Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cổ phần ứng dụng cơ khí Xuất khẩu Hà Nội

Mục lục. Lời mở đầu Chương I : một số vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp I. Một số vấn đề chung về chất sản phẩm 1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ 2. Quá trình hình thành chất lượng sản phẩm 3. Các loại chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ 4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm 5. Vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm II. Mối quan hệ giữa chất lượng chi phí và hiệu quả sử dụng III. Một số yếu t

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cổ phần ứng dụng cơ khí Xuất khẩu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố ảnh hưởng dến chất lượng sản phẩm 1. Nhân tố bên ngoài 2. Nhân tố bên trong VI. Quản trị chất lượng trong Doanh nghiệp 1. Khái niệm, thực chất, vai trò của quản trị chất lượng sản phẩm 2. Nội dung chủ yếu của quản trị chất lượng 2.1.Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế 2.2.Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng 2.3.Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất 2.4.Quản trị chất lượng trong khâu sau khi bán hàng V. Một số công cụ quản trị chất lượng 1. Phiếu điều tra 2. Biểu đồ Pareto 3. Biểu đồ nhân quả 4. Biểu đồ mật độ VI. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm 1. Về phía Nhà nước 2. Về phía Doanh nghiệp 2.1.Những biện pháp kinh tế 2.2.Những biện pháp tổ chức quản lý 2.3.Những biện pháp kỹ thuật 2.1.Những biện pháp giáo dục Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty II. Đặc điểm của Công ty ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng 1. Bộ máy tổ chức 2. Tổng tài sản và nguồn hình thành tài sản 3. Đặc điểm về sản phẩm và quá trình công nghệ chế tạo sản phẩm 4. Đặc điểm về Nguyên Vật Liệu 5. Đặc điểm về máy móc thiết bị 6. Đặc điểm về lao động 7. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm III. Kết quả sản xuất kinh doanh trong một vài năm gần đây và phương hướng phát triển kinh doanh trong một vài năm tới 1. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty một vài năm gần đây 2. Phương hướng kế hoặch một vài năm tới IV. Thực trạng chất lượng sản phẩm và tình hình quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty 1. Hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm của Công ty 2. Thực trạng chất lượng sản phẩm của Công ty 2.1.Hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm của công ty 2.2.Đặc điểm sản phẩm của Công ty 2.3.So sánh sản phẩm thực hiện của Công ty với sản phẩm tiêu chuẩn 2.4.So sánh sản phẩm của Công ty với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh 2.5.So sánh sản phẩm của Công ty hiện nay với sản phẩm của Công ty trước đây 2.6.ý kiến khách hàng về sản phẩm của Công ty 2.7.Tình hình chất lượng sản phẩm qua các năm 3. Thực trạng về công tác quản lý chất lượng ở Công ty 3.1.Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế 3.2.Các biện pháp tổ chức, quản lý, bảo quản nguyên vật liệu 3.3.Các biện pháp đổi mới trong thiết bị 3.4.Các biện pháp nâng cao tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật cho người lao đông 3.5.Các phương pháp và hình thức kiểm tra và bảo quản sản phẩm 3.6.Các chính sách tiền lương, tiền thưởng liên quan đến chất lượng V. Đánh giá tổng quát tình hình chất lượng sản phẩm của Công ty 1. Những thành tích đã đạt được 2. Những tồn tại 3. Nguyên nhân của những tồn tai trên Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu 1. áp dụng hệ thống quản lý chất lượng TQM trong công ty 2. Nâng cao hơn nũa chất lượng đội ngũ quản lý và tay nghề công nhân 3. Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường về chất lượng sản phẩm 4. Đầu tư hoàn thiện máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ 5. Chú ý đến chất lượng nguyên vật liệu 6. Tăng cương công tác kiểm tra Lời nói đầu Hiện nay, Cả thế giới đang phát triển trong guồng quay của nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá, hợp tác quốc tế diễn ra vô cùng mạnh mẽ, kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp đều đứng trước những cơ hội kinh doanh lớn có thể khẳng định mình. Tuy nhiên để làm được điều đó, mỗi doanh nghiệp phải tự tìm được hướng đi đúng đắn cho mình. Đồng thời các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, thì sản phẩm – dịch vụ của họ phải có được khả năng cạnh tranh về mọi mặt, trong đó 3 tiêu chí hàng đầu được đánh giá trong cạnh tranh là: * Chất lương – quality. * Giá cả - price. * Phương thức bán hàng – delivery. Nâng cao chất luợng sản phẩm có tầm quan trong sống còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động, mở rông thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cải tiến, đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Chất lượng đã và đang trở thành một trong những mục tiêu có tầm quan trọng chiến lược trong các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế của nhà nước. Chất lượng sản phẩm còn là niềm tự hào của dân tộc, góp phần từng bước khẳng định uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Quốc tế. Các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều đang đứng trước những thách thức lớn, đó là làm sao để sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước, mà còn có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của doanh nghiệp nước ngoài, trong khi quy mô sản xuất cũng như nguồn vốn còn hạn hẹp, câu trả lời cũng chính là chất lượng sản phẩm. Công ty Cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội là một doanh nghiệp có vị trí hàng đầu về sản xuất các dụng cụ cơ khí. Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng đối với sự tồn tại và phát triển, đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, trong thời gian qua Công ty đã có nhiều nỗ lực phấn đấu để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước. Với mục đích nâng cao hiểu biết của bản thân về vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng trong doanh nghiệp. Qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội tôi đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội”. Kết cấu của khoá luận ngoài lời nói đầu, kết luận gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng trong doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm tại Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng trong doanh nghiệp I. Một số vấn đề chung về chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học và xã hội chất lượng sản phẩm cũng không ngừng được bổ xung hoàn thiện trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống xã hội, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của chất lượng. Hiện nay, vấn đề về chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp được đặt ra một cách nghiêm túc và khắt khe, nhằm ngày càng thỏa mãn hơn nữa yêu cầu của người tiêu dùng. 1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ Trên thực tế tuỳ theo góc độ quan niệm, xem xét của mỗi nước trong từng thời kỳ kinh tế xã hội nhất định và nhằm những mục tiêu khác nhau mà người ta đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm. * Quan điểm của Karl Max (1818-1883) Theo ông: “Người tiêu dùng mua hàng không phải hàng có giá trị mà vì hàng có giá trị sử dụng và thoả mãn những mục đích xác định”. Điều đó nói lên giá trị sử dụng được đánh giá cao (chất lượng cũng như số lượng của sản phẩm được cân, đong, đo đếm). Vậy chất lượng sản phẩm là thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Ngoài ra nó còn biểu thị trình độ giá trị sử dụng của hàng hoá. Dựa vào các đặc điểm này, các nhà kinh tế học của nước xã hội chủ nghĩa trước đây và những nước tư bản chủ nghĩa vào những năm 30 của thế kỷ 20 đã đưa ra nhiều định nghĩa tương tự. Các định nghĩa này xuất phát từ quan điểm của các nhà sản xuất. Theo quan điểm này: “chất lượng sản phẩm là đặc tính kinh tế kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó, đáp ứng nhu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội”. * Quan điểm chất lượng theo khuynh hướng của người sản xuất - “Chất lượng của một sản phẩm nào đó là mức độ mà sản phẩm ấy thể hiện được những yêu cầu, những chỉ tiêu thiết kế hay những quy định riêng cho sản phẩm ấy” - “Chất lượng sản phẩm là những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trước cho nó trong những điều kiện về kinh tế, xã hội”. * Quan điểm chất lượng theo khuynh hướng thoả mãn nhu cầu - Theo quan niệm của tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu( European Organisation for Quality Control). “Chất lượng của sản phẩm là mức độ mà sản phẩm ấy đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng”. - Theo tiêu chuẩn AFNOR 50 – 109 (Pháp) “Chất lượng sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng” - Theo J.Juran( Mỹ): “Chất lượng sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất”. - Theo cơ quan kiểm tra chất lượng của Mỹ: “Chất lượng sản phẩm là toàn bộ đặc tính và đặc trưng của sản phẩm và dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu đã đặt ra”. Để phát huy những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên , tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: - Theo ISO 9000: “Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế, kỹ thuật của nó, thực hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, tên gọi của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”. Dựa vào khái niệm này Cục Đo lường chất lượng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm là một tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn” (Theo TCVN 5814 –1994). Về thực chất những khái niệm này đều phản ánh: Chất lượng sản phẩm là sự kết hợp giữa đặc tính nội tại khách quan của sản phẩm, các chủ quan bên ngoài, là sự phối hợp với khách hàng. Vì vậy những khái niệm hiện nay được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãi. Chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận chất lượng dưới quan điểm của người tiêu dùng. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên các doanh nghiệp không thể theo đuổi chất lượng với bất kỳ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế, xã hội, công nghệ. Vì vậy chất lượng là sự kết hợp các đặc tính của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong những giới hạn về chi phí nhu cầu nhất định.Sự thoả mãn này phải được thể hiện trên cả 3 phương diện (viết tắt là 3P). Performance – perfecty bility: Hiệu năng, khả năng hoàn thiện. Price: Giá cả thoả mãn nhu cầu. Puntuality: Cung cấp đúng thời điểm. 2. Quá trình hình thành chất lượng sản phẩm Chất lượng của một sản phẩm bất kỳ nào cũng được hình thành qua nhiều quá trình theo một trật tự nhất định. Tuy nhiên quá trình hình thành chất lượng sản phẩm xuất phát từ thị trường, trong một chu trình khép kín, vòng sau của chất lượng sẽ hoàn chỉnh hơn. Vòng tròn chất lượng (chu trình hình thành chất lượng sản phẩm) của ISO 9004 - 1987 và tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5204 - 90 được chia thành 2 phân hệ : sản xuất và tiêu dùng, chu trình này được thể hiện trong sơ đồ sau: Sơ dồ 1: Vòng tròn chất lương ISO 9004 – 87, TCVN5204 - 90 Nghiên cứu thị trường triển khai, thiết kế 1 2 Thanh lý sau sử dụng 11 3 3 Cung ứng vật tư Dịch vụ bảo dưỡng 10 Quá trình kế hoach triển khai 4 Lắp ráp vận hành 9 5 Sản xuất 6 Thực nghiệm kiểm tra Bán, Phân phối 8 7 Bao gói, dự trữ - Quá trình 1: Nghiên cứu thị trường: nghiên cứu nhu cầu về số lượng, yêu cầu về chất lượng, mục tiêu kinh tế cần đạt được. - Quá trình 2: Nghiên cứu thiết kế, triển khai thiết kế, xây dựng quy định chất lượng sản phẩm, xác định nguồn nguyên vật liệu, nơi tiêu thụ sản phẩm. - Quá trình 3: Cung cấp vật tư kỹ thuật, xác định nguồn gốc, kiểm tra nguyên vật liệu. - Quá trình 4: Kế hoạch triển khai: Thiết kế dây chuyền công nghệ, sản xuất thử, đầu tư xây dựng cơ bản, dự toán chi phí sản xuất, giá thành, giá bán. - Quá trình 5: Sản xuất, chế tạo sản phẩm hàng loạt. - Quá trình 6: Thử nghiệm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tìm biện pháp đảm bảo chất lượng quy định… chuẩn bị xuất xưởng. - Quá trình 7 : Bao gói, dự trữ sản phẩm. - Quá trình 8: Bán và phân phối. - Quá trình 9: Lắp ráp, vận hành và hướng dẫn sử dụng. - Quá trình 10: Dịch vụ bảo dưỡng. - Quá trình 11: Thanh lý sau sử dụng, trưng cầu ý kiến khách hàng về chất lượng, số lượng của sản phẩm, lập dự án cho các bước sau: ở mỗi giai đoạn trên người ta luôn cần phải thực thi công tác quản lý chất lượng đồng bộ. Trong suốt quá trình người ta không ngừng cải tiến chất lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm đạt hiệu quả ngày càng cao. Vậy quản trị chất lượng sản phẩm là một hệ thống liên tục, đi từ nghiên cứu đến triển khai, tiêu dùng và trở lại về nghiên cứu, chu kỳ sau hoàn hảo hơn chu kỳ trước. 3. Phân loại chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ Dựa vào quá trình hình thành chất lượng sản phẩm người ta chia ra các loại chất lượng sau đây: 3.1. Chất lượng thiết kế Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm được phác thảo qua văn bản, trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường, các đặc điểm của sản xuất, tiêu dùng, đồng thời có thể so sánh với chỉ tiêu chất lượng của các mặt hàng tương tự cùng loại của nhiều hãng, nhiều công ty trong và ngoài nước. 3.2. Chất lượng chuẩn Chất lượng chuẩn hay còn gọi là chất lượng phê chuẩn là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Dựa trên cơ sở nghiên cứu chất lượng thiết kế, các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp… điều chỉnh, xét duyệt những chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm hàng hoá. 3.3. Chất lượng thực tế Chất lượng thực tế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, phương pháp quản lý..v..v. 3.4. Chất lượng cho phép Chất lượng cho phép là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm giữa chất lượng thực với chất lượng chuẩn. Chất lượng cho phép của sản phẩm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - kỹ thuật, trình độ lành nghề của công nhân, phương pháp quản lý của doanh nghiệp. 3.5. Chất lượng tối ưu Chất lượng tối ưu là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đạt được mức độ hợp lý trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nhất định, hay nói cách khác là sản phẩm hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, có khả năng cạnh tranh với nhiều hãng trên thị trường, sức tiêu thụ nhanh đạt hiệu quả cao. Phấn đấu đưa chất lượng sản phẩm của hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là một trong những mục đích quan trọng của quản lý doanh nghiệp nói riêng, quản lý kinh tế nói chung. 4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm Sản phẩm là thực thể đối tượng vật chất hay sản phẩm là một dịch vụ thì có các chỉ tiêu đánh giá chất lượng khác nhau. Các chỉ tiêu đó chính là các thông số kinh tế, kỹ thuật và các đặc tính riêng phản ánh tính hữu ích của sản phẩm. Các chỉ tiêu không tồn tại một cách độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu cụ thể rất khác nhau với những sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn chỉ tiêu khác. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ phải có lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Có rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. Dưới đây là một số nhóm chỉ tiêu cụ thể: 4.1. Chỉ tiêu sử dụng: Đặc trưng cho các tiêu chuẩn xác định, các chức năng chủ yếu của sản phẩm và quy định lĩnh vực sử dụng sản phẩm đó. 4.2. Chỉ tiêu độ tin cậy : Là một chỉ tiêu phức tạp của sản phẩm hàng hoá, nó đặc trưng cho tính chất của sản phẩm liên tục giữ khả năng tin cậy trong một khoảng thời gian . 4.3. Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa con người với sản phẩm trong hoàn cảnh có lợi nhất. 4.4. Chỉ tiêu về độ thẩm mỹ: Đặc trưng cho hình thức mẫu mã của sản phẩm 4.5. Chỉ tiêu về công nghệ: Là khả năng gia công, dễ chế tạo, lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh, bảo đảm tiết kiệm nhất các chi phí. 4.6. Chỉ tiêu về sinh thái: Thể hiện mức độ độc hại của việc sản xuất sản phẩm tác động đến môi trường. 4.7. Chỉ tiêu về an toàn: Đảm bảo cho tính an toàn trong sản xuất cũng như khi sử dụng sản phẩm, đảm bảo sức khoẻ và tính mạng cho người tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm. 4.8. Tính dễ vận chuyển: Đó là khả năng bố trí sắp xếp các container. Tiêu chuẩn đảm bảo dễ vận chuyển bằng đường sắt, đường sông, đường hàng không, đường biển. Ngoài ra, để đánh giá phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, các doanh nghiệp ta còn có các chỉ tiêu tỷ lệ sai hỏng trong sản xuất để so sánh. Số lượng sản phẩm sai hỏng Tỷ lệ sai hỏng (theo hiện vật ) = x 100 Tổng số sản phẩm sản xuất Chi phí sản xuất sản phẩm hỏng Tỷ lệ sai hỏng (theo giá trị) = x 100 Tổng giá thành công xưởng của sản phẩm sản xuất 5. Vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm Nền kinh tế thị trường, với sự tồn tại khách quan của quy luật cạnh tranh đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ doanh nghiệp nào dù muốn hay không cũng đều chịu sự chi phối của quy luật cạnh tranh. Nó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm cách thích ứng với thị trường cả về không gian và thời gian, cả về chất lượng và số lượng. Cạnh tranh là động cơ buộc các doanh nghiệp tìm hiểu các giải pháp nâng các chất lượng sản phẩm hay nói cách khác doanh nghiệp phải có một hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm một hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ. Nâng cao chất lượng sản phẩm là tiêu chuẩn tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm đó. Nâng cao chất lượng sản phẩm là tăng uy tín của doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, mở rộng thị trường tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ nền sản xuất hàng hoá không ngừng phát triển, mức sống con người ngày càng được cải thiện thì nhu cầu về hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Trong điều kiện mà giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất của người tiêu dùng thì chất lượng ngày nay đang là công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với nâng cao tính hữu ích của sản phẩm, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm nhờ hoàn thiện quy trình, đổi mới, cải tiến các hoạt động, giảm lãng phí về phế phẩm hoặc sản phẩm phải sửa chữa. Nâng cao chất lượng sản phẩm làm tăng tính năng sản phẩm, tuổi thọ, độ an toàn của sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng của sản phẩm, tạo uy tín cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, khắc phục được tình trạng sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến ngừng trệ sản xuất, thiếu việc làm đời sống khó khăn. Sản xuất sản phẩm chất lượng cao độc đáo, mới lạ, đáp ứng thị hiếu khách hàng sẽ kích thích tăng mạnh nhu cầu đối với sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiêu thụ nhanh sản phẩm với số lượng lớn, tăng giá trị bán thậm chí có thể giữ vị trí độc quyền đối với sản phẩm mà có ưu thế riêng so với sản phẩm cùng loại. Khi đó doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao sẽ có điều kiện để ổn địng sản xuất, không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm làm cho doanh nghiệp ngày càng có uy tín hơn, sử dụng hiệu quả hơn các yếu tố sản xuất. Khi sản xuất ổn định và lợi nhuận ổn định, doanh nghiệp có điều kiện bảo đảm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho họ, làm cho họ tin tưởng và gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp hết sức mình để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ thoả mãn tốt yêu cầu của người tiêu dùng đối với chính hàng hoá đó, góp phần cải thiện, nâng đời sống, tăng thu nhập thực tế của dân cư bởi vì cùng một khoản chi phí tài chính người tiêu dùng sẽ mua được sản phẩm có giá trị sử dụng cao hơn, thuận tiện hơn. Đứng trên góc độ toàn xã hội, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm tức là đảm bảo sử dụng tiết kiệm hợp lý nguồn nguyên vật liệu, sức lao động, nguồn vốn của xã hội, giảm sức gây ô nhiễm môi trường để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm làm ra không đạt chất lượng sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, sau là gây thiệt hại cho người tiêu dùng, không những thiệt hại về vật chất mà đôi khi còn gây thiệt hại về tính mạng. Sự phát triển của doanh nghiệp có được nhờ tăng chất lượng sản phẩm, nhờ hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp sẽ làm tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Hiện nay, hàng hoá sản xuất ra đang phải cạnh tranh bởi hàng hoá nước ngoài trên thị trường quốc tế và trên cả thị trường trong nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh và góp phần khẳng định vị thế sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN do đó được hưởng ưu thế về thuế quan theo hiệp định ưu đãi về thuế quan chung (CETT), gia nhập tổ chức mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA), tiến tới nước ta sẽ tham gia vào Hiệp định chung về thương mại, thuế quan (GATT) và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do vậy, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới thì cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải cạnh tranh về nhiều mặt. Khi đó lợi thế cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài so với hàng hoá trong nước càng lớn, bởi vậy hàng hoá nước ngoài sẽ trở lên rẻ hơn so với hàng hoá trong nước. Đó là lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng vì tâm lý người tiêu dùng trong nước vẫn thích hàng ngoại hơn hàng nội địa. Vậy tại sao chúng ta không tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt? Muốn vậy mỗi doanh nghiệp cần có một hệ thống quản lý chất lượng tốt đồng bộ có hiệu quả để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo vị thế cho doanh nghiệp trên thị trường. Sơ đồ 2: Biểu diễn chất lượng làm tăng lợi nhuận: Chất Lượng Từ việc đáp ứng đòi hỏi của Từ việc nhận thức được đòi hỏi khách hàng của khách hàng Tăng năng suất Giảm hao phí Tăng hiệu quả sử dụng TSCĐ Giảm chi phí đơn vị sản phẩm Tăng Doanh thu Giảm hao phí Giảm hao phí Giá trị lớn hơn Tăng năng suất Qua đây có thể thấy rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào dù tham gia trên thị trường trong hay ngoài nước, muốn tồn tại và phát triển bền vững thì không còn cách nào khác là phải có một hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy ta có thể khẳng định rằng chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường hiện nay, nâng cao chất lượng là một biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của người tiêu dùng và toàn xã hội. II. mối quan hệ giữa chất lượng, chi phí và hiệu quả sử dụng Chất lượng có vai trò to lớn trong doanh nghiệp, nó đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm làm tăng thêm giá trị sử dụng, làm tăng thêm doanh lợi cho doanh nghiệp, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và có hiệu quả. Ngày nay, do sự đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh về mặt chất lượng mà còn cạnh tranh trên lĩnh vực giá cả. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn coi trọng giá trị chất lượng hơn giá cả, giá cả không còn là yếu tố chủ yếu trong sự lựa chọn của người tiêu dùng. Song nếu một doanh nghiệp sản xuất một sản phẩm có chất lượng cao mà giá cả lại phù hợp thì doanh nghiệp đó sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp do tiết kiệm được hao phí về lao động sống và lao động vật hóa. Làm đúng ngay từ đầu sẽ giảm được số lượng sản phẩm hỏng, chắc chắn sẽ tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ được giá thành, làm cơ sở cho việc hạ giá bán, tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm luôn phải tính đến chi phí đầu ra cho một sản phẩm, nếu không thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm đó chưa chắc đã hiệu quả. Vì nếu chi phí để sản xuất ra một sản phẩm là quá lớn, giá thành quá cao, muốn có lãi doanh nghiệp phải bán với giá cao hơn. Do vậy sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường sẽ giảm xuống so với các hàng hoá cùng loại. Khi đó sản phẩm của doanh nghiệp không tiêu thụ được, hàng hoá tồn kho lớn, vốn bị ứ đọng, vòng quay vốn chậm dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh xấu và thu nhập của người lao động không được ổn định. Mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng là một tất yếu vì giữa nhu cầu và thực tế luôn có khoảng cách, do vậy cần phải giảm khoảng cách này. Một công ty muốn tăng doanh thu thì việc cần thiết phải làm tăng doanh số bán ra của sản phẩm trên thị trường. Muốn vậy, công ty phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa chất lượng và chi phí sao cho chi phí bỏ ra là thấp nhất mà chất lượng sản phẩm vẫn được bảo đảm. Sơ đồ 3: Mối quan hệ giữa chất lượng và chi phí Chi Chi Phí Phí F1 Fsd Fsx Fsx Fsd F2’ F2 F2 F1’ F3 F1 Q3 Q2 Q1 Chất lượng Q2 Q2’ Q1 Q1’ Chất lượng (3a): Quan niệm cũ: “Tiền nào của ấy” (3b): Quan niệm mới: “Hàng tốt, giá rẻ” Tóm lại, khi tìm các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm doanh nghiệp cần phải chú ý đến chi phí sản xuất ra một sản phẩm, điều kiện xã hội, kỹ thuật, công nghệ, mức thu nhập của người tiêu dùng và sức cạnh tranh của thị trường để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá cả phù hợp, được thị trường chấp nhận. Có như vậy việc sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả, doanh nghiệp mới có thể đứng vững được trong nền kinh tế thị trường. III. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Chỉ trên cơ sở xác định được đầy đủ các yếu tố thì mới có thể đề xuất được những biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và tổ chức chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh. Các nhân tố này có thể ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Vì vậy nếu các nhà quản trị nhận thức sâu sắc được sự ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng sản phẩm sẽ đem lại thắng lợi to lớn trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý chất lượng nói riêng của công ty mình. Tuy nhiên các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm được chia thành các nhóm cơ bản sau: 1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 1.1. Các nhân tố vĩ mô a. Các nhân tố chính trị hoặc thể chế Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước, sự quản lý áy thể hiện bằng nhiều biện pháp như kinh tế - kỹ thuật, hành chính - xã hội..v..v..cụ thể hoá bằng nhiều chính sách nhằm ổn định sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng dẫn tiêu dùng, tiết kiệm ngoại tệ như chính sách đầu tư vốn, chính sách về giá, chính sách về thuế, tài chính (bao gồm thuế xuất nhập khẩu), chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoặc cấm đoán đối với một số doanh nghiệp. b. Các nhân tố kinh tế Các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách độc lập trong cơ chế thị trường mà phải luôn có mối quan hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chính sách kinh tế Nhà nước. Tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngân hàng, nguồn cung cấp tiền, các chính sách tiền tệ, các chính sách kinh tế chính là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, hiệu lực của cơ chế quản lý còn đảm bảo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nước, giữa khu vực quốc doanh, khu vực tập thể, khu vực tư nhân, giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. c. Các nhân tố xã hội Ngoài một số yếu tố mang tính khách quan ở trên thì yếu tố về phong tục, văn hoá, tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân tộc, cấu trúc nghành nghề, tôn giáo, mức sống, khả năng thanh toán, thói quen tiêu dùng (thị hiếu) của từng vùng lãnh thổ, từng thị trường cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng đối với chất lượng sản phẩm. Do đó, các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên cứu các yếu tố xã hội, nghiên cứu thị trường để đưa ra các sản phẩm hợp với từng loại thị trường vì có sản phẩm không được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại được đánh giá không cao ở thị trường khác. d. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện đại trên quy mô toàn thế giới. Cuộc cách mạng này đang thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Do vậy, chất lượng của bất kỳ một sản phẩm nào cũng gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại. Chu kỳ công nghệ của sản phẩm được rút ngắn, công dụng của sản phẩm này càng đa dạng, phong phú, vì vậy không bao giờ thoả mãn được với mức chất lượng hiện tại, mà phải thường xuyên theo dõi biến động của thị trường về sự đổi mới của khoa học kỹ thuật liên quan đến nguyên vật liệu, kỹ thuật, công nghệ, thiết bị... để điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển doanh nghiệp. e. Các nhân tố tự nhiên Đây là yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm: Bao gồm vị trí địa lý, thời tiết khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, mưa, gió... ở nơi sản xuất cũng như nơi tiêu dùng. Các nhà quản trị cần nắm rõ đặc điểm về sản phẩm của Công ty mình để lựa chọn một môi trường phù hợp, có như vậy mới thu hút được đông đảo khách hàng cho Công ty. 1.2. Các nhân tố trực diện a. Đối thủ cạnh tranh Bất kỳ một doanh nghiệp nào, nếu muốn giữ vững được vị thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thì không thể không quan tâm đến đối thủ cạnh tranh của mình. Đó là các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông cùng một loại sản phẩm hàng hóa tương tự, hoặc là các sản phẩm mới có thể thay thế các sản phẩm hiện có hiện có của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải am hiểu cả những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, đó là những đối thủ mới ra hoặc sắp ra trên thị trường. Do vậy, ._.hiểu biết về đối thủ cạnh tranh để từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển và đứng vững trên thị trường. b. Người cung cấp Chất lượng sản phẩm bao giờ cũng gắn liền với các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... Lựa chọn được nhà cung cấp hợp lý với nguyên vật liệu bảo đảm, giá thành phù hợp chính là nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng sản phẩm. c. Khách hàng Không phải chỉ duy nhất người tiêu dùng mới là khách hàng của một doanh nghiệp mà ngoài ra còn có người sản xuất cần mua sản phẩm của doanh nghiệp để tiếp tục sản xuất, người lưu thông cần mua sản phẩm của doanh nghiệp để bán. Do đó, khách hàng là người phán xét chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp một cách chính xác nhất. Song thực tế không phải khách hàng nào cũng đánh giá chất lượng sản phẩm của công ty giống nhau, mỗi người có một nhận thức khác nhau về sản phẩm, nhu cầu đòi hỏi của khách hàng về sản phẩm cũng khác nhau. Chính vì vậy, khách hàng được coi là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng sản phẩm. Thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng chính là tìm ra biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.3. Các nhân tố quốc tế Ngoài các nhân tố trên thì nhân tố quốc tế cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm vì nhân tố quốc tế chi phối các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. 2. Các nhân tố bên trong Đây là nhân tố nằm trong tầm kiểm soát của doanh nghiệp, do vậy để đảm bảo việc nâng cao chất lượng sản phẩm có hiệu quả thì doanh nghiệp phải quản lý các nhân tố này. 2.1. Các yếu tố nguyên vật liệu. Đây là yếu tố cơ bản của đầu vào có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm vì nguyên vật liệu tham gia trực tiếp vào cấu thành sản phẩm. Muốn có sản phẩm đạt chất lượng (theo yêu cầu của thị trường, thiết kế...) thì nguyên vật liệu để chế tạo sản phẩm phải đảm bảo những yêu cầu về chất lượng. Mỗi sản phẩm được tạo ra từ những nguyên vật liệu khác nhau, vì vậy chủng loại, cơ cấu tính đồng bộ của chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Do đó doanh nghiệp còn kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu khi mua nhập kho trước khi sử dụng, đảm bảo đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng kỳ hạn, có như vậy sản xuất mới chủ động ổn định quá trình sản xuất và thực hiện đúng kế hoạch chất lượng. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải quan tâm đặc biệt đến khâu dự trữ, bảo quản nguyên vật liệu, tránh không để cho nguyên vật liệu xuống cấp. Ngoài ra chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên vật liệu trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài hiểu biết tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng. 2.2. Nhóm yếu tố kỹ thuật công nghệ, thiết bị Nếu yếu tố nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản quyết định tính chất và chất lượng sản phẩm thì nhóm yếu tố kỹ thuật công nghệ thiết bị lại có tầm quan trọng đặc biệt quyết định việc hình thành chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất hàng hoá, người ta sử dụng và phối trộn nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau về thành phẩm, tính chất, công dụng. Nắm vững được đặc tính của nguyên vật liệu để thiết kế sản phẩm là điều cần thiết song trong quá trình chế tạo, việc theo dõi, kiểm soát chất lượng sản phẩm theo tỷ lệ phối trộn là điều quan trọng để mở rộng mặt hàng, thay thế nguyên vật liệu, xác định đúng đắn các chế độ gia công để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Quá trình công nghệ là quá trình phức tạp, vừa làm thay đổi ít nhiều hoặc bổ xung, cải thiện nhiều tính chất ban đầu của nguyên vật liệu theo hướng sao cho phù hợp với công dụng của sản phẩm. Vì vậy, nó có ảnh hưởng lớn quyết định đến chất lượng sản phẩm. Ngoài yếu tố kỹ thuật công nghệ cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị, khi kỹ thuật và công nghệ được đổi mới nhưng thiết bị cũ kỹ thì không thể nào nâng cao được chất lượng sản phẩm. Hay nói cách khác, nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị có mối quan hệ khá chặt chẽ, không chỉ góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hoá chủng loại nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. 2.3. Nhóm yếu tố phương pháp tổ chức quản lý Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Các chuyên gia quản lý chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có 80% những vấn đề chất lượng là do quản trị gây ra. Vì vậy nói đến quản trị chất lượng ngày nay trước hết người ta cho rằng đó là chất lượng của quản trị. Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, kỹ thuật - công nghệ thiết bị và người lao động dù có ở trình độ cao nhưng không biết tổ chức quản lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng ăn khớp giữa các khâu, giữa các yếu tố của quản trị sản xuất thì không thể tạo ra một sản phẩm có chất lượng cao được. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản lý, khả năng xây dựng chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch chất lượng, Ngày nay, các Công ty phải nhận thấy được chất lượng sản phẩm là một vấn đề hết sức quan trọng thuộc trách nhiệm của toàn bộ Công ty chứ không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm hoặc một cá nhân nào được. 2.4. Nhóm yếu tố con người Dù cho sản xuất có được tự động hoá thì con người vẫn là yếu tố quyết định đến chất lượng hàng hoá dịch vụ. Trong chế tạo có thể tự động nhưng còn bao nhiêu công việc máy móc chưa thay thế được con người. Nghiên cứu nhu cầu, ý đồ thiết kế sản phẩm (sáng tạo trong thiết kế), tổ chức sản xuất, tổ chức bán hàng. Doanh nghiệp phải biết tạo nên một tập thể lao động có trình độ chuyên môn giỏi, có tay nghề thành thạo, khéo léo, nắm vững quy trình sản xuất và sử dụng máy móc thiết bị, có kiến thức quản lý, có khă năng sáng tạo cao. Cần có những chương trình đào tạo huấn luyện người lao động thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm một cách tự nguyện chứ không phải bắt buộc, để từ đó mới phát huy được chất lượng công việc và tính chất quyết định đối với chất lượng hàng hoá dịch vụ. Tóm lại, sự phân chia các yếu tố trên chỉ là tương đối nhưng tất cả lại nằm trong một thể thống nhất và trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Sơ đồ sau sẽ phản ánh những yếu tố trên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong phạm vi một doanh nghiệp như thế nào. Sơ đồ 4: Quy tắc 4M (Materials) Nguyên Vật Liệu Năng lượng (Men) Lãnh đạo cán bộ công nhân viên người tiêu dùng (Men) Lãnh đạo cán bộ công nhân viên người tiêu dùng (Methods) Phương pháp tổ chức quản lý (Machines) Kỹ thuật – Công nghệ Thiết bị Ngoài những yếu tố cơ bản trên, còn có một khía cạnh nhỏ nữa cũng ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp đó là: Bề dày lịch sử của doanh nghiệp. Vẫn biết rằng chất lượng và giá cả đang là yếu tố quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng nhưng rõ ràng sơ của doanh nghiệp danh tiếng sẽ được khách hàng chú ý hơn so với những sản phẩm mới lạ của những doanh nghiệp chưa có tiếng tăm. Khi mua sản phẩm của những doanh nghiệp này họ sẽ có cảm giác rằng chất lượng của doanh nghiệp đó được bảo đảm. IV. Quản trị chất lượng trong doanh nghiệp 1. Khái niệm, thực chất, vai trò của quản trị chất lượng sản phẩm 1.1. Khái niệm về quản trị chất lượng. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản trị chất lượng. Tuy nhiên, khái niệm này có nhiều điểm tương đồng và phản ánh được bản chất của quản trị chất lượng. Khoa học của quản trị chất lượng được hình thành và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp phức tạp của vấn đề chất lượng. Vào những năm đầu thế kỷ XX chưa có khái niệm về quản trị chất lượng mà chỉ có khái niệm về kiểm tra chất lượng: Là việc cung ứng các phương thức, các thủ tục, các kiến thức đảm bảo cho sản phẩm đang hoặc sẽ sản xuất phù hợp các yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất với sự tham gia của các chuyên gia. Sau những năm 50, cung bắt đầu lớn hơn cầu trên thị trường điều đó khiến các doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn, khái niệm quản trị chất lượng bắt đầu xuất hiện. Quan điểm phương Tây cho rằng: “Quản trị chất lượng là một hệ thống hoạt động có hiêụ quả của những bộ phận khác nhau trong những tổ chức, trong một đơn vị kinh tế, chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng”. Theo quan điểm của Nhật: “Quản trị chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất, tạo điều kiện kinh tế nhất những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp” Vào những năm của thập kỷ 70, sự cạnh tranh tăng lên đột ngột đã buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niệm về quản trị chất lượng trong hang loạt các doanh nghiệp lớn trên thế giới, đặc biệt ở Nhật và Mỹ và các nước Tây Âu phát triển đã tạo ra một cuộc cách mạng sản phẩm trên thế giới. Người ta đã biết đến quản trị chất lượng theo phương pháp hiện đại dưới những cái tên quen thuộc được phổ biến rộng rãi ở Nhật và phương Tây như quản trị chất lượng đồng bộ (TQM) Theo quan niệm phương Tây: TQM là một hệ thống có hiệu quả thống nhất hoạt động của các bộ phận khác nhau, chịu trách nhiệm triển khai, duy trì mức độ đạt được, nâng cao mức chất lượng để sử dụng sản phẩm ở mức kinh tế nhất, nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng với vai trò kiểm tra quan trọng của các chuyên gia. Theo giáo sư người Nhật Hitoshikume: “TQM là một dụng pháp quản trị đưa đến thành công, tạo thuận lợi cho tăng trưởng bền vững của một tổ chức thông qua việc huy động hết tất cả tâm trí của tất cả các thành viên nhằm tạo ra chất lượng một cách kinh tế theo yêu cầu của khách hàng”. Theo tiêu chuẩn ISO 8402:1994 (Hay TCVN 5814:1994): “ TQM là cách quản trị một tổ chức (một doanh nghiệp) tập trung vào chất lượng, dựa vào sự tham gia của các thành viên của nó nhằm đạt được sự thành công lâu dài nhờ việc thoả mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành viên của tổ chức đó và cho xã hội.” Đặc điểm lớn nhất của TQM là một thay đổi triết lý trong quản trị kinh doanh. Chất lượng là số một chứ không phải là lợi nhuận nhất thời. Khẩu hiệu “Chất lượng là số một” có khía cạnh đạo đức của nó là, đi cùng với việc tổ chức kinh doanh các doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm, đạo đức với xã hội. Tuy nhiên đây không phải là mục tiêu trực tiếp của TQM mà là cách tiếp cận quản lý dựa trên việc đặt chất lượng là số một. TQM là phương pháp bảo đảm lợi nhuận lâu dài. Vì vậy, TQM giành cho những ưu tiên đòi hỏi của khách hàng bằng đề xuất những sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn cùng với nó là việc giảm chi phí, những cố gắng giảm chi phí sau khi yêu cầu về chất lượng đã đạt. Như vậy, mặc dù các tác giả có những cách lập luận khác nhau song đều nhìn nhận giống nhau: “Quản trị chất lượng sản phẩm là hệ thống các biện pháp nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất có hiệu quả kinh tế cao nhất, được tiến hành ở tất cả các quá trình hình thành chất lượng sản phẩm (chu kỳ sống của sản phẩm-nghiên cứu - thiết kế - sản xuất - vận chuyển - bảo quản - tiêu dùng)” 1.2. Thực chất quản trị chất lượng Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ tìm con đường đạt tới một cách hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu khách hàng, với chi phí tối ưu. Đó chính là sự kết hợp nâng cao những đặc tính kinh tế, kỹ thuật hữu ích của sản phẩm, đồng thời với giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để mở rộng thị trường. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp phản ứng nhanh với nhu cầu thị trường, mặt khác góp phần giảm chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực chất quản trị chất lượng là tập hợp tất cả hoạt động của chức năng quản trị như: hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Nói cách khác quản trị chất lượng chính là chất lượng quản trị. Đó chính là một hoạt động tổng hợp về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tổ chức. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố xã hội, công nghệ và tổ chức được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ ràng buộc với nhau, trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm được đảm bảo. Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kỹ thuật biểu thị mức độ nhu cầu thị trường, một hệ thống tổ chức điều khiển và hệ thống chính sách khuyến khích phát triển chất lượng, chất lượng được duy trì đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản trị chất lượng Quản trị chất lượng hiện đại cho rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Vì vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, để duy trì vị trí của mình trong các cuộc cạnh tranh, việc quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp đòi hỏi phải dựa trên một hệ thống mang tính liên tục thực hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Ngày nay, khi quy mô hoạt động của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, quy trinhg công nghệ phức tạp, phụ thuộc lẫn nhau giữa các bộ phận, công đoạn càng được phối hợp chặt chẽ hơn, chất lượng hoạt động của quá trình sau tuỳ thuộc vào quá trình trước đó. 1.3. Vai trò của quản trị chất lượng Quản trị chất lượng được thực hiện một cách liên tục thông qua triển khai vòng tròn quản lý hay còn gọi là bánh xe Deming(vòng tròn PDCA). Dưới góc độ quản trị vòng tròn PDCA là trình tự cần thiết khi thực hiện bất cứ một công việc nào như tổ chức một buổi họp, đi dự một hội thảo, sắp xếp nhân sự trong phòng lớn hơn như xây dựng chính sách chất lượng trong doanh nghiệp. Sơ đồ 5: Vòng tròn PDCA P: Hoạch định A P (Ation) (plan) C D (Check) (Do) A: Điều chỉnh D: Thực hiện C: Kiểm tra * Hoạch định chất lượng Đây là giai đoạn đầu tiên của quản trị chất lượng. Hoạch định chất lượng chính xác, đầy đủ sẽ giúp định hướng tốt các hoạt động tiếp theo bởi vì tất cả chúng đều phụ thuộc vào kế hoạch. Nếu kế hoạch ban đầu được xây dựng tốt thì sẽ có ít các hoạt động cần điều chỉnh và các hoạt động sẽ được điều khiển một cách có hiệu quả hơn. Hoạch định chất lượng được coi là chức năng quan trọng nhất cần ưu tiên hàng đầu hiện nay. Hoạch định chất lượng là hoạt động xác minh mục tiêu chất lượng sản phẩm. Hoạch định chất lượng cho phép xác định mục tiêu, phương hướng phát triển chất lượng cho toàn công ty theo một hướng thống nhất. Tạo điều kiện khai thác sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực và tiềm năng trong dài hạn góp phần giảm chi phí cho chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp các công ty chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới. Hoạch định chất lượng còn tạo ra một sự chuyển biến căn bản về phương pháp quản trị chi phí giữa các doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của hoạch đinh chất lượng sản phẩm mới bao gồm: - Xác lập mục tiêu chất lượng tổng quát và chính sách chất lượng - Xác định khách hàng - Xác định đặc điểm của sản phẩm thoả mãn nhu cầu khách hàng - Phát triển những quy trình có khả năng tạo những đặc điểm của sản phẩm. - Chuyển giao các kết quả hoạch định cho bộ phận tác nghiệp * Tổ chức thực hiện Sau khi hoàn thành chức năng hoạch định thì chuyển sang tổ chức thực hiện chiến lược đã hoạch định. Thực chất quá trình này là quá trình điều khiển các hoạt động thông qua kỹ thuật, phương tiện, phương pháp cụ thể nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm theo đúng yêu cầu kế hoạch đề ra. Tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định đến việc biến các kế hoạch chất lượng thành hiện thực. Những bước sau đây cần tiến hành theo trật tự nhằm đảm bảo các kế hoạch sẽ được điều khiển một cách hợp lý, mục đích yêu cầu đặt ra với các hoạt động triển khai là: - Đảm bảo rằng mọi người có trách nhiệm thực hiện các kế hoạch, nhân thức một cách đầy đủ các mục tiêu và sự cần thiết của chúng. - Giải thích cho mọi người biết chính xác những nhiệm vụ kế hoạch chất lượng cụ thể cần thiết phải thực hiện - Cung cấp đầy đủ các nguồn lực ở những nơi và những lúc cần thiết có những phương tiện kỹ thuật dùng để kiểm soát chất lượng. - Tổ chức những chương trình giáo dục và đào tạo, cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết đối với việc thực hiện kế hoạch. Trên thực tế vấn đề đào tạo và huấn luyện về chất lượng là một yếu tố quan trọng trong quản trị chất lượng. Giáo sư ISHIKAWAORU - người đã có công tạo ra cái gọi là chất lượng Nhật Bản” đã nói: “Quản trị chất lượng bắt đầu bằng giáo dục và kết thúc cũng bằng giáo dục”. Qua đào tạo huấn luyện mà nâng cao kỹ thuật cho mọi thành viên, họ xác định được nguyên nhân gây nên sai sót để có biện pháp ngăn ngừa, họ biết cải tiến và hoàn thiện quy trình sản xuất, biến lượng hoá những vấn đề liên quan đến chất lượng. Quá trình đào tạo trong một doanh nghiệp cần phải được tiến hành liên tục, nhằm trang bị những kiến thức về công nghệ, môi trường, sáng tạo cho các cấp những khả năng chủ động trong quản trị. Sơ đồ 6: Chu kỳ đào tạo huấn luyện về chất lượng Chính sách chất lượng Đào tạo Phân công trách nhiệm Kiểm định tính hiệu lực Xác định mục tiêu Đánh giá kết quả XD công tác tổ chức Thực thi và Theo dõi Nêu nhu cầu đào tạo về CL Chương trình và tư liệu * Kiểm tra Để đảm bảo đúng mục tiêu chất lượng dự kiến được thực hiện theo đúng yêu cầu kế hoạch đặt ra trong quá trình tổ chức thực hiện cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng. Kiểm tra chất lượng là hoạt động theo dõi tu nhập phát hiện và đánh giá những trục trặc khuyết tật của sản phẩm và dịch vụ được tiến hành trong mọi khâu xuyên suốt đời sống của sản phẩm. Mục đích kiểm tra không phải là tập trung vào phát hiện các sản phẩm hỏng, loại xấu ra khỏi tốt mà là những trục trặc khuyết tật ở mọi khâu, mọi công đoạn, mọi quá trình tìm kiếm những nguyên nhân gây ra trục trặc khuyết tật đó để có những biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm tra chất lượng là: - Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức độ chất lượng đạt được trong thực tế của doanh nghiệp. - So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện sai lệch trên các phương tiện kinh tế kỹ thuật. - Phân tích thông tin về chất lượng tạo cơ sở cho cải tiến và khuyến khích cải tiến chất lượng sản phẩm. Khi tiến hành kiểm tra các kết quả thức hiện kể hoạch cần đánh giá hai vấn đề cơ bản đó là mức độ tuân thủ nghiêm túc kế hoạch đã vạch ra, tính chính xác, đầy đủ và tính khả thi của kế hoạch. Thông thường có hai loại kiểm tra là : Kiểm tra thường hàng tháng hay kiểm tra định kỳ và kiểm tra định kỳ vào cuối năm kinh doanh. Trong hoạt động kiểm tra chất lượng tập trung vào kiểm tra định kỳ. Xác định mức độ biến thiên của quá trình và những nguyên nhân làm chệch hướng các chỉ tiêu chất lượng. Phân tích phát hiện các nguyên nhân ban đầu, nguyên nhân trực tiếp để xoá bỏ chúng, phòng ngừa sự tái diễn. * Hoạt động điều chỉnh và cải tiến Hoạt động điều chỉnh nhằm làm cho các hoạt động của hệ thống doanh nghiệp có khả năng thực hiện được những tiêu chuẩn chất lượng đề ra, đồng thời cũng là hoạt động đưa chất lượng sản phẩm thích ứng với tình hình mới, nhằm giảm dần khoảng cách mong muốn của khách hàng với thực tế chất lượng đạt được, thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức độ cao hơn. Các bước công nghệ chủ yếu: - Xác định những đòi hỏi cụ thể về cải tiến chất lượng từ đó xây dựng những dự án cải tiến chất lượng. - Cung cấp các nguồn lực cần thiết như tài chính, kỹ thuật lao động. - Động viên đào tạo và khuyến khích quá trình thực hiện dự án cải tiến chất lượng. Khi chỉ tiêu không đạt được cần phải phân tích tình hình nhằm xác định xem vấn đề thuộc về tài chính hay thực hiện kế hoạch, xem xét thận trọng để tìm ra chính xác cái gì sai để điều chỉnh. Khi cần thiết có thể điều chỉnh mục tiêu chất lượng. Thực chất đó là quá trình cải tiến chất lượng cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới của doanh nghiệp. Quá trình cải tiến theo các bước sau: - Thay đổi quá trình nhằm giảm khuyết tật. - Thực hiện công nghệ mới. - Phát triển sản phẩm mới, đa dạnh hoá sản phẩm. Yêu cầu đặt ra đối với cải tiến chất lượng là tiến hành cải tiến đặc điểm của sản phẩm, đặc điểm quá trình nhằm giảm sai sót, trục trặc trong quá trình thực hiện và giảm khuyết tật trong sản phẩm. 2. Nội dung quản trị chất lượng 2.1. Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế. Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Để thực hiện mục tiêu đó, cần phải thực hiện những nhiệm vụ quan trọng sau: - Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các nhà quản trị Marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản đồ thiết kế với lợi ích của sản phẩm đó. - Đưa các phương án khác nhau về các đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Đặc điểm của sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ hay cải tiến những đặc điểm cũ cho thích hợp với đòi hỏi mới hay từ nghiên cứu thiết kế ra những đặc điểm hoàn toàn mới. - Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm trọn ra phương án tối ưu. - Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã chọn. Các đặc điểm của sản phẩm thiết kế phải đáp ứng các yêu cầu sau: + Đáp ứng nhu cầu khách hàng. + Thích ứng với khả năng. + Đảm bảo tính cạnh tranh. + Tối thiểu hoá chi phí. - Phân tích về kinh tế: Là quá trình đánh giá mối quan hệ giữa lợi ích mà các đặc điểm sản phẩm đưa ra với chi phí cần thiết để ra chúng. - Những chỉ tiêu chủ yếu cần kiểm tra: + Trình độ chất lượng, số lượng. + Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và thiết bị chế thử. + Hệ só khuyết tật của sản phẩm chế thử, chất lượng cho sản xuất hàng. 2.2.Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng Mục tiêu của quản trị chất lượng trong khâu cung ứng nhằm đáp ứng đúng chung loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu, đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên liên tục với chi phí thấp nhất. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng bao gồm những nội dung sau: - Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng vật tư, nguyên liệu. - Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ thường xuyên cập nhật - Thoả thuận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng - Thoả thuận về phương pháp kiểm tra xác minh - Xác định các phương pháp giao nhận - Xác định rõ ràng đầy đủ thống nhất các điều khoản trong giải quyết những trục trặc, khiếm khuyết. 2.3. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất Mục đích của quản trị chất lượng trong khâu này là khai thác huy động hiệu quả của các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Để thực hiện mục tiêu trên quản trị chất lượng trong giai đoạn này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Cung ứng vật tư, nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng chủng loại, thời gian địa điểm. - Kiểm tra chất lượng vật tư nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất. - Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn quy trình, thủ tục thao tác thực hiện từng công việc. - Kiểm tra chất lượng các chi tiết bộ phận, bán sản phẩm theo từng công đoạn. Phát hiện sai sót, tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ. - Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh - Kiểm tra hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra đo lường chất lượng. - Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ, duy trì bảo dưỡng kịp thời * Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét trong giai đoạn sản xuất bao gồm: - Thông số kỹ thuật của các chi tiết bộ phận, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn chỉnh. - Các chỉ tiêu về tình hình kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật lao động trong các bộ phận cả hành chính và sản xuất. - Các chỉ tiêu chất lượng quản trị và nhà quản trị. - Các chỉ tiêu về tổn thất thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động, quy trình công nghệ. 2.4. Quản trị chất lượng trong và sau khi bán hàng Mục tiêu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là nhằm đảm bảo thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng cho doanh nghiệp. Ngoài mục tiêu trên nhiều doanh nghiệp còn thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động dịch vụ sau bán hàng. Vì vậy những năm gần đây công tác bảo đảm chất lượng trong giai đoạn này được các doanh nghiệp rất chú ý, mở rộng phạm vi và tính chất các hoạt động dịch vụ. Nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là: - Tạo danh mục sản phẩm hợp lý. - Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi nhanh chóng. - Thuyết minh hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều kiện sử dụng, quy trình quy phạm sử dụng sản phẩm. - Nghiên cứu đề suất những phương án bao gói vận chuyển bảo quản, bốc dỡ hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành. - Tổ chức bảo quản sản phẩm, khuyến mại sản phẩm để khuyến khích khách hàng mua nhiều, mua với khối lượng lớn. - Tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp V. Một số công cụ quản trị chất lượng Quản trị chất lượng sử dụng nhiều công cụ khác nhau để đảm bảo và nâng có chất lượng sản phẩm. Dưới đây là một số công cụ tiêu biểu. 1. Phiếu kiểm tra (check sheets) * Nội dung: Phiếu kiểm tra là mẫu ghi nhận dữ liệu đơn giản, ghi lại các thông tin ban đầu về tất cả các sai sót của sản phẩm hoặc công việc của mọi người lao động, mọi công việc, mọi chi tiết trên sản phẩm. 2. Biểu đồ Pareto (Pareto diagrams) * Nội dung: Biểu đồ Pareto vẽ trên đồ thị tình trạng sai hỏng khác nhau để phát hiện những nguyên nhân chính, từ đó tập trung giảm các khuyết tật sai sót. * ý nghĩa: Biểu đồ Pareto giúp ta phân tích và xác định nguyên nhân chủ yếu của chất lượng kém. 3. Biểu đồ nhân quả (Cause and effect diagrams) * Nội dung: Biểu đồ nhân quả vẽ ra một sơ đồ có dạng xương cá thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng để phát hiện những trọng tâm cần xử lý và giải quyết. * ý nghĩa: Biểu đồ nhân quả có thể khai thác triệt để sự tham gia của nhiều bộ phận vào việc giải quyết vấn đề. Biểu đồ nhân quả giải quyết vấn đề chặt chẽ lôgíc 4. Biểu đồ mật độ (Histograms) * Nội dung: Thể hiện tình trạng chất lượng được so sánh với các giới hạn (giới hạn trên, dưới). * ý nghĩa: Biểu đồ mật độ có thể kiểm soát chất lượng do những đột biến gây ra. Ngoài những công cụ trên thì quản trị chất lượng còn một số công cụ thống kê khác tuy nhiên về mặt hiệu quả không bằng những công cụ nêu trên. VI. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm 1. Về phía Nhà nước Cần tổ chức những chương trình đào tạo và giáo dục, cung cấp kiến thức kinh nghiệm cần thiết đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm.Nhà nước nên có nhiều văn bản chỉ thị về phương hướng biện pháp, chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm. Riêng trong hệ thống chỉ tiêu giá trị sản phẩm hàng hoá thực hiện đã buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Trong phân phố lợi nhuận, Nhà nước có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội chợ các mặt hàng có chất lượng cao và trao giải thưởng cho các mặt hàng đạt chất lượng cao nhất, mẫu mã đẹp nhất. Nhà nước nghiêm cấm nhập lậu và có biện pháp thích đáng đối với những cơ sở sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng. Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. 2. Về phía doanh nghiệp Bao gồm hệ thống các biện pháp sau: - Sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế như tăng cường khen thưởng vật chất và trách nhiệm đối với sản phẩm sảm xuất ra, có biện pháp kỷ luật thích đáng đối với công nhân làm sai hỏng không đúng tiêu chuẩn chất lượng. - Nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ chính trị tư tưởng tự kiểm tra cho công nhân. Đào tạo nâng cao tay nghề chuyên môn nghiệp vụ cho họ. - Đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu đúng quy cách, chủng loại, chất lượng, thời gian vận chuyển và bảo quản. Thiết lập mối quan hệ có uy tín đối với nhà cung ứng nguyên vật liệu và với khách hàng. - Cần áp dụng các biện pháp kiểm tra với quy mô sản xuất phù hợp với từng mặt hàng, có kỹ thuật kiểm tra đúng đắn. - Cải tiến và hoàn thiện bộ máy tổ chức trong doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm của các cán bộ quản lý, động viên toàn thể công nhân trong doanh nghiệp tham gia vào quản lý chất lượng sản phẩm. Không ngừng phổ biến các kiến thức, kinh nghiệm về nâng cao chất lượng sản phẩm. Cử cán bộ KCS đi học để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ kiểm tra. - Các biện pháp kỹ thuật: Kiểm tra nghiêm ngặt sự tôn trọng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Đảm bảo các sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng đầy đủ các thông số kỹ thuật đã đề ra. Chương 2 Thực trạng chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu * Giới thiệu về công ty - Tên giao dịch quốc tế: export mechanical tool joint stock company - Địa chỉ: 229 Tây sơn - Đống Đa - Hà Nội - Diện tích mặt bằng: 25.000 m2 - Tổng số lao động: 627 người I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội ra đời và phát triển trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã sớm có những bước đi vững chắc hiệu quả cao trước khi có sự đổi mới về chính sách và phát triển kinh tế. Đây là một công ty lớn có lịch sử phát triển tương đối lâu dài và đã trải qua một số giai đoạn sau: - Giai đoạn 1960 – 1965: Giai đoạn khởi đầu và định hướng phát triển Tổng số lao động khoảng trên dưới 100 người, tổng diện tích sản xuất là 600 m2 Ngày 18/11/1960 Công ty dụng cu cơ khí xuất khẩu chính thức được thành lập song quy mô còn rất nhỏ và có._.vậy việc bảo quản nguyên vật liệu trong quá trình lưu kho, phải hết sức chặt chẽ nếu không đây chính là nguyên nhân trực tiếp dãn đến chất lượng giảm sút. Giá mua nguyên vật liệu cao dẫn đến giá thành sản phẩm còn rất cao. 3.2. Nguyên nhân chủ quan Việc quản lý máy móc thiết bị của Công ty cũng chưa tốt, chưa sử dụng được hết công suất của máy móc, ý thức giữ gìn bảo quản máy móc cũng chưa tót, người công nhân vẫn chưa coi trọng máy móc thiết bị chính là phương tiện để nuôi sống mình, không chăm lo bảo quản, lau chùi, tra dầu mỡ xiết bu lông, chưa kịp thời phát hiện những chỗ hỏng hóc để sửa chưa ngay mà chỉ biết cho máy làm việc cho đến khi hỏng hẳn. Công tác bảo dưỡng, kiểm tra định kỳ cũng chưa được coi trọng nên khi máy móc hỏng hẳn mới đem ra sửa chữa. Do vậy máy móc hỏng đi hỏng lại rất nhiều lần và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Cán bộ KCS tuy có kinh nghiệm nhưng lại thiếu những máy móc thiết bị hiện đại trợ giúp công tác kiểm tra chất lượng. ị Qua nghiên cứu thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu ta thấy rằng Công ty muốn đứng vững và phát triển được trong cơ chế thị trường hiện nay, muốn có được thế mạnh để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác sản xuất cùng loại hàng và cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì Công ty cần phải hoàn thiện và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Chương 3 Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm tại Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu Mục tiêu của chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm - Nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhiệm vụ mang tính chiến lược không riêng gì của Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu mà là mục tiêu chung của tất cả các doanh nghiệp sản xuất hiện nay nếu muón tồn tại và phát triển, bởi với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và với xu hướng quốc tế hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, kéo theo sự cạnh trang gay gắt, thì chất lượng và việc nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ có vai trò quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp. - Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu là một Công ty đã được cổ phần hoá từ nhiều năm trở lai đây chính vì vậy trong nhiều năm qua Công ty đã không ngừng cố gắng để phát triển, đặc biệt là Công ty đã nhận thấy tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nên Công ty luôn lấy chất lượng là mục tiêu phấn đấu, và coi chất lượng và nâng cao chất lượng là một trong những chiến lược quan trọng để phát triển sản xuất. - Qua thời gian thực tập tại Công ty trên cở sở tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thực trạng về chất lượng sản phẩm của Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu, tôi xin được mạnh dạn trình bày một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty như sau: 1. áp dụng hệ thông quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 – 2000, Duy trì thực hiện hệ thông quản lý chất lượng đồng bộ TQM Hiện nay, trong tất cả các doanh nghiệp trong cả nước hầu hết đều áp dụng hai hệ thống quản lý chất lượng chính * Hệ thống đảm bảo chất lượng theo ISO 9001 – 2000 * Hệ thống đảm bảo chất lượng theo TQM Tại Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO vào tháng 8 năm 2003. Tuy nhiên bên cạnh đó Công ty vẫn phải tiếp tục áp dụng những kỹ thuật quản lý và tác nghiệp cụ thể về chất lượng vì chất lượng đóng vai trò là sự tồn tại và phát triển của Công ty. Nói cách khác, không chỉ áp dụng quản lý chât lượng theo ISO 9001 mà Công ty cần phải áp dụng cả phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ TQM. Trong quá trình áp dung hệ thống theo tiêu chuẩn ISO 9001 – mô hình để bảo đảm chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Đây là một quá trình phức tạp đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty mà trước hết là sự quan tâm và cam kết của lãnh đạo. Việc áp dụng hệ thông quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 đã mang lại cho Công ty rất nhiều thuận lợi trong việc ký kết hợp đồng, mang lại lòng tin cho cho khách hàng, và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước… Qua phân tích với những lợi ích mà hệ thống này mang lại thì Công ty nên tiếp tục duy trì và hoàn thiện hệ thống này, tạo nên một không khí làm việc chung cho toàn Công ty. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì: - Việc áp dụng hệ thông quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 là cơ sở, là căn cứ để sản phẩm của Công ty có thể thâm nhập vào một số thị trường như thị trường Mĩ, thị trường EURO (với những thị trường này việc tín nhiệm chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 là yêu cầu bắt buộc). Song việc nhận chứng nhận ISO 9001 chỉ giúp Công ty có những thuận lợi trong những giao dịch ban đầu còn những giao dịch tiếp theo thì phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm có thoả mãn được nhu cầu của khách hàng hay không, khi đó họ chỉ quan tâm đến chất lượng, giá cả và thời hạn mà không quan tâm đến hệ thống văn bản của Công ty nữa, họ chỉ cần biết nó được bảo đảm ổn định. Vì vậy Công ty không những cần cố gắng hơn nữa trong quản lý chất lượng theo ISO 9001 mà còn nâng cao việc áp dung hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm đồng bộ TQM để sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn. - Công ty phải thực hiện theo các điều khoản đề ra trong bộ tiêu chuẩn là chịu sự đánh giá từ phía bên ngoài thì quản trị chất lượng đồng bộ TQM đưa ra nguyên lý chung tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất của Công ty để áp dụng một cách có hiệu quả nhất. Thay vì kiểm tra chất lượng sau khi sản xuất (KCS), TQM đã chuyển sang kế hoạch hoá, theo dõi, phòng ngừa trước khi sản xuất sử dụng các công cụ thông kê để theo dõi và phân tích về mặt định lượng các kết qủa cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, tiến hành phân tích, tìm nguyên nhân và các biện pháp phòng ngừa thích hợp. 2. Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý và tay nghề công nhân Chất lượng sản phẩm là do con người tạo ra nên nó phụ thuộc rất lớn vào trình độ của con người. Trong quá trình sản xuất sản phẩm có được đảm bảo hay không lại phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm và trình độ của người sản xuất. Do vậy việc nâng cao trình độ chuyên môn và trình đọ quản lý cho cán bọ công nhân viên trong Công ty là một sự cần thiết khách quan. Theo báo cáo, tìm hiều được tôi xin đưa ra chất lượng công nhân trực tiếp sản xuất của Công ty được biểu hiện qua bảng biểu sau: Bảng 1: Cơ cấu lao động theo nghề STT Nghề Số công nhân Bậc thợ Đào tạo I II III IV V VI VII 1 Tiện 35 2 7 4 10 10 - 2 13 2 Nguội 60 3 2 5 20 19 7 4 10 3 Mài 59 6 - 6 15 22 6 4 12 4 Phay 55 - 2 25 22 - 6 - 27 5 Hàn 14 - - - - 12 2 - - 6 Lắp ghép 10 - 10 - - - - - 10 7 Nhiệt luyện 18 - - 8 8 2 - - 8 8 Bào 11 - - 4 4 2 1 - 4 9 Gò 11 - - 4 3 3 1 - 4 10 Rèn 44 1 10 15 8 5 1 4 26 11 Dập 26 1 8 12 1 2 1 1 21 12 S/c cơ khí 25 - 2 - 8 9 4 2 2 13 S/c điện 16 - 2 - 4 7 2 1 2 14 Mạ 51 - 8 10 19 10 3 1 18 15 Đánh bóng 52 1 7 10 30 3 - 1 18 16 Nhuộm 10 - 1 - 4 2 3 - 1 17 Cắt phôi 18 1 5 12 - - - - 18 18 KCS 20 - - - 1 9 7 3 - Tổng Cộng 535 15 64 115 157 117 44 23 194 - Giả sử chúng ta coi rằng bậc 6 và bậc 7 là bậc cao nhất, bậc 4 và bậc 5 là bậc trung bình, bậc 1 bậc 2 là bậc thấp nhất thì qua bảng biểu trên chúng ta thấy rằng số lượng công nhân bậc cao chiếm tỷ lệ thấp (12,5%), số lượng công nhân bậc trung bình chiếm tỷ lệ tương đối (51,2%) và số lượng công nhân bậc thấp chiếm tỷ lệ còn tương đối cao (36,3%). Qua tìm hiểu cho thấy số công nhân bậc cao lại là những người có tuổi, tuy tay nghề cao nhưng sức khoẻ lai giảm sút theo tuổi đời nên các thao tác còn rất chậm, mắt kém mà yếu tố hình thức mẫu mã sản phẩm của Công ty lại cần phải đẹp. Bộ phận công nhân mới thì năng động sáng tạo nhưng lại rất thiếu kinh nghiệm trong sản xuất cùng với sự ảnh hưởng do tay nghề chưa cao nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm của Công ty. Về mặt cán bộ quản, cán bộ kỹ thuật của Công ty thì mặt bằng chung trình độ còn chưa cao, công tác đánh giá tình hình thực hiện công việc về phương diện con người còn nhiều hạn chế. Qua nhược điểm trên theo tôi trong thời gian tới Công ty cần phải tập trung một số công việc cụ thể sau - Công ty nên coi trọng công tác đánh giá, vì trong quá trình đánh giá chính xác kịp thời tình hình thực hiện công việc và con người có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích nhân viên cũng như công nhân lao động làm việc tốt hơn. Khi đó nhân viên và công nhân lao động sẽ ngày càng trưởng thành hơn về mọi mặt cũng như chất lượng thực hiện công việc ngày càng tốt hơn. - Tổ chức các lớp đào tạo chính quy ngắn hạn hoặc dài hạn với nội dung chương trình và thời gian phù hợp cho đội ngũ cán bộ công nhân viên hiện có trong Công ty. Đây là một biện pháp nhằm hoàn thiện và cung cấp những kiến thức mới về khoa học kỹ thuật hiện đậi, về kỹ năng làm việc công nghiệp cho công nhân, đáp ứng nhu cầu ứng dụng máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại vào sản xuất. Cụ thể như sau: - Với các công nhân bậc 1 và bậc 2 tổ chức một khoá học cơ bản với phương thức học chính quy do các công nhân bậc cao trong Công ty hoặc chuyên gia có trình độ cùng giảng dậy. - Với các công nhân bậc 3 cần có công tác đào tạo vừa học vừa làm theo phương thức “thợ kèm thợ”. Điều này tránh cho Công ty việc lãng phí thời gian cũng như của cải vật chất nhằm tăng năng suất lao động. - Về công tác tuyển dụng Công ty cần phối hợp với các trường đại học kỹ thuật để tuyển dụng các sinh viên ưu tú, nhằm trẻ hoá đội ngũ lao động. Biện pháp này phải đi đôi với việc đưa ra mức lương hợp lý cho cán bộ trẻ mới ra trường để họ yên tâm làm việc, hăng hái phát huy sáng kiến đóng góp cho sự phát triển của Công ty. Đồng thời Công ty cần chú trọng tuyển dụng các công nhân có tay nghề cao để đảm bảo chất lượng lao động. Như vậy Công ty sẽ có đội ngũ nhân lực tối ưu luôn thích ứng với mọi biến động của môi trường nhằm đảm bảo nguồn nhân lực con người tốt nhất là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của Công ty, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. - Tổ chức thường xuyên các cuộc thi thợ giỏi trong Công ty để từ đó lựa chọn được đội ngũ cán bộ cốt cán và những thợ giỏi bố trí kèm kặp thợ mới vào nghề, những thợ tay nghề còn non kém. - Tổ chức giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao khả năng tự chủ, tự quản lý trong giới hạn công việc được đảm trách, nhằm hạn chế những tai nạn, những rủi ro không đáng có, nhằm làm cho chất lượng sản phẩm được đảm bảo, không xảy ra sai sót trong sản xuất. - Tiếp tục mở rộng liên kết với nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, duy trì được nguồn xuất khẩu truyền thống. Mặt khác, tạo được công ăn việc làm cho công nhân lao động, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Đồng thời tổ chức xét tuyển lao động đi học tập ở nước ngoài, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về chuyên môn, tiếp cận với nền công nghiệp hiện đại, để ứng dụng cho việc sản xuất của Công ty đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. 3. Đầu tư hoàn thiện máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ Về máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất thì Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu không được đầu tư thường xuyên nên hầu hết máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất quả cũ kỹ, lạc hậu so với thời đại nên ảnh hưởng rất nhiều đến độ chính xác của sản phẩm sản xuất ra và yêu cầu kỹ thuật. Qua nghiên cứu cho thấy, Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu có hơn 13% máy móc thiết bị được sản xuất vào các năm 70, 53% máy móc thiết bị được sản xuất vào các năm 80, 90, còn lại được sản xuất từ những năm 90 trở lại đây. Như vậy - có hơn 66% máy móc cũ kỹ, lạc hậu. ịHơn nữa máy móc của Công ty đã được hao mòn rất nhiều thể hiện qua bảng cơ cấu giá trị TSCĐ: Bảng 2: Cơ cấu giá trị TSCĐ STT Thiết bị Số lượng Nguyên giá Hao mòn Còn lại Hệ số hao mòn (%) 1 Thiết bị vận tải 5 352.064 200.153 124.911 61,54 2 Máy tiện 12 589.385 539.836 45.549 91,59 3 Máy khoan 9 132.775 101.760 31.015 76,64 4 Máy mài 8 101.350 78.996 22.354 77,49 5 Máy phay 10 306.142 150.898 209.244 41,89 6 Máy búa 8 457.292 316.463 140.829 69,22 7 Máy cưa 2 9.466 4.000 5.466 42,25 8 Mý bào 2 90.356 83.249 11.107 92,13 9 Máy rèn dập 7 232.493 154803 77.690 66,5 Tổng cộng 2.298.323 1.630.158 668.165 70,92 (Nguồn: Phòng Tài vụ) * 100% Hệ số hao mòn = Hao mòn Nguyên giá Số lượng máy móc thiết bị của Công ty hao mòn rất lớn chiếm hơn 70% cho nên dẫn đến khả năng làm việc của máy móc thiết bi rất hạn chế nên Công ty cần đầu tư vào các loại máy đã hao mòn rất nhiều như: - Đầu tư mới máy phay cho phân xưởng cơ khí 1 - Đầu tư mới máy tiện , máy mài, máy khoan cho phân xưởng cơ khí 2 - Đầu tư mới máy tiện , máy mài, cho phân xưởng cơ khí 3 - Đầu tư dây chuyền thiết bị công nghệ sản xuất INOX sản lượng 600 tấn/năm, để đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở tận dụng tối đa nhà xưởng và thiết bị hiện có. - Đầu tư xây dựng xưởng cơ khí chính xác với trung tâm gia công và máy công cụ CNC, đảm bảo gia công chính xác các chi tiết đòi hỏi sự chính xác đến 0,001 mm, trong giới hạn ặmax <= 600mm, Lmax<=3000mm. - Bên cạnh việc đầu tư mới các loại máy móc thiết bị nói trên Công ty cần có biện pháp nâng cấp các máy móc thiết bị cũ. Về các thiết bị kiểm tra chất lượng sản phẩm của Công ty còn thô sơ, lạc hậu. Hiện nay, công tác kiểm tra chất lượng chủ yếu dựa vào trực quan, trình độ tay nghề kinh nghiệm của cán bộ kỹ thuật. Vì vậy hiện nay chất lượng sản phẩm của Công ty chưa thoả mãn được hoàn toàn nhu cầu thị trường. - Để hạn chế được nhược điểm trên Công ty cần phải trang bị thêm các dụng cụ kiểm tra như: cặp thước Elíp, calip M8, máy đo độ cứng, cân nhiệt kế. - Để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển Công ty cần tìm mọi cách huy động vốn, một mặt có thể vay vốn ngân hàng hay huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Mặt khác tăng cường hợp tác với các Công ty nước ngoài như Công ty YAMAHA của Nhật Bản… vì đây vừa là đối tác vừa là thị trường từ trước đến nay của Công ty để vay vốn dưới dạng nhập máy móc, thiết bị, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Có thể nói đây là một biện pháp quan trọng bởi kỹ thuật là khâu trực tiếp tạo nên chất lượng sản phẩm, với nghành cơ khí nó đóng vai trò quyết định cho chất lượng sản phẩm. Do vậy doanh nghiệp phải luôn luôn thường xuyên đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất trong doanh nghiệp, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất. Bên cạnh đo Công ty cần làm tốt công tác quản lý máy móc thiết bị, cần quy định rõ chế độ sử dụng bảo quản, qui dịnh rõ quy trình thao tác cho từng loại máy nhất là đối với các loại máy mới mà kỹ thuật vận hành phức tạp, qui định chế độ lau chùi và tu sửa thường xuyên. Trong công tác bảo dưỡng và sửa chữa máy móc cần nắm vững phương châm “bảo dưỡng là chính sửa chữa là phụ” và sửa chữa trước khi máy móc hao mòn đến không sử dụng được. ịKết quả: Năng lực quản lý chất lượng của Công ty sẽ được nâng cao, tạo cơ sở để chất lượng sản phẩm của Công ty đạt tiêu chuẩn ISO_9001 – 2000. 4. Đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành nên sản phẩm, chất lượng của nguyên vật liệu quyết định đến chất lượng sản phẩm. Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu là một Công ty sản xuất rất nhiều loại sản phẩm nên nguyên vật liệu dùng vào sản xuất rất đa dạng, bao gồm nhiều chủng loại quy cách khác nhau. Do vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm thì Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu cần có những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu đầu vào, có như vậy chất lượng sản phẩm mới đảm bảo. Cụ thể doanh nghiệp có thể thực hiện các biện pháp sau: - Tìm và lựa chọn nhà cung ứng lâu dài, ổn định, giá cả hợp lý, chất lượng tốt. Đặc biệt là đối với các nguyên vật liệu ngoại nhập Công ty cần tìm nhà cung ứng đáng tin cậy, xây dựng mối quan hệ lâu dài ổn định, hạn chế tối đa việc thay đổi nhà cung ứng để tránh việc doanh nghiệp phải mua nguyên vật liệu trôi nổi trên thị trường không rõ xuất xứ, giá cả cao nhưng chất lượng lại thấp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của Công ty. - Công ty cần phải hoàn thiện và đưa ra tiêu chuẩn nguyên vật liệu đối với cán bộ thu mua của Công ty. Những nguyên vật liệu nhập về phải kiểm tra một cách cẩn trọng, chặt chẽ về chất lượng trước khi đưa vào nhập kho hoặc đưa vào sản xuất. - Tìm kiếm các nhà cung ứng trong nước để dần dần thay thế các nhà cung ứng nước ngoài, nhằm tận dung ưu thế giá rẻ và ổn định, tạo thế chủ động cho Công ty. - Thực hiện một cách triệt để công tác kiểm tra chất lượng và số lượng nguyên vật liệu. - Đầu tư thích đáng cho công tác dự trữ, bảo quản nguyên vật liệu bao gồm: - Trả lương cho cán bộ làm công tác dự trữ, bảo quản. - Xây dựng kho tàng, mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác dự trữ bảo quản. - Bố trí các cán bộ có đủ trình độ chuyên môn, có tư cách đạo đức, có tinh thần trách nhiệm trong công tác này. Công ty cần quan tâm đến công tác xây dựng định mức vật tư và lao động một cách khoa học đến từng người, từng bộ phận. Công tác định mức phải được tiến hành một cách chính xác và tỷ mỉ vì đây là phương pháp tiên tiến, hiệu quả trong việc tự chủ cho các bộ phận cắt giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay việc mua sắm vật tư đặc chủng còn bị tiến độ sản xuất chi phối, vì vậy Công ty cần chú ý hơn việc thăm dò giá cả, chất lượng, nhằm thực hiện đầy đủ các quy định đề ra cho chất lượng sản phẩm, cho sản xuất đồng thời cắt giảm được chi phí. - Đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất là vấn đề quan trọng để đưa các mặt quản lý khác của Công ty đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao như: quản lý lao động, định mức quỹ lương, quản lý vốn… Đảm bảo cho sản xuất kinh doanh có lợi, tăng khả năng sinh lời của vốn, đồng thời còn là điều kiện để Công ty bảo toàn và tiết kiệm vốn, thực hiện tốt các yêu cầu của quy luật tái sản xuất mở rộng bằng con đường tích tụ vốn. 5. Tạo và gia tăng động lực là việc và khả năng sáng tạo của người lao động Bất cứ một người lao động nào cũng mong muốn có một công việc ổn định lâu dài, được làm việc trong một môi trường an toàn và thuận lợi, được hưởng một chế độ lương bổng đãi ngộ hợp lý, xứng đáng với sức lao động mà họ đã bỏ ra. Do vậy để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, chất lượng sản phẩm được đảm bảo… Công ty cần xây dựng một chính sách lương bổng thưởng phạt rõ ràng, nhằm động viên thúc đẩy nhân viên làm việc có năng suất hơn, gắn bó với công việc, phát huy được khả năng sáng tạo của người lao động. Công ty cần phải xây dựng chính sách trả lương làm tăng tiền lương danh nghĩa cho người lao động, cho họ thấy rõ được giá trị công việc họ đã làm. Ngoài việc xây dựng một chính sách tiền lương hợp lý, công bằng, Công ty cần xây dựng một quy chế thưởng phạt rõ ràng: Đối với công nhân tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt hoặc có nhưng sáng kiến hay đóng góp cho Công ty thì cần phải được thưởng một cách xứng đáng, nhằm tạo động lực cho họ phấn đấu vì mục tiêu chất lượng. Ngược lại, đối với các nhân viên thiếu ý thức, vô trách nhiệm làm ảnh hưởng đến sản xuất thì phải chịu kỷ luật, chịu phạt (có thể phạt cụ thể bằng số tiền thiệt hại của Công ty) khi đó họ mới có thể rút kinh nghiệm lần sau. Đối với cán bộ quản lý cần có chế độ khen thưởng, dành ưu đãi phù hợp, tạo niềm tin và động lực làm việc trong Công ty. 6. Tăng cường công tác kiểm tra Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm mục đích không còn những sản phẩm không đạt yêu cầu, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng cũng như xã hội. Mà tại Công ty công tác kiểm tra chất lượng lại do phòng KCS đảm nhận, vì vậy Công ty cần tăng cường vai trò của phòng KCS, kiểm tra ở đây phải mang tính đồng bộ, tức là kiểm tra mọi nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất, kịp thời ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những yếu tố gây ra phế phẩm (kiểm tra chặt chẽ từ chất lượng nguyên vật liệu, các thông số kỹ thuật, máy móc thiết bị sau mỗi công đoạn sản xuất cho đến khi hình thành sản phẩm) phải kiểm tra một cách tỉ mỉ, nếu phát hiện sản phẩm khuyết tật phải loại bỏ ngay. Việc kiểm tra chất lượng của Công ty lại dựa vào những tiêu chuẩn chất lượng do Công ty, Bộ, Ngành đề ra và được phân công trực tiếp cho bộ phận chiu trách nhiệm là phòng KCS, đây là bộ phận nằm ngoài dây chuyền sản xuất chính nên không có hoạt động tích cực đối với các hoạt động của cả một hệ thống, hơn nữa trình độ nghiệp vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm của các nhân viên KCS cơ sở không được đồng đều, còn hạn chế về chuyên môn nên thường gây ra căng thẳng giữa bộ phận trực tiếp sản xuất với bộ phận kiểm tra chất lượng. Để khắc phục khó khăn này Công ty có thể áp dụng một số các phương pháp sau: * Cam kết chất lượng đồng bộ: biện pháp này là động viên công nhân viên cam kết đảm bảo chất lượng công việc do mình phụ trách hay đảm bảo chất lượngsản phẩm do mình sản xuất ra, thể hiện trách nhiệm vinh dự của mỗi người trong tình hình về chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của Công ty. Công ty cần xây dựng chế độ trách nhiệm cụ thể cho mỗi cá nhân, mỗi phần việc. Chế độ trách nhiệm cụ thể sẽ là một phương tiện tốt để củng cố và nâng cao ý thức trách nhiệm chung. Nó thúc đẩy mọi người quan tâm đến phần việc của mình và ảnh hưởng của nó đến các khâu sản xuất có liên quan. Đối với các sản phẩm nhiều người cùng làm như vậy, việc xác định trách nhiệm của mỗi phần việc được xác định rõ ràng cụ thể là một việc hết sức cần thiết. Chế độ trách nhiệm cụ thể còn quy định rõ phần do bản thân công nhân, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm và phần liên đới chịu trách nhiệm. Cần xác định rõ mỗi người sản xuất không những phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm trong khi sản xuất mà sau khi đã nghiệm thu, nhập kho hoặc xuất xưởng, nếu phát hiện những sản phẩm đó không đảm bảo chất lượng thì người sản xuất gây ra vẫn phải chịu trách nhiệm. Để thực hiện tốt chế độ trách nhiệm đòi hỏi mọi người phải giữ gìn kỷ luật lao động, yêu cầu của kỷ luật lao động là không cho phép ai làm sai những trình tự lao động đã được Công ty quy định: triệt để tuân theo thời gian làm việc mà nhà nước quy định, không cho phép người nào đến muộn về sớm, tự ý đổi chỗ làm việc và trêu đùa trong khi làm việc. Để thực hiện tốt kỷ luật lao động và chế độ trách nhiệm cụ thể, chúng ta phải làm cho mọi người có ý thức tự giác, phải kiên trì giáo dục, đi đôi với xủ lý thích đáng những người vi phạm kỷ luật lao động. * Cải tiến chất lượng toàn Công ty: hoạt động này được tiến hành đều khắp ở các bộ phận từ lãnh đạo sản xuất đến chuyên trách sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ Công ty làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, của xã hội. * Sử dụng hình thức ba kiểm tra: tức là công nhân sản xuất tự kiểm tra, đốc công và tổ trưởng sản xuất kiểm tra, cán bộ KCS kiểm tra. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi thường xuyên ở một số doanh nghiệp hiện nay, hình thức này vừa đạt hiệu quả cao về chất lượng vậy Công ty nên chú trọng hình thức này. Công tác kiểm chất lượngsản phẩm phải được tiến hành theo phương thức kiểm tra khách quan, tránh những lỗi ước lượng chủ quan như sờ bằng mắt, nhìn bằng tay. Do đó, Công ty cần tạo điều kiện cho bộ phận kiểm tra kỹ thuật làm việc được thuận lợi như: nơi làm việc, các máy móc dụng cu kiểm tra cần thiết. Tuy nhiên trong bất cứ một trường hợp nào, việc kiểm tra của những nhân viên kiểm tra kỹ thuật cũng không thay thế được trách nhiệm kiểm tra thường xuyên của những cán bộ trực tiếp chỉ đạo sản xuất, từ Giám đốc Công ty, quản đốc phân xưởng đến tổ trưởng sản xuất. Trong đó, việc kiểm tra của tổ trưởng sản xuất có một vị trí đặc biệt quan trọng vì tổ sản xuất là đơn vị cơ sở chịu trách nhiệm về quản lý kỹ thuật của doanh nghiệp. Nói chung, trong ba khâu thì khâu kiểm tra là quan trọng nhất và quyết định nhất là công nhân kiểm tra. Không có một đội ngũ kiểm tra kỹ thuật đông đảo nào có thể kiểm tra bảo đảm và tỉ mỉ và không sót các sản phẩm sai hỏng do hàng trăm công nhân trong Công ty, không có biện pháp nào có thể thay đổi tinh thần tự giác của công nhân. Do đó, Công ty cần phát huy vai trò công nhân tự kiểm tra trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Chỉ có kết hợp chặt chẽ công tác của nhân viên chuyên trách kiểm tra, cán bộ chỉ đạo sản xuất với sự tham gia tích cực của toàn thể công nhân thì công tác kiểm tra kỹ thuật mới có thể làm đầy đủ được. Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm trong quá trình lưu thông kinh doanh gồm rất nhiều giai đoạn, song sản phẩm của Công ty bị giảm sút về chất lượng phần lớn lại tập trung vào quá trình vận chuyển từ phân xưởng vào các kho trung chuyển, dự trữ tại các kho bán buôn, bán lẻ. Vì vậy, Công ty cần chú ý một số biện pháp sau. - Tổ chức hợp lý việc vận chuyển từ nơi này sang nơi khác - Vệ sinh sạch sẽ các kho. - Tiếp nhận hàng hoá vào kho đúng thủ tục. - Bố trí xắp xếp hàng trong kho. - Điều chỉnh độ ẩm và nhiệt độ trong kho. 7. Cải tạo môi trường làm việc và xây dựng cơ sở ha tầng Trong quản chất lượng con người là yếu tố quyết định đến chất lượng, vì vậy để tạo điều kiện tốt cho người lao động làm việc có năng suất, có chất lượng và hiệu quả thì các doanh nghiệp cần phải chú ý đến việc cải tạo môi trường làm việc, đảm bảo cho người lao động được làm việc trong môi trường sạch sẽ nhất, an toàn nhất. Hiện nay cơ sở vật chất của Công ty phần lớn đã được xây dựng cách đây khá lâu, thiếu ánh sáng, ẩm thấp, thiếu điều kiện đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động, hệ thống cấp thoát nước đều đã xuống cấp và hư hỏng nhiều, gây ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng làm việc của người lao động. Chính vì vậy Công ty cần phải có một số biện pháp trước mắt và lâu dài để hạn chế nhược điểm trên. - Cải tạo nâng cấp từng phần cơ sở hạ tầng: Trong thời gian tới Công ty có kế hoặch di chuyển đi nơi khác nhưng trước mắt Công ty cần: Để giảm bớt sự ô nhiễm ở các phân xương 1 và phân xưởng 2 cần đầu tư bố trí thêm các quạt thông gió, hệ thống bóng điện tạo cho môi trường thông thoáng và đầy đủ ánh sáng đồng thời lợp các tầm trần thoát âm để tránh được các bệnh nghề nghiệp tại các phân xưởng hàn, dập. Trang bị các máy khử độc, máy xử lý nước thải ngay trong phân xưởng sản xuất để tránh độc hại cho công nhân, vì với đặc điểm là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại máy công cụ phải tiếp xúc nhiều với dầu mỡ và các loại chất độc hại khác (sơn, chất hoá học…) sẽ gây ra các mùi khó chịu ảnh hưởng đến năng suất cũng như sức khoẻ của cán bộ công nhân viên. 8. Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường về chất lượng sản phẩm Để sản xuất sản phẩm mới, tìm hiểu đối thủ cạnh tranh để hoàn thiện sản phẩm hiện có của Công ty cần chú trọng nghiên cứu nhu cầu thị trường về chất lượng sản phẩm. Theo số liệu của Viện thông tin kinh tế, Bộ công nghiệp, trong thời kỳ bao cấp nghành cơ khí Việt Nam đã đáp ứng được khoảng 40 – 50%. Điều này cho thấy sản phẩm của ngành cơ khí chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Theo báo cáo của cán bộ kế hoạch và dầu tư về nhu cầu trang thiết bị cơ khí cho ngành công nghiệp và các lĩnh vực khác là: Bảng 3: Dự báo nhu cầu sản phẩm cơ khí đến 2010 Đơn vị tính: Tỷ USD Lĩnh vực 1996 - 2000 2001 - 2010 Công nghiệp 8 60 Lĩnh vực khác 10 50 Tổng 18 110 Theo dự báo trên thì nhu cầu sản phẩm cơ khí bình quân trong giai đoạn từ năm 2001 – 2010 sẽ vào khoảng 11 tỷ USD/năm. Mục tiêu của ngành cơ khí Việt nam là tự sản xuất được 45% giá trị sản lượng, tương đương 5 tỷ USD/năm để cung cấp cho nhu cầu trong nước và 30% trong giá trị sản lượng, tương đương 1,3 tỷ USD/năm để cung cấp cho nhu cầu xuất khẩu. Qua số liệu trên cho thấy nhu cầu về sản phẩm cơ khí là rất cao và Công ty là một đơn vị trong ngành cơ khí Việt Nam nên cũng có nhu cầu rất lớn. Đặc tính tiêu dùng của sản phẩm Công ty sẽ sản xuất được xác định trên cơ sở đặc tính nhu cầu tiêu dùng. Đây là một biện pháp quan trọng làm cho sản phẩm của Công ty thích ứng với thị trường. Trong đó Công ty cần quan tâm đến chỉ tiêu chất lượng, tính thích ứng, thông số kỹ thuật của sản phẩm. Mỗi chỉ tiêu này đều liên quan đến chi phí sản xuất kinh doanh do đó khi thiết kế sản phẩm cần kết hợp chặt chẽ với việc phân tích chi phí và giá thị trường. Bên cạnh đó việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng là rất quan trọng vì khi đó việc thiết kế sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng chính là nâng cao chất lượng sản phẩm. Để làm tốt điều này Công ty cần: - Tổ chức thường xuyên các hội nghị khách hàng. - Lắng nghe các khiếu nại, phàn nàn của khách hàng về sản phẩm của Công ty. - Nghiên cứu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường để từ đó có những điều chỉnh hợp lý cho phù hợp với sản phẩm của Công ty mình. Để triển khai tốt phương án điều tra, nghiên cứu thị trường về chất lượng sản phẩm Công ty cần thành lập một phòng nghiên cứu thiết kế sản phẩm gọi là phòng “chiến lược” tách rời khỏi phòng kinh doanh hay phòng kỹ thuật bao gồm có: - 1 kỹ sư có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu về thị trường và sản phẩm làm trưởng phòng. - Một số công nhân có tay nghề cao, có uy tín trong phân xưởng, tổ sản xuất. - Công việc của phòng này bao gồm: + Nghiên cứu, tìm hiểu những tiêu chuẩn, yêu cầu, thị hiếu của thị trường hiện nay để tìm ra ưu nhược điểm của sản phẩm không phù hợp từ đó có những biện pháp khắc phục, sửa chữa và có phương hướng hoàn thiện. + Trực tiếp tham quan, học hỏi cung cách sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả khác, đặc biệt là về chất lượng sản phẩm từ đó sẽ có biện pháp khắc phục, sửa chữa và có tính hoàn thiện. Kết luận Ngày nay, bối cảnh tình hình kinh tế chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra như vũ bão, cạnh tranh diễn ra vô cùng gay gắt và ác liệt. Thực tế cho thấy đoanh nghiệp nào có sản phẩm chất lượng tốt, có khả năng canh tranh trên thị trường, đáp ứng được nhu càu ngày càng cao của người tiêu dùng thì sẽ tồn tại và phát triển, còn ngược lại nó sẽ bị thị trường cũng như người tiêu dùng đào thải. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0004.doc
Tài liệu liên quan