Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên

Mở đầu Trong thời kỳ cổ đại triết học có đối tượng nghiên cứu rất rộng, bao gồm toàn bộ tri thức của muôn loài thời đó. Đến thế XV, XVI các khoa học thực nghiệm đã lần lượt ra đời với tính cách là những khoa học độc lập tách rời khỏi khoa học. Cùng với sự phát triển xã hội và những thành tựu khác của khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển triết học. Khoa học thực nghiệm đã đạt tới đỉnh cao trong chủ nghĩa duy vạt một cách nhanh chóng vào thể kỷ XVII -

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 13747 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan. Vào đầu thế kỷ XIX, khi hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học thì triết học macxit cho rằng đối tượng nghiên cứu của mình là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy trên lập trường duy vật triệt để. Ngày nay, khoa học tự nhiên đang rất phát triển. Vậy khoa học tự nhiên và triết học có một mối qun hệ với nhau. Trong suốt quá trình học môn triết học cùng với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong khoa triết em đã nhận thực được tầm quan trọng của mối qua hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài tiểu luận của mình là "Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên". I - Các khái niệm cơ bản. 1 - Khái niệm triết học. Xã hội loài người sở dĩ có thể tồn tại và phát triển được là nhờ có lao động sản xuất. Trong quá trình sản xuất, một mặt, con người phải tác động vào giới tự nhiên để tìm hiểu những thuộc tính, những quy luật của nó nhằm phục vụ lợi ích của mình. Mặt khác, sống trong môi trường xã hội, giữa người và người hình thành những mối quan hệ rất phức tạp, đặc biệt từ khi xã hội phân chia thành giai cấp mà lợi ích căn bản của họ đối kháng với nhau thì cuộc đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy xã hội từ chế độ này sang chế độ khác tiến bộ hơn; con người cũng có nhu cầu phải tìm những quy luật hoạt động và phát triển của mọi mặt trong đời sống xã hội. Nhận thức những thuộc tính , những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên và xã hội để chỉ đạo hoạt động của con người cải biến tự nhiên và xã hội là yêu cầu tất yếu để con người bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình. Nhận thức của con người khi trở thành một hệ thống những quan niệm khái quát về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới gọi là thế giới quan. Thế giới quan có kết cấu phức tạp bao gồm tri thức, tư tưởng, tình cảm, lý tưởng, niềm tin... Thể hiện trong các lĩnh vực chính trị, triết học, tôn giáo, khoa học và nghệ thuật, trong đó triết học là cơ sở lý luận và là hạt nhân của thế giới quan. Triết học chỉ có thể ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ phát triển nhất định cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Xét về nguồn gốc xã hội, triết học chỉ có thể xuất hiện khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến một trình độ nhất định, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lịch sử loài người bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học có nhiều biến đổi. Vào thời cổ đại, triết học là bộ môn tổng hợp bao hàm cả các lĩnh vực tri thức mà ngày nay gọi là môn khoa học cụ thể như cơ học, vật lý học, thiên văn học, sinh học, xã hội học... Song triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, tức là xây dựng một hệ thống quan điểm và quan niệm về thế giới. Vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc điểm chủ yếu của triết học như một hình thái ý thức xã hội là ở chỗ, cố gắng đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần cũng như mối liên hệ tác động của các quá trình đó, về nhận thức thế giới và con đường cải biến thế giới. Khác với triết học, các khoa học cụ thể nghiên cứu những mặt riêng lẻ của hiện thực, như toán học nghiên cứu mốt quan hệ về số lượng và không gian; vật lý học nghiên cứu các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng; sinh học nghiên cứu những đặc điểm phát triển của thế giới thực vật và động vật; kinh tế học nghiên cứu đặc trưng phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các hình thức sản xuất và phân phối. Triết học cũng khác với chính trị, nghệ thuật, đạo đức, v.v.. 2 - Khái niệm khoa học tự nhiên Khoa học tự nhiên là ngành khoa học nghiên cứu tất cả những biến đổi của vật chất, những quy luật của thế giới tự nhiên trong đời sống xã hội hàng ngày. Khoa học tự nhiên bao gồm tất cả các ngành khoa học như: + Toán học + Vật lý học + Hoá học + Sinh học + Địa lý học Trong mỗi ngành khoa học riêng thì lại nghiên cứu một khía cạnh hay nói đúng hơn là một vấn đề riêng của đời sống xã hội. Như vậy ta có thể nói khoa học tự nhiên là một phạm trù vật chất của xã hội loài người nó không chỉ nghiên cứu những hiện tượng tự nhiên của trái đất của vũ trụ mà còn giải thích nó một cách rất cặn kẽ với mục đích giúp con người có thể hiểu được các vấn đề có liên quan tới các hoạt động tự nhiên đang ngày ngày diễn ra trên trái đất. Chính vì vậy khoa học tự nhiên là một công cụ để nghiên cứu tất cả các mặt vấn đề của thế giới tự nhiên. II - Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. 1 - Triết học và đối tượng của triết học. Triết học ra đời váo khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỹ VI tr.CN với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp. Đối với sự phát triển tư tưởng triết học ở Tây Âu, kể cả đối với triết học Mác, triết học cổ Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn Ph.Ăngghen đã nhận xét: "từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này" Thuật ngữ "triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "yêu thích (philos) sự thông thái (sophia)". Triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức; nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Với quan niệm như vậy, triết học thời cổ đại không có đối tượng riêng của mình mà được coi là "khoa học của các khoa học", bao gồm toàn bộ tri thức của nhân loại. Trong suốt "đêm dài trung cổ" của Châu Âu, triết học phát triển một cách khó khăn trong môi trường hết sức chật hẹp; nó không còn là khoa học độc lập mà chỉ là một bộ phận của thần học; nên triét học tự nhiên thời cố đại đã bị thay thế bởi triết học kinh viện. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỹ XV, XVI đã tạo ra một cơ sở tri thức vũng chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất là các khoa học thực nghiệm ra đời với tính cách là những khoa học độc lập. Sự phát triển xã hội được thúc đẩy bởi sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện lớn về địa lý thiên văn cùng những thành tựu khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của triết học. Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt được đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỹ XVII - XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiúyt (Pháp), Xpiôda (Hà Lan)... V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác. Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò "khoa học của các khoa học". Triết học Hêghen là học thuyết cuối cùng mang tham vọng đó. Hêghen xem triết học của mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm "khoa học của các khoa học", triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 2 - Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan. Để tồn tại, loại người phải thích nghi với giới tự nhiên. Nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động mà luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người cần hiểu biết về thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân mình. Thế giới xung quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Nó được sinh ra như thế nào? Quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? v.v... Những câu hỏi như vậy được đặt ra với mức độ khác nhau đối với con người từ nguyên thuỷ cho đến ngày nay và mai sau. Đặc tính của tư duy con người là muốn hiểu biết tận cùng, hoàn toàn đầy đủ, song tri thức mà con người và cả loài người đạt được luôn luôn là có hạn. Quá trình tìm tòi giải đáp những câu hỏi như trên làm hình thành ở con người những quan niệm nhất định, trong đó những yếu tố cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin đã hoà quyện với nhau trong một khối thống nhất. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể hiện lâu dài trong cuộc sống của nó. Sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của thế giới quan. 3 - Tính thống nhất của thế giới. Khuynh hướng chung của các trường phái duy vật là tìm nguồn gốc, bản chất sự thông nhất của thế giới vật chất ngay trong bản thân nó. Trong thời cận đại cũng như cả trong cổ đại, việc phủ nhận lực lượng siêu tự nhiên và việc thừa nhận sự thống nhất vật chất của thế giới không tách rời nhau. Nếu như các nhà triết học tự nhiên thời cổ đại và phục hưng đã luận chứng nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới bằng cách quy cái siêu tự nhiên về cái tự nhiên, về cái có thể thụ cảm cảm tính được, thì các nhà duy vật thời cận đại đã chứng minh sự thống nhất vật chất của thế giới phù hợp với nhất nguyên luận duy vật bằng những thành tựu của khoa học tự nhiên thời đó. Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây: Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chũng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau. Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống của con người. Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất được. Con người chỉ có thể cái biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó. Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm duy tâm và tôn giáo tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới từ thần thánh, từ những lực lượng siêu nhiên tự nhiên. Nếu như tôn giáo chia thế giới thành ba bộ phận tuyệt đối khác nhau về bản chất - trần gian, địa ngục và thiên đường, do nhưng đấng thiêng liêng nào đó tạo ra và chi phối, thì trái lại, khoa học tự nhiên và triết học duy vật đã chứng minh rằng, thế giới xung quanh ta từ những vật vô cùng lớn đến những vật vô cùng nhỏ, từ tự nhiên đến xã hội, từ giời vô sinh đến giới hữu sinh, từ thực vật đến động vật, tuy rất khác nhau, song có cùng bản chất và thống nhất ở bản chất vật chất ấy. Tính thống nhất vật chất của thế giới không loại trừ tính đa dạng, tính muôn hình muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong thể kỷ XIX, những phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên: thuyết tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tiến hoá các loài đã có ý nghĩa lớn lao để chứng minh luận điểm về sự thống nhất vật chất của thế giới. Chính những lý thuyết này đã giải thích mối liên hệ lẫn nhau và sự phát triển của các hiện tượng nhờ những nguyên nhân tự nhiên. Những lý thuyết đó đã lấp đi cái hố sâu ngăn cách do tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm tạo ra một cachs giả tạo giữa quả đất với các thiên thể, giữa thực vật và động vật, giữa các loài giống khác nhau, giữa giới vô sinh và giới hữu sinh. Sự phát triển của khoa học hiện đại tiếp tục chứng minh nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới bằng những thành tựu mới. Vật lý học đã đi sâu đi sâu vào thế giới vi mô, nghiên cứu cấu trúc phức tạp và chuyển hoá lẫn nhau của các hạt cơ bản. Những thành tựu khoa học vũ trụ đã cho phép xác định sự giống nhau về thành phần hoá học của các thiên thể khác nhau, cũng như những quy luật hoạt động và tiến hoá của chúng. Những thành tựu to lớn của khoa học cho phép tạo ra nhiều vật liệu tổng hợp mới vào các sản phẩm khác nhau mà trước đây chưa gặp trong tự nhiên lại càng làm củng cố niềm tin con người vào sự thống nhất vật chất của thể giới. Góp phần vào việc luận chứng vấn đề này còn có những nghiên về sự sống ở trình độ phân tử, sự phát triển di truyền học, những nghiên cứu về cấu trúc của bộ lão con người và nghiên cứu những phương pháp điều khiển hoạt động tâm lý của con người, sự phát triển mạnh mẽ của điều khiển học và việc chế tạo các máy tính điện tử. Tất các những thành tựu đó làm sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về thành phần, về kết cấu của thế giới vật chất, về những đặc điểm hoạt động và phát triển của nó trên các trình độ tổ chức khác nhau của vật chất. Khoa học hiện đại đi sâu nghiên cứu cấu tạo của vật chất. Dựa vào những dấu hiệu chung về tổ chức của các hệ thống vật chất (bao gồm các yếu tố và kết cấu của nó), người ta chia ra các trình độ tổ chức vật chất hay các dạng vật chất khác. Trong giới tự nhiên vô sinh, có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường. Chất là cái gián đoạn, được tao ra từ các hạt, có khối lượng (m), có cấu trúc thú bậc bắt đầu từ nguyên tử có kết cấu phức tạp; nó gồm các hạt cơ bản: prôtôn và nơtrôn tạo thành hạt nhân, các êlectroon quay xung quanh hạt nhân với vận tốc lớn. Ngày nay khoa học đã biết đến các hạt cơ bản khác: các mêzôn, hyperôn và nơtrino...; chúng tồn tại cả trong nguyên tử, cả trong trạng thái plasma tự do, chẳng hạn trong các tia vũ trụ. Khoa học cũng đã phát hiện tra các hạt: pôditrôn, phản Prôtôn... có điện tích trái dấu. Các hạt cơ bản (bao gồm cả phôtôn) đều có thuộc tính sóng - hạt, chúng vừa liên tục vừa gián đoạn (vừa là sóng, vừa là hạt), vừa có cả khối lượng cả điện tích xác định. Còn trường (như trường hấp dẫn), trường điện từ, trường hạt nhân...) là môi trường vật chất liên tục, không có khối lượng tĩnh (m). Trường làm cho các hạt liên kết với nhau, tác động với nhau và nhờ đó mới tồn tại được. Tuy nhiên, ranh giới giữa chất và trường cũng là tương đối; chất và trường có thể chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng càng chứng tỏ rằng, hoàn toàn không có không gian không có vật chất; không có vật chất dưới dạng này thì lại có vật chất dưới dạng khác. Không thể có thế giới không phải vật chất nằm bên cạnh thế giới vật chất. Và cũng không thể hình dung thế giới vật chất chỉ có quả đất, hệ mặt trời của chúng ta hay một số thiên hà, mà phải là toàn bộ các trình độ tổ chức vật chất từ các hệ thống thiên hà: các thiên hà - các hệ thống hành tinh - các hành tinh đến các vật thể vi mô: các phân tử - các nguyên tử - các hạt cơ bản - chân không vật lý. Trong giới tự nhiên hữu sinh, có các trình độ tổ chức vật chất là: sinh quyển - sinh khu - quần thể - cơ thể đa bào - tế bào - tiền tế bào; các axít nuclêích (ADN và ARN) và chất đản bạch. Sự phát triển của sinh học hiện đại đã tìm ra được nhiều mắt khâu trung gian chuyển hoá giữa các trình độ tổ chức vật chất, cho phép nối liền vô cơ, hữu cơ và sự sống. Vật chất sống bắt nguồn từ vật chất không sống. Thực vật, động vật và cơ thể con người có sự giống nhau về thành phần vô cơ, cấu trúc và phân hoá tế bào, về cơ chế di truyền sự sống... Như vậy, những thành tự của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có cơ sở để khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và thông qua tính vật chất. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận cả về bề rộng lẫn bề sâu. Vật chất không được sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Trong thế giới không có nơi nào và lúc nào có gì khác ngoài vật chất đang vận động, chuyển hoá và những cái do vật chất vận động, chuyển hoá mà sinh ra. Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc biệt của tổ chức vật chất. ở đây nhân tố hoạt động là những con người có ý thức. Song điều đó không làm mất đi tính vật chất, khách quan của đời sống xã hội, của các quan hệ vật chất xã hội. Xã hội là một bộ phận của thế giới vật chất có nền tảng tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Vật chất dưới dạng xã hội là kết quả hoạt động của con người. Con người có vai trò năng động, sáng tạo trong thế giới vật chất. Triết học Mác - Lênin với quan niệm duy vật về lịch sử đã đóng góp quan trọng vào việc chứng minh nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới. Việc làm sáng tỏ vai trò quyết định của phương thức sản xuất của cải vật chất trong sự phát triênr xã hội, việc chứng minh vị trí hàng đầu, ưu thế của các quan hệ kinh tế trong hệ thống các quan hệ xã hội đã tạo cơ sở khoa học để nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội, để nghiên cứu những quy luật khách quan của xã hội. Như vậy, thế giới - cả tự nhiên lẫn xã hội - về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. 4 - Nguồn gốc tự nhiên và sự phát triển của khoa học tự nhiên. Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức song, do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt "tinh khôn", trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Máy móc dù có tinh khôn đi đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể thay thế được cho hoạt động chí tuệ của con người. máy móc là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó, chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, khoa học tự nhiên chuyển dần trọng tâm sang việc nghiên cứu các quá trình trong sự liên hệ, vận động và phát triển của chúng. Những thành quả do khoa học tự nhiên mang lại đã chứng minh rằng, tự bản thân thế giới tồn tại một cách biện chứng. Quan điểm siêu hình bị chính khoa học tự nhiên làm mất đi cơ sở tồn tại của nó. Nhưng việc phủ định quan điểm siêu hình lúc này lại dẫn đến việc xác lập vị trí ưu trội của phép biện chứng duy tâm khách quan mà đỉnh cao là ở triết học Hêghen. Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. III - những đặc điểm giống khác nhau cơ bản giữa triết học và khoa học tự nhiên. 1 - Những vấn đề riêng của triết học và khoa học tự nhiên. Tuy khoa học tự nhiên là cơ sở của sự phát triển triết học và triết học là nền tảng của khoa học tự nhiên nhưng giữa chúng cũng có những điểm khác nhau cơ bản. Mỗi bộ môn khoa học đều có phạm trù riêng của mình. Chẳng hạn, đó là các phạm trù năng lượng, khối lượng... trong vật lý học; biến dị, di truyền... trong sinh học; hàng hoá, giá trị... trong kinh tế học v.v... Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Chính vì tính đặc thù như vậy của đối tượng của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến ngày nay. Nhiều học thuyết triết học phương Tây muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình như mô tả những hiện tượng tinh tần, phân tích nhữ nghĩa, chú giải văn bản... Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nó chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các lĩnh vực trong giới tự nhiên kể cả trong vũ trụ trong trí tưởng tượng của con người. Triết học nghiên cứu sự vật bằng cách tổng hợp các sự vật lại với nhau để mà nghiên cứu chứ không chia nhỏ các sự vật đó. Khác với triết học khoa học tự nhiên thì chia nhỏ từng sự vật ra để nghiên cứu, và trong khoa học tự lại có một số ngành khoa học cụ thể để có thể phân tích và nghiên cứu một mặt, một vấn đề riêng của tự nhiên. Có thể nói khoa học tự nhiên là một "đứa con" của triết học và triết học là "cái nôi" tồn tại của mọi ngành khoa học khác. 2 - Những vấn đề chung của triết học và khoa học tự nhiên. Triết học và khoa học tự nhiên song song tồn tại chúng bổ xung cho nhau, liên kết với nhau để cùng phát triển. Sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng là sự phát triển của triết học và triết học là nền tảng cho sự phát triển của khoa học tự nhiên. Như vậy, ta có thể cho rằng triết học và khoa học tự nhiên không thể tồn tại một cách độc lập vì chúng không thể tách rời và không thể tồn tại một cách độc lập được. Triết học và khoa học tự nhiên đều là những "công cụ" để giải thích thế giới khách quan làm cho con người có thể hiểu được bản chất của thế giới và có thể nắm vững được những quy luật vận động của nó. Kết luận Như ta đã biết khoa học tự nhiên chỉ có thể tồn tại và phát triển song song với triết học nên các khoa học tự nhiên khi nghiên cứu thế giới vật chất tất nhiên phải đề cập đến các vấn đề triết học như: kết cấu và nguồn gốc của vật chất,v.v. Vai trò của khoa học tự nhiên đã đi sâu hơn vào nhận thức luận triết học tự nhiên để luận chứng cho sự nhất trí giữa tri thức và đức tin, khoa học và thần học. Khoa học tự nhiên dựa vào triết học để giải thích thế giới lấy triết học làm nền tảng cho những phát minh khoa học - kỹ thuật. Triết học là chỗ dựa cho sự phát triển của khoa học tự nhiên. Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ăngghen đã vạch ra rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của khoa học. Nhận xét về sự phát triển của khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen viết: "Trút bỏ chủ nghĩa thần bí đi, phép biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối cho cái khoa học tự nhiên đã rời khỏi địa hạt trong đó chỉ cần có những phạm trù cố định - những phạm trù này có thể nói là đại biểu cho toán học sơ cấp của lôgíc, cho sự ứng dụng lôgíc ấy vào những việc hàng ngày trong nhà - cũng là đủ rồi". Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học nhày nay càng chững tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Sau khi viết song bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ở sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy Lê Nam Thắng, nhưng do lần đầu viết một bài tiểu luận nên không thể tránh được những thiếu sót sai lầm trong bài viết vậy mong thày sẽ chỉ bảo tận tình để em sẽ rút kinh nghiệm cho những bài viết sau này. Em xin chân thành cảm ơn. Mục lục Mở đầu 1 I - Các khái niệm cơ bản 2 1 - Khái niệm triết học 2 2 - Khái niệm khoa học tự nhiên 3 II - Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên 4 1 - Triết học và đối tượng của triết học 4 2 - Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan 6 3 - Tính thống nhất của thế giới 6 4 - Nguồn gốc tự nhiên và sự phát triển của khoa học tự nhiên 11 III - những đặc điểm giống khác nhau cơ bản giữa triết học và khoa học tự nhiên 12 1 - Những vấn đề riêng của triết học và khoa học tự nhiên 12 2 - Những vấn đề chung của triết học và khoa học tự nhiên. 13 Kết luận 14 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28320.doc
Tài liệu liên quan