Mối quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Chương 3 định hướng và giải pháp thu hút fdi hướng về xuất khẩu nhằm phát triển ngoại thương i. định hướng Với việc thu hút FDI và phát triển hoạt động ngoại thương, Đảng và Nhà Nước đã chủ trương áp dụng đường lối đúng đắn và lâu dài khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng vào XK. Như trong Báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 nêu rõ trong phần “Mở rộng và nâng cao hiệu quả kin

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế đối ngoại” rằng: “…Nhà Nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ…Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai khác thị trường quốc tế…Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút FDI…Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới…” Cũng trong báo cáo này phần Phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội 5 năm 2001-2005 đã nêu cụ thể Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại về xuất khẩu, nhập khẩu “Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những thhiết bị, vật tư chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất, kinh doanh…”; về thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài “Đẩy mạnh thu hút FDI. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu…” II. Giải pháp Từ phía quản lý Nhà Nước . 1. Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là FDI hướng về xuất khẩu và khuyến khích các doanh nghiệp FDI xuất khẩu. Việc đầu tiên cần làm đó là thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Muốn làm được điều này thì cần có một hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài thật rõ ràng. Bảo đảm một khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích cao hơn các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng cao chất lượng công tác làm luật, sao cho luật sau khi ban hành có sức sống trong thực tế và tương đối ổn định. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư, đặc biệt là các dự án hướng vào XK. Muốn thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên, khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi cao hơn các nước trong khu vực, bởi Việt Nam là nước đi sau và lạc hậu hơn so với nhiều nước trong khu vực kể cả về sơ sở hạ tầng, trình độ khoa học công nghệ và nghèo. Nếu chúng ta không chịu thiệt để tạo ra những ưu đãi cao hơn các nước khác chúng ta sẽ không thể cạnh tranh được với họ. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư trước hết là chính sách thuế. Thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, bởi lợi nhuận tỷ lệ nghịch với tổng chi trong đó thuế chiếm tỷ trọng rất lớn; Thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho nhà đầu tư sản xuất vào một ngành nào đó.Thuế quyết định dung lượng sản xuất và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư; thuế là nguồn thu chính của mọi quốc gia, trên cơ sở nguồn thu, Chính phủ trang trải các nguồn chi trong đó có chi cho đầu tư phát triển tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho hoạt động đầu tư, là nguồn đối ứng quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, vì thế thuế góp phần tạo dựng nên môi trường đầu tư ổn định hay bất ổn để các nhà đầu tư lựa chọn đầu tư. Đối với nước sở tại, thuế là công cụ đòn bẩy trong tay Nhà nước, là biện pháp quan trọng để Nhà nước thực hiện việc khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, hướng đầu tư vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển quốc kế dân sinh, thực hiện công bằng xã hội. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút đầu tư nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả của công cụ thuế, hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được cải tiến theo hướng - Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế. - Đảm bảo lợi ích quốc gia - Có tác dụng khuyến khích đầu tư. - Phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể : Cần thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất cơ khí, điện, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp phụ trợ sản xuất phụ tùng, linh kiện. Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm thuỷ sản, đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Đối với các dự án đặc biệt quan trọng cần xử lý đặc cách và có chính sách bảo hộ hợp lý trong lộ trình hội nhập. Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu (áp dụng chính sách thuế ưu đãi, thưởng xuất khẩu, đơn giản hoá thủ tục và thực hiện những biện pháp hỗ trợ ban đầu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu; khuyến khích chế biến sâu, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao). Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư, tăng sức cạnh tranh về giá cả cho các sản phẩm XK của các doanh nghiệp FDI trên thị trường thế giới. Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng hoá dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết TW lần thứ IV. Muốn vậy cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá dịch vụ theo hướng quy định một mức giá, phí chung cho các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. Hiện tại ta đang duy trì mức giá, phí khác nhau nhất là giá, phí các loại vật tư thiết yếu cho sản xuất và sinh hoạt như quy định giá điện nước, cước phí vận tải, bưu điện … khác nhau giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước tạo ra chi phí đầu tư cao cho nhà đầu tư nước ngoài và cản trở thu hút đầu tư nước ngoài của môi trường Việt Nam gây khó khăn cho các doanh nghiệp này trong việc cạnh tranh trên thị trường XK thế giới so với các doanh nghiệp đầu tư ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore… Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu và ưu tiên khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, nó đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán trong thực tiễn quản lý và điều hành các chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu trong suốt tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây là tiền đề rất quan trọng để định hướng các chính sách về tài chính, thương mại, đầu tư … Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự nó đảm bảo các yêu cầu về hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước mở rộng thị trường đi liền với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, bởi quan hệ kinh tế thị trường là dựa trên sự bình đẳng và cùng có lợi. Do vậy ta muốn phát triển mạnh xuất khẩu thì mặt khác ta cũng phải mở dần thị trường trong nước cho hàng hoá của các nước khác thâm nhập vào. Phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trong nước kết hợp với nhu cầu của thị trường và các nước trong khu vực và thế giới làm cơ sở quyết định quy mô đầu tư để đảm bảo sự cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường một cách hiệu quả nhất. Chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu phải thể hiện những yếu tố thông thoáng về môi trường đầu tư, do vậy cần có chính sách khuyến khích hơn nữa nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Giảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt phải bình đẳng trong các lĩnh vực ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu (quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia, hỗ trợ lãi suất …) cũng như cần phải xoá bỏ sự phân biệt giữa các khoản chi gắn với xuất khẩu giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Cho phép các nhà đầu tư có thể đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trước đây, pháp luật quy định các nhà đầu tư chỉ được phép đầu tư vào các lĩnh vực nhất định. Hiện nay, pháp luật đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép đầu tư vào tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nếu làm được điều này thì đồng nghĩa với việc có nhiều mặt hàng hơn để xuất khẩu. Tuy nhiên, quy định là thế còn thực hiện lại không được như thế, đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến đây nhìn chung vẫn còn tồn tại cơ chế “xin-cho”, có phần nặng về công việc hành chính mà chưa ngang tầm quản lý vĩ mô của ngành, tạo điều kiện cho tham nhũng, tiêu cực. Do đó, cần hết sức chú trọng tới việc quản lý điều hành theo pháp luật chứ không được duy trì cơ chế “xin cho”. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo đúng nghiã của nó chứ không để tình trạng gây khó khăn, phiền phức dưới mọi hình thức quản lý. Nhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hoá, do vậy sử dụng công cụ tỷ giá là một việc làm của mọi Nhà nước và các Chính phủ trên toàn thế giới. Một tỷ giá tiền tệ hợp lý là hết sức cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hoá ở nước ta, góp phần xây dựng kinh tế đất nước. Quản lý chặt chẽ và điều hành công tác xuất khẩu, phối hợp tốt với các doanh nghiệp sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần chỉ đạo quản lý có hiệu quả, tránh sự gian lận cũng như chồng chéo, góp phần giữ vừng những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. 2. Ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho xuất khẩu. Tập trung vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển nông thôn nhằm tăng cường xuất khẩu của lĩnh vực này, góp phần đẩy mạnh công tác hiện đại hoá nông nghiệp. Trong thời gian tới, Nhà nước cần chú ý: tiếp tục bổ sung các ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với các dự án chế biến nông, lâm, thuỷ sản như miễn tiền thuê đất trong những năm đầu, áp dụng thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất trong khung (ở nước ta miễn thuế 8 năm còn ở Thái Lan miễn thuế 8 năm và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo), ưu đãi đặc biệt cho các dự án tạo giống cây, giống con mới, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Hướng đầu tư nước ngoài vào xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau: Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu câù này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ, đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn khách quan do thị trường bị thu hẹp có thể cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa trong trường hợp sản phẩm cùng loại vẫn phải nhập khẩu vào thị trường trong nước có nhu cầu. Thêm nữa, cần chuyển sang áp dụng các biện pháp kinh tế, dùng đòn bẩy kinh tế là chủ yếu để khuyến khích xuất khẩu 3. Cải tiến thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI trong hoạt động đầu tư và đặc biệt là trong hoạt động XNK. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo thuận lợi, giảm phiền hà, giảm thời gian đối với việc cấp giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, hoàn thuế GTGT, thuế nhập khẩu nguyên liệu đối với các sản phẩm xuất khẩu. Cho tới nay, Tổng cục Hải quan đã phối hợp với Bộ Thương mại và Bộ Tài chính rà soát lại toàn bộ quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu bao gồm quy trình kiểm hoá, quy trình thu và hoàn thuế, phương pháp áp mã tính thuế… để giảm bớt những khâu không cần thiết, tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu. 4. Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin hỗ trợ các doanh nghiệp FDI trong hoạt động xuất khẩu. Xúc tiến thương mại đã thực sự thu hút được sự quan tâm của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước cũng như giới kinh doanh và ngày càng khẳng định vài trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhiều hoạt động được triển khai nhằm củng cố thêm nhận thức của xã hội, của các cấp ngành các doanh nghiệp như toạ đàm, viết bài trên báo chí, phóng sự truyền hình … đề cập tới vấn đề cấp bách là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá về thương mại và đầu tư. Trước yêu cầu đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kinh doanh xuất khẩu, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển chương trình này. Xúc tiến thương mại bao gồm một loạt các biện pháp về quảng cáo tiếp thị ở trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trao đổi, nắm bắt được nhu cầu mới của thị trường thế giới để vạch ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Cần xây dựng hoạt động xúc tiến thương mại có trọng tâm trọng điểm, gắn kết với các chương trình sản xuất và XK các mặt hàng quan trọng. Nhà nước cần phối hợp hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại, nâng cao trình độ của nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này. hơn nữa cần có hệ thống văn bản pháp luật về xúc tiến thương mại đầy đủ rõ ràng phù hợp với thông lệ quốc tế. 5. Mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư ở cấp chính phủ với các nước, khối kinh tế trên thế giới tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư FDI và khuyến khích các dự án hướng về xuất khẩu. Nhà nước còn cần xây dựng nhiều hơn nữa mối quan hệ thương mại ở cấp Chính phủ như ký kết các hiệp định thương mại đa phương, song phương với các nước,và các khối kinh tế tạo thị trường rộng lớn hơn nữa cho khả năng xuất khẩu hấp dẫn các nhà đầu tư . Nước ta cũng cần xúc tiến tích cực cho quá trình gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), đó là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển ngoại thương trong bối cảnh cạnh tranh gay găt với các nước trên thế giới và khu vực, đặc biêt là với các nước ASEAN và Trung Quốc. 6. Xúc tiến hoàn thiên và nhanh chóng đưa vào hoạt động Ngân hàng hỗ trợ xuất khẩu tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp FDI trong hoạt động xuất khẩu. Ngân hàng hỗ trợ xuất khẩu đang được Chính phủ xem xét thành lập. Khi ra đời nó sẽ giúp cho việc hỗ trợ các doanh nghiệp XK toàn diên và bài bản hơn. Cụ thể, ngoài những hình thức hỗ trợ đang được Quỹ Hỗ trợ phát triển triển khai như cho vay đầu tư các dự án làm hàng XK, cho vay tín dụng ngắn hạn hỗ trợ XK, còn các hình thức mới là bảo hiểm tín dụng XK, cho vay tín dụng ưu đãi đối với các cá nhân NK hàng hoá của Việt Nam …Ngoài việc bảo hiểm tín dụng XK còn đảm bảo cho doanh nghiệp yên tâm XK cả trong trường hợp có nguy cơ thua lỗ do đồng tiền của nước NK vì chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng nào đó mà mất giá so với đồng USD. Từ phía các doanh nghiệp Nhà nước chỉ hỗ trợ được phần nào hoặc góp phần tạo thuận lợi hơn cho xuất khẩu chứ không thể thay thế được bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp không nên trông chờ quá nhiều vào những khuyến khích, những điều kiện thuận lợi từ phía Nhà nước mà cần phải tự mình chủ động phát huy tiềm năng của doanh nghiệp, đa dạng hoá mặt hàng, tìm kiếm thị trường, bạn hàng… để nâng cao năng lực kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu của mình. 7. Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh từ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Tiềm năng của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản lý kinh doanh… Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình. Về vốn: Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị xản xuất-kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ họ có thể có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào để không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất-kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này sẽ được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt. Nhưng một doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Việc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Như ta thấy hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụng… Sự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn có thì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ phía đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc độ rủi ro cao) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình. Về kỹ thuật công nghệ Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tận dụng tiềm lực vốn và công nghệ của mình để tăng năng suất lao động, giảm chi phí, tăng chất lượng hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu. Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải dần theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, khi chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm, thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết các doanh nghiệp vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt được mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt. Về vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu. Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị. Để đối phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổi của môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà các doanh nghiệp Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của mỗi người. Hợp lý là vừa để vận dụng được hiệu quả nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong các ban chức năng… Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá loại hình kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là: - Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này, việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh, không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế, đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì các doanh nghiệp không thể mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Các doanh nghiệp có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Các doanh nghiệp cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác - hình thức này hiện nay đang rất được ưa chuộng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu. - Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Điều này ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn các doanh nghiệp trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý đến nhiều hơn. Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài muốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là đầu tư vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hỏi Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường cũng như trong hoạt động xuất khẩu. Tóm lại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế. 8. Chủ động tìm kiếm thị trường, bạn hàng cho sản phẩm xuất khẩu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có ưu thế về thị trường và có nhiều kinh nghiệm về thâm nhập thị trường hơn các doanh nghiệp trong nước, do vậy cần phải phát huy những ưu điểm này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có các công ty mẹ, các chi nhánh ở nước ngoài, do vậy đây là đầu cầu để tăng cường giao lưu trao đổi thông tin và bàn bạc ký kết hợp đồng thuận tiện hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Khi phát huy được những lợi thế vốn có này sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển xuất khẩu trong tương lai. Cụ thể, các doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức sau: ãĐẩy mạnh công tác marketing thương mại: chính sách marketing phù hợp sẽ là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Marketing hỗn hợp nếu sử dụng sai lệch thì không những không mở rộng được thị trường mà còn mất thêm khách hàng truyền thống. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược marketing có tính khả thi kết hợp hài hoà với các tham số của nó. - Về sản phẩm: Doanh nghiệp cần phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào thì phải phù hợp với thị trường đó. Do nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác nhau và luôn thay đổi nên các mặt hàng của doanh nghiệp cũng phải không ngừng thay đổi theo. - Về giá cả: Giá cả là công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện mục tiêu lợi nhuận song nó cũng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần có chính sách định giá hợp lý vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu của mình, vừa đảm bảo lợi ích cho khách hàng. - Về phân phối: Xuất phát từ đặc điểm của môi trường kinh doanh là các thị trường khác nhau, do đó chi phí để thực hiện phân phối cũng khác nhau nên các doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống kênh phân phối để tận dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời tiết kiệm tối đa các chi phí phát sinh. - Về xúc tiến: Xúc tiến thương mại có thể được thực hiện thông qua hội chợ, triển lãm, khuyến mại, quảng cáo … Những hoạt động này cần phải được sử dụng một cách phù hợp trong mỗi điều kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thị trường khác nhau. ãCác doanh nghiệp nên chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu thụ trực tiếp và có sức mua lớn như EU, Nhật, Mỹ …, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục lại các thị trường Liên bang Nga, các nước Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới. 9. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh - mặt hàng kinh doanh. Đa dạng hoá kinh doanh vừa để hạn chế rủi ro, vừa tận dụng hết những nguồn lực, đồng thời phục vụ được nhiều đối tượng, góp phẩn mở rộng thị trường. Đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào những ngành quy mô vừa và nhỏ làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Những lĩnh vực đầu tư quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Nhưng đối với những doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, việc cải tiến cơ cấu mặt hàng phải theo hướng khác. Mặc dù thông thường, mỗi doanh nghiệp đều phải có một hệ thống các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu đa đạng nhưng theo đòi hỏi của thị trường thì việc đổi mới hệ thống này phải được thực hiện không ngừng… Các doanh nghiệp cần không ngừng bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống của doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực, các doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới nhóm mặt hàng mới. Việc chuyên môn hoá vào những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp phong phú hơn. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh không chỉ có nghĩa là mở rộng danh mục mặt hàng mà điều cốt yếu quan trọng là phải không ngừng nâng cao chất lựơng hàng xuất khẩu của mình. Hàng hoá muốn xuất khẩu không thể không chú ý đến chất lượng, nhất là trong tình hình hiện nay, khi cung luôn vượt quá cầu thì chất lượng là một trong những vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả, qua các dịch vụ kèm theo … Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là phải hoàn thiện đồng bộ các mặt trên. Việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng cách đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cũng sẽ mang lại hiệu quả đáng kể vì một khi các sản phẩm có chất lượng, giá cả tương đương nhau, dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh. Bên cạnh việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp cũng cần phải đa dạng hơn các loại hình kinh doanh xuất khẩu. Có thể có các hình thức kinh doanh xuất khẩu như hình thức xuất khẩu tự doanh. Với hình thức này, các doanh nghiệp sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình này, các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, các doanh nghiệp chỉ phải thực hiện việc ký kết, thực hiện hợp đồng với nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà công ty kinh doanh bằng việc tiến hành trao đôỉ hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Doanh nghiệp có thể phối hợp sử dụng linh hoạt các hình thức này phù hợp với từng điều kiện cụ thể sao cho có hiệu quả tốt nhất. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuong3.doc
  • docbia.doc
  • docchuong1.doc
  • docdanhmuctailieu.doc
  • docketluan.doc
  • docmodau.doc
  • docmucluc.doc
  • docrechuong2.doc