Mối quan hệ giữa tín dụng Xuất khẩu & Hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam )

Tài liệu Mối quan hệ giữa tín dụng Xuất khẩu & Hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam ): LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong các năm qua tăng liên tục và giảm dần tỷ lệ nhập siêu. Tuy nhiên xu thế hội nhập đặt ra cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh do... Ebook Mối quan hệ giữa tín dụng Xuất khẩu & Hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam )

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa tín dụng Xuất khẩu & Hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh xuất nhập khẩu cần nhiều vốn hơn để thực hiện có hiêu quả các hợp đồng ngoại thương. Khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn và tài trợ của các ngân hàng (hay còn gọi là tín dụng). Tín dụng xuất khẩu ra đời là tất yếu khách quan gắn liền với quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước. Tín dụng xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp này tăng trưởng, hoạt động hiệu quả hơn. Nó còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động ngoại thương, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng hoạt động trên tinh thần một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, thực hiện chính sách đầu tư phát triền và chính sách xuất khẩu của Nhà nước. Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Phát triển, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu, ảnh hưởng của tín dụng xuất khẩu tới các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu em đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triên Việt Nam )” làm đề tài chuyên đề thực tập. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam các năm gần đây Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng học thuyết kinh tế chính trị Mác – Lênin, các học thuyết kinh tế học hiện đại về ngân hàng, thương mại quốc tế, quán triệt tư tưởng và quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu với hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển) Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG XUẤT KHẨU VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1.1. Xuất nhập khẩu 1.1.1. Bản chất của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế thường giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua việc mua bán nhằm mục đích kinh tế và thu lợi nhuận; là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội, phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa người kinh doanh hàng hóa dịch vụ riêng biệt ở từng quốc gia. Thương mại quốc tế vừa được coi là một quá trình kinh tế, vừa được coi là một ngành kinh tế. Với tư cách là một quá trình kinh tế, thương mại quốc tế được hiểu là một quá trình bắt đầu từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường cho đến khâu sản xuất kinh doanh, phân phối, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm. Với tư cách là một ngành kinh tế, thương mại quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn hóa có tổ chức, phân công và hợp tác, có cơ sở vật chất kỹ thuật, có lao động, vốn…. Cơ sở kinh tế cho thương mại quốc tế là sự phân công lao động, hợp tác quốc tế. Lịch sử phát triển của mọi quốc gia độc lập cho thấy xu hướng tất yếu để tồn tại và phát triển thì quốc gia đó phải thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác quốc tế. Phân công lao động, hợp tác quốc tế phát triển mạnh làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển, là động lực chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa đến sự cần thiết phải có sự trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể kinh doanh. Thương mại quốc tế làm cho nền kinh tế thế giới như một chỉnh thể, nền kinh tế mỗi quốc gia như các bộ phận hợp thành có quan hệ khăng khít với nhau. Đặc trưng của thương mại quốc tế : Quan hệ thương mại quốc tế là sự tiếp tục trực tiếp các quan hệ sản xuất bên trong của một quốc gia song nó được phát triển trong môi trường khác. Ở đó thể hiện các quan hệ kinh tế hoàn toàn không giống các quan hệ kinh tế trong nước. Sự phát triển các mối quan hệ thương mại quốc tế diễn ra giữa các chủ thể trên thị trường theo những hình thức và phương pháp riêng biệt. Thương mại quốc tế có nét đặc trưng đó là: Quan hệ trong thương mại quốc tế là mối quan hệ thỏa thuận tự nguyện giữa các quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tính chất pháp nhân. Quan hệ thương mại quốc tế chỉ có thể phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình đẳng và các bên tham gia cùng có lợi thông qua các hợp đồng kinh tế và sự chấp nhận của các bên tham gia. Thương mại quốc tế diễn ra theo các yêu cầu của quy luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thế giới vận hành theo cơ chế thị trường. Thương mại quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý khác nhau, các chính sách luật pháp thể chế của từng quốc gia cũng như các điều ước quốc tế. Quan hệ thương mại giữa các nước dẫn đến sự gặp gỡ, va chạm giữa hệ thống quản lý, chính sách luật pháp từng quốc gia. Thương mại quốc tế một mặt phải thực hiện đúng các yêu cầu luật pháp trong nước nhưng mặt khác phải biết tôn trọng và vận dụng phù hợp yêu cầu luật pháp và chính sách của quốc gia có liên quan. Thương mại quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và chuyển đổi giữa các đồng tiền. Vấn đề tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán, quản lý ngoại hối là những nội dung quan trọng trong thương mại quốc tế. Khoảng cách về không gian địa lý ít nhiều tác động đến quá trình phát triển của thương mại quốc tế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vận chuyển, thanh toán.v.v.. . Các nội dung cơ bản của thương mại quốc tế là: Xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình. Nội dung thứ hai là xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình như bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu.v.v... Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng cao. Thứ ba là gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Nội dung thứ tư: tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Hình thức cuối cùng đó là xuất khẩu tại chỗ. Trong 5 nội dung này thì hoạt động xuất nhập khẩu là nội dung quan trọng, cơ bản nhất trong thương mại quốc tế. Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ với nước ngoài, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá. Cơ sở của sự trao đổi hàng hóa là do phân công lao động xã hội, hợp tác quốc tế cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Điều này làm mạng lưới thương mại quốc tế ngày càng mở rộng. Hoạt động xuất nhập khẩu ra đời, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với lợi ích của mỗi quốc gia. Các lý thuyết về thương mại quốc tế Tuy cách tiếp cận và nhìn nhận vai trò của ngoại thương có khác nhau nhưng từ rất sớm các nhà kinh tế đã thừa nhận vai trò quan trọng của ngoại thương nói chung và của xuất nhập khẩu nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Từ thế kỷ XVI –XVII, trường phái trọng thương ở Tây Âu mà đại biểu là Thomas Mum đã đề cao vai trò của ngoại thương đối với sự giàu có của một quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã, chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Ngoại thương lúc này là phương tiện để giai cấp tư sản thực hiện cướp bóc ở thuộc địa thông qua việc trao đổi không ngang giá, quốc gia này giàu lên trên cơ sở quốc gia khác chịu bất lợi. Nhiều lập luận của chủ nghĩa trọng thương đến nay vẫn còn giá trị. Đó là sớm đánh giá được vai trò quan trọng của xuất nhập khẩu với sự phát triển kinh tế của quốc gia; Chỉ ra rằng khi năng lực sản xuất trong nước vượt quá mức cầu thì lúc đó hạn chế nhập khẩu khuyến khích xuất khẩu là việc một quốc gia cần theo đuổi. Các tác giả chủ nghĩa trọng thương có lý khi cho rằng sự gia tăng mức cung tiền tệ sẽ có tác dụng kích thích sản xuất trong nước. Tuy vậy nó còn khá nhiều điểm hạn chế như chưa giải thích được bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế. Quan niệm chưa đúng về bản chất của thương mại quốc tế, cho rằng chỉ có một bên có lợi, một bên chịu thiệt, tổng lợi ích của thương mại quốc tế đem lại cho nền kinh tế thế giới là 0. Sang đến thế kỷ XVIII trở đi vai trò của ngoại thương được nhìn nhận tổng thể với các lĩnh vực khác nhau, khắc phục được một số hạn chế của chủ nghĩa trọng thương về thương mại quốc tế. Tiêu biểu là lý thuyết lợi thế tuyệt đối của nhà kinh tế học người Anh Adam-Smith (1923- 1790). Ông là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Theo quan điểm này, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hóa tốt nhất các loại tài nguyên của quốc gia đó. Giả sử chỉ có hai quốc gia A và B. Quốc gia A xét trong tương quan với quốc gia B tỏ ra có lợi thế hơn, hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt hàng X và kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt hàng Y. Nước B có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, bất lợi tuyệt đối về sản xuất mặt hàng X. Hai nước tập trung sản xuất vào mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình bất lợi. Lúc này cả hai nước đều thu được lợi và sung túc hơn. Việc tiến hành trao đổi buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì sẽ từ chối tham gia thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng, nó giải thích được quan hệ thương mại giữa hai nước đang phát triển, giải thích được phần nào lợi ích của thương mại quốc tế . Tuy nhiên lý thuyết lợi thế tuyệt đối không giải thích được tại sao thương mại vẫn diễn ra khi một nước bất lợi tuyệt đối về tất cả các mặt hàng so với đối thủ cạnh tranh. Lý thuyết lợi thế tương đối do nhà kinh tế học David Ricardo (1772-1823) phát hiện đã khắc phục nhược điểm của lợi thế tuyệt đối. Cho rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để thu lợi ích. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại hàng mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất. Lý thuyết lợi thế tương đối chỉ ra rằng bất cứ quốc gia nào cũng có thể tham gia thương mại quốc tế song lý thuyết chủ yếu dựa vào giá trị lao động, cho lao động là yếu tố đầu vào duy nhất vì vậy nó chưa giải thích được nguồn gốc thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại. Mô hình H-O do nhà kinh tế học E.Heckscher(1897-1952) và B.Ohlin(1899-1979) kế thừa lý thuyết lợi thế tương đối và bổ sung thêm một số luận điểm mới khi xem xét tới chi phí cơ hội và quy luật tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất. Hai ông cho rằng chính mức độ sẵn có của yếu tố sản xuất và hàm lượng các yếu tố sản xuất sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó ở các quốc gia khác nhau là yếu tố quan trọng quyết định hoạt động của thương mại quốc tế. Mô hình thừa nhận rằng hàm sản xuất các loại hàng hóa khác nhau sử dụng các yếu tố sản xuất theo tỷ lệ khác nhau nhưng hàm sản xuất cho bất kỳ hàng hóa nào cũng giống nhau ở tất cả các nước. Cho rằng giả sử một quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào sẽ chuyên sâu vào sản xuất hàng hóa sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hóa sử dụng các yếu tố công nghệ mà trong nước khan hiếm. Lợi ích thương mại quốc tế sẽ tăng thêm, các quốc gia đều có lợi. So với những lý thuyết cổ điển, lý thuyết H-O không những giải thích được bản chất của lợi thế so sánh mà còn cho phép phân tích được tác động của thương mại quốc tế đến giá cả các yếu tố sản xuất, đến quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các quốc gia. Tuy mô hình thể hiện những khiếm khuyết trước thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế diễn ra ngày càng phát triển và phức tạp nhưng cho đến nay lý thuyết vẫn được sử dụng rộng rãi để phân tích các vấn đề thương mại và tăng trưởng, thương mại và phân phối thu nhập. Có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới khi tận dụng lượng nhân công làm lợi thế cạnh tranh để sản xuất các mặt hàng phù hợp. 1.1.3. Vai trò hoạt động xuất nhập khẩu với sự phát triển kinh tế Xuất nhập khẩu là hoạt động trung tâm của thương mại quốc tế. Đây là hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cải thiện nâng cao mức sống của người tiêu dùng. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động xuất nhập khẩu mang lại nhiều tác động tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Những tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế: - Xuất nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa dịch vụ với nước ngoài, nối liền sản xuất và tiêu dùng trong nước với sản xuất và tiêu thụ trên thế giới. Trong quá trình tái sản xuất mở rộng thì khâu phân phối và lưu thông này được coi là khâu quan trọng, quyết định tới sản xuất. Sản xuất có phát triển được hay không và phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Chính vì vậy có thể nói rằng xuất nhập khẩu tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất . Xuất nhập khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác quốc tế , mở rộng khả năng sản xuất và khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Thông qua nhập khẩu sẽ góp phần bổ sung những mất cân đối của nền kinh tế, bảo đảm sự phát triển và ổn định. Nó cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn mà trong nước không có khả năng sản xuất được. Đó là cơ sở để nâng cao mức sống của dân cư trong nước và dân cư thế giới nói chung. Thông qua xuất nhập khẩu có thể nhận thấy và khai thác những thế mạnh, tiềm năng của đất nước, từ đó tiến hành phân công lại lao động cho phù hợp. Xuất nhập khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất. Tạo điều kiện cho các nước tranh thủ khai thác các thế mạnh, tiềm năng của nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học, công nghệ và sử dụng những hàng hóa dịch vụ tốt hơn. Nhập khẩu sẽ tạo nên những động lực để thúc đẩy xuất khẩu (nhập khẩu các yếu tố của sản xuất để tiến hành sản xuất ra sản phẩm và xuất khẩu ra nước ngoài). Nhập khẩu các yếu tố sản xuất để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm làm tăng khả năng sản xuất. Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ để phục vụ lại nhập khẩu, tích lũy để phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho quốc gia có được nguồn ngoại tệ mạnh. Xuất khẩu và nhập khẩu vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu và ngược lại thúc đẩy nhập khẩu để mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường. Xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khi tham gia vào thị trường quốc tế, các nhà sản xuất trong nước không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với cả hàng hóa của nước ngoài nhập khẩu vào. Do vậy xuất nhập khẩu tạo áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa sản xuất trong nước về chất lượng, giá cả hàng hóa và chất lượng dịch vụ. Muốn phát triển, các doanh nghiệp phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, hay nói cách khác phải đổi mới,hoàn thiện sản phẩm, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao tay nghề trình độ người lao động. Xuất nhập khẩu nâng cao hiệu quả hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là ở các khu chế xuất, khu công nghiệp, tăng thu nhập và mức sống cho người dân. Xuất nhập khẩu tạo nên những chuyển biến mới về phân công lao động xã hội. Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế, xã hội giữa các nước. Thông qua đó góp phần ổn định tình hình kinh tế chính trị của quốc gia, khu vực và thế giới. Thật vậy thông thường hoạt động thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó là cơ sở để mở rộng quan hệ này phát triển. Ví dụ hoạt động xuất nhập khẩu phát triển làm quan hệ tín dụng, thanh toán quốc tế, vân tải quốc tế… phát triển. Xuất nhập khẩu thúc đẩy quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Thương mại quốc tế hay xuất nhập khẩu kích thích nhu cầu trong nước và tạo ra những nhu cầu mới. Những tác động tiêu cực của hoat động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Hàng hóa cạnh tranh cả trong nước và nước ngoài, khi mức độ cạnh tranh trở nên quá gay gắt tạo nên những bất cập rối ren trong quan hệ thương mại. Nếu không kiểm soát chặt chẽ và kịp thời gây nên những thiệt hại về kinh tế và quan hệ thương mại, ngoại giao giữa các nước. Xuất nhập khẩu hàng hóa vào một quốc gia dễ tồn tại các hiện tượng xấu như buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, kém chất lượng. Nhất là ở các cửa khẩu, nơi cán bộ hải quan kiểm tra hàng hóa ra vào biên giới dễ xảy ra hiện tượng một số cán bộ tha hóa đạo đức, tiếp tay cho những hành vi xấu… - Xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua quan hệ mua bán nhằm mục đích kinh tế và thu lợi nhuận. Nó chịu sự tác động của hệ thống quản lý, chính sách, luật pháp không chỉ của một nước. Quan hệ mua bán phức tạp hơn rất nhiều so với thương mại trong nước dễ gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc kinh doanh vi phạm luật pháp của nước ngoài ví dụ như các vụ kiện bán phá giá, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.v.v... Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng xuất khẩu thường là các đồng ngoại tệ mạnh, do vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền, có chút ràng buộc vào nền kinh tế nước khác. Hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ hội nhập là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của quốc gia, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.2. Tín dụng xuất khẩu ơ 1.2.1. Khái niệm tín dụng xuất nhập khẩu Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về hàng hóa, thị trường tiêu thụ trở nên cấp bách, mỗi doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế cần phải khai thác tối đa cơ hội, lợi thế của mình. Tuy nhiên do khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng có đủ vốn để thanh toán tiền hàng nhập khẩu hoặc đủ tiền thu mua hàng hóa để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp đủ khả năng tài chính để xuất nhập khẩu hàng hóa nhưng kinh doanh vẫn không đạt hiệu quả vì chưa có uy tín trên thị trường. Từ đó nảy sinh quan hệ tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất nhập khẩu. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Tín dụng xuất khẩu là loại hình tài trợ xuất khẩu cơ bản, quan trọng và phổ biến nhất trong các loại hình tài trợ xuất khẩu, có bản chất là sự cung cấp tín dụng trợ giúp tài chính cho người xuất khẩu trên cơ sở bên cung cấp tín dụng và bên nhận tín dụng tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi. Ta có thể hiểu “ tín dụng xuất khẩu là sự cam kết, hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ các điều kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hoá của nước đó“ 1.2.2. Đặc điểm của tín dụng xuất khẩu Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích Đây là nguyên tắc quan trọng vì chỉ khi khách hàng sử dụng đúng mục đích sản xuất kinh doanh, đúng pháp luật như đã cam kết thì khoản tín dụng đươc cấp mới đảm bảo an toàn, ít rủi ro và có khả năng sinh lợi. Do vậy khi nhận hồ sơ của khách hàng cán bộ tín dụng phải kiểm tra thẩm định chi tiết về mục đích kinh doanh, thường xuyên theo dõi giám sát quá trình sủ dụng tiền vay . Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thời hạn Trong hợp đồng tín dụng, thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng bao gồm trị giá khoản tiền vay, lãi suất cho vay, tỷ giá các đồng tiền nếu vay ngoại tệ, thời hạn trả tiền khoản vay ban đầu và phần lãi do thời hạn sử dụng tiền vay. Hợp đồng tín dụng còn có quy định thêm điều khoản về việc nếu khách hàng vi phạm hợp đồng ký kết như trả nợ không đúng hạn, sử dụng vốn vay không đúng mục đích. Thường là tiền vay phải có tài sản tương đương thế chấp Để giảm thiểu rủi ro, ngân hàng thường bắt các khách hàng của mình có tài sản tương đương với khoản vay tín dụng như bất động sản, động sản có giá trị để thế chấp. Tuy nhiên đối với các khách hàng truyền thống, có uy tín thì có thể được miễn tín chấp. Đặc điểm của tín dụng xuất khẩu là các nguyên tắc vay tín dụng của ngân hàng áp dụng cho khách hàng của mình. 1.2.3. Các hình thức tín dụng xuất khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra ngày càng sôi động, nhu cầu tài trợ của ngân hàng về vốn, kỹ thuật thanh toán quốc tế cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là rất cần thiết và cấp bách. Hoạt động cấp tín dụng xuất khẩu của các ngân hàng cũng rất phong phú nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Các hình thức của tín dụng xuất khẩu: 1.2.3.1. Tín dụng trong hoạt động nhập khẩu a. Cấp tín dụng thông qua mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu Doanh nghiệp khi nhập khẩu hàng hóa thường phải mở L/C theo yêu cầu của nhà xuất khẩu. Lúc này nhà nhập khẩu sẽ yêu cầu ngân hàng đại diện cho mình mở L/C ( khi đã hoàn tất các thủ tục xin mở L/C ). Ngân hàng sau khi xem xét tình hình của doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thông báo mức ký gửi mà doanh nghiệp phải nộp và số vốn tín dụng ngân hàng sẽ cấp. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả tiền cho người hưởng lợi nếu họ xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ. Vì vậy khi đến hạn thanh toán mà nhà nhập khẩu không có đủ khả năng tài chính hoặc không muốn trả nợ thì ngân hàng mở L/C sẽ gặp rủi ro. Vai trò của ngân hàng trong phường thức này ngoài đảm nhiệm vai trò trung gian thu hộ chi hộ cho khách hàng còn làm người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Nhà nhập khẩu được đảm bảo rằng họ sẽ nhận được hàng đúng phẩm chất chất lượng như trong L/C. Cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu đều được lợi từ phương thức tài trợ L/C của ngân hàng. Tại thị trường Châu Âu và Châu Mỹ các nhà xuất nhập khẩu rất ưa chuộng phương thức L/C tuy nhiên thủ tục mở L/C này thường phức tạp và nhà nhập khẩu phải trả chi phí khá cao. Tại Việt Nam nhà nhập khẩu muốn nhờ ngân hàng tài trợ theo hình thức mở L/C phải bảo đảm được các điều kiện: + Phải có giấy phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp phải có tình hình tìa chính và kinh doanh ổn định. + Lô hàng hóa nhập khẩu về phải có kế hoạch kinh doanh và đảm bảo được khả năng thanh toán. + Căn cứ vào uy tín, tình hình tài chính, khả năng thu lợi từ lô hàng nhập khẩu của doanh nghiệp mà ngân hàng mở L/C sẽ quyết định mức ký quỹ L/C. Khi quyết định mở L/C tài trợ cho nhà nhập khẩu tức là ngân hàng đã đồng ý thanh toán cho nhà xuất khẩu ngay cả khi nhà nhập khẩu có khả năng thanh toán cho mình hay không. Để hạn chế rủi ro này ngân hàng phát hành sẽ bắt nhà nhập khẩu cầm cố tài khoản thế chấp, ký quỹ 100% L/C. b. Tín dụng chấp nhận hối phiếu Loại tín dụng này đảm bảo cho người hưởng tín dụng được sử dụng để thanh toán hối phiếu khi đến hạn. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhâp khẩu. Đây là một hình thức, một sự bảo đảm về tài chính và ngân hàng chưa phải xuất tiền vay thực sự. Nhà nhập khẩu phải vay mượn về mặt danh nghĩa để có được sự chấp nhận trên hối phiếu của ngân hàng theo đề nghị của nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu phải trả phí cho khoản vay tín dụng này. Khi tới hạn thanh toán, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng chấp nhận hối phiếu sẽ phải tiền cho nhà xuất khẩu. Hối phiếu có sự bảo đảm của ngân hàng thể hiện sự đảm bảo chắc chắn về khả năng thanh toán, làm tăng uy tín của hối phiếu trong quá trình lưu thông. c. Tín dụng ứng trước Muốn có khoản tín dụng này nhà nhập khẩu cần phải lập phương án kinh doanh khả thi cho lô hàng nhập khẩu, có kế hoạnh tài chính để thanh toán khi đến hạn. Nhà nhập khẩu có thể được ngân hàng tài trợ qua hình thức vay thanh toán L/C nếu L/C trả ngay hoặc ngân hàng thay mặt nhà nhập khẩu ký chấp nhân thanh toán nếu L/C trả chậm. Cụ thể hơn, nhà nhập khẩu được cấp tín dụng dưới hai hình thức: + Khoản vay nhập khẩu trơn CIL (clean import loan): ngân hàng cung cấp tín dụng ứng trước thuần túy và không không kiểm soát hàng hóa. Ngân hàng trả tiền cho các hối phiếu trả ngay, nhận khế ước vay nợ và ghi nợ trên tài khoản vay của nhà nhập khẩu. + Khoản vay dựa trên hàng nhập khẩu LAI (loan against import ) tương tự khoản vay nhập khẩu trơn nhưng được hậu thuẫn bởi vật đảm bảo. d. Tín dụng thuê mua (leasing) Nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ để phát triển sản xuất, các ngân hàng cung cấp các dịch vụ thuê mua tài chính. Leasing giúp các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình, thay vì phải đầu tư mua tài sản mới doanh nghiệp có thể nhờ khoản tín dụng của ngân hàng cấp để thuê tài sản, tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn, phải bán tài sản thì ngân hàng có thể mua lại tài sản đó và cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vẫn giải quyết được vấn đề về vốn lưu động mà vẫn bảo đảm sản xuất kinh doanh. 1.2.3.2. Tín dụng trong hoạt động xuất khẩu Với hoạt động xuất khẩu ngày càng đa dạng, phức tạp và cạnh tranh gay gắt, vai trò hỗ trợ của ngân hàng là cực kỳ quan trọng. Các ngân hàng không chỉ hỗ trợ về mặt tài chính để nhà xuất khẩu hoàn tất nghĩa vụ thanh toán mà còn hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đảm bảo quá trình thanh toán cho những hoạt động chu chuyển với nước ngoài, đồng thời đảm nhận những rủi ro gắn liền với các hoạt động đó. Các hình thức của tín dụng trong hoạt động xuất khẩu: Cấp tín dụng thực hiện hợp đồng ngoại thương,theo L/C đã mở Ngân hàng sẽ quyết định tài trợ cho doanh nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu sau khi xem xét các hợp đồng ngoại thương, đơn đặt hàng, theo L/C đã mở….Ngân hàng tài trợ theo phương thức thanh toán L/C thường là các ngân hàng thanh toán, và tài trợ trước khi giao hàng. Tùy theo từng điều kiện mà nhà xuất khẩu có thể vay theo từng lần hoặc theo hạn mức. Vay theo hạn mức là hình thức doanh nghiệp vay ngân hàng căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động theo một thời hạn nhất định. Mỗi lần giải ngân doanh nghiệp không phải làm hồ sơ như vay theo từng lần mà chỉ cần lập phương án kinh doanh. Vay từng lần là khoản vay dựa theo nhu cầu vốn của từng phương án cụ thể của nhà xuất khẩu, thời hạn được vay không quá một năm. Thông thường ngân hàng sẽ không tài trợ toàn bộ giá trị hàng hóa mà chỉ tài trợ khoảng 70% đến 80% giá trị lô hàng xuất khẩu, còn lại nhà xuất khẩu sẽ tự huy động. b. Tín dụng ứng trước, tín dụng chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu Sau khi giao hàng cho nhà nhập khẩu mà chưa nhận được tiền thanh toán, nhà xuất khẩu vẫn có nhu cầu về vốn để sản xuất kinh doanh. Lúc này nhà xuất khẩu có thể thỏa thuận với ngân hàng hoặc chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Hình thức tài trợ này giúp nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu. Với hình thức tín dụng ứng trước những giấy tờ có giá trị như hóa đơn thương mại, vận đơn, hợp đồng bảo hiểm… có thể là vật tín chấp cho ngân hàng. Nhà xuất khẩu chuyển nhượng giấy này cho ngân hàng để được cấp tín dụng ứng trước. Mức độ cấp tín dụng cho nguời xuất khẩu phụ thuộc vào các yếu tố như khả năng thanh toán, khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Hình thức chiết khấu bộ chứng từ là việc các ngân hàng mua lại hoặc cho nhà xuất khẩu vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất trình. Có chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu được phép truy đòi. Chiết khấu được phép truy đòi là hình thức ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu nhưng vẫn đòi hỏi nhà xuất khẩu phải chịu trách nhiệm với bộ chứng từ đến khi ngân hàng đòi được tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu. Chiết khấu miễn truy đòi là việc nhà xuất khẩu bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng và không phải chịu trách nhiệm về việc ngân hàng có đòi được tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu hay không. Cả tín dụng ứng trước và chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng chỉ có quyền truy đòi lại nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu từ chối thanh toán tiền hàng. c. Tín dụng bao thanh toán (Factoring) Bao thanh toán là một loại hình tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đây là hình thức tài trợ ngắn hạn đối với nhà xuất khẩu của ngân hàng. Ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến ngày thanh toán, họ sẽ trực tiếp đòi người nợ người nhập khẩu và thu khoản phí của nhà xuất khẩu. Factoring giúp doanh nghiệp xuất khẩu có ngay vốn để sản xuất kinh doanh ngay khi bán xong hàng, giảm các khoản phải thu còn tồn đọng, giảm chi phí cho việc thu hồi nợ. Nhà xuất khẩu có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, bán được nhiều hàng hóa hơn, tăng sức cạnh tranh do mở rộng tín dụng cho khách hàng mà không ảnh hưởng đến dòng tiền lưu động của mình. Với nhà nhập khẩu cũng được hưởng lợi từ nghiệp vụ bao thanh toán này. Họ có thể được mua hàng trả chậm từ phía đối tác, do vậy nhu cầu mua hàng hóa tăng lên mà không phải dùng đến các hạn mức tín dụng hiện có. Ngân hàng sẽ giữ tất cả sổ sách bán hàng của nhà xuất khẩu và ứng trước tiền cho người xuất khẩu, khoảng 75% đến 90% giá trị khoản nợ. d. Chiết khấu hối phiếu Đây là hình thức chuyển quyền sở hữu các hối phiếu chưa đến hạn từ nhà xuất khẩu sang cho ngân hàng để lấy ngay số tiền ứng với mệnh giá ghi trên hối phiếu khi đã trừ đi lãi suất, và phí chiết khấu. 1.2.3.3 Bảo lãnh tham gia xuất nhập khẩu Bảo lãnh ngân hàng là hình thức các ngân hàng đứng ra nhận bảo lãnh cho các doanh n._.ghiệp tham gia thị trường thương mại quốc tế để tăng uy tín cho doanh nghiệp, hạn chế các rủi ro trong thương mại. Nhà nhập khẩu cần sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà xuất khẩu yêu cầu vì họ chưa có thông tin đầy đủ về tình hình tài chính, khả năng thanh toán tiền hàng. Ngân hàng sẽ ký xác nhận bảo lãnh đối với hối phiếu, lệnh phiếu, phát hành thư bảo lãnh…. Cũng tương tự, nhà nhập khẩu yêu cầu nhà xuất khẩu phải có ngân hàng bảo lãnh vì họ chưa tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp động ngoại thương. Một số loại bảo lãnh mà ngân hàng dành cho nhà xuất khẩu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành… Có hai loại bảo lãnh là bảo lãnh vô điều kiện, tức là ngân hàng sẽ thanh toán cho người hưởng lợi nếu người được bảo lãnh vi pham hợp đồng mà không cần xuất trình các thư bảo lãnh chứng minh. Loại bảo lãnh thứ hai là bảo lãnh có điều kiện, tức là người hưởng lợi chỉ được thanh toán khi xuất trình được các chứng thư cần thiết. 1.2.4 Quy trình cấp tín dụng xuất khẩu Khách hàng có nhu cầu vay vốn tín dụng của ngân hàng, họ sẽ lập một bộ hồ sơ mang đến ngân hàng để xin tài trợ. Bộ hồ sơ thường gồm 3 loại chính: hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế và hồ sơ vay vốn. Với trường hợp khách hàng vay vốn tín dụng để sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thì phải kèm theo hợp đồng ngoại thương hoặc hợp đồng sản xuất chế biến hàng hóa xuất khẩu. Sau khi gửi bộ hồ sơ xin vay vốn đến ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ thẩm định lại các thông tin của khách hàng qua bộ hồ sơ và phỏng vấn trực tiếp khách hàng của mình. Công tác thẩm định làm tốt sẽ hạn chế được các rủi ro tín dụng có thể xay ra. Nội dung của quá trình thẩm định: Thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý, khả năng tài chính của khách hàng, thẩm định tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh, thẩm định tài sản bảo đảm. Sau tối đa 10 ngày kể từ khi tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, cán bộ tín dụng lập báo cáo thẩm định lên cấp trên, căn cứ vào đây để ra quyết định có tài trợ cho dự án, phương án này hay không? Trong báo cáo thẩm định phải nêu rỡ tình hình tài chính của khách hàng, nhu cầu về vốn xin tài trợ, hiệu quả kinh tế mà dự án xin cấp vốn tín dụng mang lại… Nếu khách hàng được ngân hàng đồng ý cấp vốn tín dụng thì hai bên tiến hành ký hợp đồng tín dụng, lập giấy nhận nợ và tiến hành giải ngân nguồn vốn theo hợp đồng. Trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng cán bộ tín dụng tiếp tục tiến hành kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn có đúng mục đích hay không để hạn chế rủi ro tín dụng, đảm bảo khả năng khách hàng sẽ hoàn trả nợ cho mình. Ngân hàng sẽ tính lãi, thu lãi, và thu nợ theo đúng hợp đồng đã ký kết. 1.2.5. Rủi ro tín dụng xuất khẩu Rủi ro tín dụng là các tổn thất mà ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng phải chịu do nguời vay vốn không đủ khả năng thanh toán hoặc không trả nợ đúng hạn như trong hợp đồng tín dụng đã ký. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vì vậy tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do vậy mà các ngân hàng khi cấp tín dụng xuất khẩu cũng gặp rủi ro khi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không thực hiện đúng hợp đồng tín dụng. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro có thể là do các doanh nghiệp không có khả năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái hoặc rủi ro từ bản thân của ngân hàng do tác nghiệp, do đạo đức của cán bộ tín dụng..v.v.. Rủi ro lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất, làm chi phí nguồn vốn lớn hơn thu nhập của ngân hàng, hoặc lãi suất tăng làm ảnh hưởng lớn đến các dự án sản xuất của nhà xuất nhập khẩu, dẫn tới khả năng dự án thất bại không trả được nợ cho ngân hàng. Rủi ro hối đoái do sự thay đổi tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền, tỷ giá mua cao hơn tỷ giá bán cho các doanh nghiệp. Để hạn chế rủi ro hối đoái các doanh nghiệp ký kết với ngân hàng hợp đồng kỳ hạn, họp đồng hoán đổi… Rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng có thể là do quá trình thẩm định hồ sơ khách hàng của cán bộ tín dụng không được chính xác, do sụ gian lận của khách hàng, vi phạm đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng… 1.3. Tín dụng xuất khẩu với hoạt động xuất nhập khẩu 1.3.1. Vai trò tín dụng xuất khẩu với nền kinh tế Tín dụng xuất khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế cả mặt lượng và chất, tác động trực tiếp đến quan hệ tích lũy, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Khả năng sản xuất của một quốc gia được thể hiện bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân. Tín dụng xuất khẩu thông qua việc huy đông vốn và cho vay vốn góp phần vào khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội, nhằm thực hiện GDP thực tế cân bằng với GDP tiềm năng. Tín dụng xuất khẩu tăng làm kim ngạch, doanh thu xuất nhập khẩu, tăng nguồn thu thuế vào ngân sách Nhà nước( thu thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân). Tạo việc làm cho người lao động do doanh nghiệp vay vốn tín dụng xuất khẩu kinh doanh có hiệu quả, mở rộng sản xuất. Nhờ có sự tài trợ vốn của ngân hàng làm hàng hóa xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy, không bị gián đoạn, tăng tính năng động của nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường. Vai trò của tín dụng xuất khẩu với hoạt đông xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Để hoạt động này ngày càng phát triển thì ngoài nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, định hướng phát triển xuất nhập khẩu của Nhà nước còn cần có sự hỗ trợ của các ngân hàng, các định chế tài chính đẻcung cấp nguồn vốn cho doanh nghiệp. Tín dụng xuất khẩu góp phần khai thác lợi thế so sánh thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thay đổi cơ cấu hàng nhập khẩu, tăng cường hiệu quả hoạt động ngoại thương. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta các năm qua đã cho thấy vai trò của tín dụng là thực sự cần thiết. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong các năm qua gia tăng và phát triển mạnh mẽ, tăng từ 2.7 tỷ USD năm 1990 lên đến 39,7 tỷ USD năm 2006 (tăng 22,8% so với năm 2005). Năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 48 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu cũng ngày càng đa dạng phong phú. Nếu như năm 1991 nước ta chỉ có 4 mặt hàng đạt kim ngạch 100 triệu USD là dầu thô, gạo, thủy sản và dệt may thì năm 2007 số mặt hàng chủ lực xuất khẩu đã lên tới con số 13. Kim ngạch xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch tăng khá cao như dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Năm 2007 đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su. Cụ thể là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. Sự phát triển của kim ngạch xuất khẩu các năm qua có một phần không nhỏvai trò của tín dụng xuất khẩu dành cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Những chính sách về điều kiện vay vốn, chính sách lãi suất của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động vay còn trực tiếp hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu góp phần giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty mình. Mỗi doanh nghiệp đều tăng kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ làm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước tăng trưởng và phát triển không ngừng. Như vậy tín dụng xuất khẩu góp phần làm tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, thúc đẩy kinh tế phát triển. 1.3.3 Vai trò của tín dụng xuất khẩu với các doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu Nhờ nguồn vốn tín dụng xuất khẩu được ngân hàng cấp, các doanh nghiệp đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục không bị gián đoạn do thiếu vốn sản xuất kinh doanh, tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện được các hợp đồng ngoại thương giá trị lớn, tăng hiệu quả kinh doanh. Nhà xuất khẩu nhờ vốn tín dụng để thu mua chế biến hàng xuất khẩu đúng thời vụ với giá rẻ hơn, thực hiện được theo đúng hợp đồng ngoại thương đã ký. Nhà nhập khẩu mua được những lô hàng lớn, giá cả phù hợp… Tín dụng xuất khẩu giúp hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, thâm nhập vào thị trường quốc tế dễ dàng hơn. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng chỉ sử dụng vốn tự có của mình để sản xuất kinh doanh vì như vậy nếu gặp rủi ro ảnh hưởng đến toàn bộ vốn chủ sơ hữu của anh ta. Mặt khác chỉ sử dụng vốn tự có sẽ hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng chi phí về vốn cho doanh nghiệp. Do vậy sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng là cách làm phổ biến của các doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong phương án, dự án kinh doanh, còn lại là khoản tín dụng do ngân hàng cấp. Tuy nhiên nếu tình trang nợ quá cao sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ cao làm tăng rủi ro lượng tiền chảy vào doanh nghiệp, dẫn đến mức lãi suất mong đợi cao hơn. Do đó hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Tín dụng xuất khẩu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do phải trả khoản chi phí lãi vay và tiền gốc trong một khoảng thời gian đã định trước buộc doanh nghiệp làm ăn kinh doanh phải tính toán chi phí phù hợp để đem lại lợi nhuận. Nếu nợ quá hạn, tức là không hoàn trả ngân hàng đúng thời hạn doanh nghiệp sẽ phải chịu phạt, ảnh hưởng đến nguồn thu của mình. Tín dụng xuất khẩu đẩy mạnh hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tạo uy tín cho doanh nghiệp. Thông qua sự tài trợ của ngân hàng như cấp tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp có điều kiện thực hiện đúng hợp đồng, tăng uy tín khi đàm phán ký kết các hợp đồng ngoại thương. 1.3.4 Xuất nhập khẩu ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng xuất khẩu Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng cao cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển rất mạnh mẽ. Doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu cũng gia tăng ngày một nhiều cả về số lượng lẫn chất lượng. Các doanh nghiệp này cần khá nhiều vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh hiệu quả. Tuy nhiên không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng đủ vốn tự có mà không cần đi vay. Thực tế cho thấy nếu có đủ vốn thì các doanh nghiệp vẫn xin vay vốn ngân hàng để giảm thiểu rủi ro cho nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển phức tạp hơn trước nảy sinh nhiều nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng để đảm bảo cho quá trình này diễn ra suôn sẻ. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển kéo theo nó là quan hệ tín dụng và đặc biệt là tín dụng xuất khẩu cũng ngày càng phát triển, hoàn thiện, đa dạng hóa các hình thức tín dụng nhằm hỗ trợ tác động lại xuất nhập khẩu. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ TÍN DỤNG XUẤT KHẨU VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ( NGHIÊN CỨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN) 2.1. Khái quát về Ngân hàng Phát triển Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Phát triển Việt Nam 2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát riển của ngân hàng Phát triển Việt Nam Để thực hiện mục tiêu phát triển, Chính phủ thường sử dụng các công cụ của mình để đầu tư vào các lĩnh vực mà khu vực tư nhân không thể thực hiện được như các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án mang tầm chiến lược quốc gia, thuộc ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án thuộc vùng khó khăn, kém phát triển thường đòi hỏi lượng vốn lớn nhưng thời gian thu hồi vốn chậm, các nhà đầu tư thường không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Thực hiện chủ trương trên, Quỹ hỗ trợ Phát triển được thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ. Tổ chức và hoạt động theo Điều lệ ban hành kèm theo Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg ngày 17/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Từ tháng 9/2001, Quỹ được bổ sung nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Việc hình thành và phát triển hệ thống Quỹ Hỗ trợ và Phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là bước kế tiếp thành công của sự đổi mới mô hình tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện khả năng tích luỹ của ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển có hạn, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, việc thành lập Quỹ Hỗ trợ và phát triển đã giúp Chính phủ có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác những tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ và phát triển đã bộc lộ những tồn tại vướng mắc cả về cơ chế chính sách, phạm vi quy mô hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức dẫn đến việc hạn chế khả năng phát triển của Quỹ, ảnh hưởng đến độ an toàn trong hoạt động tài chính. Nếu không được khắc phục kịp thời sẽ rất khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam cần phải cải cách và điều chỉnh cơ chế chính sách, đặc biệt là các chính sách trợ cấp phù hợp với các cam kết quốc tế. Do đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển . Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002; Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005; Căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12 tháng 02 năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16 tháng 5 năm 2004; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Theo Quyết định 108/2006/QĐ - TTg của Chính phủ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và chính thức hoạt động từ ngày 01/7/2006. Ngân hàng Phát triển có tên gọi quốc tế là The Vietnam Development Bank (tên viết tắt VDB), trụ sở chính đặt tại 25A Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội, có tư cách pháp nhân, vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước.Với vốn điều lệ là hơn 5000 tỷ đồng từ nguồn vốn điều lệ hiện có của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, hoạt động của Ngân hàng Phát triển không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Thời gian hoạt động của Ngân hàng Phát triển có thời hạn là 99 năm, kể từ ngày ký Quyết định. Là tiền thân của Quỹ Hỗ trợ phát triển, hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên tinh thần là một ngân hàng chính sách của Chính phủ, là công cụ thực hiện chính sách đầu tư phát triển của nhà nước và chính sách xuất khẩu. So với hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Phát triển hiện nay sẽ được tăng quyền chủ động, tăng tính trách nhiệm trong đánh giá, thẩm định cho vay các dự án và có quyền từ chối cho vay đối với những dự án kém hiệu quả. So với các ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng Phát triển có sự khác biệt là tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% của Chính phủ, không nhận tiền gửi từ dân cư. Do hoạt động của ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận nên được hưởng một số ưu đãi đặc biệt như không phải dự trữ bắt buộc, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn chịu sự điều tiết của Luật các tổ chức tín dụng, do vậy vẫn phải chấp hành các quy định trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, và quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Các doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng Phát triển với lãi suất cho vay sẽ rẻ hơn vay của các ngân hàng thương mại khác. Bởi vì Ngân hàng cho vay theo lãi suất thị trường, theo thông lệ quốc tế là lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng thêm một khoản phí nhất định (khoảng 1%/năm). Điều này cho thấy sự ưu đãi không chỉ được vay rẻ mà thời hạn cho vay dài sẽ giúp cho đối tượng vay vốn chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất. Hơn nữa, việc khấu hao máy móc, nhà xưởng, v.v. cũng được dài hơn nên khách hàng vay vốn có điều kiện tích lũy để tái sản xuất và mở rộng đầu tư, điều kiện cho vay của ngân hàng đơn giản hơn so với vay từ các ngân hang thương mại khác như không phải thế chấp, hoặc nếu có thì tỷ lệ thế chấp ở mức tương đối thấp, bằng 30% giá trị khoản vay. Ngân hàng Phát triển mới ra đời trên cơ sở kế thừa nền tảng thực hiện và những quy trình nghiệp vụ của Quỹ Hỗ trợ và phát triển trước đây. Bước đầu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã ổn định về mặt tổ chức và đang gấp rút tiến hành sửa đổi bổ sung các quy chế nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ mới và đáp ứng tốt hơn mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, chuẩn bị từng bước cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực để có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ như một ngân hàng chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu tư phát triển. 2.1.1.2. Trách nhiệm ,quyền hạn của ngân hàng Phát triển - Ngân hàng Phát triển được quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Chính phủ giao cho Ngân hàng Phát triển theo quy định của Pháp luật. Huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi; vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng, kinh tế xã hội theo các quy định của Pháp luật. - Được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại khác trong nước và nước ngoài theo các quy định của Pháp luật: mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước theo quy định của Pháp luật. - Thực hiện bảo toàn vốn và được áp dụng các biện pháp bảo toàn vốn: chịu trách nhiệm về thất thoát vốn của Ngân hàng Phát triển theo quy định của Phát luật. - Thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu theo các quy định có liên quan. - Kiểm toán báo cáo tình hình tài chính hàng năm bởi tổ chức kiểm toán độc lập; thực hiện công khai , minh bạch về hoạt động và tài chính của ngân hàng Phát triển và chấp hầnh chế độ báo cáo thống kê cới các cơ quan có thẩm quyền - Uỷ thác, nhận uỷ thác trong hoạt động của ngân hàng và các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng; cung ứng các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho khách hàng theo quy định của pháp luật và quy định của Thủ tướng Chính phủ Ngân hàng Phát triển được quyền: +Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của khách hàng trước khi quyết định cho vay, bảo lãnh; + Thẩm định và chịu trách nhiệm về việc thẩm định phương án tài chính, phương án kinh doanh, phương án trả nợ của khách hàng; + Từ chối cho vay, hỗ trợ sau đậu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu các dự án, các khoản vay không đảm bảo các điều kiện theo quy định; + Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; + Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước thời hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật; + Khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật; + Khi đến hạn trả nợ , nếu các bên không có thoả thuận khác mà khách hàng không trả được nợ thì Ngân hàng Phát triển được quyền phát mại tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển 2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển Hội đồng quản lý Bộ máy điều hành Ban kiểm soát Văn phòng đại diện trong nước Chi nhánh Ngân hàng tại địa phương Văn phòng đại diện tại nước ngoài Sở Giao dịch Thủ tướng Chính phủ Sơ đồ tổ chức bộ máy Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển gồm: - Hội đồng Quản lý - Ban kiếm soát - Bộ máy điều hành : + Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội. Tại Hội sở chính có các Ban, trung tâm chuyên môn nghiệp vụ sau: Ban Tổ chức cán bộ, đào tạo và lao động tiền lương, Kế hoạch tổng hợp, Ban Tín dụng trung ương, Ban Tín dụng địa phương, Ban Tín dụng xuất khẩu, Ban Hỗ trợ lãi suất và cấp phát vốn ủy thác, Ban Thẩm định, Ban Quản lý vốn nước ngoài và quan hệ quốc tế, Ban Pháp chế, Ban Kiểm tra kiểm tóan nội bộ, Ban tài chính kế toán, Trung tâm công nghệ thông tin, Ban Xử lý nợ, Văn phòng Ngân hàng Phát triển. + Sở giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong và ngoài nước. Ngân hàng Phát triển tổ chức bộ máy quản lý điều hành tại mốt số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phù hợp với yêu cầu và phạm vi hoạt động của ngân hàng, bảo đảm tinh gọn hiệu quả. Hiện nay, Ngân hàng Phát triển có 01 Sở giao dịch tại Hà Nội, 62 Chi nhánh ngân hàng Phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 01 văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh, chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài, khoảng 2.500 cán bộ. a, Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Hội đồng quản lý có 5 thành viên chuyên trách và thành viên không chuyên trách. Chủ tịch, Tổng Giám đốc Ngân hàng là thành viên chuyên trách; thành viên kiêm nhiệm là lãnh đạo các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên Hội đồng quản lý theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi có ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản lý là 5 năm, hết nhiệm kỳ có thể được bổ nhiệm lại. Hội đồng quản lý quản lý Ngân hàng Phát triển theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định các kế hoạch phát triển, định hướng hoạt động của Ngân hàng; Phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm của Tổng Giám đốc; Quyết định bộ nhiệm các chức danh lãnh đạo; Ban hành các văn bản về quy chế hoạt động của Hội đồng quản lý, Ban kiếm soát và nghiệp vụ của Ngân hàng; Kiến nghị lên Bộ trưỏng Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi bổ sung chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu, sửa đổi bổ sung Điều lệ của ngân hàng…. Hội đồng quản lý làm việc theo chế độ tập thể, 3 tháng họp một lần để xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Khi cần thiết có thể họp bất thường. b, Ban kiểm soát Ban kiếm soát có tối đa 7 thành viên chuyên trách, là các chuyên gia am hiểu lĩnh vực tài chính , tín dụng, đầu tư…. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành chủ trưong, chính sách của Hội đồng quản lý; Kiểm tra hoạt động tài chính, thẩm định các báo cáo tài chính hàng năm, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ Ngân hàng Phát triển. c, Tổng Giám đốc và bộ máy giúp việc Điều hành hoạt động của ngân hàng là Tổng Giám đốc, giúp việc cho Tổng Giám đốc là các Phó Giám đốc, Kế toán trưởng. Tổng Giám đốc là người đại diện pháp nhân của ngân hàng, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản lý, trước Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật về việc điều hành hoạt động của Ngân hàng. Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng là người giúp Tổng giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động theo phân công của Tổng Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giao. Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi có ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan. Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng do Hội đồng quản lý bổ nhiệm trên cơ sơ đề nghị của Tổng Giám đốc. Tổng Giám đốc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho Ngân hàng; Điều hành, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của ngân hàng; Quy định về phân cấp cho các đơn vị; Quy định về lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn, Nhận vốn và các nguồn lực khác do Chính phủ giao…. 2.1.2.2 Hoạt động chính của Ngân hàng Phát triển Việt nam Là một tổ chức tài chính phát triển được Chính phủ thành lập, Ngân hàng phát triển có những đặc trưng nhất định của một ngân hàng chính sách của Chính phủ. Ngân hàng Phát triển tiếp tục thực hiện các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển và đang xây dựng các quy trình nghiệp vụ mới của các hoạt động cũ và những hoạt động mới được bổ sung, về cơ bản các hoạt động hiện tại của ngân hàng đó là: Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo quy định của Chính phủ. Thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển: cho vay đầu tư phát triển; hỗ trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu: cho vay xuất khẩu; bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận ủy thác giữa ngân hàng Phát triển với các tổ chức uỷ thác. Ủy thác cho các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng Phát triển. Cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động của ngân hàng Phát triển theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu. Ngân hàng phát triển thực hiện các hoạt động tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực này, đối tượng phục vụ và cơ chế hoạt động cơ bản do Chính phủ quy định. 2.1.2.3 Chức năng nhiệm vụ của Ban tín dụng xuất khẩu thuộc ngân hàng Phát triển Ban tín dụng xuất khẩu là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Phát triển có chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đốc trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu, cho vay vốn ODA của Chính phủ Việt Nam ra nước ngoài. Nhiệm vụ của Ban Thực hiên công tác tín dụng ( cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu xuất khẩu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu).Cụ thể là: trình Tổng Giám đốc các văn bản liên quan đến nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu, trình Tổng Giám đốc các báo cáo Hội đồng quản lý ban hành Quy chế nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu trong toàn hệ thống; Chủ trì tổng hợp, rà soát kế hoạch tín dụng xuất khẩu, kế hoạch hạn mức tín dụng xuất khẩu; Đầu mối tiếp nhận, thẩm định đơn đề nghị bảo lãnh xuất khẩu và các hồ sơ có liên quan; Phân tích đánh giá tinh hình thực hiện nhiệm vụ tín dụng xuất khẩu… Thực hiện công tác cho vay vốn ODA của Chính phủ Việt Nam ra nước ngoài. Thực hiện các dự án hỗ trợ kỹ thuật có liên quan đến nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu và cho vay vốn ODA của Chính phủ Việt Nam ra nước ngoài. Cơ cấu tổ chức và điều hành cuả Ban tín dụng xuất khẩu Điều hành công việc của Ban là trưởng ban, giúp việc trưởng ban là các phó trưởng ban. Trưởng ban chịu trách nhiệm toàn diện trước Tổng Giám đốc về hoạt động của Ban, có trách nhiệm xây dựng các phương án biện pháp cụ thể, phân công, bố trí và quản lý công tác đối với cán bộ viên chức của Ban. Cơ cấu tổ chức các phòng thuộc Ban sẽ thực hiện theo các quyết định của Tổng Giám đốc. Nhiệm vụ cụ thể của các phòng thuộc Ban do trưởng ban quy định, phân công. 2.1.3 Thực trạng hoạt động của ngân hàng Phát triển Việt Nam Trước năm 2006 tiền thân của ngân hàng Phát triển là Quỹ hỗ trợ và phát triển. Việc hình thành và phát triển hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước hơn 5 năm qua là bước kế tiếp thành công của sự đổi mới mô hình tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác những tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết quả hoạt động của Quỹ trong 3 năm từ 2004 đến 2006. Bảng 2.1 Báo cáo kết quả họat động của Ngân hàng Phát triển Đơn vị: tr đồng Khoản mục 2004 2005 2006 Thu lãi cho vay 1,341,586 1,637,511 1,866,580 Thu lãi tiền gửi 502,757 312,614 690,061 Thu ngoài lãi 1,095,800 1,604,934 1,905,776 Tổng thu nhập 2,940,143 3,555,059 4,462,417 Chi trả tiền lãi vay 1,360,437 1,444,466 1,618,999 Chi trả lãi tiền gửi 122,965 203,289 497,066 Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá 692,155 1,230,413 1,486,949 Chi ngoài lãi 308,524 334,829 404,783 Tổng chi phí 2,484,081 3,212,997 4,007,797 Chênh lệch thu chi 456,062 342,062 454,620 Nguồn: Số liệu NHPT Qua 3 năm hoạt động, cả tổng thu và tổng chi đều tăng. So với năm 2004, tổng thu năm 2005 tăng tuyệt đối là 614.916 tỷ đồng (tăng 20,1%). Tổng thu năm 2006 tăng 907.358 tỷ đồng so với năm 2005 (tăng 25,5%) và so với năm 2004 tăng 1.552.274 tỷ đồng, tăng tương đối 51,8%. Mức tăng chủ yếu là do tăng của yếu tố thu lãi cho vay và thu ngoài lãi. Tổng mức chi cũng tăng qua các năm do mức tăng của khoản mục chi trả lãi vay và chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng lớn. Kết thúc năm tài chính mức chêch lệch thu chi hằng năm khá cao đảm bảo tình hình hoạt động đem lại lợi nhuận cho ngân hàng Phát triển. Về tình hình huy động vốn của ngân hàng Phát triển qua các 3 năm hoạt động thu được kết quả như sau: + Khoản mục tiền gửi của khách hàng, của tổ chức tài chính trong ngân hàng Phát triển Bảng 2.2 Tiền gửi của KBNN, TCTC, TCTD tại ngân hàng Phát triển Đơn vị: tr đồng Khoản mục 2004 2005 2006 Tiền gửi của KBNN, TCTC, TCTD 0 234,975 1,428,608 Tiền gửi của KBNN, TCTC, TCTD bằng VNĐ 0 234,975 1,428,608 Tiền gửi của KBNN, TCTC, TCTD bằng ngoại tệ 0 0 0 Nguồn: Số liệu NHPT Bảng 2.3 Tiền gửi của khách hàng Đơn vị: tr đồng Khoản mục 2004 2005 2006 Tiền gửi của khách hàng 3,656,710 6,967,711 5,594,776 Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng VNĐ 3,656,710 6,939,385 5,594,776 Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng ngoại tệ 0 28,326 0 Tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng ngoại tệ 0 0 0 N._.ăng suất, giảm giá thành, đồng thời đẩy mạnh tiếp thị, áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp mình, sử dụng đồng vốn một cách thông minh hơn, tức là nên đầu tư vào thế mạnh của mình chứ không nên chạy theo những lĩnh vực mang lại lợi nhuận trước mắt. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên đa dạng hóa thị trường, không nên quá phụ thuộc vào một thị trường hoặc một ngoại tê để hạn chế ảnh hưởng của tỷ giá. Về dài hạn, những điều này sẽ tốt cho nền kinh tế. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU NHẰM MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN 3.1 Định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam Chiến lược xuất nhập khẩu năm 2001-2010 đánh giá xuất khẩu góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ . Tuy nhiên, xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định như quy mô xuất khẩu còn nhỏ so với các nước trong khu vực, khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hoá còn thấp chưa phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế; tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao, tỉ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn nhỏ. Tình hình 5 năm thực hiện chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010, đã được nghiên cứu và đánh giá từ đó đưa ra mục tiêu và biện pháp thực hiện cho giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm cho người lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, trước hết là cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển những mặt hàng có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, hàng có giá trị thấp. Các chỉ tiêu phát triển xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 được đề ra như sau: Dự kiến tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân sẽ là 17,5% và đạt trên 72,5 tỉ USD vào năm 2010. Trong giai đoạn này, tập trung vào hai khâu trọng tâm để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu. Thứ nhất là tập trung vào nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất. Thứ hai: khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản. Về cơ cấu hàng xuất khẩu: với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, hàng giá trị thấp. Theo đó, tỉ trọng của nhóm hàng nông -lâm -thuỷ sản sẽ giảm từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ và công nghiệp tăng khá mạnh từ 45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010. Dịch vụ xuất khẩu được xác định là một trong những lĩnh vực xuất khẩu mũi nhọn trong gian đoạn này nhằm mục tiêu đổi mới cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và góp phần tăng tốc xuất khẩu trong giai đoạn hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực dịch vụ (bao gồm cả xuất khẩu lao động) trong giai đoạn 2006-2010 được dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng bình quân 16,3%/năm và đạt mức kim ngạch 12 tỷ USD vào năm 2010. Ngành bảo hiểm phấn đấu mức tăng 29,3%/năm, kim ngạch xuất khẩu dự kiến là 470 triệu USD; bưu chính-viễn thông tăng 24,5%/năm với kim ngạch xuất khẩu đạt 530 triệu USD; tài chính -ngân hàng phấn đấu mức tăng 22,4%/năm, đạt 550 triệu USD. Các dịch vụ phục vụ hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài là một trong những lĩnh vực xuất khẩu trọng tâm của giai đoạn này. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: theo dự kiến khu vực Châu Á giảm dần tỷ trọng từ 48,8% năm 2006 xuống còn 45,5% năm 2010 song vẫn là thị trường chiếm ưu thế trong cơ cấu thị trường hàng xuất khẩu nước ta. Đến năm 2010 kim ngạch hàng xuất khẩu tai đây đạt khoảng 33 tỷ USD với những mặt hàng trọng tâm là hàng tiêu dùng, gạo, thực phẩm, nông sản chế biến. Hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Châu Âu tăng nhẹ, tỷ trọng tăng từ 18,2% năm 2006 lên 20%, đến năm 2010 đạt khoảng 15,9 tỷ USD với những mặt hàng nông thuỷ sản chế biến, hàng công nghiệp nhẹ, sản phẩm thủ công mỹ nghệ vào EU. Xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ tăng dần từ 21,7% lên 24%, đến năm 2010 đạt kim ngạch khoảng 16,7 tỷ USD với những mặt hàng xuất khẩu như dệt may, giày dép, thuỷ sản, đồ gỗ, máy móc thiết bị, điện tử, hạt điều.... Thị trường Châu Phi định hướng tỷ trọng tăng từ 2,2% lên 2,8%, kim ngạch đến năm 2010 đạt 2,8 tỷ USD với các mặt hàng thuỷ sản, đồ gỗ, hàng cơ khí, cà phê, hạt tiêu. Thị trường Châu Đại Dương đến năm 2010 kim ngạch đạt khoảng 5,6 tỷ USD, tập trung xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép. Để đạt được mục tiêu và chỉ tiêu trên, các quan điểm chủ đạo về phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2006-2010 cần được thực hiện: + Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất. + Gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa phải quan tâm mở rộng thị trường xuất khẩu. + Giữ vững các thị trường lớn, thị trường trọng điểm đồng thời đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để tránh lệ thuộc vào nền kinh tế hay ngoại tệ của một nước. . + Khuyến khích, tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong hoạt động xuất – nhập khẩu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp. Định hướng chiến lược xuất khẩu của nước ta trong giai đoạn này là hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, và đây cũng là định hướng phát triển cho các doanh nghiệp thực hiên hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong xu thế hội nhập, các doanh nghiệp có được nhiều thời cơ nhưng cũng đứng trước rất nhiều thách thức. Doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh trên thị trường nước ngoài mà còn cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài nỗ lực của bản thân mỗi doanh nghiệp Chính phủ cũng cần có những chính sách tài trợ xuất khẩu thích hợp. 3.2 Định hướng hoạt động tín dụng xuất khẩu của ngân hàng Phát triển Việt Nam Ngân hàng Phát triển Việt Nam mà hoạt động chủ yếu của nó nhằm tài trợ có hiệu quả cho các chương trình phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định, là một kênh hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tài trợ ưu đãi. Do vậy phát triển hoạt động tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng Phát triển vừa phải thích nghi với các quy định của quốc tế về lĩnh vực tín dụng xuất khẩu đồng thời phải bảo đảm được tính chất hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu để thực hiện các mục tiêu của Chính phủ trong sự nghiệp phát triển kinh tế, cụ thể đó là: + Định hướng phát triển hoạt động tín dụng phải phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật và các cam kết quốc tế, trong đó có việc tuân thủ các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. + Đối tượng được hưởng tín dụng xuất khẩu của Nhà nước tại ngân hàng Phát triển phải được rà soát chặt chẽ, tránh bao cấp tràn lan. + Đa dạng các hình thức tín dụng xuất khẩu. + Lãi suất cho vay xuất khẩu phải hướng tới thị trường, tránh bao cấp về vốn, chủ yếu là hỗ trợ về các điều kiện, thủ tục vay cho doanh nghiệp. + Cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và dịch vụ ngân hàng hiện đại vào hoạt động tín dụng xuất khẩu, tăng cường kiểm soát tín dụng và rủi ro tín dụng, nâng cao năng lực và trình độ của cán bộ tín dụng. 3.3 Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng Phát triển Việt Nam 3.3.1 Hoàn thiện và đa dạng các hình thức tín dụng xuất khẩu 3.3.1.1 Thực hiện nghiệp vụ cho nhà nhập khẩu vay Các hình thức tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng Phát triển thời gian qua chưa thực sự đa dạng. Hình thức cho nhà nhập khẩu vay vẫn chưa được triển khai hoạt động. Vì vậy một trong các giải pháp để thúc đẩy hoạt động tín dụng xuất khẩu là mở rộng các loại hình tài trợ xuất khẩu để thúc đẩy xuất khẩu Đây là nghiệp vụ hoàn toàn mới của ngân hàng Phát triển, thực hiện cho khách hàng vay vốn là các nhà nhập khẩu ở các quốc gia khác nhau. Tại các nước phát triển, nghiệp vụ này ngày càng chiếm vai trò quan trọng và thay thế dần nghiệp vụ tín dụng dành cho bên bán. Đặc điểm nghiệp vụ cho vay bên mua: - Chủ yếu áp dụng trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ các dự án đầu tư với thời hạn vay tương đối dài (thường là trên 5 năm). - Quá trình thẩm định khoản vay là một quá trình phức tạp diễn ra trong một khoảng thời gian tương đối dài (thông thường từ 3 đến 6 tháng cho một dự án có quy mô trung bình) với sự tham gia của rất nhiều bên như: Chính phủ các nước, các ngân hàng thương mại của nước sở tại, các chuyên gia tư vấn tài chính, kỹ thuật .... - Để hạn chế rủi ro các ngân hàng thực hiện cho nhà nhập khẩu vay thường yêu cầu Chính phủ nước nhập khẩu hoặc các ngân hàng lớn có uy tín bảo lãnh cho khoản vay này, thực hiện cơ chế kiểm soát đặc biệt luồng tiền thu về của dự án của nhà nhập khẩu để đảm bảo khả năng trả nợ tín dụng. Hình thức cho nhà nhập khẩu vay có thể được thực hiện thông qua hai kênh: + Cho nhà nhập khẩu vay trực tiếp: nghiệp vụ này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần thu thập nhiều thông tin khách hàng của mình như: khả năng tài chính, khả năng thanh toán, uy tín và mức độ tín dụng của nhà nhập khẩu, thị trường tại nước nhà nhập khẩu... + Cho vay gián tiếp (hay là cho vay lại) đến nhà nhập khẩu: tức là thông qua Chính phủ của nước nhập khẩu hoặc thông qua một ngân hàng, tổ chức tài chính tại nước nhà nhập khẩu có quan hệ với ngân hàng Phát triển để cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Việc giải ngân của hình thức này thông thường được trả trực tiếp cho nhà xuất khẩu tại Việt Nam. Việc giải ngân này có thể thực hiện ngay trong giai đoạn sản xuất chế biến hàng hoá hoặc khi hàng hoá đã được chuyển giao cho nhà nhập khẩu nếu có yêu cầu. Để thực hiện hình thức cho nhà nhập khẩu vay có hiệu quả thì trong quá trình thực hiện ngân hàng Phát triển cần có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá (vì có thể đồng tiền cho vay và đồng tiền khi thu nợ khac nhau, tỷ giá giữa các đồng tiền ở hai thời điểm chênh lệch nhau) như: ký các hợp đồng giao dịch ngoại tệ tương lai, ký các hợp đồng bảo hiểm tỷ giá … Trong tương lai xa hơn, để giảm bớt sự phụ thuộc vào bảo lãnh của Chính phủ hoặc Ngân hàng trung ương nước nhập khẩu, ngân hàng Phát triển có thể mở rông mạng lưới văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của mình tại các quốc gia, thiết lập hệ thống quan hệ đại lý với các ngân hàng quốc tế để thẩm định khoản vay tín dụng của nhà nhập khẩu. 3.3.1.2 Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu là cam kết giữa một bên là ngân hàng Phát triển (bên bảo lãnh) với một bên là các tổ chức cho vay vốn thực hiện hợp đồng xuất khẩu (bên nhận bảo lãnh) về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) nếu khách hàng không trả được nợ hoặc trả không đủ cho bên ngân hàng Phát triểnận bảo lãnh. Thời hạn bảo lãnh tín dụng xuất khẩu chỉ giới hạn trong thời gian tối đa 2 năm. Hạn chế này làm cho nó kém hấp dẫn hơn so với bảo lãnh tín dụng đầu tư vốn đã không được các chủ doanh nghiệp quan tâm nhiều trong thời gian vừa qua. Nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng không được nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm. Nguyên nhân là do đặc trưng xuất khẩu các loại hàng hoá nông sản đó là thời gian sản xuất và chế biến ngắn, công nghệ chế biến còn lạc hậu nên các nhà nhập khẩu thường không yêu cầu cung cấp các loại bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Cái thứ hai là do nếu các doanh nghiệp sử dụng nghiệp vụ này lại phải bỏ ra một mức phí , điều này sẽ làm cho lợi nhuận của phương án kinh doanh giảm đi. Do vậy mức phí bảo lãnh có thể coi là rào cản để nhà xuất nhập khẩu thực hiện hình thức này. Từ những phân tích trên cho thấy nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đối với các loại hình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng sẽ không nhiều. Để đẩy mạnh các hoạt động này ngân hàng Phát triển cần tập trung vào một số điểm như: + Đề ra quy trình thẩm định, ra quyết định bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cần đảm bảo ở mức đơn giản nhất cho đơn vị vay vốn, hạn chế những quá trình trùng lắp với thẩm định khoản vay của ngân hàng thương mại khác. + Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thực hiện bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện tại các ngân hàng thương mại, ngân hàng Phát triển sẽ thực hiện bảo lãnh đối ứng cho các ngân hàng thương mại. Đơn vị vay vốn chỉ phải trả mức phí bảo lãnh theo đúng quy định của Nghị định 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu. +Đối với nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng xuất khẩu có thể cung cấp cho các ngân hàng thương mại khi cho vay nhà nhập khẩu hoặc cho vay nhà xuất khẩu. Mô hình: 5. Trả nợ Ngân hàng Phát triển Việt Nam Nhà nhập khẩu Ngân hàng Thương mại 1. Xuất khẩu 2. Bảo lãnh 4. Thanh toán 3. Vay vốn Nhà xuất khẩu 3.3.1.3 Triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đa dạng hóa cho vay nhà xuất khẩu Triển khai hoạt động thanh toán quốc tế: Thanh toán quốc tế là cần thiết để phục vụ tối đa nhà xuất khẩu, giúp đa dạng hoá các hình thức tín dụng xuất khẩu, nâng dần vị thế về tài trợ xuất khẩu của ngân hàng Phát triển Việt nam trong thị trường tài chính quốc tế, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt nam. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại hoạt động này vẫn chưa được triển khai tại ngân hàng Phát triển. Để có thể thiết lập hệ thống thanh toán quốc tế, trước hết hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước của ngân hàng Phát triển phải hoàn chỉnh, ngân hàng Phát triển phải thiết lập được mạng lưới ngân hàng đại lý với các ngân hàng trên thế giới. Hệ thống thanh toán quốc tế ban đầu phải đảm bảo thực hiện được các giao dịch: + Thanh toán, chuyển trả tiền ra nước ngoài cho các hợp đồng xuất khẩu. + Thực hiện giao dịch mở và thanh toán L/C cho nhà xuất nhập khẩu. + Chiết khấu bộ chứng từ, nhờ thu chứng từ. Đa dạng hoá các hình thức cho nhà xuất khẩu vay Đối với nghiệp vụ cho nhà xuất khẩu vay, cùng với việc triển khai hoạt động thanh toán quốc tế giúp thỏa mãn nhu cầu vay tín dụng của khách hàng. Các hình thức đa dạng thêm nghiệp vụ cho vay nhà xuất khẩu như nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu, ứng trước tiền thanh toán... hoặc tài trợ cho các khoản phải thu có tính chất trung và dài hạn trên cơ sở bộ chứng từ khi hình thức thanh toán là trả chậm với thời gian dài. Ngân hàng Phát triển có thể thực hiện chiết khấu bộ chứng từ theo một trong hai cách là chiết khấu có truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi tùy theo khách hàng yêu cầu. Thực hiện tài trợ khép kín cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Quy trình thực hiện nghiệp vụ tài trợ khép kín này được thực hiện: theo hợp đồng ngoại thương đã ký giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, ngân hàng Phát triển có thể cho nhà xuất khẩu vay số vốn bị thiếu để mua thiết bị, nguyên liệu...; sau khi có trong tay bộ chứng từ thanh toán nếu doanh nghiệp này có nhu cầu về vốn để sản xuất kinh doanh tiếp thì trước khi đến hạn thanh toán tín dụng có thể yêu cầu ngân hàng Phát triển chiết khấu lại bộ chứng từ thanh toán. 3.3.2. Các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng 3.3.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cấp tín dụng xuất khẩucho khách hàng Hoạt động thẩm định tín dụng là khâu quan trọng của quy trình tín dụng, là mấu chốt quan trọng để ra quyết định có cấp tín dụng cho khách hàng hay không, giúp giảm thiểu hạn chế rủi ro tín dụng của các ngân hàng. Thẩm định một dự án kinh doanh phải xem xét một cách đầy đủ toàn diện, chính xác và phải bảo đảm tính khách quan từ khâu lập hồ sơ xin vay vốn, kiểm tra năng lực tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất hai năm gần nhất, tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh…. Cán bộ tín dụng kiểm tra hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng, xem xét đã đúng với quy chế cho vay hay chưa. Nếu một loại giấy tờ nào thiếu hoặc chưa đúng với quy định thì cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng của mình bổ sung ngay. Nếu để hồ sơ sau một thời gian cán bộ thẩm định mới xem xét rồi mới thông báo lại cho khách hàng của mình, sau đó lại phải đợi thời gian để làm giấy tờ phù hợp có thể thời gian này kéo dài tời mấy tháng thì doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng đã mất đi cơ hội kinh doanh. Do vậy cả khách hàng và cán bộ tín dụng cần lưu ý đến thời gian này. Sau khi đầy đủ các giấy tờ theo quy định cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định theo các các bước: + Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng. Nếu là cá nhân di vay vốn sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thì phải có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của Luật dân sự đã ban hành. Nếu là doanh nghiệp đề nghị vay vốn, cán bộ tín dụng cần thẩm định về quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh… để kiểm tra phương án kinh doanh có phù hợp với loại hình mà doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh hay không? + Thẩm định tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động (hay năng lực tài chính của doanh nghiệp). Công cụ để thâm định là các báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh với mục đích để xem xét khả năng thanh toán của khách hàng khi đến hạn như thế nào, có khả năng trả được nợ hay không? + Thẩm định tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh, hiệu quả kinh tế mà nó mang lại + Thẩm định biện pháp bảo đảm tiền vay đối với khoản vốn vay. 3.3.2.2. Thu thập và xử lý thông tín về khách hàng Thu thập thông tin về khách hàng là bước quan trọng trong quá trình thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Cán bộ tín dụng phải thu thập nắm bắt thông tin về khách hàng qua nhiều kênh chứ không chỉ dựa vào các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp. Có thể khai thác thông tin cần thiết về khách hàng từ các nguồn như từ cac phương tiện thông tin đại chúng, từ khách hàng đã có quan hệ thương mại với doanh nghiệp, từ kinh nghiệm của các ngân hàng mà trước đó khách hàng đã có quan hệ tín dụng. Cũng có thể lấy thông tin về khách hàng từ các tổ chức chuyên kinh doanh thông tin tín dụng, từ cơ quan thuế để kiểm tra lợi nhuận cua rdoanh nghiệp như thế nào, đánh giá từ cổ phiếu của doanh nghiệp (nếu có)… Sau khi thu thập được các thông tin về khách hàng thì cán bộ tiến hành xử lý thông tin này để đưa ra các đánh giá chính xác về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tính khả thi của dự án, uy tín và khả năng trả nợ của khách hàng. Thời hạn từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi phê duyệt cho vay không dài do vậy quá trình thu thập và xử lý cần được tiến hành nhanh chóng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có phương pháp thu thập và xử lý khoa học, tận dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng. 3.3.2.3.Tăng cường công tác kiểm tra giám sát sau khi cấp vốn tín dụng Sau khi cấp vốn tín dụng cho khách hàng, cần tăng cường khâu kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không, phát hiện kịp những sai sót rủi ro hạn chế thiệt hại cho cả doanh nghiệp vay vốn và cho ngân hàng. Ngân hàng Phát triển có thể kiểm tra bằng cách xuống cơ sở sản xuất kinh doanh để kiểm tra thực tế, kiểm tra thông qua các hóa đơn, chi phí sử dụng vốn vay như thế nào… Đối với trường hợp vay tín dụng có tài sản bảo đảm, thế chấp thì cán bộ tín dụng cũng cần kiểm tra giá trị tài sản, việc sử dụng tài sản để có các biện pháp xử lý thích hợp. 3.3.2.4. Không ngừng nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng Con người là yếu tố quan trọng trong công tác tín dụng. Nâng cao năng lực trình độ và phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng chính là cách để nâng cao chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải là người có chuyên môn giỏi, cách xử lý công việc nhanh nhạy và chính xác. Họ cũng là những người có kiến thức kinh tế xã hội khá rộng vì khách hàng vay vốn kinh doanh của ngân hàng Phát triển thuộc nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Có kiến thức xã hội giúp cán bộ tín dụng đánh giá được đúng đắn khách hàng, hạn chế rủi ro. Làm công tác tín dụng đòi hỏi người cán bộ phải có đạo đức nghề nghiệp. Họ không cấu kết với khách hàng để cho vay các khoản tín dụng không đúng mục đích kinh doanh hoặc kinh doanh trái pháp luật. Điều này sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng nếu rủi ro xảy ra. Để phát huy được các điểm mạnh của cán bộ tín dụng thì ngân hàng Phát triển cũng cần có những chính sách thích hợp để thu hút nhân tàì. Bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp lý khả năng của mỗi người, lưu ý công tác luân chuyển cán bộ để tránh rủi ro đạo đức và phát hiện bồi dưỡng cán bộ có năng lực. Việc sử dụng cán bộ phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn của mỗi người kết hợp với các biện pháp động viên khuyến khích kịp thời sẽ tạo nên sự nỗ lực trong công việc của các cán bộ. Công tác tuyển dụng nhân lực cũng cần được chọn lọc kỹ. Thường xuyên tổ chức các lớp học, các đợt tập huấn để cập nhật các kiến thức mới, những kinh nghiệm của các nước đi trước cho nhân viên tín dụng. 3.4 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tín dụng xuất khẩu 3.4.1 Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan 3.4.1.1 Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ Đề nghị Chính phủ cho phép ngân hàng Phát triển được tài trợ cho hoạt động xuất khẩu với những nghiệp vụ rộng mở hơn thay vì cho vay trực tiếp, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được thực hiện. 3.4.1.2 Điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình thị trường Ngân hàng Phát triển hoạt động với tư cách là ngân hàng chính sách của Chính phủ và tuân theo các quy định của tổ chức tài chính tín dụng như Hiệp định OECD, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (ASCM) về lãi suất, mức cho vay, thời hạn trả nợ.... Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu các hình thức tài trợ phù hợp, tránh những hình thức tài trợ bị cấm theo quy định.Chính phủ cần sửa đổi cơ chế lãi suất, phí phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đảm bảo duy trì sự hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt nam trên thị trường quốc té thay vì quy định một mức lãi suất cố định như hiện nay. Theo đó, mức lãi suất cho vay của ngân hàng Phát triển có thể thấp hơn lãi suất thị trường vì nguồn vốn huy động qua các kênh ở ngân hàng này có lãi suất huy động rẻ hơn lãi suất thị trường. 3.4.1.3 Ổn định danh mục mặt hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách tín dụng xuất khẩu. Bên cạnh những nhân tố như yêu cầu về đảm bảo tiền vay, thời hạn cho vay, việc không ổn định danh mục các mặt hàng thuộc diện được hưởng chính sách tín dụng xuất khẩu cũng là một trong các rào cản đối với doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng. Việc xác định danh mục theo thời hạn từng năm làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu trong thời gian dài của doanh nghiệp, gây ra sự bất ổn về tâm lý đối với người vay vốn tại Ngân hàng Phát triển . Chính phủ cần nghiên cứu theo hướng ổn định danh mục mặt hàng, hỗ trợ đối với những mặt hàng phù hợp với mục tiêu chiến lược, kế hoạch xuất khẩu của Việt nam. Chính phủ cần có nghiên cứu để ổn định danh mục mặt hàng trong thời gian từ 3 năm trở lên, ổn định tâm lý và nâng cao khả năng kế hoạch hóa nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi là hàng hóa cần bổ sung thêm đối tượng là các dịch vụ xuất khẩu có tính mũi nhọn, có tiềm năng để khuyến khích khu vực này phát triển. Một trong những nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế là phải đảm bảo tính minh bạch của chính sách. Do vậy, chính sách của Chính phủ cần được thiết kế một cách rõ ràng với những điều kiện, nội dung cụ thể, nâng cao khả năng thực thi của chính sách. Cơ chế đảm bảo tiền vay nên theo hướng tạo sự chủ động cho ngân hàng Phát triển trên cơ sở phân tích đánh giá khách hàng, xếp hạng tín dụng và độ rủi ro của từng thương vụ, dự án. Cơ chế huy động vốn cũng cần phải rõ ràng và tự chủ cho ngân hàng Phát triển trên cơ sở đảm bảo được hiệu quả của hoạt động và cho vay theo lãi suất gần với lãi suất của thị trường. Chính phủ cần quan tâm bố trí nguồn lực thích hợp để thực hiện nhiệm vụ tín dụng xuất khẩu thông qua các hình thức như cấp vốn từ nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, cho phép ngân hàng Phát triển vay vốn tại các Quỹ tài chính của chính phủ, hoặc Chính phủ bảo lãnh để huy động vốn với lãi suất rẻ hơn lãi suất thị trường, từ đó giảm mức cấp bù của ngân sách Nhà nước, giảm được mức vốn cho vay mà không vi phạm quy định của quốc tế về lãi suất. Ngân hàng Phát triển cũng đề nghị Bộ thương mại và các Hiệp hội ngành hàng phối hợp xây dựng hệ thống thông tin về quốc gia, ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu. 3.4.2 Kiến nghị với các doanh nghiệp - Các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu các quy định của Nhà nước về lập dự án đầu tư, tính toán phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay để giảm bớt thời gian hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ vay vốn vì điều này đôi khi làm mất cơ hội đầu tư của doanh nghiệp. - Việc đầu tư dự án xuất khẩu cần được tính toán kỹ càng trên cơ sở tìm hiểu thông tin, nhu cầu thị trường mục tiêu nhất là những sản phẩm mới và thị trường xuất khẩu mục tiêu có quá nhiều điều kiện, nghiên cứu thị trường tiêu thụ thay thế. Các doanh nghiệp cần loại bỏ tư tưởng trông chờ và ỷ lại vào sự bao cấp vốn của Nhà nước thông qua ngân hàng Phát triển, chủ động lựa chọn nhiều hình thức thay thế hình thức vay vốn trực tiếp và phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Phát triển để được tư vấn kịp thời, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất. Một hình thức mà doanh nghiệp có thể áp dụng là tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (export credit insurance): bảo hiểm cho các loại rủi ro mà nhà xuất khẩu có thể gặp phải lại. Hình thức này được áp dụng phổ biến tại nhiều nước trên thế giới nhưng vẫn chưa áp dụng phổ biến tại Việt Nam. Hoạt động bảo hiểm này phát triển mạnh tại châu Âu, chiếm 80% thị phần doanh số thu phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu toàn thế giới, đặc biệt như ở Pháp, Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng được các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ áp dụng có hiệu quả để giúp doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, phát triển mặt hàng và thị trường xuất khẩu, yên tâm hơn khi thâm nhập các thị trường xuất khẩu nhiều rủi ro. Hiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các doanh nghiệp là tất yếu và phải cạnh tranh khốc liệt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, nhu cầu về hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là cần thiết cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. KẾT LUẬN Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhu cầu cần vay vốn tín dụng xuất khẩu của doanh nghiệp tại các ngân hàng ngày càng tăng cao, điều này càng làm cho vai trò của tín dụng xuất khẩu ngày càng trở lên có ý nghĩa hơn. Trong các năm qua ngân hàng Phát triển luôn có gắng hoàn thiện và đẩy mạnh các nghiệp vụ cho vay tín dụng xuất khẩu, phát huy những tác động tích cực của tín dụng xuất khẩu xuất khẩu đối với nền kinh tế, với hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Từ việc nhìn nhận đánh giá được tầm quan trọng của tín dụng xuất khẩu đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng, tín dụng xuất khẩu theo định hướng của Chính phủ được coi là một chính sách có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính của quốc gia để thúc đẩy xuất khẩu phát triển lâu dài và bền vững. Góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tín dụng xuất khẩu ngày càng phát huy vai trò của mình trong việc làm tăng trưởng kinh tế đất nước, bên cạnh những nỗ lực đổi mới và hoàn thiện của các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng rất cần có được sự ủng hộ và phối hợp chặt chẽ của Chính phủ, các Bộ, ngành và các doanh nghiệp có liên quan trong việc thống nhất chủ trương hành động, kịp thời giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh nhằm thực hiện các chiến lược và chính sách tín dụng xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng bền vững, đúng hướng và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội . DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo thường niên các năm 2004, 2005, 2006, 2007 của Ngân hàng Phát triển Việt Nam Bộ môn thương mại quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân- Giáo trình Thương mại quốc tế GS.TS Lê Văn Tư - Giáo trình tín dụng xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. TS Nguyễn Minh Kiều- Giáo trình thanh toán quốc tế. Giáo trình: Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu – PGS.TS.Trần Chí Thành – NXB Thống kê, Hà nội 2000. Giáo trình: Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế - PGS.TS Trần Chí Thành – NXB Giáo dục 1997 ( trang web kết nối nghiên cứu với thực tiễn) (báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam) (Bộ Công thương) (Bộ Tài chính) (Báo điện tử- thời báo kinh tế Việt Nam) (báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam) (báo Sài Gòn giải phóng) MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Báo cáo kết quả họat động của Ngân hàng Phát triển 35 Bảng 2.2 Tiền gửi của KBNN, TCTC, TCTD tại ngân hàng Phát triển 36 Bảng 2.3 Tiền gửi của khách hàng 37 Bảng 2.4 Kết quả của hoạt động phát hành giấy tờ có giá 37 Bảng 2.5 Kết quả hoạt động các nghiệp vụ 38 Bảng 2.6 Tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2007 của NHPT 39 Bảng 2.7 Nhiệm vụ cần hoàn thành 43 Bảng 2.8 Kết quả cho vay ngắn hạn HTXK 48 Bảng 2.9 Doanh số cho vay phân theo mặt hàng 49 Bảng2.10 Doanh số cho vay theo thị trường xuất khẩu chủ yếu 51 Bảng2.11 Doanh số cho vay phân theo loại hình doanh nghiệp 52 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11587.doc