Môi trường với sự phát triển kinh tế của quốc đảo Singapore và thực tiễn ở Việt Nam

Tài liệu Môi trường với sự phát triển kinh tế của quốc đảo Singapore và thực tiễn ở Việt Nam: LỜI NÓI ĐẦU ASEAN trong thời gian gần đây đã nổi lên như một trung tâm kinh tế, tài chính mới của thế giới với những “đầu tàu” về kinh tế như: Thái Lan, Malaixia, Singapore…Tuy nhiên, tốc độ phát triển không đồng đều ở một số nhóm nước trong nội bộ khu vực dẫn tới sự phân hóa về mức độ phát triển.Trong đó, Singapore luôn là quốc gia dẫn đầu về thu nhập đầu người trong khu vực. Đồng hành với sự chênh lệch về cơ sở vật chất – hạ tầng, tình trạng môi trường của mỗi một quốc gia trong khu vực cũng... Ebook Môi trường với sự phát triển kinh tế của quốc đảo Singapore và thực tiễn ở Việt Nam

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2498 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Môi trường với sự phát triển kinh tế của quốc đảo Singapore và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có sự phân hóa rõ nét. Những nước, quốc gia giàu có hơn có nhiều điều kiện để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và môi trường đồng bộ, cũng như việc tuyên truyền, quảng bá, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong dân chúng.Và theo chiều hướng đó, Singapore nổi lên với một hệ môi trường vào loại sạch, đẹp nhất trên thế giới. Với một môi trường “sạch” theo nhiều khía cạnh, Singapore trở thành một điểm đến lí tưởng cho đầu tư, tài chính, du lịch, trung chuyển quốc tế…đối với các doanh nhân nước ngoài khi họ có dự định đầu tư vào khu vực Đông Nam Á. Quay trở lại với sự phát triển kinh tế thì tới lượt mình, kinh tế phát triển cũng tạo tiền đề cho Singapore có đủ nội lực xây dựng và duy trì, gìn giữ một môi trường sống, môi trường đầu tư, du lịch…tốt hơn. Trong khi đó, Việt Nam với bước tăng trưởng đáng chú ý về lĩnh vực kinh tế của mình trong thời gian gần đây lại đang dần đánh mất sự cân bằng trong bảo vệ và gìn giữ hệ sinh thái, môi trường sống, đầu tư và du lịch…của mình. Sự mất cân đối đó trong hiện tại có thể chưa đem lại những “vết thương lớn” cho toàn bộ sự phát triển chung của đất nước. Nhưng dựa vào những mô hình phát triển của các quốc gia đi trước ta về kinh tế như Singapore thì hậu quả về lâu dài của một hệ thống môi trường kém chất lượng là một vấn đề nan giải và đáng báo động có thể gây ra những cản trở lớn và “những vết thương khó chữa” cho toàn bộ nền kinh tế nếu nhà chức trách của chúng ta không đưa ra được một kế hoạch phát triển dài hạn, mang tầm chiến lược có gắn với bảo vệ môi trường. Sự tác động qua lại mang tính biện chứng giữa môi trường và phát triển kinh tế ấy thôi thúc nhiều nhà khoa học vốn nổi danh trong lĩnh vực kinh tế mở ra một môn khoa học mới – kinh tế môi trường – và bước đầu đã có những thành tựu nghiên cứu, lí luận đáng kể. Riêng cá nhân người viết, trên cơ sở tìm tòi, tổng hợp và phân tích một số tài liệu có ý nghĩa khoa học về vấn đề môi trường với phát triển kinh tế của các học giả Việt Nam cũng như nước ngoài, xin đưa ra những kiến giải về tình hình trên tại Singapore và những điểm mấu chốt Việt Nam có thể học hỏi nhằm áp dụng cho sự “phát triển bền vững’ của chính mình. Trên cơ sở đó, luận văn có kết cấu gồm các phần cơ bản sau: Chương I. Những vấn đề lí luận cơ bản, cần thiết trong quá trình nghiên cứu Chương II. Môi trường với sự phát triển kinh tế của quốc đảo Singapore Chương III. Thực tiễn mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế tại Việt Nam Có thể nhận thấy, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tương đối rộng, bao gồm cả những vấn đề liên quan tới môi trường, kinh tế, xã hội và mối quan hệ qua lại, sự tác động lẫn nhau giữa chúng ở cả Việt Nam và Singapore. Do đó, người viết với vốn kiến thức còn hạn hẹp và tầm tư duy khái quát tổng hợp còn chưa được rèn rũa nhiều e rằng nhiều điểm còn trình bày chưa thoát ý hoặc chưa thấu đáo. Tất cả những hạn chế đó đều mong nhận được sự góp ý, phê bình thẳng thắn khách quan từ phía thầy cô, những nhà nghiên cứu lâu năm và những cá nhân quan tâm tới đề tài này. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN, CẦN THIẾT TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU I. MÔI TRƯỜNG 1. Các khái niệm về môi trường Môi trường là một hệ thống phức tạp có đặc tính mở, linh hoạt và tính tự điều chỉnh. Do đó, việc định nghĩa môi trường cũng có thể được nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau để bàn luận. Dưới đây, xin đưa ra một số định nghĩa có uy tín nhằm phân tích rõ các mặt chính yếu của vấn đề này: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia dựa trên quan điểm hệ thống, cho rằng: “Môi trường là một tổ hợp các yếu tố bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó”. ngày 13/09/2007 Trong đó, khái niệm về hệ thống là một khái niệm trừu tượng nhằm ám chỉ một thực thể hoàn chỉnh chứa đựng sự gắn bó, liên kết chung khiến ta có thể coi đó chỉ là một đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu ấy từ đó có thể là con người, động vật, thực vật, hay bất cứ thực thể nào có đặc điểm hệ thống như trên. Và những yếu tố bao quanh chúng tạo thành môi trường. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng năm 1997, tr.618 có đề cập : “Môi trường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội; trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy ”. Tại đây, có thể thấy thực thể, hay hệ thống bên trên được cụ thể hóa bằng khái niệm con người hay một sinh vật tồn tại, điều này chứng tỏ môi trường là những điều kiện bao quanh thực thể sống, và khái niệm môi trường chỉ thực sự đúng khi bên trong đó có sự tồn tại, sinh tồn và sự gắn bó khăng khít của những thực thể có hành động. Cũng theo tư tưởng đó, cuốn từ điển American Heritage Dictionary, Boston 1992, tr.616 định nghĩa có phần cụ thể hơn như sau: “Môi trường là sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ.” Trong khi đó, Điều 1 - Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Quan niệm này thêm một lần nữa nhắc lại sự gắn bó hữu cơ của hai yếu tố: tự nhiên và vật chất nhân tạo. Hai yếu tố cũng hỗ trợ bổ sung cho nhau khiến sự tác động ngược trở lại với thế giới của con người và sinh vật được luôn luôn điều chỉnh và hài hòa. Như vậy, qua việc xem xét các định nghĩa trên, môi trường và cụ thể hơn là môi trường sống của con người là tất cả các nhân tố tự nhiên, xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, và thậm chí cả các quan hệ xã hội…và được chia thành các loại môi trường cơ bản như: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo. 2. Vai trò của môi trường đối với con người Môi trường theo khái niệm đã phân tích ở trên rõ ràng có vai trò vô cùng to lớn với cuộc sống của con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, ba vai trò sau là những vai trò quan trọng nhất mà môi trường đem lại: Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người: Tài nguyên thiên nhiên chính là nền tảng cơ bản giúp hình thành nên cở sở vật chất của thế giới này. Những tài nguyên đó chính là nguồn của những nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ … mà con người phải sử dụng phục vụ cho nhu cầu hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp, nông-lâm nghiệp, dịch vụ của mình. Đồng thời với quá trình đó, những tài nguyên được chế tạo, biến đổi sao cho phù hợp với những nhu cầu sống, sinh hoạt của con người, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của từng cá nhân. Vì lí do đó, môi trường đang góp phần cung cấp nguồn dinh dưỡng cho sự tồn tại của toàn bộ loài người. Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và sản xuất của mình: Theo định luật bảo toàn của vật chất, không một ngành nghề nào, một nhu cầu sinh hoạt nào lại không mang tới những chất thải. Những chất thải đó lại không thể tìm nơi tích trữ nào ngoài Trái Đất mà đều phải đọng lại trong “cái nôi” môi trường. Chính môi trường giữ những chất thải đó và lại tiến hành một chu trình chuyển hóa những vật chất không sử dụng được thành những dạng vật chất có lợi hơn cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, khả năng tích trữ chất thải và tái chế tự nhiên lượng chất thải mà con người tạo ra của môi trường luôn là có hạn. Vì thế, con người với tư cách là chủ thể chung của sự sống có ý thức trên Trái Đất cần ý thức và chủ động sáng tạo đưa ra những phương pháp tích trữ chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải một cách có lợi nhất cho con người và nhằm giảm tải cho việc tiến hành chu trình đó của riêng hệ thống môi trường, và nhằm tránh những sự cố về môi trường đáng tiếc do lượng chất thải chưa được xử lí vượt quá khả năng tự điều chỉnh của môi trường xung quanh chúng ta. Môi trường là không gian sống, cung cấp các dịch vụ cảnh quan thiên nhiên: Không thể phủ nhận rằng ngoài việc môi trường cung cấp cho con người nguồn tài nguyên để sinh sống, hoạt động sản xuất nhằm suy trì sự tồn tại của giống loài, và môi trường tự nó đã góp phần che chở con người khỏi nhừng tác động có hại của quá trình tiêu dùng những nguồn tài nguyên đó, môi trường còn góp phần to lớn trong việc tạo ra một khoảng không gian riêng cho con người, nuôi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, sức khỏe và phục vụ cho nhu cầu giải trí, du lịch của con người với những cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo. Nhìn nhận về khía cạnh kinh tế, chính vai trò này mang lại sức hấp dẫn riêng của môi trường từng địa phương trên thế giới, tạo nên những bản sắc riêng có, những dấu ấn về cuộc sống, canh tác, lao động và những tộc người khác nhau với những nét văn hóa mà chỉ có những con người thuộc cùng tộc người mới có…Tất cả tạo nên một sức hút diệu kì cho ngành công nghiệp du dịch không khói và từ đó đẩy mạnh giao lưu quốc tế, quan hệ buôn bán hợp tác kinh doanh, và sự gắn kết vô hình giữa các dân tộc khác nhau trên thế giới. 3. Quan hệ giữa kinh tế và môi trường Kinh tế và môi trường từ khi xuất hiện đã có lịch sử gắn bó liên hệ mật thiết với nhau trong tiến trình tiến hóa của loài người. Đó là một mối quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên. Quan trọng nhất khi xem xét mối quan hệ này là việc đặt trọng tâm quan sát vào việc con người sử dụng hệ thống môi trường thế nào nhằm phục vụ cho các nhu cầu của mình. Quá trình sử dụng và khai thác nhằm phát triển đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa… đó của con người mang lại tác động đến sự cân bằng vốn có của hệ thống môi trường. Vấn đề đặt ra là việc khai thác nhằm mục đích kinh tế đó nếu sau khi lấy đi sản phẩm môi trường này thì có bù đắp gì lại cho hệ thống môi trường hay không? Và hệ thống môi trường “bị biến đổi” này mang tính tích cực hay tiêu cực trong tác động ngược lại với tiến trình phát triển kinh tế cũng như tiến hành các hoạt động cần thiết của con người bên trong nó. Đó phải chăng lại là một mối quan hệ biện chứng? Cũng theo cách nhìn nhận giữa hai cực kinh tế và môi trường có sự tương tác lẫn nhau liên tục nhằm tìm ra những hòa hợp bản chất đem đến những “điểm cân bằng” về cuộc sống, sản xuất của con người, trên thế giới xuất hiện hai luồng tư tưởng chủ đạo nhằm giải thích cho mối tương quan này: Quan điểm về mô hình kinh tế (mô hình kinh tế cổ điển, mô hình kinh tế hiện đại), và Quan điểm cân bằng về vật chất. Trong đó, quan điểm kinh tế cổ điển mang nặng tính bó hẹp, không triệt để của phương pháp nghiên cứu. Mô hình được đưa ra ở đây quan tâm tới tương tác giữa hai chủ thể chính là: hộ gia đình và hãng sản xuất. Với những giả sử: không có sự can thiệp từ phía Chính phủ, không có tiết kiệm và không có mậu dịch quốc tế, mô hình đã chỉ quan tâm tới mối quan hệ một chiều cung cấp tài nguyên cho nền kinh tế của môi trường còn sự tác động ngược lại của nền kinh tế sau khi tiêu dùng những tài nguyên đó lại chưa được bàn đến. Khác với điều đó, quan điểm kinh tế hiện đại lại bỏ qua những giả sử bất hợp lí và thêm vào quan điểm cổ điển sự tác động theo chiều còn lại của hệ kinh tế đến môi trường. Quan điểm khẳng định rằng hệ thống kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu có sự hỗ trợ của hệ thống về môi trường. Bất cứ sự thay đổi nào của thành phần hệ thống nào trong hai hệ thống đó cũng làm ảnh hưởng liên hoàn tới các mối quan hệ, và các thành phần của hệ thống khác. Song song với quan điểm mô hình, quan điểm về cân bằng vật chất lại mang tới cho ta cái nhìn theo phương diện bảo toàn vật chất trong Nhiệt động học. Quan điểm được biểu thị bởi phương trình đặc trưng: R = W = Wr + Wp + Wc Trong đó: R – Tổng lượng tài nguyên được khai thác W – Tổng lượng chất thải Wr – Các chất dư thừa trong khai thác tài nguyên thiên nhiên Wp – Các chất dư thừa trong quá trình sản xuất Wc – Các chất dư thừa trong quá trình tiêu dùng 4. Những trở ngại chủ yếu cho tình hình môi trường thế giới trong thời đại hiện nay Theo báo cáo về môi trường toàn cầu của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) năm 2000, gọi tắt là GEO-2000, hai xu hướng cơ bản về môi trường sau cần được lưu tâm: Thứ nhất, các hệ sinh thái và sinh thái nhân văn toàn cầu bị đe dọa bởi sự mất cân bằng sâu sắc trong năng suất và trong phân bố hàng hóa dịch vụ. Sự phân hóa giữa hai thái cực phồn thịnh và cùng cực đang đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống nhân văn và cùng với nó là môi trường toàn cầu. Thứ hai, sự hợp tác về quản lí môi trường ở quy mô thế giới bị tụt hậu so với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Hai xu hướng trên còn được làm rõ khi tiến hành xem xét các khía cạnh của những thách thức sau: 4.1 Khí hậu toàn cầu biến đổi và số lượng thiên tai ngày càng gia tăng Cuối những năm 1990, hàm lượng CO2 (Điôxit Cácbon) được loài người thải ra môi trường hàng năm cao gấp 4 lần những năm 1950, và hơn thế hàm lượng CO2 đã đạt tới mức cao nhất trong những năm trở lại đây. Việc này được các nhà khoa học đánh giá là một trong những tác nhân gây ảnh hưởng lớn và rõ rệt mà con người gây ra với môi trường sống của mình. Trong vòng 1 thế kỉ gần đây, Trái Đất đã nóng lên khoảng 0,50C và trong thế kỉ này sẽ có thể tăng thêm 1,50C đến 4,50C so với thế kỉ 20 Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972 – 1992 – 2002 , Cục Môi trường – NXB CTQG – 2002 . Trái Đất nóng lên góp phần gây ra những điều đáng lo ngại sau: - Mực nước biển có thể dâng cao 25-140cm, gây tan băng tại hai cực của Trái Đất khiến những mảnh đất ven biển nhằm phục vụ cho mục đích sinh hoạt, canh tác… của người dân bị mất đi. Điều này đặc biệt nghiêm trọng với những quốc gia đang phát triển, nơi mà bộ phận dân nghèo, đói còn nhiều. - Việc khí hậu và thời tiết có những biến đổi sẽ có nguy cơ dẫn đến những sự cố về môi trường như: gió, bão, hỏa hoạn, lũ lụt… không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người mà còn có thể mang tới những hậu quả nghiêm trọng về môi trường khó có thể khắc phục ngay. Có thể thấy rõ điều này qua việc sự cố cháy rừng tại các nước Đông Nam Á, ngoài việc các quốc gia này phải bỏ một khoản tiền không nhỏ để khắc phục sự cố đó, vấn đề đa dạng sinh học cũng bị đe dọa. Do đó, việc sử dụng không có kế hoạch nguồn tài nguyên thiên nhiên như than đá, dầu mỏ, khí đốt cho việc phát triển công nghiệp và đời sống sinh hoạt, việc khai thác không ngừng nghỉ nguồn nước, rừng và đất làm giảm khả năng điều hòa khí hậu của Trái Đất, việc làm mất cân bằng toàn hệ sinh thái … là những việc hiện tại cần được xem xét và hạn chế đến mức có thể của loài người. 4.2 Sự suy giảm tầng ôzôn (03) Tầng O3 (Ôzôn) có vai trò quan trọng trong việc chặn và bảo vệ con người, cũng như các loài sinh vật khác khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với những tia cực tím, những tia bức xạ gây tác động có hại, và phá hủy kết cấu căn bản nội tại sinh vật sống. Cụ thể, tia cực tím có hại với mắt (gây đục thủy tinh thể, phá hỏng võng mạc), gây ung thư da, và là nguyên nhân của những bệnh liên quan tới đường hô hấp, gây suy giảm hệ miễn dịch… ở con người và các loài sinh vật khác. Các chất làm suy giảm tầng O3 như: CFC (Cloruaflorocacbon), CH4 (Mêtan), NO2…có khả năng kết hợp với O3 để biến đổi thành O2 (Ôxy). Các chất này có mặt trong tầng bình lưu vào mức cao kỉ lục trong năm 1994. Tuy nhiên, Nghị định thư Montreal cũng đã đưa ra dự đoán tầng O3 sẽ được hồi phục mức của những năm 1980 vào năm 2050. 4.3 Tài nguyên thiên nhiên suy thoái, có nguy cơ cạn kiệt Rừng, đất rừng, và đồng cỏ hiện nay vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá trên quy mô lớn, diện tích đất hoang bị sa mạc hóa ngày càng tăng. Theo tổ chức Lương thực Thực phẩm thế giới (FAO), trong vòng khoảng 20 năm tới, diện tích đất bị mất đi giá trị cho ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn thế giới là 140 triệu ha (tương ứng với diện tích bang Alaska – Hoa Kì). Bên cạnh đó, sự phá huỷ rừng vẫn đang diễn ra với mức độ nghiêm trọng. Bằng chứng là trước đây diện tích rừng trên thế giới có tới 40 triệu km2, nhưng tới nay diện tích này đã giảm đi một nửa, trong đó rừng ôn đới chiếm khoảng 1/3 còn rừng nhiệt đới chiếm 2/3. Sự phá hủy rừng thường xảy ra mạnh ở những quốc gia đang phát triển nhằm khai thác gỗ, củi, lấy đất làm nông nghiệp…Còn ở những quốc gia phát triển, diện tích rừng tuy rất nhỏ nhưng chất lượng các khu rừng ở đây lại đang bị đe dọa bởi nhiều sức ép của tình trạng gia tăng dân số, mưa axit, nhu cầu khai thác gỗ và cháy rừng. Sự gia tăng dân số nhanh cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, thâm canh nông nghiệp, và các thói quen tiêu thụ nước quá mức đang gây ra sự khủng hoảng nước trên phạm vi toàn cầu. Sự thiếu nước ngọt ngày càng gây ra những vấn đề nghiêm trọng, đó là nạn thiếu nước ở nhiều nơi đối với các khu vực ven biển, cùng sự xâm nhập mặn. Ô nhiễm nước uống phổ biến ở các siêu thị, ô nhiễm nitrat và sự tăng khối lượng các kim loại nặng gây tác động đến chất lượng nước ở hầu như khắp mọi nới. Nguồn cung cấp nước sạch trên thế giới không thể tăng thêm nên ngày càng có nhiều người phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố định này và ngày càng có nhiều người chịu ảnh hưởng của ô nhiễm hơn. 4.4 Ô nhiễm môi trường ở quy mô rộng lớn Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ những loại chất thải vào đất, biển, và các thủy vực đã và đang gây ra sự ô nhiễm môi trường với quy mô ngày càng rộng lớn, đặc biệt nghiêm trọng ở những khu vực đô thị …nơi tập trung dân cư và nhiều loại hình hoạt động sản xuất. Khoảng 30 – 60% dân số đô thị ở các nước có thu nhập thấp vẫn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Đầu thế kỉ 20, dân số thế giới chủ yếu sống ở các vùng nông thôn, số người sống ở các đô thị chỉ chiếm 1/7 dân số thế giới. Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ 20, dân số ở các đô thị tăng lên và chiếm tới 1/2 dân số thế giới. Chính việc dân số đô thị tăng nhanh cùng sự mở rộng không ngừng diện tích đô thị trên thế giới này đã phần nào đưa ô nhiễm môi trường lan rộng hơn. 4.5 Sự gia tăng dân số tại các Châu lục có nền kinh tế đang phát triển Đầu thế kỉ 19, dân số thế giới mới chỉ có vẻn vẹn 1 tỷ người nhưng đến năm 1927 đã tăng lên 2 tỷ người, năm 1960 là 3 tỷ, năm 1974 là 4 tỷ, năm 1987 là 5 tỷ và năm 1999 là 6 tỷ người. Thời gian để dân số thế giới tăng cùng một lượng tỷ người như trên cho thấy đang dần nhỏ đi, điều này chứng tỏ tốc độ tăng dân số thế giới ngày càng tăng. Trung bình mỗi năm dân số thế giới tăng lên khoảng 78 triệu người Theo số liệu Quỹ Dân số LHQ (UNFPA) . Theo dự tính của các nhà khoa học, dân số thế giới sẽ tiến tới mức 7 – 7,5 tỷ người, năm 2025 sẽ là 8 tỷ người. Trong đó, có tới 95% số dân tăng thêm là ở những quốc gia đang phát triển, gây ra sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu của lượng dân ngày càng tăng. Điều này dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn xã hội, môi trường sinh thái mà các nước này sẽ phải đối mặt. Nhận thức được điều đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành công tác kế hoạch hóa gia đình nhằm hạn chế tỷ lệ sinh đẻ phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế của mình. Cũng theo dự tính, sau năm 2050, dân số thế giới sẽ ngừng tăng và duy trì ở mức ổn định là 10,3 tỷ người. Tuy nhiên, để những dự đoán có cơ sở hiện thực, giữa các quốc gia trên thế giới cần có một mối liên kết đồng bộ trong công tác kế hoạch hóa gia đình nhằm hướng xu hướng dân số tại quốc gia mình đi theo định hướng chung của thế giới, nhất là đối với những quốc gia đang phát triển. 4.6 Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên Trái Đất Các loài động thực vật qua quá trình tiến hóa lâu dài tới hàng triệu năm đã góp phần tạo nên cho Trái Đất một hệ thống Đa dạng sinh học giúp cân bằng sự sống, ổn định khí hậu, làm sạch các nguồn nước, hạn chế xói mòn và làm tăng độ phì nhiêu của đất. Đa dạng sinh học cũng là nguồn cung cấp nguyên vật liệu quý giá cho các ngành kinh tế, công nghệp, dược phẩm, du lịch … và là nguồn thực phẩm duy trì sự sống còn của loài người, đồng thời là cơ sở gen nguồn cho việc phát triển những giống loài động thực vật mới. Đa dạng sinh học được chia thành 3 dạng chính: đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái. Một điều đáng buồn là hiện nay nhân loại đang đối mặt với thời kì diễn ra sự tuyệt chủng lớn các loài động thực vật, làm giảm sự đa dạng sinh học vốn có trên Trái Đất. Theo tính toán, trên thế giới đang có tới 492 chủng quần thực vật có tính chất di truyền độc đáo đang bị đe dọa tuyệt chủng. Sự đe dọa này không chỉ diễn ra với những loại động thực vật hoang dại mà còn gắn với những cuộc cách mạng về nông nghiệp và công nghiệp trên thế giới khiến các giống loài nuôi trồng ở riêng các địa phương cũng biến mất. Có thể hình dung điều này qua việc có 474 giống vật nuôi trên toàn cầu được coi là quý hiếm cần bảo vệ và trước đó đã có 617 giống vật nuôi đã hoàn toàn không có mặt trên Trái Đất. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là: Mất nơi sinh sống của các loài do phá rừng và hoạt động phát triển kinh tế Săn bắt quá mức để buôn bán Ô nhiễm đất, nước, và không khí Việc du nhập của nhiều loài ngoại lai Do đó, vấn đề được đặt ra cho tình hình trên là sự cần thiết bảo vệ môi trường theo nhiều cấp độ, từ cá nhân, đoàn thể tổ chức, cộng đồng, địa phương, đến cấp độ quốc gia và quốc tế. II. PHÁT TRIỂN 1.Khái niệm về phát triển Phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, bao gồm: nâng cao mức sống, cải thiện giáo dục, sức khỏe, sự bình đẳng về cơ hội, đảm bảo các quyền chính trị và công dân. Phát triển là xu hướng tự nhiên, đồng thời là quyền của mỗi cá nhân, cộng đồng, hay quốc gia. Phát triển là tạo điều kiện cho con người sống ở bất kì đâu được thỏa mãn các nhu cầu sống mà không phải lao động quá sức, có điều kiện phát huy và tích lũy năng lực, kiến thức, hưởng thụ các thành tựu chung về văn hóa tinh thần và được hưởng những quyền sống cơ bản của con người, và được bảo đảm về an ninh, an toàn để sinh sống một cách thoải mái nhất trong khuôn khổ quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Trước những năm 70 của thế kỉ 20, quan điểm về phát triển chỉ dừng lại ở việc đánh giá việc tăng tổng sản phẩm sản xuất ra trên một lãnh thổ, quốc gia. Với tầm nhìn này, phát triển xoay quanh trục chính là phát triển kinh tế. Người ta quan tâm tới việc làm thế nào để nhân loại có nhiều của cải hơn, và theo họ việc đó chứng tỏ sự giàu sang, sung túc và sự tiến bộ trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, quan điểm này ngay sau đó đã cho thấy những mặt hạn chế, siêu hình, phiến diện khi trên thế giới cùng lúc nạn nghèo đói, sự ô nhiễm môi trường, khủng hoảng năng lượng vẫn tiếp tục diễn ra không ngừng. Điều này đòi hỏi con người thay đổi quan điểm về phát triển của mình, để tâm hơn tới cực về môi trường, tức quan tâm tới chất lượng cuộc sống thực tế chứ không chỉ dừng lại ở con số đo sự sung túc của của cải xã hội. Phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế Phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng và chủ yếu của tiến trình phát triển nói chung, tuy nhiên nó không thể nằm ngoài các mục đích tự thân của con người và phải được tiến hành nhằm phục vụ cho sự phát triển chung đó. Bất kì xã hội nào cũng hướng tới mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, có nhiều quan niệm nhằm đánh đồng hoặc phân định thiếu rạch ròi giữa hai khái niệm dẫn đến sự mất phương hướng rõ ràng trong đánh giá cũng như lượng hóa tiến độ phát triển. Do đó, cần phân biệt giữa hai khái niện này. Tăng trưởng kinh tế theo ý nghĩa thường hiểu là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm). Để biểu thị mức tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng lên của GNP hay GDP. Mức tăng đó thường được tính trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình quân theo đầu người của thời kì sau so với thời kì trước đó (tuyệt đối, hay tương đối). Theo đó, tăng trưởng kinh tế mới chỉ giới hạn trong khuôn khổ làm tăng thêm sản lượng bằng cách mở rộng quy mô chứ chưa hề đề cập tới mối quan hệ của nó với những vấn đề về xã hội. Bên cạnh đó, mục đích của mỗi quốc gia là tạo nên sự tiến bộ toàn diện, sự tiến bộ trong một giai đoạn nhất định được xem xét trên hai phương diện: sự gia tăng về kinh tế (tăng trưởng kinh tế) và sự tiến bộ về xã hội. Từ đó, thuật ngữ phát triển kinh tế xuất hiện với ý nghĩa là quá trình thăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kì, bao gồm sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn. Tóm lại, tăng trưởng kinh tế dù rất quan trọng nhưng chưa phải là phát triển kinh tế, mà nó chỉ là một điều kiện cần cho sự phát triển, và điều kiện đủ là cần phải có sự kết hợp với tính cân đối, hiệu quả, mục tiêu kinh tế, tức có gắn liền mặt chất với mặt lượng mà trong đó tăng trưởng kinh tế chỉ là mặt lượng. Đó cũng chính là một trong những nội dung của phát triển bền vững mà chúng ta sẽ cùng xem xét ngay sau đây. 3. Phát triển bền vững Khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên được công bố trong một bài báo có nhan đề “Tương lai chung cho chúng ta” của tác giả Gro Harlem Brundland, một nhà môi trường người Nauy làm việc trong Ủy ban quốc tế về môi trường và phát triển (WCED). Theo bà Brundland, phát triển bền vững được hiểu là “kiểu phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại, vừa không ảnh hưởng đến khả năng mà các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của mình”. Frances Cairneross – Lượng giá Trái Đất, cơ hội với Nhà nước, đối với doanh nghiệp – Cục môi trường - Hà Nội 2000 – tr.39 Thực chất phát triển bền vững là sự kết hợp giữa phát triển ba yếu tố cơ bản là kinh tế, xã hội và môi trường hay nói cách khác là yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là quyền phát triển gắn liền với sự cần thiết phải chăm sóc môi trường. Nhờ vào đó, khái niệm phát triển bền vững còn có thể được mở rộng thành “một sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của cá nhân khác, sự phát triển của cá nhân không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng, sự phát triển của cộng đồng người này không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng người khác, sự phát triển của thế hệ hôm nay không xâm hại đến lợi ích của các thế hệ mai sau và sự phát triển của loài người không đe dọa sự sống còn hoặc làm suy giảm nơi sinh sống của các loài khác trên hành tinh.” Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường- ĐH KTQD – NXB Thống Kê 2003, tr.73 4. Vai trò của môi trường trong phát triển bền vững Phát triển bền vừng là phạm trù được hình thành do nhu cầu của việc bảo vệ môi trường. Mặc dù chưa có định nghĩa toàn diện và thống nhất về phát triển bền vững song về thực chất đó là mối liên kết không thể tách rời giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Mối liên kết này được đề cập lần đầu tiên trong báo cáo Brundtland. Báo cáo này nhấn mạnh: “Môi trường sinh thái và nền kinh tế ngày càng trở nên hoà quyện lẫn nhau xét cả ở cấp độ vùng, khu vực, quốc gia lẫn quốc tế”. Mối liên kết này cũng được khẳng định trong nguyên tắc thứ 13 của Tuyên bố Stockholm: nhằm đạt được việc quản lý tài nguyên hợp lý và tiến đến cải thiện môi trường, các nước cần phải chấp nhận cách tiếp cận tổng hợp và phối hợp trong quy hoạch phát triển nhằm bảo đảm phát triển tương hợp với nhu cầu bảo vệ và cải thiện môi trường vì lợi ích của nhân dân các nước. Trong Tuyên bố Rio de Janeiro, khái niệm phát triển bền vững được đề cập rõ nét và toàn diện hơn. Nguyên tắc thứ 4 của Tuyên bố này nêu rõ: “Để thực hiện được sự phát triển bền vững, sự bảo vệ môi trường nhất thiết sẽ là bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và không thể xem xét tách rời quá trình đó”. Phát triển bền vững được hiểu dưới nhiều khía cạnh và theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn, trong những nghiên cứu của Brundtland, phát triển bền vững phải thoả mãn các yếu tố sau: Sự xóa bỏ nghèo đói và bóc lột; sự giữ gìn và tăng cường các nguồn tài nguyên mà chỉ với chúng mới có thể đảm bảo việc xoá nghèo được liên tục; phải bao gồm sự tăng trưởng cả kinh tế lẫn văn hóa xã hội; và sự thống nhất giữa môi trường sinh thái vài kinh tế trong hoạch định chính sách. Chính phủ Canada tiếp cận phát triển bền vững theo ba tiêu chí mang tính định mục tiêu: Mục tiêu kinh tế là phải tạo ra được sản xuất hàng hoá và dịch vụ với nguyên tắc chi phối là hiệu quả; mục tiêu môi trường là gìn giữ và quản lý tốt các nguồn tài nguyên thiên nhiên với nguyên tắc chi phối là bảo vệ đa dạng sinh học và tính thống nhất của sinh thái; mục tiêu xã hội là gìn giữ và nâng cao chất lượng cuộc sống với nguyên tắc chi phối là công bằng. Nhà nước Việt Nam có quan điểm thống nhất về phát triển bền vững là “phát triển đáp ứng được nếu cần của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kêt hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Khoản 4 Điều 1 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 Phát triển bền vững có những đòi hỏi riêng của nó về mặt tài chính, về mặt định chế và pháp luật. Tuỳ theo phạm vi, quốc gia hay quốc tế, phát triển bền vững sẽ đặt ra những đòi hỏi khác nhau trên các bình diện kể trên. Tuy có sự khác biệt trong các cách tiếp cận khái niệm phát triển bền vững nhưng những tiêu chí: sự phát triển kinh tế, sự bảo vệ môi trường, và sự thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người là không thể thiếu khi nhìn vấn đề ở khía cạnh tổng thể. III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC NHỮNG TIÊU CHUẨN, QUY TẮC VỀ MÔI TRƯỜNG QUAN TRỌNG: Nghị định thư Kyoto Nghị định thư Kyoto được 159 quốc gia ký năm 1997 tại Kyôtô (Nhật Bản) với mục tiêu giảm lượng khí thải điôxít cácbon (CO2) và các chất khí gây hiệu ứng nhà kính, làm khí hậu Trái Đất nóng lên. Nghị định thư quy định, trong giai đoạn đầu có hiệu lực, từ năm 2008 đến năm 2012, Nga cũng như các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm lượng khí thải CO2 xuống mức 5,2% như năm 1990 bằng việc giảm sử dụng than, dầu và khí thiên nhiên, chuyển sang sử dụng năng lượng sạch như năng lượng mặt trời và sức gió. Thời kỳ sau năm 2012, mọi trách nhiệm giữa các nước sẽ đư._.ợc quy định trong quá trình đàm phán được bắt đầu vào năm 2005. Tuy nhiên, để có hiệu lực, Nghị định thư Kyoto cần phải được tối thiểu 55 nước chịu trách nhiệm về 55% lượng khí thải toàn cầu, chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển, phê chuẩn nhưng cho đến thời điểm ngày 30/9/2004 khi chính phủ Nga thông qua dự luật ''Phê chuẩn Nghị định thư Kyoto trong khuôn khổ Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu", các nước đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto mới chỉ chịu trách nhiệm 44,2% lượng khí thải toàn cầu. Việt Nam đã tham gia ký kết Nghị định thư Kyoto vào ngày 25/9/2002. Đến tháng 12/2004, Việt Nam đã hoàn thành việc hướng dẫn việc triển khai Cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism - CDM). Trong khuôn khổ chương trình CDM, nếu VN giảm được một lượng phát thải khí nhà kính thì sẽ được cấp giấy chứng nhận, gọi là Giảm phát thải được xác nhận (The Certified Emissions Reductions - CERs). CERs có thể dùng để bán như một thứ hàng hoá mới có giá trị và sẽ được bán cho các quốc gia, các tổ chức nước ngoài có nhu cầu giảm phát thải khí nhà kính. Việc buôn bán CERs trong các dự án dựa trên cơ sở giảm phát thải theo cam kết của Nghị Định thư Kyoto đã tăng lên nhanh chóng trong những năm vừa qua. Hiện nay, các tổ chức cũng như các nước có nhu cầu mua CERs lớn nhất là Ngân hàng Thế giới, các công ty của Nhật Bản, Hà Lan. Ngoài ra còn có một số nước Châu Âu cũng đang trong quá trình xúc tiến các chương trình CDM trong những năm 2003-2004. Đây cũng là một trong những thị trường có nhu cầu lớn về CERs. Kinh doanh buôn bán các sản phẩm CERs là hình thức hoàn toàn mới trên thị trường. Hiện nay, giá của CERs trên thị trường vào khoảng 4-6 USD/tấn CO2 tương đương. Energy and Environment – Richard Loulou – Springer Science + Business Media, Inc – 2005 Hiện nay, Việt Nam có tiềm năng về CDM với 10 dự án CDM đăng ký. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có 1 dự án CDM đầu tiên trên thế giới được thực hiện ở Brazil vào đầu tháng 12/2004. ISO 14000 - Hệ thống quản lí môi trường EMS Đây là bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lí môi trường do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) công bố. Các tiêu chuẩn của bộ ISO 14000 đưa ra những yếu tố cơ bản của một hệ thống quản lí môi trường (EMS - Environmental Management System) hữu hiệu. Những yếu tố này bao gồm việc xây dựng một chính sách về môi trường, xác định các mục đích và mục tiêu, thực hiện một chương trình để đạt được những mục tiêu đó, giám sát và đánh giá tính hiệu quả của nó, điều chỉnh các vấn đề và kiểm tra hệ thống để cải thiện nó và cải thiện tác động chung đối với môi trường. Uỷ ban Kĩ thuật TC 207 của ISO được thành lập và bắt đầu hoạt động từ 1993 để xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho các hệ quản lí môi trường. Công việc của TC 207 bao gồm những tiêu chuẩn trong lĩnh vực đánh giá các tổ chức [các hệ thống quản lí môi trường (EMS); thẩm định môi trường (EA - Environmental Auditing); đánh giá tác động đối với môi trường (EPE - Environmental Performance Evaluation)] cũng như trong lĩnh vực sản phẩm và quá trình [ghi nhãn môi trường (EL - Environmental Labeling); đánh giá chu trình chuyển hoá (LCA - Life Cycle Assessment); các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn sản phẩm (EAPS - Environmental Aspects in Product Standards)]. Những tiêu chuẩn đầu tiên đã được chấp nhận là: ISO 14001 - "Hệ thống quản lí môi trường. Quy định và hướng dẫn sử dụng"; ISO 14004 - "Hệ thống quản lí môi trường. Hướng dẫn chung về nguyên tắc, hệ thống và các kĩ thuật hỗ trợ"; ISO 14010 - "Hướng dẫn đánh giá môi trường. Các nguyên tắc chung"; ISO 14011 - "Hướng dẫn đánh giá môi trường. Quy trình đánh giá. Đánh giá hệ thống quản lí môi trường"; ISO 14012 - "Hướng dẫn đánh giá môi trường. Tiêu chuẩn năng lực đối với các đánh giá trên về môi trường". Chỉ thị hiệu quả hoạt động môi trường EPI Chỉ thị hiệu quả hoạt động môi trường (EPI) được sử dụng để miêu tả các thông tin về môi trường trong công ty một cách tổng quát và ngắn gọn. Các chỉ thị này có thể chỉ ra mối liên quan giữa nguyên vật liệu và năng lượng với các biến khác nhằm tăng giá trị thông tin của các số liệu định lượng. Hệ thống chỉ thị hiệu quả hoạt động môi trường sẽ hỗ trợ công ty xem xét và phân tích chi tiết các quá trình sản xuất, xác định ra những khu vực có vấn đề, đưa ra những tiềm năng cải tiến, từ đó dẫn đến việc giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho công ty. Chỉ thị hiệu quả hoạt động môi trường bao gồm 3 loại chính: Chỉ thị hiệu quả hoạt động quản lý (MPI) Chỉ thị hiệu quả hoạt động quản lý (MPI) cung cấp những thông tin về những nỗ lực quản lý của tổ chức có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động môi trường của tổ chức. MPI liên quan đến chính sách, con người, thủ tục, những quyết định và hành động tại các cấp của tổ chức. Một số ví dụ về MPI có thể kể đến ở đây như số lượng các mục tiêu và chỉ tiêu đạt được; mức độ phù hợp với yêu cầu pháp luật; số lượng các trường hợp vi phạm pháp luật; số lượng các đề xuất/phòng ngừa ô nhiễm được thực hiện; ... Chỉ thị hiệu quả hoạt động sản xuất (OPI) OPI cung cấp những thông tin về hiệu quả hoạt động môi trường của tổ chức. OPI liên quan đến việc thiết kế hoạt động và bảo dưỡng thiết bị; nguyên vật liệu, năng lượng, sản phẩm, dịch vụ, chất thải và khí thải liên quan đến thiết bị và máy móc. Một số ví dụ về OPI bao gồm số lượng nguyên vật liệu sử dụng trên một đơn vị sản phẩm; năng lượng sử dụng trên một đơn vị sản phẩm; khí thải, nước thải tạo ra trên một đơn vị sản phẩm,... Chỉ thị điều kiện môi trường (ECI) Các chỉ thị cung cấp các thông tin về điều kiện môi trường toàn cầu, quốc gia, khu vực hay vùng liên quan đến các hoạt động của công ty. Một số ví dụ về ECI có thể kể đến ở đây như nồng độ sulfur dioxide trong không khí tại các vị trí đặc biệt gần công ty, mùi đo được tại một số khoảng cách nhất định từ công ty,… Chỉ số chuẩn ô nhiễm (PSI) Ô nhiễm không khí được đánh giá bằng chỉ số chuẩn ô nhiễm (PSI), theo ngưỡng an toàn và nguy hiểm đối với sức khoẻ của người. PSI là một chỉ số thu được khi tính tới nhiều chỉ số ô nhiễm, ví dụ tổng các hạt lơ lửng, SO2,CO, O3, NO2 …được tính theo mg/m3/giờ hoặc trong 1 ngày. Nếu PSI từ 0-49 là không khí có chất lượng tốt. Nếu PSI từ 50-100 là trung bình, không ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người. Nếu PSI từ 100-199 là không tốt. Nếu PSI từ 200-299 là rất không tốt. Nếu PSI từ 300-399 là nguy hiểm, làm phát sinh một số bệnh. Nếu PSI trên 400 là rất nguy hiểm, có thể gây chết người. Dựa vào chỉ số PSI mà những người có độ tuổi và sức khoẻ khác nhau sẽ được thông báo trước và giảm các hoạt động ngoài trời. Chương II MÔI TRƯỜNG VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI QUỐC ĐẢO SINGAPORE I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE Singapore là quốc gia hồi tưởng về quá khứ để hướng tới tương lai. Tài liệu về Singapore sớm nhất là tài liệu của Trung Quốc từ thế kỷ thứ 3, trong đó Singapore được miêu tả là “Pu-luo-chung” (“hòn đảo nằm cuối bán đảo”). Đất nước Singapore không chỉ nằm trên một hòn đảo mà nó còn được bao quanh bởi 63 đảo nhỏ khác. Tổng diện tích của hòn đảo chính là 682 km2. Tuy vậy, diện tích nhỏ bé của quốc gia này không hề ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của nó. Chỉ trong vòng 150 năm, Singapore đã vươn lên thành trung tâm thương mại và công nghiệp. Vai trò là một kho hàng đã không còn khi chính phủ tăng cường cơ sở sản xuất. Singapore là bến cảng đông đúc nhất thế giới với trên 600 cầu cảng có khả năng đáp ứng được những tàu có trọng tải cực lớn, đến tàu chở côngtenơ, tàu chở khách, tàu đánh cá và xà lan. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu Châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở Châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân) Theo . Quốc gia này cũng đã trở thành một trong những trung tâm tài chính quan trọng của Châu Á với trên 130 ngân hàng. Mạng thông tin liên lạc tiên tiến liên kết với mọi quốc gia trên thế giới thông qua vệ tinh, hệ thống điện tín và điện thoại 24/24 hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh. Ví trí chiến lược, cơ sở hạ tầng hiện đại, nền văn hoá đa dạng, và các điểm du lịch cuốn hút là những yếu tố góp phần biến Singapore trở thành điểm đến lý tưởng để kinh doanh và giải trí. Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Hỡnh 1. Bản đồ định vị đất nước Singapore trờn thế giới Hỡnh 2. Bản đồ đất nước Singapore NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÍ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN LIỀN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI SINGAPORE Singapore được mệnh danh là “thành phố cây xanh”, “thành phố sạch nhất thế giới”. Có được điều đó là do Chính phủ Singapore đã coi nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ Singapore đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ, trong đó có các biện pháp pháp lý. 1. Sơ lược về các đạo luật quản lí môi trường: Nhằm bảo đảm cho việc kiểm soát và bảo vệ môi trường ở Singapore, một loạt các văn bản liên quan đến pháp luật về môi trường được ban hành: 1.1 Đạo luật về môi trường và sức khoẻ cộng đồng Đạo luật này bao hàm các vấn đề về tiếng ồn, vệ sinh công cộng, chất thải rắn, chất thải độc hại và việc kiểm soát kinh doanh thực phẩm, chôn cất, hoả táng cũng như quản lý các bể bơi. Để thi hành Đạo luật này có 14 văn bản hướng dẫn thi hành. 1.2 Đạo luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm môi trường và các hoạt động có mục đích liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm môi trường. 1.3 Đạo luật về hệ thống cống tiêu thoát nước Đạo luật này được ban hành nhằm điều chỉnh việc xây dựng, duy trì và cải tạo nâng cấp các hệ thống cống rãnh và hệ thống tiêu thoát nước dưới mặt đất điều chỉnh việc xử lý nước thải thương mại cũng như các vấn đề liên quan đến các hoạt động này. Không một nhà máy nào ở Singapore được thải trực tiếp nước thải ra hệ thống thoát nước công cộng. Họ chỉ được phép khi có giấy phép của Bộ Môi trường và phải đáp ứng một số yêu cầu như: chất thải xả ra hệ thống thoát nước công cộng phải được làm sạch và đảm bảo độ an toàn nhất định. 1.4 Đạo luật về xuất nhập khẩu, quá cảnh chất thải nguy hiểm Đạo luật này điều chỉnh việc xuất nhập khẩu và quá cảnh chất thải nguy hiểm và các chất khí thải khác. 2. Các biện pháp xử lí, cưỡng chế thực hiện Để đảm bảo cho các đạo luật có hiệu lực thi hành trên thực tế, thì các biện pháp cưỡng chế là không thể thiếu, do đó pháp luật về môi trường của Singapore cũng đã đặt ra các biện pháp cưỡng chế khác nhau cho các mức vi phạm pháp luật về môi trường như: 2.1 Biện pháp xử lý hình sự Pháp luật môi trường Singapore lấy chế tài hình sự là công cụ cơ bản để thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế), bao gồm: 2.1.1 Hình phạt tiền: Đây là hình phạt phổ biến nhất trong các đạo luật về môi trường của Singapore, phạt tiền được xem là công cụ hữu hiệu trong việc tăng cường hiệu lực pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore. Chánh án của Singapore trong vụ Chadrakumar - một vụ về đổ rác nơi công cộng vi phạm đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng đã tuyên bố: “... Việc áp dụng rộng rãi hình phạt tiền sẽ làm tăng hiệu quả trong việc trừng trị kẻ vi phạm và phòng ngừa các hành vi tương tự, phạt tiền có độ chính xác cao, tỉ mỉ cao, để thay đổi và vì thế càng trở nên có hiệu quả”. Theo các đạo luật ở Singapore thì có nhiều mức độ vi phạt tiền khác nhau, tuỳ thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của hành vi gây ra. Ví dụ trường hợp đổ rác nơi công cộng, nếu bị Toà án kết tội thì người vi phạm sẽ bị phạt đến 10.000 SGD 1SGD = 11.170VND, tỷ giá ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 3/11/2007 với vi phạm lần đầu và nếu tái phạm sẽ bị phạt tới 20.000 SGD. Ngoài ra, các đạo luật về môi trường của Singapore cũng quy định phạt tiền một cách rất linh hoạt đối với các vi phạm ít nghiêm trọng, đó là việc cho phép người vi phạm trả một khoản tiền thích hợp cho Bộ Môi trường Singapore và vụ việc sẽ tự kết thúc mà không phải đưa ra Toà. 2.1.2 Hình phạt tù Đây là chế tài nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những người vi phạm ngoan cố, khi mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt tiền vẫn không ngăn chặn được các hành vi mà người đó gây ra. Ví dụ: theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12 tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng. 2.1.3 Tạm giữ và tịch thu Một số luật về môi trường quy định về việc tạm giữ và tịch thu các công cụ, phương tiện được sử dụng vào việc phạm tội. Ngoài ra, nếu trường hợp thực phẩm không phù hợp cho con người có thể bị tịch thu và tiêu huỷ theo Đạo luật về môi trường và sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật về mua bán thực phẩm. 2.1.4 Lao động cải tạo bắt buộc Lao động cải tạo bắt buộc là biện pháp mà qua thực tiễn thực thi pháp luật về môi trường ở Singapore cho thấy đây là một biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn các vi phạm nhỏ, những người vi phạm đã bị áp dụng hình phạt lao động cải tạo bắt buộc ít khi lặp lại hành vi đã vi phạm, đặc biệt rất ít người tái phạm. Cụ thể tại Mục 21A quy định: “Người nào từ 16 tuổi trở lên bị kết án vì vi phạm một trong các quy định tại mục 18 hoặc 20, và nếu trước khi anh ta bị kết tội, toà án thấy rằng để cải tạo người vi phạm và để bảo vệ môi trường cũng như sức khoẻ cộng đồng liên quan đến môi trường, người vi phạm cần phải thực hiện công việc liên quan đến vệ sinh làm sạch các vị trí nhất định mà không được trả thù lao thì thay cho các quyết định hoặc hình phạt khác và trừ khi có những lý do đặc biệt. Toà án sẽ ra quyết định bắt buộc lao động cải tạo đối với người vi phạm buộc họ phải thực hiện công việc nói trên dưới sự giám sát của các nhân viên giám sát, phù hợp với các quy định của mục này và mục 21B”. Toà có thể bắt lao động công ích tối đa trong 3 tiếng tại bất cứ nơi nào Bộ Môi trường thấy cần phải làm (những nơi đường phố đông người như cửa hàng, nơi công cộng). Mục đích của hình phạt này là để người vi phạm tự thấy ngượng trước hành vi của mình. Họ phải mặc chiếc áo màu vàng có ghi dòng chữ "Người lao động cải tạo". Biện pháp này tỏ ra rất hiệu quả ở Singapore. Bên cạnh các quy định cụ thể nêu trên, pháp luật về môi trường của Singapore cũng xác định trách nhiệm tuyệt đối với việc phạm tội mà có thể là nguyên nhân gây hại đối với môi trường hoặc sức khoẻ của cộng đồng nói chung, trong một số trường hợp toà án có thể phán quyết về hành vi phạm tội đã được thực hiện không cần công tố phải chứng minh bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi đó. 2.2 Biện pháp hành chính Tuy pháp luật Singapore xem chế tài hình sự là quan trọng nhất trong việc bảo vệ môi trường nhưng không vì thế mà xem nhẹ các chế tài hành chính và dân sự bởi nếu chỉ riêng chế tài hình sự thì không thể bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả. Không giống như các chế tài hình sự và dân sự thường là các biện pháp tức thời, các chế tài hành chính thường có hiệu lực trong việc bảo đảm các biện pháp liên tục, đặc biệt là các hoạt động gây ô nhiễm. Một số chế tài hành chính đã được chấp nhận là các kế hoạch sử dụng đất, giấy phép và việc ban hành các mệnh lệnh thông báo: 2.2.1 Kế hoạch sử dụng đất Việc lập kế hoạch sử dụng đất trong kiểm soát môi trường cơ bản có tính chất phòng ngừa. Các khu vực dành cho công nghiệp nặng, công nghiệp vừa và công nghiệp làm sạch được phân ranh giới rõ ràng. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Môi trường và các cơ quan liên quan như Uỷ ban tái phát triển đô thị và Cục kiểm soát xây dựng. 2.2.2 Giấy phép, giấy chứng nhận Việc cấp giấy phép và giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của Bộ Môi trường nhằm đảm bảo kiểm soát và quản lý chặt chẽ các hoạt động có khả năng tác động có hại tới môi trường. Cụ thể là trước khi một hoạt động được phép tiến hành, Bộ Môi trường phải đảm bảo là hoạt động đó sẽ không gây ra tác hại gì cho môi trường. Ví dụ về Đạo luật kiểm soát ô nhiễm về môi trường, các hoạt động công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm không khí đều phải được phép của Bộ Môi trường trước khi công việc được triển khai. 2.2.3 Thông báo và lệnh Thông báo và lệnh được áp dụng trong trường hợp người chủ sở hữu hoặc quản lý một tài sản không tuân thủ các quy định tiêu chuẩn hoặc điều kiện về môi trường được quy định trong các đạo luật liên quan. Thông báo và lệnh này sẽ yêu cầu chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong đó. Nếu không thực hiện các yêu cầu đó, chủ sở hữu hoặc quản lý phải chịu trách nhiệm trước toà án và phải chịu hình phạt. Bên cạnh các quy định về thông báo và lệnh để đảm bảo yếu tố dân chủ trong việc thực thi pháp luật trong nhiều đạo luật khác nhau, người nhận được lệnh hoặc thông báo nếu không đồng ý với yêu cầu đề ra trong đó thì sẽ nộp đơn phản đối. Đơn phản đối đó sẽ được Bộ trưởng Bộ có liên quan quyết định: giữ nguyên, thay đổi hoặc bãi bỏ lệnh hoặc thông báo đề ra. Quyết định này của Bộ trưởng là quyết định cuối cùng. Ví dụ theo điều 93 Luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng, thì bất cứ người nào nếu không đồng ý với thông báo, lệnh hoặc quyết định của người có thẩm quyền thì trong vòng 7 ngày nhận được lệnh, thông báo hoặc quyết định có thể nộp đơn phản đối tới Bộ trưởng và Bộ trưởng là người trực tiếp xem xét, giải quyết. Ngoài ra, chế tài hành chính còn thực hiện chức năng giám sát nhằm đảm bảo hạn chế tiếng ồn tại các công trường không được vượt quá giới hạn cho phép. Nếu có tiếng khiếu nại từ phía dân chúng, Bộ Môi trường phải tiến hành đánh giá độc lập về mức độ tiếng ồn. Nếu tiếng ồn vượt quá mức độ quy định, thì chủ sở hữu, người quản lý công trường xây dựng có liên quan, căn cứ vào chứng cứ đã có quản chịu một khoản tiền phạt tối đa là 2.000 USD 1USD = 16.074VND, tỷ giá ngoại tệ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 3/11/2007 , nếu tái phạt phải nộp 100 USD cho mỗi ngày tái phạm tiếp theo. Do tính cấp thiết của pháp luật về môi trường cho nên trong các Đạo luật về môi trường cũng đã trao cho Bộ Môi trường một số quyền hạn để thực thi các công việc khẩn cấp, nhằm thi hành ngay bất kỳ nhiệm vụ nào nếu nhiệm vụ đó là cấp bách đối với sự an toàn xã hội, sức khoẻ hay dịch vụ cộng đồng. Ví dụ: trong điều 90 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “trong trường hợp khẩn cấp, người có thẩm quyền có thể chỉ đạo thực hiện ngay lập tức bất kỳ nhiệm vụ hoặc làm bất cứ việc gì theo quy định tại Luật này, nếu người có thẩm quyền thấy công việc đó là cần thiết cho sức khoẻ cộng đồng hoặc cho sự an toàn của xã hội”. 2.3 Biện pháp dân sự Bên cạnh các chế tài về Hình sự và Hành chính, các Đạo luật môi trường Singapore cũng quy định nhiều hình thức chế tài dân sự. Cụ thể như: Yêu cầu cá nhân gây ô nhiễm phải nộp phạt, bồi thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu để làm sạch môi trường... Theo Điều 97 của Luật Bảo vệ môi trường của Singapore thì Chính phủ có thể thu giữ lại từ người sở hữu hoặc quản lý tài sản các phí tổn và chi phí đã được sử dụng trong quá trình thực hiện bất kỳ nào đã được quy định trong luật. Trong vòng 14 ngày theo quy định, nếu chi phí này chưa được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra Toà. Trên đây là một số quy định về tổng quan pháp luật môi trường Singapore. Từ một số vấn đề nêu trên cho ta thấy sở dĩ môi trường Singapore trở nên sạch, đẹp và để có được một Singapore là “thành phố của cây xanh” phải có rất nhiều yếu tố, nhưng chính pháp luật về môi trường được quy định một cách toàn diện là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự sạch, đẹp cho môi trường Singapore. Trong khuôn khổ những điều Luật đó, phần 2 sau đây sẽ trực tiếp nghiên cứu những hoạt động mang tính thực tiễn của Chính phủ, cơ quan ban ngành, và con người tại đất nước này trong vấn đề bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế. III. CÔNG TÁC VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN LIỀN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI SINGAPORE TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY: Hình ảnh của Singapore khi vừa mới được tự trị, năm 1960, được mô tả thật ảm đạm, “như một vũng nước tù đọng, nghèo nàn và lạc hậu”. Singapore gần như là một đảo quốc không có tài nguyên gi đáng giá, kể cả nước ngọt để uống và sinh hoạt cũng phải nhập khẩu, ngoài biển cả mênh mông nước mặn vây quanh.  Giờ đây, ai cũng phải công nhận rằng Singapore là một đất nước rất thành công trong phát triển kinh tế. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người của Singapore vượt trên con số 50.200 SGD tương đương 28.100 USD Theo WB, 2005 , với mức tăng bình quân đầu người hơn 1.000 SGD hay gần 600 USD mỗi năm. Tốc độ phát triển đã đưa một nước Singapore thuộc các quốc gia kém phát triển, chỉ sau ba thập niên, vươn lên đứng trong "thế giới hạng nhất" gồm những nước phát triển nhất. Một nước nhỏ bé về diện tích, dân ít, có khó khăn và cũng có thuận lợi. Nhưng trên thế giới không hiếm các trường hợp các quốc gia nhỏ bé vẫn nghèo, thậm chí rất nghèo. Cái kỳ diệu của Singapore là nằm ngoài số phận chung ấy. Dù còn đó những lời bình khác nhau từ bên ngoài, thế giới phải công nhận họ là xứ sở trong lành. Theo nghĩa thực, đó là môi trường sạch sẽ và xanh tươi. Theo nghĩa rộng, đó là cuộc sống văn minh, kỉ cương và mức độ tham nhũng xếp loại thấp nhất thế giới. Ở đây, một nước Singapore nhiều dân tộc (Hoa, Ấn, Mã lai), nhiều tôn giáo (Khổng giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo), nhưng xã hội ổn định, mọi người cùng tồn tại bên nhau và cùng đưa đất nước phát triển nhanh  trở thành Con Rồng Châu Á, đạt những tiêu chí sống - tuổi thọ và thu nhập - hàng đầu thế giới. Sở dĩ có được điều đó là nhờ một phần lớn vào công tác và chính sách quan tâm, bảo vệ môi trường ở nhiều mặt: 1. Môi trường tự nhiên Trước tiên, để quá trình nghiên cứu được thống nhất, ta cần xem xét rõ khái niệm, quan điểm về các loại môi trường được nhắc tới. Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lí, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất đai để sản xuất, để ở, các loại tài nguyên thiên nhiên khoáng sản để phục vụ sản xuất và tiêu thụ Khoa học môi trường – NXB Giáo Dục – 2006 . Singapore là đất nước nhỏ về diện tích nhưng do đây là một quốc gia bao quanh bốn bề bởi nước biển ở một vị trí quan trọng trong giao lưu thương mại quốc tế của khu vực và thế giới nên vấn đề môi trường tại các khu vực có cảng biển rất được quan tâm. Ví như việc vào năm 2002, tàu chở dầu Agate của Singapore va phải tàu chở hàng Tian Yu của Panama làm 350 tấn dầu tràn ra biển Singapore gây ra sự cố tràn dầu đe dọa cân bằng sinh thái vùng biển và nguy cơ ô nhiễm vùng đất ven bờ vì sự cố xảy ra về phía Đông cách đất liền chỉ vẻn vẹn 40km. Sự cố không chỉ là chuyện riêng của Singapore mà còn gây quan ngại cho những quốc gia láng giềng là Malaysia và Indonesia, tiêu tốn một khoản tiền lớn cho chi phí khắc phục sự cố của các bên và làm gián đoạn những hoạt động kinh tế quan trọng khác. Quy định về vấn đề này, Chính phủ Singapore cấm tàu thuyền gây ô nhiễm cập cảng. Ngoài ra, Singapore còn thi hành sắc lệnh mới về chống ô nhiễm môi trường đối với tàu thuyền muốn vào neo đậu tại hải cảng vốn được coi là nhộn nhịp nhất thế giới này. Các con tàu trước khi vào cảng sẽ được kiểm tra độ ô nhiễm môi trường, các chỉ số cho phép về lượng sulphur có trong dầu máy và cấm sử dụng các chất gây tác hại với tầng Ozone. Sắc lệnh này được thực thi không chỉ có hiệu lực với các thuyền lớn mà kể cả các thuyền buồm du lịch và các ghe đánh cá. Thời gian gần đây, Chinh phủ Singapore còn thể hiện việc quan tâm bảo vệ môi trường tự nhiên trong việc hợp tác quốc tế cùng với Indonesia, Malaysia, Thái Lan, và Brunei giải quyết nạn khói mù ở Indonesia, đất nước láng giềng của Singapore. Nạn khói mù được bắt nguồn từ những vụ cháy rừng lớn trên diện tích rộng khiến khói lan sang những khu vực, quốc gia lân cận gây cản trở các hoạt động sinh sống, sản xuất, giao thông, sức khỏe con người và những vấn đề có liên quan tới việc tiến hành quá trình kinh tế tại các nước này. Những tác hại cụ thể có thể thấy ngay sau nạn khói mù là việc những lớp khói đã gây chết chóc và những chứng bệnh hô hấp nghiêm trọng như bệnh hen, viêm phế quản và nhiều vấn đề sức khoẻ, y tế khác nhau như đau mắt, da nổi ban đỏ. Trong khi ngành du lịch ở Singapore và Malaysia giảm 30%. Hơn 1000 chuyến bay của khu vực có sự cố đã phải đình hoãn do sân bay đóng cửa bởi cháy rừng quá lớn và khói bụi mù mịt. Do đó, cháy rừng và nạn khói mù mà Singapore là nạn nhân cũng được đánh giá tương đương với sự cố lớn như khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn từ Đông Nam Á năm 1997 ở mặt ảnh hưởng mà nó gây ra cho nền kinh tế nước này. Tuy nhiên, điều đặc biệt đáng quan tâm là khi nhắc đến những cơ sở môi trường liên quan tới nguồn nước. Singapore là một quốc đảo nên nguồn nước ngọt phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất là vô cùng hiếm hoi. Nước xét trên cơ sở kinh tế đóng vai trò quan trọng, thiếu nước hợp tiêu chuẩn bất kể ngành sản xuất nào dù có chứa hàm lượng công nghệ cao đến mấy cũng khó hoặc không thể thực hiện hoạt động của mình. Do đó, có thể nói, vấn đề công nghệ về nước cũng như những công trình xử lí nước cung cấp đầy đủ cho mọi hoạt động trên toàn lãnh thổ được bao quanh bởi nước mặn như Singapore là một vấn đề nan giải, trở ngại lớn với mục tiêu phát triển kinh tế của nhà chức trách. Từ lâu, đảo quốc Singapore phải nhập khẩu hơn một nửa lượng nước ngọt cho các nhu cầu trong nước từ quốc gia láng giềng Malaysia. Vấn đề đảm bảo an ninh nước ngọt ngày càng trở thành vấn đề thời sự trong mọi tầng lớp người dân Singapore. Theo một báo cáo mới đây của Liên Hợp Quốc, thế giới sẽ có khoảng 40% dân số thiếu nước sinh hoạt vào năm 2015 và các cuộc xung đột do tranh chấp nguồn nước sẽ ngày càng tồi tệ trên bình diện quốc tế. Để từng bước giảm sự lệ thuộc vào nguồn nước cung cấp từ bên ngoài, chính phủ Singapore đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó quan trọng nhất là khuyến khích người dân sử dụng nước thải tái sinh. Trong một buổi tiếp xúc giới trẻ được truyền hình trực tiếp nhân ngày quốc khánh lần thứ 37 của Singapore, Phó thủ tướng Lý Hiển Long đã tiếp đãi các đại biểu thanh niên bằng những chai nước hiệu “Newater” – Một thứ nước thải tái sinh được lấy từ hệ thống cống rãnh trong thành phố. Đây được xem là ngày xuất hiện chính thức trên thị trường của nước “Newater”, với hơn 6 vạn chai được phát không cho các cư dân của thành phố sạch đẹp nhất thế giới này. Quá trình cho ra đời các chai Newater được tiến hành thông qua nhiều công đoạn lọc và xử lý nghiêm ngặt. Khâu đầu tiên là vi lọc, được dùng để loại bỏ các chất thải rắn, vi khuẩn, virus và các thực thể đơn bào. Khâu thứ hai là lọc thẩm thấu, được dùng để tách các muối khoáng hoà tan, các hợp chất hữu cơ các loại siêu virus và các vi khuẩn sót lại của công đoạn trước. Ở khâu cuối cùng, toàn bộ lượng nước thải tái sinh sẽ được đưa ra phòng chiếu xạ để diệt trùng. Tất cả các khâu của quy trình sản xuất nước thải tái sinh Newater dùng cho mục đích sinh hoạt đều đã được kiểm định bởi một nhóm chuyên gia quốc tế do chính phủ Singapore chỉ định. Theo kết quả phân tích, chất lượng nước Newater phù hợp với tất cả các tiêu chuẩn quốc tế về nước sinh hoạt. Ngoài hai nhà máy sản xuất nước thải tái sinh Newater trước kia, Cơ quan công chính Singapore đã xây dựng tiếp hai nhà máy mới trong năm 2003 và hai nhà máy vào các năm tiếp theo. Nhờ đó, Singapore trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới cung cấp nước thải tái sinh dùng cho sinh hoạt của dân chúng. Mỹ là quốc gia tiên phong trong lĩnh vực này với chương trình nước thải tái sinh cho cư dân Quận Cam, Nam Califomia, được hoàn thành vào năm 1976. Với hệ thống cung cấp nước thải tái sinh Newater, Singapore sẽ giảm được sự phụ thuộc vào nguồn nước của Malaysia khi thoả thuận mua nước giữa hai quốc gia này kết thúc vào năm 2011. Bên cạnh đó, năm 2000, Singapore đã khởi công xây dựng hệ thống thoát nước trị giá 7 tỷ Đô-la Singapore nhằm phát triển hệ thống vệ sinh của quốc đảo này. Hệ thống thoát nước bằng đường hầm ngầm này sẽ được xây dựng trong hai giai đoạn trong vòng 15 năm. Theo thiết kế, lượng chất thải sẽ được xử lý tại 2 cơ sở xử lý tập trung ở phía Đông và Tây Nam Singapore. Sau khi hoàn thành, hệ thống xử lý này sẽ giúp giải phóng mặt bằng từng là nơi lắp đặt hơn 100 trạm bơm cấp trung và các phương tiện xử lý chất thải trong cả nước, đồng thời giúp giảm giá vận hành, tiết kiệm được 5,2 tỷ Đô-la Singapore. Với những quan tâm đó từ phía Chính phủ, trong năm 2005, Singapore đã khánh thành nhà máy lọc nước biển đầu tiên ở nước này, với tầm cỡ lớn nhất Châu Á. Với chi phí xây dựng 119 triệu USD, nhà máy này sẽ chịu trách nhiệm cung cấp 1/10 lượng nước dùng trên đảo quốc, tức 30 triệu galông nước (1 galông = 3,8 lít Mỹ) mỗi ngày, bổ sung vào ba nguồn truyền thống là nước nhập, nước tái xử lý và nước từ kênh đào, sông... Nguyên tắc hoạt động của nhà máy này là lấy nước biển, cho qua hệ thống lọc và thẩm thấu hai lần muối và các khoáng chất khác, sau đó thêm vào nước một ít khoáng chất quan trọng như fluoride… cho nó có mùi vị giống nước máy bình thường. Ngoài mục tiêu cung cấp nước dùng, các kế hoạch tái xử lý nước còn nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng của Singapore và giúp các công ._.chuyển 178 người; hiệu quả cắt lũ của hồ cho Đồng bằng sông Hồng - sông Thái Bình không lớn. Rõ ràng nếu tính chi phí - lợi ích như hiện nay, Dự án hồ Thác Bà khó có thể xem là hợp lý. Đương nhiên, nếu nhận xét một cách toàn diện, nhất là khi chú ý tới bối cảnh lịch sử của nước ta tại thời điểm đó, thì kết luận chung sẽ có thể khác. Quy hoạch cấp nước sạch cho các vùng sâu, vùng xa đặc biệt là vùng ven biên giới, ven biển và hải đảo tiến hành chậm và chưa có chiến lược rõ ràng. Thiếu sự tham gia đóng góp của cộng đồng trong nội dung quy hoạch và giám sát quy hoạch nên một số quy hoạch chỉ tồn tại trên giấy. Thậm chí có quy hoạch khi thực hiện lại mâu thuẫn với ý đồ sản xuất của người nông dân, đặc biệt là ở những vùng nhạy cảm giữa trồng lúa và nuôi trồng thủy sản. 1.2 Đối với tài nguyên rừng Bên cạnh tài nguyên nước, tài nguyên rừng cũng là một nguồn tài nguyên quý báu không thể bỏ qua trong tình hình môi trường Việt Nam. Trong những năm qua Việt Nam đã ký một số công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ đa dạng sinh học, như Công ước về buôn bán các loài động thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt (CITES), Công ước RAMSAR Để biết thêm chi tiết về các công ước quốc tế về môi trường Việt Nam đã tham gia, xem thêm phụ lục 2 về quản lý các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt đối với chim di cư và đã chọn vùng đất ngập nước Xuân Thủy ở cửa sông Hồng làm khu vực RAMSAR cần được bảo vệ. Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học. Để thực hiện công ước này, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch hành động đa dạng sinh học. Mục tiêu trước mắt của Kế hoạch hành động này là: Bảo vệ các hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, các hệ sinh thái nhạy cảm đang bị đe dọa thu hẹp hay bị hủy hoại do hoạt động kinh tế của con người gây ra; Bảo vệ các loài đang bị đe dọa do khai thác quá mức; Sử dụng các loài một cách bền vững để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Tuy Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế nói trên, nhưng việc thực hiện các công ước này còn gặp rất nhiều khó khăn. Các tài nguyên sinh vật vẫn còn bị khai thác một cách mạnh mẽ, chưa kiểm soát được, thậm chí các tài nguyên thuộc vườn quốc gia vẫn bị xâm phạm. Chắc rằng cần phải nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa những người dân thường, những người dân đang sống dựa vào việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên để mưu cầu cuộc sống khó khăn của mình và các mối quan hệ xã hội khác có liên quan đến việc khai thác các dạng tài nguyên thiên nhiên, tìm ra được các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương, nhất là những dân nghèo mà vẫn bảo đảm được các nguồn tài nguyên quý giá này. 1.3 Đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác Các chính sách về quản lý tài nguyên và môi trường nói chung đã được ban hành ngày càng nhiều, trong đó quan trọng là các luật: Bảo vệ môi trường, Khoáng sản, Đất đai, Dầu khí, Hàng hải, Tài nguyên nước, Thủy sản (thông qua tháng 11 năm 2003). Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Chiến lược Bảo tồn và quản lý đất ngập nước quốc gia, cũng như các kế hoạch hành động quốc gia về môi trường, về bảo tồn đa dạng sinh học và ứng cứu sự cố tràn dầu đã được Chính phủ thông qua. Đặc biệt là Chỉ thị 36-CT/TW về Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1998) đã chỉ ra những quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước về công tác bảo vệ môi trường nói chung và môi trường tự nhiên nói riêng. Gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng Chương trình Nghị sự 21 Thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro, phản ánh sự đồng tâm nhất trí và sự cam kết chính trị ở cấp cao nhất của sự hợp tác về môi trường và phát triển giữa các quốc gia. của Việt Nam hướng tới phát triển bền vững đất nước, trong đó có đề cập đến môi trường tự nhiên như một động lực cho tiến trình phát triển và hợp tác kinh tế quốc tế. Môi trường xã hội Các hoạt động nhằm xây dựng công tác môi trường tốt ở nước ta trong thời gian qua diễn ra khá sôi nổi ở nhiều mặt. Trong đó, điểm đáng chú ý là việc giáo dục môi trường cũng như tích cực tham gia các hoạt động môi trường quốc tế của đất nước ta. Điều đó chứng tỏ sức ảnh hưởng lớn lao và vai trò quan trọng của vấn đề môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta: 2.1 Giáo dục, tuyên truyền về môi trường Chính phủ Việt Nam cho rằng: nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Chính phủ luôn coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục cộng đồng về môi trường, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên của đất nước. Về giáo dục trong nhà trường, không kể đến việc đào tạo những cán bộ chuyên môn trong các lĩnh vực có liên quan đến tài nguyên và môi trường tại các trường đại học, cao đẳng, thì việc đưa giáo dục môi trường vào các cấp học tiểu học và phổ thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó liên quan đến xây dựng nhận thức cho học sinh ngay từ lúc tuổi thơ, ngay trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh. Việc giáo dục đó còn đặc biệt quan trọng, vì góp phần đào tạo thế hệ tương lai hiện chiếm tỷ lệ 27% tổng dân số nước ta Tỷ lệ dân số độ tuổi dưới 15, theo Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2005, Tổng cục Thống kê . Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân", theo Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ra quyết định số 6621/QĐ-BGDĐT-KHCN ngày 30-12-2002 phê duyệt "Chính sách và Chương trình hành động giáo dục môi trường trong trường phổ thông giai đoạn 2001 - 2010". Theo Chương trình này, thì giai đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn chuẩn bị, trong đó có các công việc, như: soạn thảo và ban hành các văn bản pháp quy; xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục môi trường; bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý về giáo dục môi trường; xây dựng tổ chức và cơ sở vật chất; tiến hành các hoạt động ngoại khóa, các chiến dịch truyền thông môi trường; chỉ đạo điểm. Từ năm 2006 trở đi mới là triển khai mở rộng trong phạm vi toàn quốc. Nhìn chung một cách khách quan tình hình phát triển của nước ta trong hơn hai thập kỷ qua, có thể nhận xét rằng việc đưa nội dung giáo dục môi trường vào trường còn chậm. Quả là như vậy, vì các hoạt động nghiên cứu khoa học về tài nguyên và môi trường được bắt đầu triển khai một cách có hệ thống từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước với các chương trình và đề tài cấp Nhà nước, không kể tới các nghiên cứu lẻ tẻ của các trường đại học, viện nghiên cứu trước đó. Rồi trong khuôn khổ của các dự án có sự tài trợ của nước ngoài, khoảng từ giữa thập kỷ 80, đã có những thử nghiệm đưa nội dung giáo dục môi trường vào một số trường, lớp học, kể cả việc biên soạn và áp dụng thử những chương trình, nội dung, tài liệu và phương pháp giảng dạy. Trong khi đó, việc tuyên truyền giáo dục và truyền thông môi trường trong xã hội dưới các hình thức ngày càng phong phú đã được triển khai ngay trong thập kỷ 80, nhất là từ năm 1992-1993, với kết quả của Hội nghị Rio, sự thành lập của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và việc Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường. Tuy nhiên đến năm 2001, Chính phủ mới có quyết định đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân. Bên cạnh đó, thông tin đại chúng (sau đây, để ngắn gọn, tạm gọi chung là báo chí) cũng có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục, truyền thông về môi trường ở nước ta. Vì có thể thông qua các phương tiện hiện đại, như báo chí, phát thanh, truyền hình, để chuyển tải kịp thời những thông tin cho xã hội và góp phần to lớn trong việc tạo nên hoặc tác động tới công luận. Mặt khác, báo chí cũng có điều kiện đi sát cuộc sống để phản ánh những tình hình và ý kiến của xã hội tới các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước. Trong những năm vừa qua, về mặt bảo vệ môi trường, báo chí đã có tác dụng rất tích cực. Với những lợi thế khác nhau về cách truyền đạt thông tin, báo chí đã góp phần nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về thiên nhiên và môi trường, về các chính sách của Nhà nước ta và các hoạt động trong công tác bảo vệ môi trường. Điều nổi bật và có tác dụng rõ rệt là báo chí đã nêu nhiều vấn đề cụ thể và bức xúc, có tính phản ánh thực tiễn, kể cả các trường hợp nghiêm trọng, như các vụ phá rừng, bọn lâm tặc chống trả quyết liệt lực lượng kiểm lâm, các hành vi bao che hoặc tòng phạm của một số người có chức có quyền ở địa phương, như vụ phá rừng ở Tánh Linh những năm trước đây, và gần đây nhất, là việc hàng trăm ha rừng ngập mặn và vành đai sú vẹt bị xóa sổ để trở thành đầm nuôi tôm ở Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Bình,... Ngoài những báo hàng ngày và các tạp chí chuyên ngành, cũng đã bắt đầu xuất hiện một số ấn phẩm định kỳ chuyên về môi trường do các tổ chức xã hội-nghề nghiệp thành lập, như tạp chí "Con đường xanh" của Hội Bảo vệ Môi trường giao thông vận tải, "Nhà báo và Môi trường", cơ quan ngôn luận của Diễn đàn các nhà báo môi trường Việt Nam. Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng, vì điều đó sẽ làm đa dạng hóa báo chí viết về môi trường, nhất là giúp cho độc giả có thể nhìn nhận các vấn đề môi trường dưới những góc độ khác nhau và tăng cường mối quan hệ giữa báo chí và công chúng, giữa báo chí và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2.2 Tham gia các các hoạt động môi trường quốc tế Vấn đề môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và liên quốc gia, các vấn đề rừng đầu nguồn, sông và biển là mối quan tâm chung của các nước trong khu vực. Chính vì vậy, Việt Nam coi trọng việc hợp tác với các nước láng giềng và các nước khác trên toàn thế giới để bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong thời gian qua Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế theo nhiều hình thức như họp tác đa phương, hợp tác song phương, hợp tác khu vực và hợp tác toàn cầu. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức quốc tế như UNEP, UNIDO, UNDP, UNICEF, WWF, IUCN, WB, ADB, GEF vv... ngày càng phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường Việt Nam. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực đã bước sang giai đoạn mới, được tăng cường và mở rộng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức các quan cao cấp về môi trường của ASEAN (ASOEN). Quan hệ song phương giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước như Thuỵ Điển, Canada, Ôxtrtâylia, Đan Mạch, Hà Lan, Nhật Bản, Pháp... ngày càng được củng cố và phát triển nhằm thực hiện các cam kết giữa Chính phủ Việt Nam và các bên hữu quan, tranh thủ sự trợ giúp về tài chính cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cùng với thời điểm đó, nhiều dự án về môi trường đã được thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là dự án SIDA/IUCN về tăng cường năng lực quản lý môi trường cho môi trường, dự án VCEP về chương trình môi trường Việt Nam Canada, dự án về bảo vệ đa dạng sinh học với GEF, dự án UNEP/COBSEA về môi trường biển... Sự hợp tác và phối hợp hoạt động với các nước và các tổ chức quốc tế đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong quản lý môi trường của Việt Nam. Môi trường nhân tạo Vấn đề xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất ở Việt Nam đang là một môi quan tâm hàng đầu của Nhà nước và nhân dân, được đặt lên vai bộ chủ quản là Bộ Xây Dựng và các ban ngành có liên quan khác. Trên thực tế, các cơ sở vật chất có quy mô lớn và hiện đại trên cả nước thường tập trung ở những khu đô thị lớn như: Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…và những khu kinh tế, du lịch trọng điểm: Nha Trang (Khánh Hòa), Hạ Long (Quảng Ninh), Đà Lạt (Lâm Đồng),…Vì những khu vực này mới có thể cung cấp môi trường kinh doanh, đầu tư cũng như nguồn nhân lực có đủ trình độ phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Có thể thấy, môi trường nhân tạo cũng chính là một trong những sức hút có chất lượng với các nhà đầu tư, du khách từ nước ngoài tới với Việt Nam, đầu tư hội họp, và từ đó giúp đẩy mạnh cơ hội hợp tác, giao lưu kinh tế với thế giới của đất nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình tạo lập và xây dựng những địa điểm đủ phẩm chất nhằm thu hút phát triển kinh tế đó, hầu hết theo tâm lí nóng vội và bệnh thành tích đều chưa ý thức được những tác động về mặt môi trường của dự án. Vì vậy, Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ra đời và quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường, ban hành ngày 09/8/2006, đã chỉ ra loại dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường như: Dự án công trình trọng điểm quốc gia, dự án xây dựng cơ sở viễn thông, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu đô thị, khu dân cư, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu thương mại, khu kinh tế, dự án xây dựng khu du lịch, vui chơi giải trí, dự án xây dựng sân golf từ 18 lỗ trở lên... Nghị định này cũng phân định thẩm quyền, thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường đôí với các dự án liên ngành, liên tỉnh. Trong đó có 12 dự án quan trọng như: Dự án nhà máy điện nguyên tử, dự án nuôi trồng thuỷ sản trên đất cát có diện tích từ 100 ha trở lên, dự án tái chế chất thải nguy hại... và các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nằm trên địa bàn 2 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì sẽ thuộc trách nhiệm thẩm định và phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Cũng theo đó, cơ sở sản xuất, dịch vụ thân thiện với môi trường là cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và bảo vệ môi trường và được chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường; có chính sách quản lý sản phẩm trong suốt quá trình tồn tại của chúng và quản lý chất thải đúng quy định, trong đó tái chế, tái sử dụng trên 70% tổng lượng chất thải; được cấp chứng chỉ ISO 14001 về quản lý môi trường; tiết kiệm được 10% nguyên liệu, năng lượng, nhiên liệu, lượng nước sử dụng so với mức tiêu thụ chung; tham gia và đóng góp tích cực các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng bảo vệ môi trường công cộng; không bị cộng đồng dân cư nơi thực hiện sản xuất, dịch vụ phản đối việc được công nhận là cơ sở thân thiện với môi trường. Bằng những chính sách và quy định của pháp luật, môi trường nhân tạo của Việt Nam đang dần được mang lên mình một hình dáng mới, có thêm sự biến đổi mang nhiểu hi vọng và có tầm lớn nhất định. Tuy nhiên, khía cạnh môi trường, nhất là ở những ngành như công nghiệp hoặc dịch vụ vẫn chưa được coi trọng và vì thế ngày đang là một trong những nguyên nhân lớn gây ra nguy cơ suy thoái môi trường sống và hoạt động kinh tế ở nước ta. IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM DỰA TRÊN NHỮNG BÀI HỌC TỪ MÔ HÌNH SINGAPORE Nước Singapore có diện tích chỉ 660 km2, xấp xỉ diện tích Hà Nội; dân số chỉ gần 5 triệu người, xấp xỉ dân số Tp. Hồ Chí Minh. Tài nguyên thiên nhiên hoàn toàn không có gì cả. Chỉ có con người, và một ít đất để ở. Năm 1960, GDP của Singapore chỉ là 0,7 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người chỉ là 427 USD/ năm. Tới năm 2005, GDP của Singapore đã là hơn 116 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 26,892 USD/năm. Nước Singapore hiện nay là nước có thu nhập bình quân đầu người lớn thứ 2 ở Châu Á, sau Nhật Bản và nằm trong hàng các nước tiên tiến, văn minh, giàu có nhất trên thế giới. Vị thế của nước Singapore nhỏ bé cũng rất lớn trên trường quốc tế. Singapore là một trong những nước sáng lập ra khối ASEAN. Năm nay 2007, nước Singapore giữ chức Chủ tịch ASEAN. Trong khi đó, Việt Nam ta có diện tích gấp hơn 50 lần nước Singapore, dân số gấp gần 20 lần, tài nguyên thiên nhiên cũng phong phú, dồi dào hơn Singapore nhiều, nhưng GDP của ta năm 2005 chỉ xấp xỉ 60 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 500 USD/năm. Trong quá trình nghiên cứu tình hình thực hiện những chính sách môi trường của Singapore, chúng ta đều có thể thấy để có được sự tăng trưởng và phát triển thần kì, tạo dựng nên một nước Singapore như ngày nay, đất nước và con người xứ sở này đã phải thực hiện rất nhiều biện pháp tổng hợp về kinh tế xã hội để chấn hưng đất nước mình. Dưới phương diện kinh tế môi trường, theo thiển nghĩ của người viết, Việt Nam cần để tâm tới những bài học lớn sau từ một mô hình Singapore hiện đại: 1. Bài học đối nội: Các công cụ về kinh tế được Chính phủ Singapore sử dụng triệt để và hiệu quả trong tiến trình phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp như chúng ta đã cùng nghiên cứu. Thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cũng nên nhìn nhận lại về những việc chưa làm được về mặt công cụ quản lí kinh tế môi trường, và bên cạnh đó là những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, giáo dục tuyên truyền trong dân chúng…phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế – xã hội đặc thù của nước ta. 1.1 Vai trò các công cụ tài chính: Việc sử dụng cũng như tuyên truyền về vai trò các công cụ tài chính để bảo vệ môi trường ở Singapore là rất tốt trong khi ở Việt Nam việc này còn dừng ở mức khiêm tốn. Nguồn thu để bảo vệ môi trường có thể dồi dào nhưng vẫn chưa tổ chức được các loại thuế và phí một cách có hệ thống. Những đánh giá cần thiết về lĩnh vực này vẫn còn chưa đầy đủ. Lâu nay chúng ta vẫn còn coi nhẹ vấn đề đầu tư bảo vệ môi trường từ phía ngân sách Nhà nước. Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175/C.P (hướng dẫn thi hành Luật này) đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa có hướng dẫn chế độ tài chính thực hiện. Ngân sách Nhà nước có nhiều khoản chi cho môi trường, nhưng nằm rải rác ở nhiều khoản chi tiêu của các bộ ngành, địa phương và các chương trình Nhà nước khác nhau; còn lồng ghép trong chi hoạt động chung của khoa học, công nghệ và môi trường, quy mô thấp, có tăng nhưng chậm; các hoạt động khắc phục sự cố môi trường do thiên tai gây ra còn tiêu tốn nhiều tiền, lẽ ra có thể tốn ít hơn nếu tổ chức phòng ngừa khá hơn; chi ngân sách Nhà nước cho chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc cũng chỉ mới được tiến hành vào thập kỷ gần đây nhất. Chương trình trồng mới 5 triệu hécta rừng còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai. 1.2 Quỹ môi trường quốc gia Quỹ môi trường quốc gia vẫn còn chưa được hình thành. Các quỹ môi trường địa phương và ngành còn ít và hoạt động chưa đủ tích cực để đạt hiệu quả cần thiết. Trên thực tế vấn đề quỹ môi trường đã được đặt ra từ đầu những năm 90 nhưng đến nay mới có được quỹ môi trường thử nghiệm ở Hà Nội, ngành than, quỹ giảm thiểu ô nhiễm thành phố Hồ Chí Minh. Hỗ trợ quốc tế (viện trợ không hoàn lại, ODA...) cho bảo vệ môi trường còn phân tán, quản lý không thống nhất và quy mô nhỏ. Nợ nước ngoài của nước ta chưa có vận động hoán đổi một cách có hệ thống để trở thành nguồn vốn bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp chưa có và không có đủ điều kiện cũng như phương tiện tài chính cần thiết cho việc tự đánh giá tác động môi trường ở nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hoạt động của các công ty môi trường đô thị chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. 1.3 Các công cụ thuế, phí, và lệ phí môi trường Các công cụ thuế và phí còn ở giai đoạn hình thành hệ thống hoặc còn lẻ tẻ phát huy tác dụng như thuế tài nguyên, thuế xăng dầu, phí cầu đường, vé vào cửa khu du lịch, tiền phạt vi phạm môi trường. Nguyên tắc ai gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) và được hưởng lợi phải trả tiền (BPP) chưa được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam, nguồn thu cho môi trường từ mở mang hoạt động du lịch chỉ dừng ở mức thí điểm, chưa đánh thuế tài nguyên nước... Pháp lệnh về phí và lệ phí chỉ mới được ban hành vào tháng 8/2001 và chưa đi vào cuộc sống một cách đầy đủ. Trong số 72 loại phí thì có khoảng hơn 16 loại phí liên quan đến công tác bảo vệ môi trường; trong số 42 loại lệ phí thì có khoảng hơn 10 lệ phí liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường. Tất cả cần được khẩn trương hướng dẫn thi hành. Trước hết các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành cần được khẩn trương soạn thảo và đưa ra thực thi đồng bộ để hạn chế, ngăn ngừa các hành vi gây ô nhiễm hay bù đắp chi phí Nhà nước đã bỏ ra để bảo vệ môi trường. Đó là phí nước thải, rác thải, phí gây ô nhiễm không khí, phí gây tiếng ồn…, phí đánh vào đối tượng thụ hưởng, phí đánh vào sản phẩm trong quá trình sản xuất, sử dụng và sau khi sử dụng có thể gây ô nhiễm. Số thu được từ phí cần quy định là nguồn thu của quỹ môi trường để hỗ trợ các hoạt động cải thiện môi trường. Về thuế, Nhà nước cần áp dụng chính sách miễn giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định cho các dự án đầu tư cải thiện môi trường sản xuất ở doanh nghiệp sau khi dự án hoàn thành giai đoạn đầu tư đi vào hoạt động. Đó là đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch hơn, vào thiết bị ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường. Khoảng thời gian áp dụng cần đủ dài để cơ sở doanh nghiệp có đủ điều kiện thu hồi vốn đầu tư và khuyến khích đầu tư mạnh hơn nữa vào bảo vệ môi trường. Đồng thời miễn giảm thuế đối với phần lợi nhuận hay chi phí mà các doanh nghiệp dành để đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ và cán bộ chịu trách nhiệm đối với sản xuất sạch và bảo vệ môi trường liên quan đến sản xuất trong lãnh thổ doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp, hoạt động ở nhiều ngành nghề truyền thống hay cung cấp dịch vụ, cần được vay ưu đãi từ Ngân hàng chính sách (đang được xúc tiến thành lập), quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển hay quỹ môi trường. Nhờ nguồn vay đó các doanh nghiệp này có thể đầu tư mua sắm công nghệ mới có tác dụng giảm thiểu ô nhiễm, thực hiện tiết kiệm năng lượng hay tái sử dụng và tái sinh chất thải, thay thế nguyên vật liệu truyền thống bằng loại lành tính hơn, ít ô nhiễm hơn. Ví dụ nhờ có đầu tư mà doanh nghiệp dệt nhuộm có thể chuyển từ công nghệ dùng nước tẩy Javen sang công nghệ dùng thuốc tẩy H2O2 (peoxit hydro) sẽ tránh được chất thải clo sinh ra do dùng nước javen. Hoặc nơi tái chế đồ nhựa cần đầu tư lắp rơle nhiệt để tự điều chỉnh nhiệt gia công thích hợp với từng loại chất dẻo, hạn chế việc phân huỷ và giảm lượng khí thải độc hại, phế phẩm thoát ra sau công đoạn sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất gốm sứ có thể đầu tư mở rộng áp dụng công nghệ lò gas thay cho lò than để loại bớt bụi than và SO2 thải ra. 1.4 Về hỗ trợ vốn doanh nghiệp Cơ chế hỗ trợ vốn thích hợp cho các doanh nghiệp là thông qua quỹ môi trường. Do đó đề nghị sớm thành lập quỹ môi trường quốc gia và hoàn thiện mô hình hoạt động của các quỹ môi trường địa phương. Hiện nay quỹ môi trường Hà nội đã qua giai đoạn thử nghiệm, nhiều kết quả có tác dụng tốt cho việc bảo vệ môi trường ở các doanh nghiệp cần được nhân rộng. Quỹ giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cách cho vay tiên tiến cần được phổ biến rộng rãi. 1.5 Về việc hạch toán chi phí liên quan đến môi trường Về việc hạch toán chi phí liên quan đến môi trường trong giá thành sản phẩm sản xuất ra cần lưu ý các trường hợp như sau: Nếu chi phí tính đủ làm đội giá thành của sản xuất thì trong một giai đoạn nào đó cần phải bóc tách khoản này để tính toán lại cơ sở đánh thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế lợi tức. Hoặc đưa ra điều kiện ràng buộc cho miễn giảm thuế gắn với việc hợp lý hóa được sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến hay công nghệ sạch hơn ngay tại doanh nghiệp. 1.6 Cơ chế trọng dụng, đãi ngộ tốt với người tài Cần có cơ chế trọng dụng, đãi ngộ tốt với người tài nhằm xây dựng một môi trường trí quyển có sức sống, đủ năng lực chèo lái đất nước. Nước Singapore không những tìm và sử dụng người tài trong công dân Singapore, mà còn thu hút nhân tài từ nước khác đến. Người tài đến Singapore làm việc, được định cư lâu dài, và được gia nhập quốc tịch Singapore dễ dàng. Ngoài ra, tư tưởng “chui sâu leo cao” của một số bộ phận người có chức có quyền nhằm tư lợi riêng cần được xóa bỏ triệt để nhằm tránh tham nhũng, thất thoát lãng phí, và xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, tài năng, quan tâm tới nhiệm vụ hàng đầu là phát triển kinh tế nhưng cũng có đầy đủ bản lĩnh và kiến thức về bảo vệ môi trường nhằm hướng tới sự phát triển bền vững lâu dài. 1.7 Giáo dục môi trường Những thế hệ tương lai cần được đào tạo, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường ngay từ khi còn rất nhỏ, khi mới bắt đầu có nhận thức. Giáo dục môi trường cần được đưa đến với học sinh tiểu học bằng phương pháp học mà chơi, chơi mà học, tuyệt đối không giáo điều. Về lâu dài, nội dung bảo vệ môi trường cần phải được xem như một môn học chính khóa trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngoài ra, cần tăng cường các biện pháp, chế tài cứng rắn về kinh tế và pháp luật nhằm răn đe, ngăn chặn kịp thời những sự việc gây ảnh hưởng xấu tới một môi trường mang tính bền vững cho việc phát triển kinh tế. Để có được điều này, công tác tuyên truyền, giáo dục về nhận thức cho mọi tầng lớp dân chúng cần được đặt lên hàng đầu trong công tác xã hội của ngành môi trường và các ban ngành có liên quan. Vì ngoài việc đời sống sinh hoạt xã hội của con người thải loại nhiều chất có thể gây ô nhiễm, các doanh nghiệp sản xuất đều chứa đựng nguy cơ tiềm tàng của việc gây nên ô nhiễm môi trường. Do vậy việc bảo vệ môi trường đã trở thành nhiệm vụ cấp bách nói chung của toàn xã hội, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp nước ta. 1.8 Quy hoạch tổng thể dài hạn về xây dựng cơ bản Khi đã có sự hỗ trợ cần thiết cho doanh nghiệp về tài chính, kiến thức môi trường, Singapore đã tận dụng được nguồn sức mạnh trí tuệ, sáng tạo của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng được một Singapore với môi trường tự nhiên hiện đại mà không thiếu nét đẹp thiên nhiên. Điều này giúp tạo môi trường sống tốt cho con người nhưng cũng đồng thời tạo cảnh quan đẹp, tiện nghi, đa dạng về hình thưc hấp dẫn khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Việt Nam cũng đang có những bước chuyển mình trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản những cơ sở hạ tầng thiết yếu của ngành du lịch cũng như nền kinh tế, nhưng so với Singapore ngành du lịch của chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy, xây dựng như thế nào, với chính sách ra sao, và lấy nguồn vốn từ đâu cho hợp lí lại cần chúng ta nghiên cứu nghiêm túc với một kế hoạch phát triển môi trường tự nhiên lành mạnh, bền vững trong dài hạn. 2. Bài học đối ngoại Mô hình Singapore cho thấy sự hợp tác quốc tế về môi trường là rất có ý nghĩa để nâng cao nội lực đất nước và tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ từ các nguồn lực bên ngoài. Với nhiệm vụ môi trường quốc tế và bổn phận của Việt Nam trong việc tham gia thực hiện các hiệp định, điều ước, …song phương và đa phương, đặc biệt là với vai trò thành viên của WTO, Việt Nam cần quan tâm: Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO; Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế; Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường; Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, chúng ta còn cần thực hiện tốt Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ôzôn, tăng cường phối hợp quốc tế trong Chương trình Nghị sự 21, mở rộng các hoạt động bảo vệ môi trường trong mối liên hệ với các nước láng giềng và trong khu vực ASEAN ….nhằm tận dụng tốt những sự giúp đỡ quý báu về trình độ quản lí, kĩ thuật công nghệ,…của các quốc gia đi trước về phát triển, và nhằm cùng với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển hơn khác tạo thành một khối liên minh về phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường cho sự thịnh vượng và bền vững chung. LỜI KẾT Trong những tháng ngày cuối năm này, cả đất nước ta đang náo nức chờ đợi mức tăng trưởng chung của nền kinh tế được duy trì mức trên 8%/năm, như một chỉ số báo hiệu ‘con thuyền’ kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng, với những bước tiến có chất lượng và bền vững. Với hi vọng đó và những kiến thức cá nhân thu nhân được từ điểm khởi đầu nghiên cứu đề tài về kinh tế môi trường và bài học của mô hình Singapore, người viết nhận thấy trong cả quá trình đó là một ý thức dân tộc, niềm tự hào xen lẫn những chiêm nghiệm riêng về những điều mà đất nước ta đã làm được và chưa làm được. Điều quan trọng nhất là một ý thức tổng thể có chiến lược lâu dài, có tầm quy hoạch về tính trọng yếu của vấn đề môi trường trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế của đất nước ta dưới sự dẫn dắt sáng suốt của một Đảng Cộng Sản duy nhất với đường lối chính trị kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, những bài học, kiến nghị được rút ra phía trên theo một phương diện nào đó đã nói lên được những công việc phía trước đang chờ đợi các thế hệ và đặc biệt là thế hệ trẻ phấn đấu thực hiện trong suốt tiến trình đi lên của dân tộc, đất nước. Và nếu một mô hình kinh tế phát triển coi trọng việc bảo vệ gìn giữ môi trường cho các thế hệ sau được xây dựng với đặc điểm riêng của Việt Nam trong tương lai thì điều đó có nghĩa công việc nghiên cứu của đề tài này mang lại nhiều điều có ích cho tập thể, hoặc thậm chí chỉ là giúp người viết bài nhận thức lại vấn đề cũng đã là sự an ủi lớn lao với người nghiên cứu. Tác giả bài viết xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của ThS. Trần Minh Nguyệt – Bộ môn Kinh tế Môi trường - Đại học Ngoại Thương Hà Nội trong thời gian viết và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tác giả bài viết cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành với những thầy cô giáo, anh chị và các bạn trong trường đã giúp cho mình trang bị được một vốn kiến thức cần thiết cho cuộc sống và công việc phía trước. Bên cạnh đó, xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị trong Cục Bảo vệ Môi trường (67 Nguyễn Du – Hà Nội) đã giúp đỡ về mặt tài liệu cho bài viết. Thiếu tất cả những sự giúp đỡ ấy, Luận văn tốt nghiệp này sẽ rất khó khăn để định hình và trở thành một nghiên cứu có chất lượng. Hà Nội, tháng 11/2007 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT037.doc