thiện môi trường... 2.4. Phân loại vốn đầu tư: Trong công tác quản lý và điều hành hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Xét trên góc độ toàn nền kinh tế vốn đầu tư được phân thành nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. 2.4.1 Vốn đầu tư trong nước: Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích luỹ của nội bộ nền kinh tế. nguồn vốn trong nước bao gồm vốn của ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước, vốn của dân cư và tư nhân. Nguồn vốn nhà nước: Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước: Vốn từ ngân sách nhà nước: đây là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó chính là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: đây là một khoản chi của ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức vay với lãi suất vay ưu đãi hoặc không chịu lãi suất để đầu tư trong ngành, lĩnh vực kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khiuyến khích đầu tư. Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Vốn của dân cư và tư nhân: Nguồn vốn này bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. 2.4.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Nguồn vốn ODA: là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các nguồn vốn khác ODA mang nhiều tính ưu hơn về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng cóyêú tố không hoàn lại ( còn gọi là thành tố tài trợ) đạt ít nhất 25%. Vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như các nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, nó có ưu điểm là không có ràng buộc về chính trị xã hội. Mặc dù vậy điều kiện vay của nó khá khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI): đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư nhà tư bản sẽ nhận được phần tư bản thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Thị trường vốn quốc tế: với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đẹp đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. 2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư: 2.5.1 Lợi nhuận kỳ vọng: Mục tiêu sản xuất của các doanh nghiệp chính là tối đa hoá lợi nhuận. Chính vì vậy, trong những trường hợp lợi nhuận càng cao thì các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ nhiều vốn vào sản xuất kinh doanh khi đó quy mô vốn đầu tư sẽ càng tăng lên. Bên cạnh đó, do tính giảm dần của hiệu suất khi quy mô vốn quá lớn sẽ dẫn tới việc năng suất trên một đồng vốn giảm dần. 2.5.2 Lãi suất tiền vay: Lãi suất tiền vay chính là chi phí khi sử dụng vốn vì vậy lãi suất tiền vay ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Khi lãi suất lớn hơn lợi nhuận bình quân các nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô nhằm đảm bảo an toàn cho đồng vốn của họ. 2.5.3 Môi trường đầu tư: Trong bất kỳ hoạt động nào môi trường hoạt động cũng là một yếu tố rất quan trọng. Hoạt động đầu tư cũng vậy môi trường đầu tư như là một chất xúc tác ban đầu cho quyết định bỏ vốn của các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư chính là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư. Theo nhiều nhà kinh tế học đã chia môi trường đầu tư thành 2 loại đó là môi trường đầu tư cứng và môi trường đầu tư mềm: Môi trường đầu tư cứng liên quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của kinh tế, gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (đường sá cầu cảng hàng không, cảng biển, ...), hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng... Môi trường mềm bao gồm: hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống các dịch vụ ngân hàng tài chính, kế toán, kiểm toán, bảo hiểm,... việc đảm bảo sự phát triển lành mạnh, ổn định của hai môi trường này là điều kiện không thể thiếu cho việc gia tăng quy mô vốn đầu tư. 2.5.4 Chính sánh thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng là môt nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu thuế thu nhập doanh nghiệp tăng sẽ làm lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm khi đó các nhà đầu tư sẽ giảm nhu cầu đầu tư. Nếu thuế thu nhập doanh nghiệp giảm sẽ làm cho lơi nhuận của doanh nghiệp tăng lên khi đó sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ thêm vốn là điều kiện để tăng quy mô tái sản xuất xã hội, phát triển đất nước. 2.5.5 Chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh hay còn gọi là chu kỳ kinh tế được nhận thấy trong hoạt động kinh tế của các quốc gia. Nó biến động theo trình tự gồm ba pha đó là: suy thoái khi nền kinh tế hay các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, phục hồi là quy mô của sản xuất quay trở lại bằng với trước khi suy thoái, hưng thịnh (bùng nổ) là thời kỳ quy mô sản xuất tăng cao hơn so với trước khi suy thoái. Sự biến động lần lượt trình tự vâỵ thường xuyên diễn ra nhưng không mang tính quy luật. Khi nền kinh tế bước vào hưng thịnh là lúc mà vốn đầu tư được sử dụng tăng vọt, khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái thì vốn đầu tư được sử dụng giảm xuống dưới điểm mà nó đã đạt được trước đây. II. Lãi suất: 1. Khái niệm và vai trò của lãi suất: 1.1. Khái niệm lãi suất: Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng - giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất. Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một thời gian nhất định. 1.2. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế: Lãi suất giúp huy động tiền tiết kiệm vào đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Lãi suất giúp phân bổ các nguồn tín dụng cho các dự án đầu tư có lợi suất cao nhất. Lãi suất mang lại sự cân bằng giữa cung tiền tệ Quốc gia và cầu tiền tệ của công chúng. Lãi suất còn là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ. 2.Phân loại lãi suất: Có nhiều cách phân biệt lãi suất. Có thể căn cứ vào tính chất khoản vay, căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi, căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất qui định hoặc căn cứ vào loại tiền cho vay. 2.1. Căn cứ vào tính chất của khoản vay: Lãi suất tiền gửi Ngân hàng: là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào loại tiền gửi ( không kỳ hạn, có kỳ hạn …), thời hạn và quy mô tiền gửi. Lãi suất cho vay tín dụng Ngân hàng: là mức lãi suất mà ngân hàng cho khách hàng vay. Mức lãi suất này cao hơn so với mức lãi suất đi vay bởi vì đây là loại lãi suất quyết định lợi nhuận của ngân hàng. Người vay tiền từ ngân hàng sẽ phải trả tiền cho ngân hàng trên cơ sở lãi suất này. Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu hoặc giấy thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền cho khách hàng. Như vậy lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất tín dụng thông thường. Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng trung ương (NHTW) cho các ngân hàng thương mại (NHTM) vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp tiền vay cho ngân hàng. Lãi suất chiết khấu do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kì và chiều hướng biến động của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Vì hoạt động tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các NHTM nên thông thường lãi suất nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt các NHTM trong trường hợp vi phạm các yêu cầu về thanh toán, NHTW có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các NHTM vay từ NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các NHTM. Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định, hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định dựa vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình. Lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có mức lợi nhuận bình quân cho phép. 2.2. Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được: Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế là hai khái niệm thường được dùng để diễn ta mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa: được hiểu là tỷ lệ lãi trên giá trị danh nghĩa của một khoản vay hay đầu tư. Đây là lãi suất được công bố hay được niêm yết kèm theo một chứng khoán hay một khoản tín dụng. Lãi suất thực tế: là lãi suất thể hiện lợi tức so với vốn vay mà người cho vay hay đầu tư nhận được về phương diện sức mua thực tế. Vì sức mua của tiền liên hệ chặt chẽ với lạm phát nên dễ thấy trong thời kỳ lạm phát lãi suất thực tế luôn luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa. Tỷ lệ trượt giá do lạm phát (Inflation premium) là tỉ lệ dùng để đo lường mức độ lạm phát mong đợi của nhà đầu tư trên thị trường. Mối quan hệ của lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được Irving Fisher nêu ra năm 1986 trong công thức: In = Ir + I + Ir.Ip trong đó : In là lãi suất danh nghĩa Ir là lãi suất thực I là tỷ lệ lạm phát Ip là tỷ lệ trượt giá do lạm phát mà nhà đầu tư mong đợi Vì Ir.Ip rất nhỏ nên thực tế công thức trên được viết In = Ir + I 2.3. Các loại lãi khác: Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất qui định ta có lãi suất cố định và lãi suất thả nổi. Căn cứ vào loại tiền cho vay có lãi suất nội tệ và lãi suất nội tệ. Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế : Lãi suất trong nước là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng trong một quốc gia. Lãi suất quốc tế là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc tế. ( Vd: LIBOR, NIBOR, TIBOR …). Lãi suất quốc tế cũng ảnh hưởng tới lãi suất trong nước. Nếu thị trường vốn trong nước là tự do thì lãi suất trong nước cũng lên xuống theo lãi suất thế giới. 3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất: Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước đóng vai trò trung tâm hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong các nước này không có thị trường tài chính và tài chính kiềm chế là mô hình quản lý tài chính phổ biến. Vì lẽ đó, lãi suất trong nước đều do Nhà nước qui định, sự biến động của lãi suất phụ thuộc phần lớn vào ý chí của Chính phủ. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường Tài chính và các Ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính trung gian rất phát triển. Lãi suất vì vậy biến động phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác. 3.1. Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay: Lãi suất là giá cả của tín dụng vì vậy bất kì sự thay đổi nào của cung, cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường, tuy nó cũng có ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của Chính phủ và NHTW, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Ta thấy lãi suất r tỷ lệ nghịch với lượng cầu tiền, khi lãi suất tăng cầu tiền tăng và ngược lại. 3.2. Ảnh hưởng của mức lạm phát kỳ vọng: Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Ta thấy rằng: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát Do đó để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng. Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiền tiết kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạng tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn và cho vay. Điều đó làm giảm cung dẫn đến ảnh hưởng tới lãi suất. 3.3. Ảnh hưởng của Thuế: Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất như khi nó tác động đến giá cả của các hàng hóa khác. Đối với cá nhân hay những người tham gia chứng khoán, khi thuế thu nhập tăng nó sẽ làm giảm một phần thu nhập. Còn đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng, thu thuế từ tiền lãi gửi tiết kiệm có thế làm ảnh hưởng tới việc hoạt động vốn của hệ thống ngân hàng, làm tăng lãi suất hoạt động và mức lạm phát, phần lãi suất thực của người gửi bị giảm đi, làm giảm khổi lượng tiền vay trên thị trường. Qua đó, làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch sang trái, lãi suất tăng lên. Và ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ làm giảm lãi suất. 3.4. Ảnh hưởng của bội chi Ngân sách: Tiết kiệm = Tiết kiệm cá nhân + Tiết kiệm chính phủ Khi bội chi Ngân sách, tiết kiệm giảm sẽ dẫn đến cầu của quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng. Hơn nữa, bội chi Ngân sách Chính phủ thường gia tăng việc phát hành trái phiếu. Cung trái phiếu tăng làm giá trái phiếu giảm, lãi suất tăng lên. Bên cạnh đó, cung trái phiếu tăng làm tài sản sẵn có của các NHTM tăng, dự trữ vượt quá, lãi suất ngân hàng tăng. 3.5. Ảnh hưởng của những thay đổi trong xã hội: Lãi suất là một biến số nhạy cảm của nền kinh tế. Do đó những thay đổi trong đời sống xã hội cũng ít nhiều ảnh hưởng tới lãi suất. Những thay đổi trong công nghệ dẫn đến sự tăng lên trong hiệu quả sử dụng vốn làm tăng cầu về vốn dẫn đến thay đổi lãi suất. Bên cạnh đó, với mức độ phát triển của các thể chế Tài chính trung gian ( hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước ) tạo nên sự cạnh tranh về lãi suất nên cũng làm lãi suất thay đổi. Các yếu tố xã hội, kinh tế như sự ổn định của chính trị, sự khuyến khích của Nhà nước, nhu cầu của người dân, văn hóa … cũng ảnh hưởng không ít tới lãi suất. Sự phát triển mang tính chu kỳ làm cung - cầu về tiết kiệm và đầu tư dẫn đến sự tăng giảm của lãi suất. III. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 1.Lợi nhuận thuần (W – Worth): Xét trên góc độ một dự án đầu tư lợi nhuận thuần phản ánh quy mô lãi của dự án. Chỉ tiêu này được tính cho từng năm hay cả đời dự án và bình quân năm của đời dự án. Lợi nhuận thuần trong từng năm (Wi) được tính như sau: Wi = Oi – Ci Trong đó: Oi là doanh thu thuần năm i Ci là chi phí của năm i Các chi phí ở năm i bao gồm tất cả các khoản chi có liên quan đến sản xuất, kinh doanh ở năm i: chi phí sản xuất, chi phi tiêu thụ sản phẩm, chi phí quản lý hành chính doanh nghiệp, chi phí khấu hao, chi phí trả lãi vốn vay, thuế thu nhập doanh nghiệp và chi phí khác. Lợi nhuận thuần giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, nó quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Vì vậy mà lợi nhuận thuần là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng kinh doanh của một doanh nghiệp. Nó là động cơ để các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Tuy vậy không thể chỉ lấy một chỉ tiêu tuyệt đối này để đánh giá chất lượng kinh doanh giữa các doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy người ta còn dùng một chỉ tiêu tương đối khác đó là tỷ suất lợi nhuận. 2.Tỷ suất lợi nhuận: 2.1. Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận thuần và chi phí sản xuất. Tỷ suất lợi nhuận chỉ rõ nơi hoặc lĩnh vực đầu tư có lợi. 2.2. Các loại tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: là quan hệ giữa tổng số lợi nhuận trước thuế thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác... và tổng thu nhập thuần của doanh nghiệp do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, cung cấp các dịch vụ và các thu nhập khác. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được trên một đồng doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn: là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác và tổng số vốn bình quân năm của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng vốn bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 3.1. Khái niệm: Chỉ tiêu này được tính cho từng năm (RRi) nó phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm tính trên một đơn vị vốn đầu tư hoặc phản ánh mức độ sử dụng vốn đầu tư ban đầu nhờ lợi nhuận thu được hàng năm. * Công thức xác định tỷ suất lợi nhuận từng năm như sau: Wipv RRi = ------------ Ivo Trong đó: Wipv : lợi nhuận thuần thu được năm i tính cho mặt bằng hiện tại Ivo : Vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đo vào hoạt động. RRi có thể so sánh giữa các năm của đời dự án. * Tính tỷ suất lợi nhuận bình quân năm (RR) của cả đời dự án được tính như sau: = ---------- Ivo Trong đó: Wpv lợi nhuận thuần bình quân năm của cả đời dự án theo mặt bằng hiện tại. Trong thực tế, để tính RR người ta có thể lấy lợi nhuận thuần của một năm hoạt động ở mức trung bình trong đời dự án và áp dụng công thức tính RR giản đơn (không xét yếu tố thời gian của tiền) như sau: = --------- Ivo Trong đó: W là lợi nhuận thuần năm hoạt động trung bình của đời dự án. Chỉ tiêu lợi nhuận vốn đầu tư là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng để nhà đầu tư quyết định đầu tư vào dự án nào. Nó phản ánh tốc độ thu hồi vốn, nếu tỷ suất lợi nhuận càng cao thì tốc độ thu hồi vốn càng nhanh và theo đó là lợi nhuận càng cao. 3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và ý nghĩa của việc tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 3.2.1 Lợi nhuận thuần: Dựa vào công thức tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư trên đây ta dễ dàng thấy nó chịu ảnh hưởng của lợi nhuận thuần thu được của dự án hằng năm và tổng số vốn của dự án đầu tư tại thời điểm dự án đi vào hoạt động. Với cùng một số vốn đầu tư giống nhau dự án nào càng thu được nhiều lợi nhuận thuần thì tỷ suất lợi nhuận của dự án đó càng cao và càng trở nên hấp dẫn với các nhà đầu tư. Như vậy chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư phản ánh sức hấp dẫn của các dự án đầu tư. Tuy nhiên các nhà đầu tư quyết định đầu tư hay không thường căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận biên của vốn. Khi tỷ suất lợi nhuận biên lớn hơn lãi suất thì dự án đó được đầu tư song tỷ suất lợi nhuận biên lại giảm dần khi tăng quy mô vốn đầu tư tăng vì vậy khi xem xét một dự án đầu tư phải xem xét kỹ các yếu tố liên quan. Việc nghiên cứu và tính toán tỷ suất lợi nhuận còn có ý nghĩa to lớn đến việc quyết định đầu tư khi tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành có sự khác biệt. Cùng một lượng vốn, nhưng nếu bỏ vốn để đầu tư vào ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng thu hồi được vốn và từ đó kiếm lợi nhanh hơn. Do đó tỷ suất không chỉ giúp nhà đầu tư tìm kiếm nhứng dự án có lợi mà còn giúp các nhà đầu tư định hướng trong hoạt động sao đạt được hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận thuần là chỉ tiêu phản ánh kết quả của hoạt động kinh doanh, do đó lợi nhuận thuần còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như : lãi suất, chính sách thuế ( đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp ), các khoản hỗ trợ … Chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu về ảnh hưởng của lãi suất tiền vay đối với lợi nhuận thuần từ đó có thể kết luận về ảnh hưởng của nó tới tỷ suất lợi nhuận. 3.2.2 Vốn đầu tư: Khi gia tăng quy mô vốn đầu tư, đồng nghĩa với việc cầu vốn đầu tư tăng, tất yếu làm cho lãi suất cho vay hay chi phí vốn vay tăng ( do dịch chuyển đường cầu ) dó đó lợi nhuận thuần thu được sẽ giảm dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm. Sự ảnh hưởng này sẽ được phân tích rõ ở phần sau. B. Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư: I. Tác động của lãi suất và tỷ suất lợi nhuận: Khi ra quyết định có nên đầu tư vào một dự án nào đó hay không đầu tư các nhà đầu tư luôn luôn phải xem xét mức độ chênh lệch của lãi suất vốn vay trên thi trường và tỷ suất lợi nhuận mà dự án đó dự kiến đạt được. Nếu lãi suất vốn vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận của dự án thì tính hấp dẫn của dự án đó càng tăng cao khi đó các nhà đầu tư nên mở rộng quy mô của dự án, ngược lại nếu lãi suất vốn vay lớn hơn tỷ suất lợi nhuận của dự án thì chủ đầu tư nên thu hẹp quy mô đầu tư. Đặc biệt khi lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng. Lãi suất đầu vào của các ngân hàng thương mại, tức lãi suất huy động vốn tăng cao sẽ làm cho nguồn vốn nhàn rỗi bên ngoài thị trường đổ vào ngân hàng nhiều hơn và chi phí tăng do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, nhưng lãi suất vay tăng chậm, khoảng cách giữa lãi suất vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. cả hai nhân tố đó làm cho lợi nhuận của ngân hàng thương mại ngày càng thấp. Điều này làm ảnh hưởng đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. II. Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay và quy mô vốn đầu tư: 1. Tác động của lãi suất tới quy mô vốn đầu tư: Nhân tố cơ bản tác động đến đầu tư là lãi suất. Đầu tư phụ thuộc vào lãi suất vì các quyết định đầu tư được đưa ra trên cơ sở hướng về tương lai. Các doanh nghiệp có các cơ hội đầu tư khác nhau, sự lựa chọn của doanh nghiệp dựa trên lợi nhuận kỳ vọng và chi phí tiền vay. Lãi suất chính là chi phí bỏ ra để vay tiền, là giá cả để được sử dụng tiền trong một thời gian nhất định mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó. Trong nền kinh tế đặc biệt là khi có lạm phát, lãi suất danh nghĩa không phản ánh thực chất chi phí vay tiền mà các doanh nghiệp phải dựa vào lãi suất thực tế để ra quyết định. Họ so sánh thu nhập thực tế của một dự án đầu tư với chi phí thực. I = I(r) Ta có: Trong đó: r là lãi suất thực tế. Các mô hình kinh tế chỉ ra rằng đầu tư phụ thuộc âm vào lãi suất do đó ta có hàm đầu tư đơn giản đã được sử dụng khi xây dựng mô hình kinh tế: I = I0 - br Trong đó I: đầu tư I0 đầu tư tự định b: độ nhạy cảm của lãi suất Ta có đồ thị của hàm đầu tư đơn giản như sau: r r1 r2 0 I1 I2 I Ta thấy lãi suất có tác động ngược chiều tới quy mô vốn đầu tư. Khi lãi suất thấp tức đồng tiền càng rẻ khi đó sẽ làm kích thích cầu vốn đầu tư và tiêu dùng. Các doanh nghiệp sẽ tận dụng cơ hội này để tăng quy mô vốn đầu tư bằng cách đến ngân hàng vay vốn để trang trải các khoản chi phí hoạt động của mình, vì khi đó chi phí của việc vay và sử dụng vốn sẽ thấp làm cho lợi nhuận của họ cao hơn từ đó có tác động làm tăng quy mô vốn đầu tư của nền kinh tế. Thông thường khu vực nhà nước dễ tiếp nhận các nguồn vốn vay hơn khu vực tư nhân và thường được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Bởi vậy tác động của lãi suất đến khu vực tư nhân nhạy cảm hơn và mạnh hơn nhiều. Trong quá trình đầu tư các doanh nghiệp tư nhân quan tâm nhiều hơn đến sự biến động của lãi suất vay vốn bởi nó là giá của vốn đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận thực tế mà họ thu được. Khi lãi suất tăng lên, điều này làm cho chi phí vốn của doanh nghiệp tăng lên từ đó làm tăng giá thành sản phẩm dịch vụ tác động làm tăng giá trên thị trường xã hội. Đồng thời nó sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của các hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Với lãi suất vốn vay cao, nhiều doanh nghiệp, cá nhân tổ chức sẽ hạn chế vay vốn hoặc không vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất. Điều này làm cho cầu đầu tư giảm xuống và làm cho quy mô vốn đầu tư của nền kinh tế bị thu hẹp lại. Hiện nay do nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hộ gia đình chủ yếu là vốn vay ngân hàng vì vậy khi lãi suất tăng cao việc vay vốn của các doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn hơn. Một mặt nó tạo điều kiện cho các tiêu cực nảy sinh trong quan hệ tín dụng ngân hàng và khách hàng, tức là ngân hàng phải buộc lựa chọn dự án lựa chọn khách hàng, việc cho vay vốn khắt khe hơn. Mặt khác nhiều dự án bị từ chối vay vốn hoặc doanh nghiệp không dám vay, không dám triển khai dự án từ đó ảnh hưởng tới tốc độ tăng quy mô vốn đầu tư đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Lãi suất vốn vay còn ảnh hưởng gián tiếp đến quy mô vốn đầu tư thông qua chi tiêu dùng và đầu tư: một sự tăng lên của lãi suất làm cho sức hấp dẫn của việc chi tiêu trong hiện tại giảm xuống hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu tiền thực tế giảm ( lãi suất giảm sẽ có tác động ngược l._.ại). Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình họ sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua sắm các mặt hàng này tăng lên. Cùng với sự tăng lên của lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự tăng lên của lãi suất thực này sẽ tác động tới quyết định tiêu dùng của hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng trong hiện tại và tăng tiết kiệm để tiêu dùng trong tương lai. Như vậy cầu tiêu dùng hiện tại sẽ giảm xuống kéo theo đó là tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế giảm xuống. Đến lượt nó tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế giảm lại làm cho doanh số giảm, lợi nhuận giảm làm triệt tiêu động lực mở rộng quy mô đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp. Lãi suất trên thị trường nội địa cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn vốn trong nước ngăn chặn nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. Đồng thời nó cũng là một công cụ hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, lãi suất cao làm tăng chi phí lưu trữ vốn lưu động ( ví dụ: lưu hàng trong kho) gây ra sức ép khiến doanh nghiệp phải giảm vốn đầu tư dưới dạng vốn lưu động. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách điều tiết lãi suất hợp lý để nó vừa kích thích đầu tư tăng quy mô vốn vừa phản ánh đúng giá trị nguồn vốn cho vay trên thị trường. Như vậy lãi suất tiền vay càng thấp thì số dự án thoả mãn yêu cầu càng nhiều, hay nói cách khác là tổng cầu vốn đầu tư càng lớn. Điều này phù hợp với lý thuyết cung cầu về kinh tế: khi giá một hàng hoá giảm thì lượng cầu của chúng sẽ tăng và ngược lại. Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến quy mô vốn đầu tư nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi một quốc gia. Trong từng quốc gia ở mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì mức độ tác động của thị trường tài chính cũng khác nhau. 2. Tác động của quy mô vốn đầu tư tới lãi suất vốn vay: Quy mô vốn đầu tư cũng tác động trở lại lãi suất vốn vay thông qua một trung gian tài chính ví dụ như ngân hàng thương mại. Quy mô vốn thể hiện ảnh hưởng của nó lên lãi suất khi nó đủ mạnh dể tác động đến thị trường. Trong hoạt động của mình, các trung gian tài chính như các quỹ cho vay gây ảnh hưởng đến mức độ huy động vốn trên thị trường. Nếu giữa các quỹ này có sự chênh lệch về cung cầu thì sẽ ảnh đến cung cầu tiền trong nước. Khi đó Ngân hàng Nhà nước phải bằng các biện pháp của mình tham gia điều tiết nhằm bình ổn thị trường trong đó có công cụ lãi suất. Mặt khác xét về khía cạnh các doanh nghiệp, nếu các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì mục tiêu của các doanh nghiệp này thường tập trung vào chất lượng sản xuất chứ ít tập trung vào mở rộng quy mô. Vì vậy cùng với những tiềm lực sẵn có doanh nghiệp sẽ ít chịu ảnh hưởng của lãi suất. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đặc điểm là vốn ít, lợi nhuận chưa cao nhu cầu vốn nhiều mà tiềm lực tài chính còn hạn chế, khi đó nguồn huy động vốn chủ yếu là từ bên ngoài thì vấn đề lãi suất luôn là mối quan tâm thường xuyên của các doanh nghiệp. Như vậy ta thấy quy mô vốn đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp. Chính vì vậy bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ tác động đến lãi suất và quy mô vốn đầu tư đều gây ra nhiều phản ứng trên thị trường. III. Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư: 1. Tác động của tỷ suất lợi nhuận đến quy mô vốn đầu tư: Theo lý thuyết của Keynes, một trong những nhân tố quan trọng tác động đến đầu tư là lợi nhuận kỳ vọng. Nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn thì nhà đầu tư sẽ sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. lợi nhuận thực tế thu được sau khi đã trừ đi các chi phí sẽ tích cóp lại thành quỹ nội bộ. Theo lý thuyết của quỹ đầu tư nội bộ thì đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thựctế: I =f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn đầu tư vào có thể huy động bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản cố định là nguồn vốn nội bộ trong doanh nghiệp còn đi vay và phát hành trái phiếu bán cổ phiếu là nguồn huy động vốn từ bên ngoài. Thông thường các doanh nghiệp sẽ sử dụng quỹ đầu tư nội bộ này vào hoạt động đầu tư bởi lẽ nguồn vốn đi vay từ bên ngoài thường không ổn định và không phải là một giải pháp tăng vốn hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Vậy lợi nhuân cao khiến doanh nghiệp tích cóp được nhiều vốn sẽ hình thành nên quy mô vốn lớn. Tuy nhiên các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến lợi nhuận kỳ vọng mà còn quan tâm nhiều đến chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn bỏ ra sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận vốn càng lớn thì sẽ càng thu hút được nhiều các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Trên thực tế,việc xác định chính xác giá trị thực tế của tỷ suất lợi nhuận là rất khó khăn, điều đó một phần dựa vào tinh thần lạc quan về tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của các nhà đầu tư. Chính điều đó đã thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn. Đồ thị mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư. % RR2 RR1 0 I1 I2 I 2. Quy mô vốn đầu tư tác động đến tỷ suất lợi nhuận: Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và vốn đầu tư không chỉ là mối quan hệ một chiều đơn thuần, không chỉ có lợi nhuận mới ảnh hưởng tới quy mô vốn đầu tư mà mối quan hệ này còn diễn ra theo chiều ngược lại tức là quy mô vốn đầu tư cũng ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận. Nhà đầu tư quyết định bỏ vốn, cái mà họ quan tâm không chỉ là mức gia tăng tuyệt đối về lợi nhuận mà họ còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận. Nhiều khi mức lợi nhuận tuyệt đối gia tăng nhưng nhà đầu tư vẫn không quýêt định vốn đầu tư của mình bởi vì việc gia tăng quy mô đầu tư sẽ làm cho hiệu quả biên của đồng vốn giảm dần dẫn tới tỷ suất lợi nhuận biên giảm dần. Sở dĩ như vậy là vì: khi đầu tư tăng lên làm nhu cầu về vốn đầu tư tăng dẫn tới giá của vốn tăng theo làm chi phí sản xuất tăng (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). Do đó lợi nhuận giảm kéo theo tỷ suất lợi nhuận giảm. Cũng theo Keynes, hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư của số tiền vốn đầu tư mới. Do đó, vốn đầu tư càng tăng thì thì hiệu quả biên của vốn giảm dần. Ta có: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư = Lợi nhuận thuần / Vốn đầu tư Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận phụ thuộc vào hai yếu tố lợi nhuận thuần và quy mô vốn đầu tư. Tác động của của quy mô vốn đầu tư đến tỷ suất lợi nhuận được xác định trên ba khía cạnh: Cung hàng hoá: khi đầu tư tăng thêm kéo theo khối lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng, đồng nghĩa giá hàng hoá giảm, lợi nhuận giảm. Cầu vốn: doanh nghiệp tăng quy mô vốn sẽ làm nhu cầu vốn tăng tác động làm giá vốn tăng. Điều đó làm tỷ suất lợi nhuận giảm. Sự lãng phí trong đầu tư: quy mô vốn lớn sẽ dẫn đến sự không đồng bộ trong đầu tư. Điều này làm cho các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất không cân xứng, không tối đa được lợi nhuận mà còn làm giảm tỷ suất lợi nhuận. IV. Mối liên hệ giữa ba yếu tố lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư: Như trên ta thấy, quy mô vốn đầu tư chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi hai yếu tố là lãi suất tiền vay và tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Tuy nhiên, hai yếu tố này không tác động riêng rẽ mà đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế hiện nay có sự tách rời giữa người sở hữu tư bản và người sử dụng tư bản. Người đi vay phải trả một khoản lãi suất nhất định cho người sở hữu tư bản vì vậy mà người đi vay phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa tỷ suất lợi nhuận mà họ thu được và số tiền lãi mà họ phải bỏ ra. Nếu sự chênh lệch giữa hai yếu tố đó càng cao thì lợi nhuận của các nhà đầu tư càng lớn và các nhà đầu tư sẽ tiếp tục đầu tư cho đến khi mà lãi suất bằng với tỷ suất lợi nhuận thì họ dừng lại không đầu tư nữa. Khi lãi suất vốn vay lớn hơn tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư thì các nhà đầu tư sẽ thu hẹp quy mô đầu tư. Bởi vì khi đó chi phí cận biên sẽ lớn hơn lợi nhuận cận biên nếu doanh nghiệp càng làm sẽ càng bị lỗ vốn. Lãi suất chiết khấu ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ các nhà đầu tư tài chính. Khi các ngân hàng thương mại cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lãi suất ngân hàng trung ương công bố từ trước chính là lãi suất chiết khấu. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu sẽ khiến cho việc vay tiền từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Tuy nhiên tác động của lãi suất không chỉ có dừng lại ở đó nó còn tạo tác động lan truyền đến hầu hết hoạt động của các cá nhân và doanh nghiệp. Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu: các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay với khách hàng thông qua việc tăng lãi suất đối với thẻ và các khoản vay ngắn hạn khác. Song song đó các cá nhân cũng có thể sẽ hạn chế mức vay nợ xuống, do vậy người tiêu dùng sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu. Sau cùng mỗi tháng họ đều phải giành thêm một khoản để trả tiền cho các hoá đơn hàng tháng thì khoản thu nhập dự phòng sẽ trở nên ít hơn. Khi đó sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư của các cá nhân. Đến lượt mình sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng của các cá nhân lại ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp ảnh hưởng của sự tăng lãi suất chiết khấu không chỉ có thế họ còn chịu tác động nhiều hơn. Dễ thấy chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay tiền và thực tế họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thi điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp pham vi hoạt động và kết quả lợi nhuận bị giảm sút. Cuối cùng khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư tăng lên làm đầu tư tăng kéo theo quy mô vốn đầu tư tăng, lãi suất giảm, tiết kiệm giảm làm đầu tư lại tăng thêm và ngược lại. Nghiên cứu vấn đề trên cho ta thấy, thông qua việc xem xét về lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp ta có thể đánh giá được tình hình hoạt động của doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng cũng như tình hình quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời thông qua chỉ tiêu này cho các nhà đầu tư các doanh nghiệp biết được nên đầu tư vào dự án nào là có lợi nhất, dự án nào không nên đầu tư. Chương II Thực trạng về mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam (từ năm 2000 đến đầu năm 2009) I. Tình hình đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2009: Trong những năm vừa qua, cùng với việc mở cửa thị trường và không ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đã đạt được những thành quả nhất định. Đặc biệt là việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như từ nước ngoài. Sự ra đời của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo ra môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cành mới. Đặc biệt việc ra đời của luật đầu tư năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 thay thế cho luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo “một sân chơi” bình đẳng không phân biệt giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước với các hoạt động đầu tư. Năm Tổng số Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2000 151183 89417 34594 27172 2001 170496 101973 38512 30011 2002 200145 114738 50612 34795 2003 239246 126558 74388 38300 2004 290927 139831 109754 41342 2005 343135 161635 130398 51102 2006 404702 185102 154006 65604 2007 521700 208100 184300 129300 2008 637300,0 184400 263000 189900 Nguồn vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế theo giá thực tế (đơn vị tỷ đồng). 1. Nguồn vốn từ trong nước: 1.1. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển đất nước. Đặc biệt đầu tư công có vai trò rất lớn trong định hướng phát triển chung. Qua những năm gần đây nguồn chi từ ngân sách nhà nước cho đầu tư ngày một tăng trong tỷ trọng đầu tư chung của xã hội. Trong giai đoạn 2001 – 2005 vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đầu tư đạt 269,5 nghìn tỷ đồng Năm 2006 thực hiện vốn đầu tư tư ngân sách đạt khoảng 81,58 nghìn tỷ đồng. Năm 2007 là 97 nghìn tỷ đồng. Năm 2008 vốn từ ngân sách nhà nước đạt 100,9 nghìn tỷ đồng chiếm 15,8% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Riêng trong 2 tháng đầu năm 2009 nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển đạt 20,1 tỷ đồng. Tuy nhiên việc giám sát và sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước vẫn còn nhiều yếu kém, tồn tại trong việc thanh tra kiểm tra giám sát thực hiện các dự án.Tỷ lệ các dự án thực hiện việc giám sát, đánh giá đầu tư còn thấp. Ngay cả các dự án nhóm A cũng chỉ đạt khoảng 40% số dự án có báo cáo về thanh tra giám sát và đánh giá đầu tư. Số lượng các gói thầu còn hạn chế, chỉ định thầu chiếm tới 60%, hình thức đấu thầu trực tiếp, thông thầu vẫn còn chiếm chủ yếu. 1.2. Nguồn vốn từ tín dụng nhà nước: Cùng với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước nguồn vốn tín dụng nhà nước là một nguồn vốn hết sức quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nhà nước - nguồn vốn cơ bản tạo ra sự phát triển dài hạn của nền kinh tế. Hiện tại hoạt động tín dụng cuả nhà nước do quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận.Trong 5 năm 2000 – 2004 quỹ đã huy động vốn để đầu tư vào hơn 3.800 dự án với số vốn xấp xỉ 48.000 tỷ đồng. Ngoài ra trong 5 năm hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho trên 1300 dự án với số tiền hỗ trợ khoảng 750 tỷ đồng, góp phần thu hút hàng chục tỷ đồng vốn từ các tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển. Năm 2007 vốn tín dụng từ ngân sách nhà nước đạt 40,3 nghìn tỷ đồng, năm 2008 ước đạt 40 nghìn tỷ đồng. Theo đánh giá của Bộ kế hoạnh đầu tư bình quân các năm qua, số vốn đầu tư cho nền kinh tế từ quỹ hỗ trợ phát triển chiếm trên dưới 14,5% tổng mức đầu tư chung của xã hội. Tuy nhiên, việc vay tín dụng Nhà nước vẫn gặp nhiều khó khăn do cho vay tín dụng với lãi suất thấp nên hệ quả là các điều kiện cho vay ngặt nghèo hơn, để đảm bảo việc trả nợ người vay tương đối phải mất nhiều thời gian (mặc dù hiện nay đã giảm đi nhiều thủ tục). Kết quả là việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách của các nhà đầu tư cũng bị hạn chế. Trong thời gian tới nguồn vốn tín dụng của nhà nước sẽ tiếp tục là nguồn hỗ trợ cho việc chi ngân sách nhà nước. Hịên nay nước ta đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, quỹ tín dụng Nhà nước là một động lực quan trọng giúp nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp tích cực để người dân, doanh nghịêp dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng Nhà nước. 1.3. Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước: Có một thực trạng xảy ra đối với nguồn vốn của khu vực kinh tế nhà nước đó là: vốn đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng đầu tư xã hội (theo thứ tự từ năm 2000 đến 2008 là: 51,9; 59,8; 57,3; 52,9; 48,1; 47,1; 46,2; 41,2 và 29,8) nhưng tỷ lệ đóng góp cho GDP thì không cân xứng chỉ ở mức 37 – 39% và tạo công ăn việc làm cho khoảng 9% lao động. Suốt hàng chục năm khu vực kinh tế nội địa, mà có lẽ chủ yếu là khu vực kinh tế nhà nước luôn nhập siêu ở mức cao (năm 2007: 20,3 tỷ USD) còn khu vực đầu tư nước ngoài lại xuất siêu, nói cách khác các doanh nghiệp nước ngoài đã tiêu dùng và đầu tư hơn rất nhiều mức nó tạ ra trong thời gian dài. Lý do là vì ràng buộc ngân sách của các doanh nghiệp khu vực kinh tế nhà nước còn lỏng lẻo. Một khi cơ chế ràng buộc càng mềm thì doanh nghiệp hoạt động càng kém hiệu quả. Ràng buộc ngân sách của khu vực tư nhân thường rất cứng. Ràng buộc ngân sách cứng, động cơ lợi nhuận cao, sự sẵn sàng cạnh tranh, tính năng động, sáng tạo là những lý giải vì sao doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả hơn doanh nghịêp nhà nước. 1.4. Nguồn vốn từ tư nhân và dân cư: Theo các chuyên gia kinh tế nguồn vốn từ khu vực tư nhân và dân cư đóng vai trò rất quan trọng đóng gớp vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng về cả quy mô và tỷ trọng. Khu vực tư nhân trong nước của Việt Nam đã phát triển rầm rộ kể từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp vào đầu năm 2000. Luật này đã góp phần tạo ra khoảng 62.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư khoảng 7,4 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này chiếm khoảng 25% tổng số vốn đầu tư ở Việt Nam so với 20% của khu vực đầu tư nước ngoài. Năm 2007, vốn đầu tư trong nước của tư nhân đạt 106 ngàn tỷ đồng (tăng 19.5%). Năm 2008 nguồn vốn từ khu vực tư nhân là 263 tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 47,2% đây là tỷ lệ tăng cao nhất từ trước đến nay. 2. Nguồn vốn nước ngoài: Từ thực tiễn thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài trong thời gian qua có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế nước ngoài rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển trong đó chủ yếu là nguồn vốn FDI và ODA. 2.1. Đối với nguồn vốn FDI: Trước năm 2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam có phần giảm sút. Từ năm 2000 đến năm 2003 dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, tăng 6% so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ khủng hoảng. Trong giai đoạn 2003 – 2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu thực hiện tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001 – 2005, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006 – 2007 dòng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng đáng kể (32,2 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch dich vụ cao cấp...). Đặc biệt trong năm 2008 tuy có những dấu hiệu chậm tiến độ đầu tư của một số dự án lớn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nhưng tính chung cả vốn cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam năm 2008 đạt 64,011 tỷ USD, gần gấp 3 lần vốn đăng ký so với năm 2007 đây là con số kỷ lục từ trước đến nay. Trong năm 2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 572 dự án với tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% về số dự án và 54,12% về vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án với tổng số vốn đăng ký 27,4 tỷ USD, chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký. Số vốn còn lại là thuộc lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Vốn FDI thực hiện là 11,5 tỷ USD bằng 15,6% số vốn đăng ký, tỷ lệ giải ngân chỉ đạt 19,1%, mức thấp nhất trong 8 năm trở lại đây. năm số dự án tổng số vốn đăng ký (triệu USD) tổng số vốn điều lệ 2000 391 2838,9 2413,5 2001 555 3142,8 2450,5 2002 808 2998,8 2591,0 2003 791 3191,2 2650,0 2004 811 4547,6 2852,5 2005 970 6839,8 3308,8 2006 987 12004,0 4100,1 2007 1544 21347,8 8030,0 2008 1171 60300,0 11500,0 Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép giai đoạn 2000 – 2008. Hai tháng đầu năm 2009, vốn đầu tư nước ngoài tính đến 20/2/2009 đạt 1,5 tỷ USD vốn đăng ký với 67 dự án mới được cấp phép. So với cùng kỳ năm trước, số dự án giảm 65%, tổng số vốn đăng ký giảm 69%. Nếu tính thêm 3,8 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 10 dự án được cấp phép từ năm trước thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài từ đầu năm đến 20/2/2009 đạt 5,3 tỷ USD giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút này là do ảnh hường của khủng hoảng kinh tế thế giới. 2.2. Đối với nguồn vốn ODA: Vốn ODA là nguồn vốn vay của các tổ chức nước ngoài hay các tổ chức tài chính quốc tế nhằm mực tiêu phát triển kinh tế. Trong thời gian qua vốn ODA đã có những chuyển biến tích cực đến qua trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta; giảm chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, đô thị với nông thôn, vùng núi, vùng sâu, hải đảo; góp phần xoá đói giảm nghèo. Hăng năm vốn cam kết ODA vào Việt Nam vẫn tăng, Năm 2006 vốn cam kết ODA vào Việt Nam đạt 3.75 tỷ USD, năm 2007 đạt 4.45 tỷ USD, năm 2008 các nhà tài trợ cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam 5,014 tỷ USD. Giải ngân ODA cả năm 2008 ước đạt 2200 triệu USD, tăng 10% so với thực hiện 2007, trong đó vốn vay đạt 1950 triệu USD, viên trợ 250 triệu USD. Trong hai tháng đầu năm 2009 có hai chương trình dự án ODA được ký kết thông qua các hiệp định thông qua các nhà tài trợ đạt tổng giá trị 25 triệu USD, giải ngân ODA đạt 125 triệu USD. Những mặt tích cực của ODA: Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% - 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Góp phần cải thiện một bước phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, cải tạo giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,cải thiện đời sống nhân dân. ODA góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1983 xuống 37% năm 1988 và dưới 10% năm 2004. kết quả này cho thấy nước ta đã vượt mục tiêu thiên nhiên kỷ (MDGs) nhà nước ta cam kết với thế giới. ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu sắc như chương trình dân số phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình nước sạch nông thôn.... Nhờ vậy thứ hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc được cải thiện hàng năm. ODA đã góp phần quan trọng vào tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý và xây dưng theo lichj trình phù hợp với chính sách chủ trương của Đảng... Những mặt hạn chế: Tuy đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thu hút tiếp nhận quản lý và sử dụng ODA nhưng trong công tác cong tác quản lý và sử dụng ODA ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Có thể nói rằng việc quản lý và sử dụng ODA của nước ta hiệu quả còn thấp; việc thực thi nghị định về quản lý và sử dụng ODA chưa được triệt để công tác theo dõi vốn ODA chủ yếu tập trung vào báo cáo tiến độ, tình hình thực hiện để đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ nhằm giải ngân dự án; chỉ chú trọng nhiều trong khâu thu hút vốn đầu tư, chưa thoả đáng trong khâu thẩm định hiệu quả dự án; thiếu kiểm tra trong khâu thu hút ODA, chưa chú ý thoả đáng khâu thẩm định hiệu quả dự án, thiếu kiểm tra quá trình thẩm định dự án; trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chưa được đề cao... gây thất thoát, lãng phí đối với nguồn vốn ODA, đến chất lượng các công trình được đầu tư từ nguồn vốn này, mà còn tác động đến môi trường đầu tư và thực hiện cam kết của các nhà tài trợ vốn ODA với Việt Nam. Về cơ sở pháp lý để quản lý và sử dụng vốn ODA của chúng tá hiện nay còn chưa đủ, chưa đồng bộ, không ổn định và tính pháp lý chưa cao. 3. Đánh giá về tình hình đầu tư của nước ta: 3.1. Ưu điểm: Trong bối cảnh nước ta chịu tác động của kinh tế toàn cầu dẫn tới chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, mức nhập siêu lớn... ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế và các mặt của đời sống kinh tế xã hội nhưng Việt Nam vẫn thu hút được số lượng vốn đăng ký lớn trong năm 2008 chứng tỏ nước ta vẫn được cộng đồng đầu tư quốc tế đánh giá cao về môi trường kinh doanh. Các giải pháp và chính sách của Việt Nam trong kìm chế lạm phát giữ ổn định môi trường đầu tư kinh doanh và coi Việt Nam là một địa bàn đáng tin cậy. Sự nỗ lực rất lớn của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trong việc thu hút nước ngoài trong việc thu hút vốn đầu tư trong những năm qua. 3.2. Nhược điểm: Thực tiễn đầu tư trong giai đoạn vừa qua cũng bộc lộ những yếu kém và hạn chế ở cả môi trường đầu tư và tình hình đầu tư. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của mang tính đột biến của FDI vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế nhưng chưa hoặc châm được khắc phuc của Việt Nam bộc lộ. bên cạnh đó một số vấn đề mới phát sinh cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư hạn chế khả năng thu hút đầu tư của nước ta. Hệ thống luật pháp đầu tư kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa luật chung và luật riêng. Công tác quy hoạch lãnh thổ ngành nghề lĩnh vực còn nhiều sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về địa phương dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. nhiều địa phương cấp phép tràn lan khai tăng vốn đăng ký của dự án để lấy thành tích để cạnh tranh nhau dẫn tới tình trạng dư thừa lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp... Về cơ sở hạ tầng: Sự suy yếu về cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, đặc biêt là hệ thống cấp nước, điện, giao thông vận tải, cảng biển phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu... Về nguồn nhân lực: tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực tay nghề cao đã qua đo tạo đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệ, không chỉ ở những khu cong nghiệp mới mà ngay cả ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng này xảy ra. Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được hiệu quả, nội dung hình thức chưa phong phú còn chồng chéo gây lãng phí nguồn lực. II. Những vấn đề về lãi suất trong thời gian qua (2000 – 2009) 1. Một số vấn đề về cơ chế lãi suất: Cơ chế lãi suất là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tê, tín dụng trong một thời kỳ nhất định. Việc điều hành cơ chế lãi suất thông qua 2 co chế dó là lãi suất trực tiếp và lãi suất gián tiếp, các lãi suất thường được công bố như khung lãi suất, lãi suấ trần, lãi suất sàn, lãi suất tiền gửi ngân hàng, lãi suất lien ngân hàng... Trước năm 1989:  Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.  Từ năm 1988 đến 2006: Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau:  - Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992): Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.  - Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995): Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.  - Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000): Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.  - Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):   Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.  Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.  - Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006): Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.._.g vốn đầu tư vào các ngành là rất lớn (Năm 2006 đã có 472 dự án được cấp phép đầu tư vào các ngành này với tổng số vốn đầu tư lên đến 4867230 nghìn USD). Ngành ngân hàng – tài chính có mức độ rủi ro cao, bên cạnh đó đây là một trong những lĩnh vực đang được Nhà nước bảo hộ nên tỷ trọng đầu tư vào ngành này còn tương đối thấp (Năm 2006 chỉ có 2 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 17 triệu USD từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài). Tuy nhiên, trong những năm gần đây ngành ngân hàng luôn có tỷ suất lợi nhuận cao (ví dụ: GPBank 19,44% năm 2007), chính vì vậy mà số lượng cũng như quy mô các ngân hàng thương mại ở nước ta ngày càng tăng lên trong những năm gần đây. Kết thúc năm 2005 bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần chia cho các cổ đông tăng 15-16% cao gấp gần 2 lần lãi suất tiết kiệm VNĐ kỳ hạn 1 năm. Dẫn đầu là Techcombank chia 36% so với mức của năm 2004 là 15%; ACB chia 28%; Sacombank chia với mức 23,8% so với mức của năm trước là 26%; Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á va Vpbank đều cùng chia với mức là 20% tăng 1,5 lần so với 2004... Chính vì vậy mà quy mô tài sản_ yếu tố quan trọng nhất phản ánh tập trung bao quát lớn nhất sự phát triển của một ngân hàng_ kết thúc năm 2005 bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng khoảng 49 – 50% so với cuối năm 2004. Đến cuối năm 2005 ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế - VBI có tốc đô tăng cao nhất đạt tổng tài sản 8.978,2 tỷ đồng tăng 119,2% so với năm 2004; Techcombank tăng trên 63%, OCB tăng 58.9%; ACB tăng 56,3%; VPBank tăng 55,0%...so với cuối năm 2004. Quy mô vốn điều lệ của hầu hết các ngân hàng đều có số vốn tăng gấp 2 đến 3 lần so với năm 2004; mạng lưới quy mô các chi nhánh ngân hàng cũng ngày càng được mở rộng.   Cơ cấu kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch hợp lý theo hướng CNH-HĐH: các ngành dịch vụ đang có sự phát triển mạnh mẽ, mang lại tỷ suất tỷ suất lợi nhuận cao. Bảng vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế theo giá thực tế: (Tỷ đồng) Ngành 2004 2005 2006 2007 Nông – lâm - ngư nghiệp 22.963 25.749 30.087 33.900 công nghiệp – xây dựng 124.372 146.104 170.935 226.907 Dịch vụ 143.628 171.282 203.690 260.893 Dễ thấy các ngành xây dựng cơ bản, xây dựng khu đô thị - khu chế xuất - khu công nghiệp…đóng 1 vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam . Vì vậy các ngành này đã nhận được sự quan tâm phát triển đặc biệt của Nhà nước và sự đầu tư từ nước ngoài. Riêng năm 2008 vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng số vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông lâm ngư nghiệp 252,1 triệu USD chiếm 0,4%. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới các doanh nghiệp nước ta trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp giảm đi cùng với nó là tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng giảm rõ rệt khiến cho số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký mới trong 3 tháng đầu năm 2009 giảm đi gần một nửa được 46,2% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp mới ra đời cũng giảm đi 3,2%. Trong bối cảnh suy giảm như vậy không ít các doanh nghiệp đã buộc phải cắt giảm sản xuất và nhân công. Một số sản phẩm rơi vào cảnh sản xuất cầm chừng như giấy bìa các loại giảm tới 39,2%, phân hóa học 22,1% dầu thực vật tinh luyện giảm 14,5%... Giá trị sản xuất nông nghiệp 3 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 152,9 nghìn tỷ đồng, chỉ nhích hơn cùng kỳ năm ngoái 2,1%. 3.Lãi suất và quy mô vốn đầu tư: Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm, một sự thay đổi của lãi suất làm thay đổi lớn đến hành vi tiêu dùng, tiết kiệm sản xuất của toàn xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn đã chứng minh sự thay đổi của lãi thực sẽ tác động đến giá cả, quy mô vốn đầu tư và sản lượng... Trong thời gian từ 2004 – 2006: tình trạng lãi suất của các ngân hàng tăng cao đã gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ giữa những năm 2004 đến năm 2006 cùng với xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát lãi suất của các ngân hàng không ngừng tăng cao. Trong vòng 1 năm từ 2005 đến 2006 Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng một số lãi suất chủ đạo là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu hai lần tăng lãi suất cơ bản tiền đồng Việt Nam. Cùng với việc gia tăng lãi suất của ngân hàng trong thời gian này đã có rất nhiều những tác động đa chiều: đối với hệ thống ngân hàng làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại đặc biệt là tăng lãi suất huy động đã giúp cho các ngân hàng thuận lợi hơn trong việc huy động vốn. Tuy nhiên lãi suất huy động tăng cao cũng đồng nghĩa với lãi suất cho vay cũng phải tăng theo. Lãi suất cho vay tăng cao làm cho hoạt động cho vay trở nên khó khăn hơn, đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ. Trong 3 tháng đầu năm 2006 lượng tiền cho vay cuả các ngân hàng chỉ tăng khoảng 1,5% thấp hơn so với tốc độ huy động. Như vậy trong ngân hàng xuất hiện tình trạng dư thừa vốn nhưng lại “tắc” các kênh dẫn vốn. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất, do lãi suất cho vay quá cao thậm chí vượt cả mức 10% tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình quân nên dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp thay vì gõ cửa các ngân hàng đã tìm các cách huy động vốn thông qua các kênh khác trong đó có thị trường chứng khoán. Tình trạng lãi suất tăng cao kéo dài sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng rủi ro bởi lẽ khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng trong nước trong thời gian này còn rất yếu kém nên hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Lợi nhuận giảm sút sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng vốn và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp và nhà đầu tư: tình trạng lãi suất tăng cao khiến cho các nhà đầu tư co cụm hoạt động sản xuất kinh doanh lại. Trong thời gian này nền kinh tế phát triển theo chiều rộng nên lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp không cao, do đó khi lãi suất cao thì chi phí đầu vào tăng cao, giá thành sản xuất ngày càng cao trong khi việc tăng giá bán trong bối cảnh lạm phát là rất khó khăn nên điểm tất yếu là các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong khi đó các kênh đầu tư khác như bấ động sản lại đóng băng, vàng đang trong cơn bão giá, đồng USD không ổn định đã khiến các nhà đầu tư lựa chọn các kênh đầu tư khác hy vọng sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Có thể là nguyên nhân gây “sốt mạnh” trên thị trường chứng khoán trong thời gian này. Đối với nền kinh tế, lãi suất tăng cao đã khiến cho chi phí đầu vào của nền kinh tế tăng cao và hiệu quả gián tiếp là giá thành cũng tăng lên theo, về ngắn hạn sẽ khiến giá thành của sản phẩm tăng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế giảm. Về dài hạn, lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến tình trạng “vãn hồi đầu tư” trong toàn nền kinh tế do các doanh nghiệp và các nhà đầu tư thu hẹp quy mô đầu tư, sản xuất kinh doanh. Hiện tượng tăng lãi suất trên lại tái hiện trong năm 2008 do nhà nước thực hiện chính sánh thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát tăng cao, nó đã tác động không nhỏ tới việc tăng quy mô vốn và tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối tượng đầu tiên bị ảnh hưởng nhiều nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một phản ứng có thể của ngân hàng là họ sẽ ưu tiên cho những dự án, những khoản vay lớn hơn để giảm chi phí giao dịch tránh gây nhiều tổn thất đến lợi nhuận của chính họ. Do đó trong thời gian tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể khó tiếp cận tới nguồn vốn hơn. Thấy rằng việc NHNN tăng mức lãi suất cơ bản, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian này là cần thiết, nhưng lẽ ra mọi thứ phải nên tuân theo quy luật thị trường một thời gian nữa. Bởi lẽ một lúc ban hành nhiều chính sách kiềm chế lạm phát như vậy sẽ gây sốc đối với các doanh nghiệp. Cuộc đua tăng suất của các ngân hàng không chỉ các doanh nghiệp nhỏ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực mà một số các” đại gia” cũng điêu đứng như sơn Kova, điện tử Tân Bình, dệt may Việt Nam... Chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn dệt may Việt Nam_ ông Lê Quốc Ân có nói: “việc tăng lãi suất chắc chắn sẽ khiến cho các doanh nghiệp dệt may nói riêng và doanh nghiệp cả nứơc nói chung gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời khi lãi suất tăng cao việc vay vốn của các doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm nhiều phụ phí do các ngân hàng tự đặt ra với thực tế như vậy khó khăn của các doanh nghiệp sẽ thêm chồng chất”. Trong thời gian qua các NHTM đua nhau tăng lãi suất đối với cả VND và ngoại tệ để bắt kịp với sự tăng lãi suất từ cục dư trữ liên bang Mỹ nhằm tránh tình trạng đào thoát vốn ra bên ngoài. Đây cũng chính là nhân tố khiến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài trong năm qua đổ vào nước ta mạnh hơn các năm trước rất nhiều. Năm 2006, FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 12004,0 triệu USD; năm 2007 đạt 21347,8 triệu USD; năm 2008 đạt 64000 triệu USD gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 6 lần năm 2006. Riêng số vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động trong năm 2008 cũng đã bằng cả số vốn đăng ký mới năm 2000. Lượng vốn giải ngân năm 2008 cũng đạt con số khá ấn tượng 11,5 tỷ USD, mức cao nhất trong 22 năm qua. Năm 2008 cũng ghi nhận sự sự xuất hiện của hàng loạt dự án đầu tư lớn như dự án lọc hoá dầu Nghi Sơn  Thanh Hoá, dự án thép ở Ninh Thuận và Hà Tĩnh... Sự gia tăng lượng vốn đăng ký đã làm tăng quy mô hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Với hơn 9.800 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký gần 150 tỷ USD, năm qua hơn 4000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tai Việt Nam đã đóng góp 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. khối các doanh nghiệp này còn tạo ra trên 200.000 việc làm mới, nâng tổng số lao động trong các dự án FDI tăng lên gần 1,47 triệu người, góp phần giải quyết tình trạng việc làm vốn vẫn đang nóng bỏng tại Viêt Nam. Tuy nhiên việc giải ngân FDI vẫn còn nhiều thách thức lớn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài do những “nút thắt cổ chai” về kết cấu hạ tầng, thiếu hụt năng lượng và chất lượng chưa được giải quyết. Quý IV/ 2008 trước những biến động xấu của kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta có dấu hiệu chững lại của lạm phát, NHNN đã ra quyết định hạ lãi suất thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm ngăn những tác động tiêu cực từ những biến động xấu của nền kinh tế thế giới. Theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế việc giảm lãi suất trong thời gian này là phù hợp và đồng điệu với các nước xung quanh, tác động vĩ mô của chính sách này có tính phòng vệ cao vì lạm phát có thể chuyển sang giảm phát. Việc giảm lãi suất cho vay đem lại hy vọng cho các doanh nghiệp đang cần thực hiện một kế hoạch đầu tư, và đặc biệt là giảm bớt gánh nặng cho những doanh nghiệp đang oằn lưng vì chi phí vốn vay nặng lãi. Đối với doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính lớn đây rõ ràng là một tin tốt vì phần chi phí vay trong tổng chi phí sẽ giảm di đáng kể. Ngay sau khi quyết định của NHNN có hiệu lực ngày 21/10/2008 các NHTM đồng loạt ra các quyết định giảm lãi suất của mình chứ không phải “nhìn trước ngó sau” xem các ngân hàng khác thế nào như mọi khi. Agribank quyết định đồng loạt giảm lãi suất với 2 đối tượng khách hàng truyền thống của mình là hộ sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ. Các “anh lớn” trong giới ngân hàng cũng giảm lãi suất theo nhằm kích thích các doanh nghiệp đầu tư. Tiếp theo sau đó cho đến nay NHNN đã 5 lần hạ lãi suất cơ bản nhằm kích thích tiêu dùng đầu tư ngăn chặn suy thoái kinh tế. Với lãi suất vay thấp hơn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đi vay với lãi suất thấp hơn tín dụng cung cấp ra cũng sẽ “nhẹ nhàng” hơn. điều này giúp cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, duy trì giá trị sản xuất kinh doanh. Việc nới lỏng hơn chính sách tiền tệ cũng sẽ có tác dụng tích cực trong ngắn hạn mà còn có những dấu hiệu tốt trong dài hạn. Loạt tín dụng này không chỉ không chỉ đủ đáp ứng lượng vốn thiếu hụt trong thời gian hiện nay mà còn có thể dư vốn tạm thời. Song thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn dè dặt, chưa có chuyển biến nào đáng kể trong đầu tư cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh. Tình trạng này khiến cho nhiều người nghĩ đến còn có những thay đổi trong điều hành lãi suất của các ngân hàng, cả lãi suất cơ bản và lãi suất thương mại. Quý I/2009 mặc dù đã có những chính sách giảm lãi suất kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước nhưng các doanh nghiệp vẫn sản xuất trong đình trệ do ảnh hưởng tiêu cực từ những đợt tăng lãi suất vài tháng trước đó đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho lợi nhuận của các doanh nghiệp trong quý này tiếp tục giảm sút. Tình trạng dư thừa và dư thừa năng lực sản xuất đang diễn ra và tiếp tục trầm trọng hơn về nhiều mặt hàng cơ bản. Nhiều công ty ở các ngành như thép, cao su, điều, phân bón, ... vẫn đang ngậm nguyên liệu đầu vào giá caơ từ năm ngoái, trong khi mức tiêu thụ giảm đi đáng kể. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của nhiều công ty khiến nhà đầu tư lo ngại tình trạng thua lỗ nặng nề như năm trước tiếp tục lặp lại trong quý I năm nay. Hiện nay tuy chính phủ đã có chính sách hỗ trợ lãi suất nhưng việc tiếp cận với lãi suất ưu đãi là khá khó khăn đối hầu hết các doanh nghiệp làng nghề họ đang phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng: làng đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh) thua lỗ 20 triệu USD do ứ đọng sản phẩm, “ôm” nguyên liệu lúc giá cao. Có những doanh nghiệp hàng trăm công nhân bây giờ tan tác chỉ còn khoảng 7 – 8 người làm. Tại làng sắt Đa Hội (Bắc Ninh) số thép tồn đọng đã lên đến hàng trăm nghìn tấn... Ngoài ra theo số liệu thống kê mới nhất của 38 tỉnh thành cho thấy đã có 9 làng nghề chính thức phá sản, 124 làng nghề đang sản xuất cầm chừng do gặp khó khăn (chiếm khoảng 10% số làng nghề trong cả nước). Việc phá sản của các làng nghề khiến cho hàng ngàn người lao động bị mất việc khiến cho chuyện công ăn việc làm của người dân trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Vì vậy trong thời gian tới cần phải gấp rút tháo gỡ các khó khăn, giải ngân nhanh thủ tục đơn giản gọn nhẹ để cứu các làng nghề. Không chỉ có các làng nghề bị phá sản trong thời gian qua mà có nhiều các doanh nghiệp cũng công bố chính thức ngừng hoạt động trong thời gian dài hoặc thu hẹp sản suất, đứng trước nguy cơ ngừng hoạt động. Nhiều doanh nghiệp công bố cắt giảm nhân công trong đó các doanh nghiệp FDI hoạt động trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu, may mặc, điện tử là những doanh nghiệp cắt giảm nhiều nhất...3 công ty chính thức tuyên bố ngừng hoạt động đó là công ty Wei Xem Sin Đà Nẵng (100% vốn đầu tư của Đài Loan) đã chấm dứt hộp đồng với toàn bộ 101 lao động, công ty Kim Quốc Bảo (100% vốn của Đài Loan) chấm dứt toàn bộ hợp đồng với 1233 công nhân, công ty TNHH Việt Nam Knitwear (100%vốn đầu tư của Trung Quốc) chấm dứt hợp đồng với 893 lao động, công ty TNHH TKR Việt Nam chuyên sản xuất linh kiện điện tử (100% vốn Nhật Bản) cũng chấm dứt hợp đồng với 72 lao động.... Qua đó cho ta thấy ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu cùng với biến động bất thường của lãi suất đã làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam thu hẹp quy mô sản xuất mặc dù đã có nhiều những chính sách kính thích đầu tư của chính phủ. Tuy nhiên ở ngành nào cũng có các doanh nghiệp vượt khó khăn để phát triển. Công ty Đạm Phú Mỹ với chiến lược đẩy nhanh tiêu thụ hàng tồn kho và hiện nay đang vào vụ hè thu nên không còn hàng tồn kho giá cao trong công ty đồng thời giá phân bón đang lên nên DPM không còn thua lỗ trong qúy I này nữa; một cổ phiếu thuộc hàng blue_chip là HPG của tập đoàn Hoà Phát từ tuần đầu tháng 2 đã tăng giá trở lại do thông tin lợi nhuận tháng 1 đạt 80 tỷ. Quý IV năm ngoái doanh nghiệp này cũng lỗ 200 tỷ đồng do giảm giá hàng tồn kho, nếu tiêu thụ hết hàng tồn kho thì khả năng lỗ của doanh nghiệp này là rất thấp vấn đề là lời ít hay nhiều phụ thuộc vào doanh số bán hàng mỗi tháng. 4.Quy mô vốn tác động đến lãi suất Quy mô vốn đầu tư cũng có tác động trở lại với lãi suất. Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên cũng khiến cho lãi suất trên thị trường tăng lên không ngừng. Sự phát triển của các dự án của Chính phủ, các dự án đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tốc đô phát triển của các doanh nghiệp… là nguyên nhân gây ra việc tăng về tổng cầu vốn. Do đó các ngân hàng thương mại tăng cường huy động vốn để bơm cho nền kinh tế khi đó lãi suất sẽ co cơ hội tăng cao. Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên khiến lượng tiền đổ vào nền kinh tế cũng tăng làm cho tình hình lạm phát tăng cao do đó để điều chỉnh được lượng lãi suất thực đảm bảo thì lãi suất trên thị trường cũng phải tăng lên. Thực tế trong những năm gần đây Chính phủ nước ta luôn đặt mục tiêu tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng trưởng ấn tượng ( năm 2007 8,44%...). đặc biệt trong năm 2008 nước ta đặt ra mục tiêu tăng trưởng 9%, với bản chất là một nước phát triển theo chiều rộng nước ta cần một lượng vốn rất lớn để đạt được mục tiêu tăng trưởng đó. Chính vì vậy mà trong năm 2008 cùng với những biến động của thị trường thế giới, lạm phát của năm 2007 kéo sang cả năm 2008 chúng ta đã phải chứng kiến cảnh lãi suất ngân hàng leo thang từng ngày (theo bảng số liệu về biến động của lãi suất cơ bản chương 1). Sau đó do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và việc lãi suất gia tăng trước đó đã khiến cho việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó có thể mở rộng, quy mô vốn hẹp dần, Chính phủ lại ra quyết định hạ lãi suất để kích cầu đầu tư và tiêu dùng. 5. Thực trạng về mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư. Như chương một chúng tôi đã đề cập đến mối quan hệ của lãi suất tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư ta có: khi tỷ suất lợi nhuận tăng dẫn tới quy mô vốn đầu tư tăng sau đó là lãi suất sẽ tăng lên theo và ngược lại. Cũng như khi lãi suất tăng dẫn tới quy mô vốn giảm và tỷ suất lợi nhuận giảm. Điều này đã được thực tế kiểm chứng trong những năm qua. Đặc biệt trong năm 2008_một năm đầy biến động của thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới. Năm 2008, chi phí đầu vào, chi phí vốn tăng lên do tác động của lãi suất tăng cao cùng với tác động của suy thoái kinh tế, khiến cho các doanh nghiêp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, quy mô của các doanh nghiệp không được mở rộng, hàng hoá sản xuất ra khó tiêu thụ làm cho lợi nhuận của nhiều công ty bị giảm sút. Đặc biệt từ quý IV/2008, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh so với quý III hoặc cùng kỳ năm trước: lợi nhuận của công ty cao su Tây Ninh giảm 31,5% so với quý III, lợi nhuận sau thuế của tập đoàn Hoà Phát âm 232 tỷ đồng. Với ngành phân bón công ty Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC) lỗ gần 53 tỷ đồng. Tổng công ty cổ phần hoá chất và Phân đạm Phú Mỹ(DPM) lỗ gần 87 tỷ đồng. Trong quý IV/2008 TSC phải dành gần 32 tỷ đồng để trả lãi ngân hàng cho các hợp đồng tín dụng trước đó: công ty cổ phần thuỷ điện Cần Đơn lỗ 15,6 tỷ đồng do chi phí tài chính tăng tới 21tỷ đồng; chi phí vay của cổ phần Alphanam tăng hơn 200% so với cùng kỳ năm 2007, góp phần làm lợi nhuận sau thuế của công ty mẹ âm 7,5 tỷ đồng... Gánh nặng hàng tồn kho cũng đã khiến cho lợi nhuân của các doanh nghiệp đi xuống: CTCP Nam Việt lỗ 131 tỷ đồng, công ty cổ phần Phích nước Rạng Đông lỗ gần 8 tỷ đồng, nhiều doanh nghiệp ngành thép với khối lượng hàng tồn kho lớn cũng chịu thua thiệt nặng nề, công ty cổ phần kim khí Tp Hồ Chí Minh lỗ 25 tỷ đồng trong quý IV/2008... Chương III Giải pháp giải quyết các vấn đề lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư trong công tác quản lý và điều hành hoạt động đầu tư ở Việt Nam. 1. Giải pháp đối với các chính sách thu hút và quản lý hoạt động đầu tư. Để tiếp tục thu hút thúc đẩy giải ngân và nâng cao sử dụng hiệu quả vốn đầu tư chúng ta cần phải triển khai một số các biện pháp sau: Thứ nhất, giải pháp về chính sách pháp luật: tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đồi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của WTO. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các sự án xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học,...) cho người lao động làm việc trong các khu công nghệ cao, khu công nghệ, khu chế xuất... Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất,giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai can nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN Thứ hai, giải pháp về quy hoạch. đẩy nhanh tiến độ xây dựng phê duyệt các quy hoachj còn thiếu; rà soát định kỳ để bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác đinh hoặc xây dựng dự án. Hoàn chỉnh các công tác quy hoạch đất công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến đọ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư; rà soát kiểm tra điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là các địa phương ven biển nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và môi trường bền vững. Thứ ba, giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng. Tiến hành tổng rà soát điều chỉnh, phê duyệt công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư tối đa các nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nàh nước, ưu tiên các lĩnh vực cấp thoát nước vệ sinh môi trường; hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cấp chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất điện từ các loại năng lượng mới như gió, thuỷ triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin... Thứ tư, giải pháp về nguồn nhân lực. Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng cao tỷ lên người lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển các trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Nghiên cứu điều chỉnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch co cấu kinh tế. Thực hiện giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật lao động và thực tế cuộc sống để ngăn ngừa đình công bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động... Thứ năm, giải pháp về giải phóng mặt bằng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai hoặc không sử dụng hết đất đã được giao để cho các dự án đầu tư khác có lợi hơn. Đồng thời trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải toả và giao đất cho chủ đầu tư đúng cam kết, đặc biệt các dự án có quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân. Thứ sáu, giải pháp về xúc tiến đầu tư. Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... nhanh chóng hoàn thiện việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với các danh mục quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 để làm cơ sở co các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. Triển khai nhanh chóng thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại môt số địa bàn quan trọng... Thứ bảy, các giải pháp khác. tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực, tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong sử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan nhà nước. Duy trì mối quan hệ thường xuyên giữa lãnh đạo chính phủ, các bộ ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý các vấn đề khó khăn trong các dự án trong tiến trình hoạt động, đảm bảo các dự án thực hiện đúng tiến độ hiệu quả nhằm tiếp tục củng cố lòng tin vào các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. 2. Các giải pháp liên quan đến lãi suất Hiện nay trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu nền kinh tế nước ta cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Để ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng kinh tế nước ta trong thời gian tới nước ta cần phải tiếp tục điều hành chính sách nới lỏng tiền tệ một mặt để kiềm chế lạm phát và ngăn chặn kinh tế suy thoái. NHNN tiếp tục hoàn thiện điều hành linh hoạt chính sách tền tệ cũng như nghiệp vụ của NHNN. Khi ra quyết định chức năng nên lấy ý kiến của chuyên gia trong và ngoài nước để tránh được những ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân. NHNN cần siết chặt việc cấp phép thành lập mới ngân hàng đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng tránh tình trạng thành lập ngân hàng tràn lan gây ảnh hưởng đến hệ thống tín dụng trong nước. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ, trình độ quản trị điều hành của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống tín dụng. Xử lý hài hoà các mối quan hệ tín dụng đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, NHTM và người vay vốn NHNN nên tăng cường hơn nữa khâu kiểm tra, thanh tra đảm bảo chất lượng tín dụng nhất là lĩnh vực đầu tư bất động sản, đảm bảo an toàn hoạt động phòng ngừa rủi ro nhất là rủi ro công nghệ rủi ro đạo đức và công nghệ mới. NHNN khi đưa ra chính sách thì không nên ban hành nhiều chính sách cùng một lúc nên đưa ra từng chính sách để thị trường có thể phản ứng kịp với sự thay đổi của lãi suất. Việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải có sự cân nhắc rõ ràng, kỹ lưỡng. Bởi lẽ việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng buộc phải cho vay ít hơn. Ai cũng hiểu việc nâng dự trữ bắt buộc nhằm giảm thiểu rủi ro các ngân hàng nhưng nà chức trách quên một điều là cơ chế vốn hoạt động cần thông thoáng thì mới có thể thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp phát triển. Qua đó tăng cường tiêm lực cho nền kinh tế. 3.Các giải pháp về tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận là cơ sở để các nhà đầu tư ra quyết định, ở bất kỳ ngành nào nhà đầu tư cũng lựa chọn những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của các doanh nghiệp là phải nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Các giải pháp vĩ mô Chính phủ thực hiện việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các cơ quan chức năng trong công tác quản lý thực hiện vốn đầu tư hạn chế tình trạng thất thoát vốn và lãng phí trong đầu tư. Điều chỉnh mạnh mẽ, hợp lý cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng các ngành có lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng các ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Hoàn thiện hệ thống các mối quan hệ kinh tế, tăng cường sự liên kết giữa các ngành, các doanh nghiệp. Các giải pháp cho các doanh nghiệp Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. Lợi nhuận của hãng chịu tác động của nhiều nhân tố. Vì vậy muốn tăng lợi nhuận của vốn đầu tư ta cần phải tác động tổng hợp đến các nhân tố của nó. Ta có: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí. Như vậy để tối đa hoá lợi nhuận ta có thể dùng các biện pháp tối đa hoá doanh thu hoặc tối thiểu hoá chi phí bằng các biện pháp sau: sử dụng tối đa công suất của các nguồn lực, giảm chi phí sản suất kinh bằng các biên pháp như cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ người lao động... Tăng hiệu suất sử dụng vốn: xúc tiến bán hàng dể nhanh chóng tiêu thụ được nhiều sản phẩm, cắt giảm lượng hàng tồn kho, hợp lý hoá cơ cấu chi phí trong doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việt Nam đang từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội và không ít thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Để giữ vững địa vị và phát triển tại sân nhà, các doanh nghiệp không những cần duy trì, sử dụng tốt số vốn ban đầu mà còn cần phải tìm kiếm nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài. Vì thế, tăng cường mở rộng quy mô vốn đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế không chỉ là việc làm hết sức cần thiết, đó còn là một trong những ưu tiên hàng đầu. Trong đề tài này, chúng tôi đã đưa ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa lãi suất tiền vạy, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, qua đó vận dụng cho thực tiễn Việt Nam để đưa ra các giải pháp nhằm làm tăng khả năng huy động vốn. Đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu nói lên mối quan hệ giữa ba yêu tố trên là một mối quan hệ tác động qua lại khăng khít chặt chẽ, chúng tôi chỉ khẳng định lại một lần nữa kết luận trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng rằng với bố cục trình bày rõ ràng và thông tin thực tế đáng tin cậy, chúng tôi đã đem đến một cái nhìn tổng quan hơn về quy mô vốn đầu tư dưới tác động của hai nhân tố : lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận. Chúng tôi, những người thực hiện đề tài này mong muốn rằng quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam sẽ càng được mở rộng, vốn được sử dụng ngày càng hiệu quả, và mục đích sử dụng ngày càng được nâng cao. Không những góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới trong tương lai gần mà còn góp phần cải thiện và nâng cao đời sống xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân Giáo trình Tài chính tiền tệ, Đại học Kinh tế Quốc dân Giáo trình Tiền tệ và ngân hàng, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân Giáo trình Kinh tế vĩ mô 2, Đại học Kinh tế Quốc dân. Gi áo tr ình Lý thuy ết tổng quát v ề vi ệc làm lãi su ất và tiền t ệ, J.M.Keysnes. Tạp chí kinh tế phát triển. T ạp chí ngi ên cứu kinh tế. T ạp chí kinh tế v à dự báo. T ạp chí nghiên c ứu kinh tế. Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.org.vn Viện nghiên cứu kinh tế quản lý trung ương: www.vnep.org.vn Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế quốc gia: www.ncseif.gov.vn Trường Đại học Kinh tế quốc dân: www.neu.edu.vn Tin tức kinh doanh và tài chính: www.vneconomy.com.vn Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org.vn Bộ công thương: www.moi.gov.vn Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn Báo Đầu tư Cục Đầu tư nước ngoài ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22387.doc