Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in 1 - Thông tấn xã Việt Nam

Lời mở đầu Hiệu quả kinh tế là một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng trong mọi nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, từ một nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cùng một lúc phải thực hiện những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ Quốc XHCN, thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở càng có ý nghĩa quan trọng. Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạ

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in 1 - Thông tấn xã Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đã tạo ra những cơ hội mới và cả những thách thức mới cho các doanh nghiệp. Với các nguồn lực ngày càng khan hiếm, sự cạnh tranh cũng càng trở nên gay gắt, khốc liệt đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, thậm chí phá sản, nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp do nắm bắt được cơ hội, tổ chức thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả đã trụ vững và ngày càng phát triển. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh càng trở nên có tính chất sống còn đối với các doanh nghiệp. Xí nghiệp in I TTXVN đã gặp không ít những khó khăn từ khi bắt đầu được thành lập. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới. Xí nghiệp đã mạnh dạn đa dạng hóa các ngành nghề kinh tế với mục tiêu lâu dài là kinh doanh có hiệu quả. Nhận rõ được vai trò quan trọng của hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như việc không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong thời gian về thực tập và những tình hình sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in I TTXVN, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thấy giáo -T.S Nguyễn Trí Dũng, em đã quyết định chọn một đề tài nghiên cứu với ước muốn được sáng tỏ những kiến thức đã học được và đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu lâu dài của Xí nghiệp. Đề tài của em có tên "Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in I TTXVN" với nội dung gồm 3 chương: Chương I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II: Thực trạng về hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in I TTXVN từ khi bắt đầu thành lập. Chương III: Một số biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in I TTXVN. Với khả năng và thời gian có hạn, những thiếu sót trong bài viết là không tránh khỏi, em mong nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy, cô giáo và các cán bộ, công nhân viên của Xí nghiệp in I TTXVN để bài viết được hoàn thiện. Chương I Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. Các quan điểm cơ bản về bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.1. Các quan điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, từ khâu nghiên cứu khảo sát nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất đến các khaua tổ chức quá trình sản xuất, mua hàng hóa hoặc làm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu ích đó mà kiếm lời. Chính vì vậy để xem xét một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không ta có thể xuất phát từ việc tính toán hiệu quả của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hay của từng bộ phận lĩnh vực riêng lẻ tức là khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên các góc độ khác nhau để xem xét. Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả chỉ là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể, vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán, so sánh. Nếu là phạm trù trừu tượng phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đây ta có thể chia hiệu quả thành hai loại: hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) và hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả trực tiếp của doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hiệu quả của nền Kinh tế Quốc dân là hiệu quả kinh tế - xã hội. Cả hai hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bảo đảm bù đắp chi phí đã bỏ ra và vừa có tích lũy để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Còn hiệu quả kinh tế - xã hội đem lại lợi ích cho xã hội và nền Kinh tế Quốc dân, nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội. 1.2. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất tức là giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh). Khái niệm này lẫn lộn giữa hiệu quả và mục tiêu kinh doanh. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ là phiến diện, chỉ đúng trên mức độ biến động theo thời gian. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred - Kuhn và quan điểm này được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng và tính hiệu quả kinh tế của các quá trình sản xuất kinh doanh. - Từ các khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên ta có thể đưa ra một số khái niệm ngắn gọn như sau: hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. 1.3. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.. 3. Những biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh chẳng những bị ảnh hưởng của những nhân tố bên trong, còn luôn bị tác động các yếu tố môi trường bên ngoài. Chính vì vậy, muốn đạt được hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ có những điều kiện, biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong một cách hiệu quả mà phải nắm bắt các bất chắc của môi trường có thể có, đưa ra những biện pháp đối phó, thậm trí có thể lấy đó làm cơ hội cho việc kinh doanh. 3.1. Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: Hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược, tổ chức các nguồn lực doanh nghiệp, xây dựng bộ máy quản lý, tác nghiệp, bố trí sử dụng nước, các biện pháp đôn đốc, thúc đẩy, động viên và kiểm soát. Ngoài ra quản trị còn nghiên cứu các yếu tố môi trường, theo dõi, dự báo những biến động, thay đổi có thể có nhằm hạn chế những tổn thất, thiệt hại cho quá trình sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được biện pháp này cần nhận thức, hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của quản trị đối với doanh nghiệp. Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi vào chỗ thua lỗ, phá sản là có nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó chính là sự yếu kém về quản trị của các nhà quản trị. 3.2. Xây dựng cấu trúc tổ chức hợp lý. Một trong những nguyên nhân phổ biến làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả chính là do cơ cấu tổ chức cồng kềnh, trì trệ, hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, có khả năng dẫn dắt đơn vị đến mục tiêu đề ra, tạo được những tác động kết hợp các nguồn lực doanh nghiệp, tác động thúc đẩy các nguồn lực phát triển. Cần phải có một cơ cấu gọn nhẹ hơn, đồng thời lại mang đến một kết quả lớn hơn. Khi các doanh nghiệp thất bại hoặc suy giảm thường thay đổi cho các yếu tố khách quan, cho rằng môi trường kinh doanh khó khăn, do cạnh tranh gay gắt khốc liệt. Nhưng cũng trong các hoàn cảnh đó lại có những doanh nghiệp ăn nên làm ra, Vậy nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức trước đã xơ cứng, lỗi thời, không còn phù hợp, không linh hoạt và không có khả năng thay đổi, thích nghi một cách nhanh chóng với môi trường, từ đó dẫn đến thua lỗ, phá sản. Vì vậy để đáp ứng với sự thay đổi, duy trì hiệu quả hoạt động, doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc tổ chức, tạo sức sống mới cho doanh nghiệp. 3.3. Xác định mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng doanh nghiệp, môi trường hoạt động để đề ra các mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Với mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp phải xây dựng các chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ. Doanh nghiệp không phải lúc nào cũng theo đuổi chiến lược phát triển, phát triển với một tốc độ nhanh chóng như việc theo đuổi quá nhiều dự án, những siêu dự án. Những chiến lược phát triển như vậy dễ dẫn đến mất cân đối tài chính, tài chính bị dàn trải và dễ dẫn đến sự phá sản. Hơn nữa hầu hết các dự án chỉ luôn đưa ra những số liệu tính toán theo hướng lạc quan mà không tính đến khía canh ngược lại của nó là bi quan. Khi dự án gặp phải tình hình thị trường bất lợi, đối thủ cạnh tranh mạnh, giá bán giảm... lúc đó ta không lượng được những rủi ro, những thua lỗ, thất bại có thể có và khi tình hình không như mong muốn doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng phá sản. 3.4. Yếu tố con người - sự quan tâm hàng đầu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta không thể không quan tâm đến yếu tố con người, đây chính là thách thức lớn nhất đối với quản lý. Làm sao có được một đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc. Đó là điều kiện bảo đảm cho sự thành công của doanh nghiệp. Muốn vậy phải nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố con người, phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc nhờ các hình thức khuyến khích bằng vật chất và tinh thần làm người lao động thỏa mãn, gắn bó với doanh nghiệp. 3.5. Tạo vốn kinh doanh. Khó khăn chung của hầu hết các doanh nghiệp là thiếu vốn bởi vì nó bổ sung vốn cơ bản trong suốt quá trình kinh doanh. Tạo vốn bằng hình thức đi vay sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn mang gánh nặng lãi suất. Hơn nữa vốn vay lớn tạo ra sự mất cân đối lớn trong cơ cấu vốn, chứa định nhiều sự bấp bênh rủi ro. Vì vậy không nên lạm dụng vốn vay, khi sử dụng biện pháp vay vốn cần phải có kế hoạch sử dụng hiệu quả và có biện pháp phòng chống những rủi ro có thể từ yếu tố này. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh, biện pháp cổ phần hóa doanh nghiệp, hình thành thị trường chứng khoán là một biện pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn cho các doanh nghiệp. Xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ và thích ứng với quy mô doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn vay ngắn hạn. có những biện pháp hữu hiệu đối phó với những biến động về tài chính. 3.6. Trình độ kỹ thuật và công nghệ. Các doanh nghiệp để khẳng định vị trí trên thị trường, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh, để giảm chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, phải đạt được chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần phải tiếp cận với khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, phải không ngừng cải tiến đầu tư công nghệ, chính đó là một nhân tố giúp doanh nghiệp hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. 3.7. Nghiên cứu môi trường. Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều có sự liên hệ với môi trường và chịu sự tác động của môi trường đến doanh nghiệp. Những tác động của môi trường có thể là thuận lợi hay bất lợi cho doanh nghiệp. Do tính chất quốc tế hóa, khu vực hóa, hoạt động của doanh nghiệp không chỉ còn thuộc phạm vi của một quốc gia hay một vùng nào đó, cho nên doanh nghiệp còn chịu sự tác động của môi trường kinh tế thế giới. Những thay đổi vê chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ trên thế giới đều có thể tác động đến doanh nghiệp. Vì vậy, muốn hoạt động hiệu quả cần phải quản trị môi trường, đó là việc thu thập thông tin, dự đoán ước lượng thay đổi, bất trắc của môi trường trong và ngoài nước, đưa ra những biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động, những tổn thất có thể có do sự thay đổi, bất trắc đó. II. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh 1. Nhóm nhân tố khách quan. 1.1. Môi trường nhân khẩu học. Trong thời đại ngày nay nhất là trong quá trình đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới cùng với sự thúc đẩy của quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra sự thay đổi về cái nhìn mới đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự biến đổi của thị trường diễn ra thường xuyên cùng với tính chất khắc nghiệt của nó cộng với quá trình đô thị hóa và phân bố lại dân cư. Lịch sử đã từng có nhiều cuộc di dân diễn ra mang tính chất tự nhiên và cơ học. Bản chất của con người luôn tìm kiếm những vùng có định hướng tự nhiên thuận lợi để cư trú, sinh sống và làm ăn. Các vùng đô thị tập trung luôn luôn là thị trường quan trọng cho các nhà quản trị. Bên cạnh đó việc phân bố lại lực lượng sản xuất, phân vùng lãnh thổ đặc khu kinh tế cùng tạo ra các cơ hội thị trường mới đầy hấp dẫn, ngay cả khi trung tâm thành phố trở nên quá đông đúc chật chội thì các nhà quy hoạch bắt đầu phát triển các vùng vên đô, ven thị, chúng trở thành các vệ tinh và những nơi đó càng trở thành những thị trường. Nền kinh tế ngày càng phát triển, trình độ văn hóa giáo dục trong dân cư được tăng lên, sự hiểu biết về cảm nhận mới mẻ hơn, đẹp đẽ hơn cũng được tăng lên cộng thêm nhiều ngành nghề mới ra đời tạo ra những loại sản phẩm mới, nhu cầu mới, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 1.2. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng. Nó có thể tạo ra tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các thị trường hàng hóa khác nhau. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cũng như thuế khóa tăng thì người tiêu dùng buộc phải đắn đo để ra các quyết định mua sắm. Nhiều hành vi mua sắm mang tính chất "không tích cực sẽ diễn ra" ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phục vụ người tiêu dùng do đó cũng ảnh hưởng tới nhu cầu về nhãn mác sản phẩm. Khi nền kinh tế trở lại thời kỳ phục hồi và tăng trưởng. Việc mua sắm tấp nập trở lại làm cho nhịp và chu kỳ kinh doanh trở nên phồn thịnh. Những người có thu nhập cao sẽ đòi hỏi chất lượng hàng hóa và dịch vụ ở mức cao hơn, con người không chỉ đơn thuần cầu "ăn no mặc ấm" mà thay bằng mong muốn "ăn ngon mặc đẹp" họ cần nhiều loại sản phẩm tiêu dùng cho phép tiết kiệm thời gian, hình thức bao bì mẫu mã trở thành yếu tố quan trọng đê thu hút người đặt in. Việc tiêu dùng mang tính vật chất không còn đóng vai trò quan trọng, việc thỏa mãn các giá trị văn hóa tinh thần sẽ đòi hỏi phải được đầu tư với cơ cấu, tỷ trọng lớn hơn trong những ưu tiên về chi tiêu. Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì một bộ phận không nhỏ tần lớp dân cư có thu nhập thấp, do đó đòi hỏi chất lượng hàng hóa dịch vụ chưa cao, đặc biệt là dân cư nông thôn; ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu về mẫu mã, nhãn hiệu của sản phẩm. Sản phẩm hàng hóa phục vụ người tiêu dùng có phát triển kéo theo sự nâng cao về mặt chất lượng, số lượng, hình thức mẫu mã của sản phẩm điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, có thể nói rằng yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, nhu cầu về hàng hóa sản phẩm thấp tất sẽ dẫn đến các sản phẩm có sử dụng nhãn mác, bao bì cũng sẽ giảm đi rất nhiều vì lúc đó cầu của người tiêu dùng bị các yếu tố kinh tế tác động làm giảm sức mua của họ, ngoài ra còn có thể kể đến các yếu tố tác động như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài chính tiền tệ. 1.3. Môi trường công nghệ. Xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ và tình hình ứngdungj khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới cũng như trong nước ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm, tức là ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế, thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm khủng hoảng, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực kinh doanh nhưng xuất hiện những lĩnh vực kinh doanh mới hoặc làm phát triển hơn các lĩnh vực đã có. Các sản phẩm của công nghệ mới như các sản phẩm cải tiến, sản phẩm cải tiến, sản phẩm đổi mới , NVL mới, NVL thay thế với sự xuất hiện các quy trình công nghệ có năng suất, chất lượng hiệu quả hơn. Đó có thể là các nguy cơ. Là cơ hội đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư cho các loại công nghệ phù hợp với trình độ của doanh nghiệp và biết sử dụng có hiệu quả, ngược lại là nguy cơ đối với các doanh nghiệp không nắm bắt được các thông tin về công nghệ và không biết sử dụng nó một cách hiệu quả. 1.4.Môi trường chính trị và luật pháp Các yếu tố thuộc về chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ thuận lợi về khó khăn của môi trường. Các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của chính phủ về thuê mướn công nhân, thuế, quảng cáo... những quy định này có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với các doanh nghiệp . Đối với các doanh nghiệp sản xuất nhãn mác những yếu tố về chính trị và luật pháp cũng có những tác động không nhỏ tới quá trình hoạt động sản xuất của mình. Do đó họ cũng phải dành nhiều thời gian để qan tâm tới các vấn đề về pháp luật và chính trị. Các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những tiến trình ra quyết định của địa phương hoặc đất nước nơi doanh nghiệp mình đang thực hiện các hoạt động kinh doanh . 1.5.Yếu tố xã hội Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự tác động của các yếu tố bên trong, bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có những biện pháp, chính sách để thích ứng một các hiệu quả nhất để đem lại một hiệu quả kinh tế cao. Yếu tố xã hội đòi hỏi tất cả các xí nghiệp, doanh nghiệp đều phải phân tích các yếu tố đó nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một yếu tố hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến các doanh nghiệp như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi giải trí, chuẩn mực đạo đức xã hội ... Nhưng môi trường văn hóa xã hội đôi khi trở thành hàng rào "gai góc" đối với các nhà hoạt động quản trị, Marketing . Nói chung các giá trị văn hóa chủ yếu trong xã hội được thể hiệnơr quan niệm hay cách nhìn nhận, đánh giá con người về bản thân mình về mối quan hệ và về thế giới. Điều đó kích thích sự phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều hàng hóa, sản phẩm đa dạng về mẫu mã, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất có liên quan tạo ra sự biến động không ngừng của thị trường. 2. Nhóm nhân tố chủ quan. Là nhóm nhân tố doanh nghiệp mà có thể kiểm soát được cũng như có thể điều chỉnh được ảnh hưởng của nó. 2.1. Lực lượng lao động. Lao động là một trong những nhân tố khó xem xét và việc đánh giá dự đoán kết quả tác động của nhân tố này đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thường khó chính xác. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì việc đưa chúng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là điều tất nhiên, nhưng vai trò quan trọng của con người là không thể phủ nhận được trong lực lượng sản xuất. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân tố được trong lực lượng sản xuất. Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tốc độ tiêu thụ sản phẩm. doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Tiền lương và thu nhập của người lao động có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, vì tiền lương là một bộ phận lớn cấu thành nên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tiền lương cao thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng mặt khác nó lại khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại. 2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật là tài sản cố định của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gồm nhà cửa, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị... đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ phát triển của doanh nghiệp và góp phần đáng kể vào thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng góp phần đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu. Nó thể hiện trình độ quản lý TSCĐ. Một hệ thống có máy móc, thiết bị, nhà xưởng, bến bãi, kho tàng... nếu được sắp xếp hợp lý với các gian đoạn sản xuất, thuận tiện cho việc vận chuyển thì tiết kiệm được thời gian, làm giảm chi phí sản xuất. 2.3. Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp. Bộ máy quản trị trong các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến thành công cũng như thất bại của doanh nghiệp. Trong quản trị, thước đo hiệu quả của nhà quản trị chính là việc ra các quyết định quản trị đúng đắn. Bộ máy quản trị doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, tự hoạt động lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đề ra cho tới việc tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh cho các giai đoạn sau. Với chức năng vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp, ta có thể khẳng định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định và chỉ đạo sản xuất kinh doanh chính xác và kịp thời, tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực quản trị non kém sẽ không thể đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Nếu bộ máy quản trị được bố trí có cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gọn nhẹ, linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hoạt động hợp lý, tránh được sự chồng chéo trách nhiệm vì chống được sức ỳ trong quản trị, chi phí hành chính sẽ được giảm đi góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và ngược lại. 3. Môi trường ngành. Để phân tích môi trường cạnh tranh ngành ta có thể sử dụng mô hình "Năm lực lượng tác động vào ngành" của Michael Eporter bao gồm: + Mức độ cạnh tranh giữa các Xí nghiệp đang hoạt động trong ngành. + Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn + Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế + Sức ép về giá cả của người đặt hàng in + Sức ép về giá của người cung ứng Mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực đó có thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. Một tác động cạnh tranh yếu có thể coi là cơ hội khi nó cho phép Xí nghiệp kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Cường độ của 5 lực tác động này thườngthay đổi theo thời gian, đòi hỏi các nhà quản lý chiến lược phải nhận biết được những cơ hội và các đe dọa khi chúng xuất hiện và phải đưa ra những đối sách chiến lược phù hợp. 3.1. Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn. Đối thủ tiềm ẩn là các Xí nghiệp hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Những đối thủ này mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của Xí nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một phần thị trường. Do đó doanh nghiệp đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của mình. Bơi vì hiển nhiên là nhiều Xí nghiệp nhảy vào hoạt động trong một ngành nó sẽ trở lên khó khăn hơn đối với các Xí nghiệp đang hoạt động trong ngành đó. Chính vì vậy, Xí nghiệp cần duy trì một hàng rào hợp phá ngăn cản sự xâm nhập tư bên ngoài. Ba yếu tố sau là trở ngại chủ yếu đối với việc tham gia vào một ngành kinh doanh. 3.1.1. Sự ưa chuộng sản phẩm. Đó là sự ưa thích của người đặt in đối với sản phẩm của Xí nghiệp sản xuất ra. Xí nghiệp có thể thiết lập nên sự ưa chuộng của khách hàng đối với sản phẩm của mình bằng cách: quảng cáo thường xuyên tên Xí nghiệp và các sản phẩm mà Xí nghiệp đã thực hiện sản xuất. Như vậy, có thể nói có thể sự ưa chuộng sản phẩm làm giảm bớt sự đe dọa thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn làm cho họ thấy rằng việc phá vỡ sự ưa thích của khách hàng với các sản phẩm của các Xí nghiệp trong ngành là khó khăn và tốn kém. 3.1.2. Các ưu thế về chi phí thấp. Đây chính là khó khăn đối với các đối thủ tiềm ẩn khi mới nhảy vào ngành, những lợi thế về chi phí thấp thường bắt nguồn từ: phương pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài, sự quản lý có hiệu quả đầu vào của sản xuất như lao động, nguyên vật liệu, máy móc. Thiết bị có nguốn vốn cho kinh doanh ổn định với lãi suất thấp do hoạt động của Xí nghiệp chứa đựng ít rủi ro hơn các Xí nghiệp khác. Đây cũng là một yếu tố gây trở ngại đối với các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. 3.1.3. Tính hiệu quả của sản xuất lớn. Đây là ưu thế về chi phí của các Xí nghiệp có quy mô lớn bao gồm: Giảm chi phí thông qua sản xuất hàng loạt các đầu ra được tiêu chuẩn hóa, giảm giá cho việc mua các nguyên vật liệu đầu vào các bộ phận máy móc thiết bị với số lượng lớn. Nếu Xí nghiệp có được lợi thế này sẽ buộc các Xí nghiệp mới thâm nhập và đương đầu với những khó khăn về quy mô sản xuất nhỏ và phải đương đầu với những bất lợi về chi phí lớn. 3.2. Sự cạnh tranh của các sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các Xí nghiệp ngành khác nhưng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng giống như các Xí nghiệp trong ngành, tạo ra sự cạnh tranh gián tiếp giữa các Xí nghiệp với nhau. Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó giới hạn mức giá một Xí nghiệp có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của Xí nghiệp va ngược lại. 3.3. Sức ép về giá của người cung cấp. Người cung cấp được coi là sự đe dọa với Xí nghiệp khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho Xí nghiệp lên, ảnh hưởng đến lợi nhuận của Xí nghiệp. Các Xí nghiệp thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư thiết bị, nguồn lao động, tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người đặt in sản phẩm. 3.4. Sự cạnh tranh giữa các Xí nghiệp đang hoạt động trong ngành. Sự cạnh tranh giữa các Xí nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mỗi đe dọa cho các Xí nghiệp. Nếu sự cạnh tranh này là yếu, các Xí nghiệp có hội hội để nâng giá nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt cả về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh giữa các Xí nghiệp trong ngành này thường chịu sự tác động tổng hợp của ba yếu tố: cơ cấu ngành, mức độ của cầu và những trở ngại ra khỏi ngành. - Cơ cấu cạnh tranh ngành: đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các Xí nghiệp trong ngành. Có hai loại cơ cấu chính. + Thứ nhất: ngành phân tán + Thứ hai: ngành hợp nhất Đặc trưng của những ngành phân tán là các Xí nghiệp nhỏ bé không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó mức lợi nhuận của Xí nghiệp phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí hoạt động nhưng về mặt này các Xí nghiệp có nhiều mặt hạn chế do quy mô nhỏ, sản phẩm của Xí nghiệp thường phải chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn về Marketing hoặc chi phí nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt hóa về sản phẩm. Đặc trưng của những ngành hợp nhất là các Xí nghiệp hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có nghĩa là các hoạt động cạnh tranh của một Xí nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận của các Xí nghiệp khác trong ngành. Trong ngành hợp nhất, hoạt động mang tính cạnh tranh của một Xí nghiệp tác động trực tiếp đến thị trường của các đối thủ cạnh tranh và buộc chúng phải đối phủ lại. Hậu quả là sự xoáy trôn ốc tăng lên về mức độ của cạnh tranh, làm giảm dần mức lợi nhuận của ngành. Do đó, điều rõ ràng là trong ngành hợp nhất, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các Xí nghiệp và khả năng xảy ra chiến tranh về giả cả tạo ra sự đe dọa chủ yếu. Các Xí nghiệp cố gắng làm giảm hiệu quả của sự đe dọa này bằng cách theo sau các mức giá được định bởi Xí nghiệp đầu đàn trong ngành. Việc này được gọi là hình thức thỏa thuận ngầm, bởi vì việc thỏa thuận một cách rõ ràng là trái pháp luật. Do đó, đứng trước nguy cơ đe dọa của cuộc chiến tranh giá cả, các Xí nghiệp trong ngành hợp nhất thường có xu hướng cạnh tranh về chất lượng hoặc mẫu mã của sản phẩm và việc né tránh các cuộc chiến tranh giá cả chính là xu hướng đặc trưng củ._.a ngành hợp nhất. III. phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh - Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. H = K - C* Trong đó: H: hiệu quả sản xuất kinh doanh K: kết quả đạt được C: Chi phí bỏ ra - Phương pháp đánh giá tương đối hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. H = K C Hiện nay, phương pháp đánh giá này được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp do nó có ưu điểm hơn phương pháp đánh giá tuyệt đối, bởi vì phương pháp này biểu hiện được tương quan về chất và lượng, giữa kết quả với chi phí, phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Một quan điểm đưa ra khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, là chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian, cả về mặt định tính và định lượng của sản xuất kinh doanh. a. Về thời gian. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ta có thể tính toán được hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn, nhưng về nguyên tắc thì hiệu quả của từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong nhiều trường hợp vì lý do nào đó chỉ thấy lợi ích trước mặt mà không thấy lợi ích lâu dài, như việc nhập một số thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu hoặc xuất khẩu hàng loạt các tài nguyên thiên nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất lâu dài của doanh nghiệp. b. Về mặt không gian. Hiệu quả của hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng hoặc giảm đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà nó liên quan tức là có sự ảnh hưởng giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. c. Về mặt định tính. Đứng trươc góc độ nền Kinh tế Quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt chẽ với hiệu quả của toàn xã hội. Doanh nghiệp có hiệu quả cao chưa chắc đã mang lại hiệu quả cho xã hội. Và ngược lại hiệu quả xã hội trong nhiều trường hợp là mặt có tính quyết định khi lưạc chọn một giải pháp kinh tế. Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Kết quả đạt được trong sản xuất mới bảo đảm được yêu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội. Do vậy việc đánh giá hiệu quả sản xuất không chỉ đánh giá ở kết quả mà phải xem doanh nghiệp sản xuất tạo ra kết quả như thế nào, bằng phương tiện gì, trình độ ra sao. d. Về mặt định lượng. Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện thông qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là sử dụng tiết kiệm tối đa mức chi phí sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều sản phẩm có ích nhất. Như vậy đứng trên góc độ của nền Kinh tế Quốc dân, việc nâng cao hiệu quả của một doanh nghiệp phải luôn luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cho ddơn vị phải đảm bảo hiệu quả kinh tế ngành, địa phương. Nói cách khác, khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phải quán triệt một số quan điểm sau: - Bảo đảm sự kết hợp hài hòa và các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích người lao động, lợi ích trước mặt và lợi ích lâu dài... quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ việc thỏa mãn một cách thích đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau. - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải là sự kết hợp hài hòa giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với hiệu quả toàn doanh nghiệp. - Phải đảm bảo tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị - xã hội với nhiệm vụ kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật lẫn giá trị hàng hóa. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán đánh giá hiệu quả phải đồng thời chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị, ở đây mặt hiện vật ở số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm, còn mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh 2.1. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: - Chỉ tiêu doanh thu trên 1 đồng chi phí Chỉ tiêu doanh thu trên 1 đồng chi phí = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao khi tổng chi phí thấp, do vậy nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp giảm chi phí để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất (sức sản xuất của vốn): Sức sản xuất của vốn = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Do đó, nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp trong việc quản lý vốn chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả đồng vốn kinh doanh. - Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí: Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí = Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Chỉ tiêu doanh lợi theo vốn kinh doanh. Chỉ tiêu doanh lợi theo vốn kinh doanh = Lợi nhuận trong kỳ Tổng vốn kinh doanh trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp; một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồnglnh. Nó phản ánh trình độ lợi dụng yếu tố vốn của doanh nghiệp. - Chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu thuần: Chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu thuần = Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu thuần trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí hoặc tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng chi phí. 2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cơ bản. * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. - Chỉ tiêu năng suất lao động: Chỉ tiêu năng suất lao động = Tổng giá trị sản xuất tạo ra trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một lao động sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. - Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương: Chỉ tiêu kết quả sản xuất trên 1 đồng chi phí tiền lương = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng chi phí tiền lương trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí tiền lương trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. - Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động: Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động = Lợi nhuận trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết bình quân một lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hệ số sử dụng lao động: Hệ số sử dụng lao động = Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp. - Hệ số sử dụng thời gian lao động: Hệ số sử dụng thời gian lao động = Tổng thời gian lao động thực tế Tổng thời gian lao động định mức Chỉ tiêu này phản ánh thời gian lao động thực tế so với thời gian lao động định mức, nó cho biết tình hình sử dụng thời gian lao động trong doanh nghiệp. * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: Sức sản xuất của vốn cố định = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sản xuất của vốn cố định. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sinh lợi của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sinh lợi của vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hiệu suất sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị = Thời gian làm việc thực tế Thời gian làm việc theo thiết kế - Hệ số sử dụng tài sản cố định: Hệ số sử dụng tài sản cố định = Tổng tài sản cố định được huy động Tổng tài sản cố định hiện có - Hệ số đổi mới tài sản cố định: Hệ số đổi mới tài sản cố định = Tổng giá trị tài sản cố định được đổi mới Tổng tài sản cố định hiện có * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn lưu động: Sức sản xuất của vốn lưu động = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Sức sản xuất của vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. - Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết cần bao nhiêu đồng vốn lao động đảm nhiệm để tạo ra một đồng doanh thu. - Số vòng quay của vốn lưu động: Số vòng quay cảu vốn lưu động = Doanh thu thuần Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. - Thời gian của một vòng quay: Thời gian của một vòng quay = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng quay của vốn lưu động Chỉ tiêu này cho biết số ngày để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian này càng ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Chương II thực trạng về hiệu qủa sản xuất kinh doanh của xí nghiệp in I TTXVN I. vài nét về Xí nghiệp in I TTXVN Xí nghiệp in I TTXVN trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam, thành lập 15/09/1983. Ngành nghề kinh doanh in ấn các ấn phẩm báo chí. Trong quá trình hoạt động xí nghiệp có nhiệm vụ sau: -Làm đầy đủ các thủ tục đăng ký kinh doanh và hoạt động theo đúng qui định của nhà nước . -Thực hiện đầy đủ các nội dung trong đơn xin thành lập doanh nghiệp nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật. -Tạo lập sự quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh và đảm bảo xí nghiệp làm ăn có lãi. -Tuân thủ các chính sách chế độ pháp luật của nhà nước về quản lý kinh tế , tài chính, lao động, không ngừng nâng cao hiệu quả thực hiện nghiêm túc các hợp đồng đã ký kết nhằm nâng cao uy tín cho xí nghiệp. -Quy mô và cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhật định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng qản trị doanh nghiệp. Quá trình đó phải được xây dựng trên cơ sở cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp . Xí nghiệp in I TTXVN là doanh nghiệp chuyên in ấn các sản phẩm báo chí, tờ rơi, tờ gấp... vì vậy quy mô và cơ cấu tổ chức sản xuất được phân cấp từ trên xuống dưới dựa trên cơ sở: +Đảm bảo tính chuyên môn hoá đến mức cao nhất có thể +Đảm bảo tiêu chuẩn hoá, xác định rõ nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cá nhân cũng như quy định các nguyên tắc, quy trình thực hiện, tiêu chuẩn chất lượng với từng nhiệm vụ. + Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận, phòng ban, cá nhân. + Đảm bảo tính thống nhất quyền lực trong hoạt động quản trị về điều hành. Vì vậy cần phải lựa chọn cơ cấu tổ chức hợp lý, xác định tính thống nhất quyền lực trong toàn bộ hệ thống thể hiện cụ thể quy chế hoạt động nhất là trong giai đoạn hiện nay người tổ chức phải tìm kiếm kiểu cơ cấu tổ chức thích ứng với sự thay đổi thường xuyên của môi trường, đồng thời cũng phải thường xuyên nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. II. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Xí nghiệp in I TTXVN: 1.Đặc điểm về sản phẩm Là một xí nghiệp sản xuất các ấn phẩm báo chí nên trước hết sản phẩm của xí nghiệp mang đặc điểm cung cấp các thông tin cho người đọc nên yêu cầu chính đối với sản phẩm là thời gian cũng như kỹ thuật chất lượng . Để thực hiện hoàn chỉnh một loại sản phẩm nói chung cần một quy trình công nghệ như sau: Các khâu liên quan và máy móc sử dụng Sản phẩm A Thiết kế, chế bản. Xuất fiml Bình chụp bản Công đoạn in Offset KCS (kiểm tra loại bỏ sản phẩm hư hỏng) Công đoạn Cán mảng(nếu có) Công đoạn Bế dập tạo khuôn. Nhập kho thành phẩm. Trong nền kinh tế ngày nay, do sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự hội nhập kinh tế đang diễn ra từng ngày nên việc in ấn càng cần phải đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. -Ngoài ra khi sản xuất loại sản phẩm này đều không gây mất nhiều chi phí bảo quản dẫn đến giảm chi phí sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. 2.Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật Để phục vụ tốt hơn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, mỗi xí nghiệp, doanh nghiệp phải có những bước đi đúng đắn trong quá trình đầu tư máy móc thiết bị để đảm bảo cho sự hoạt động liên tục của dây chuyền sản xuất cũng như tiếp cận với những công nghệ mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả cho sản phẩm của mình. Đó là yếu tố mang tính tất yếu cho sự sống còn của mỗi doanh nghiệp sản xuất. Hiện nay, Xí nghiệp in I TTXVN có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật như sau: Bảng A: Thống kê hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của xí nghiệp. Đơn vị: 1000đ Các chỉ tiêu Nguyên giá Giá trị còn lại Văn phòng làm việc 3 tỷ 2.5 tỷ Xưởng tạo khuôn bế dập Xưởng bình chụp bản Xưởng in Offset Kho tàng 5 tỷ 4.5 tỷ Phương tiện vận tải 200 triệu 170 triệu Máy móc thiết bị 25 tỷ 23,5 tỷ Trong đó hệ thống máy móc thiết bị của xí nghiệp như sau: Các loại máy móc thiết bị Số lượng Công suất (kw/h) Năm sử dụng Quốc gia cung cấp Máy chế bản(máy vi tính) 10 2 1999 Nhật Máy in film 1 3 1998 Nhật Máy in Offset 2 màu 4 30 1994 Nhật - Đức Máy in Offset 1 màu 3 15 1993 Séc Máy in Offset cuốn 6/6 màu 1 90 1998 Đức Máy bế dập 4 10 1995 Việt Nam Máy bế tự động 2 15 1990 Nhật Máy cắt 4 10 1999 Nhật Máy ép thuỷ lực 2 10 1985 Đài Loan Máy dập ghim 10 5 1995 Trung Quốc Máy cán màng 1 15 1999 Việt Nam (Theo nguồn: Phòng kỹ thuật tháng 3/2003) *ảnh hưởng của cơ sở vật chất kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp in I TTXVN có cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối hiện đại so với các đơn vị cùng ngành. Điều này là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả sản xuất của đơn vị. 3. Đặc điểm lao động: Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó xí nghiệp đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo được số lượng, chất lượng lao động sẽ mang lại hiệu quả cao vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, hệ số sử dụng lao động, do tính chất công việccủa xí nghiệp là ổn định, có thời gian khối lượng công việc nhiều ,nên trong mấy năm qua xí nghiệp chú trọng phát triển số lượng lao động đồng thời quan tâm đến việc nâng cao chất lượng lao động để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Đặc điểm vè lao động sản xuất của xí nghiệp là lao động kỹ thuật được đào tạo cơ bản từ các trường của ngành in, tuỳ theo từng bộ phận trong phân xưởng sản xuất xí nghiệp sẽ bố trí thích hợp cho từng vị trí đảm bảo sự thông suốt trong quá trình sản xuất cũng như phù hợp với trình độ chuyên môn của từng người. Việc sắp xếp bố trí nhân sự trong xí nghiệp như sau: cơ cấu lao động theo chức năng: bảng 4: Cơ cấu lao động theo chức năng Chỉ tiêu Số lượng Tỉ trọng 1.Lao động gián tiếp: 17 12% -Quản lý 10 7% -Ký thuật 7 5% 2.Lao động trực tiếp: 130 88% -Phân xưởng bình chụp bản, in 73 55% -Phân xưởng thành phẩm 50 38% -Phân xưởng KCS 7 20% Tổng 147 người 100% (Theo nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương tháng 2/2002) Nhìn vào bảng trên ta thấy với 147 cán bộ công nhân viên của xí nghiệp, lao động gián tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ (12%) trong đó có 7% là lao động quản lý, đây là một bộ máy quản lý đã được tinh giảm, gọn nhẹ, chứng tỏ ban giám đốc chú trọng đến chất lượng lao động hơn là số lượng lao động. Xí nghiệp cũng là doanh nghiệp làm việc theo chế độ một thủ trưởng, sự chồng chéo trong quản lý được hạn chế tối đa. Cơ cấu trong lao động các phân xưởng cũng được sắp xếp một cách hợp lý, đối với các phân xưởng từ thiết kế chế bản đến phòng bình chụp bản, in ấn đến khâu cuối cùng là KCS, đảm bảo một cách tối đa công suât, năng lực của từng bộ phận. Với cơ cấu nhân sự như vậy xí nghiệp đã phần nào đáp ứng được nhu cầu sản xuất tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. -Cơ cấu lao động theo trình độ: Bảng 5: Cơ cấu lao động theo trình độ Chỉ tiêu lao động Đại và sau đại học Cao đẳng Trung cấp Công nhân kỹ thuật Cán bộ quản lý 5 3 2 Cán bộ kỹ thuật 5 2 0 Công nhân bậc 6-7 11 Công nhân bậc 4-5 20 Công nhân bậc 2-3 2 Tổng số 10 7 0 33 Tỉ trọng 20% 14% 0 66% (Theo nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương tháng 03/2003) Số lượng lao động quản lý là 10 người, trong đó có 5 người có trình độ đại học và trên đại học, còn lại là cán bộ kỹ thuật t người, cao đẳng_trung cấp chiếm tỉ lệ không nhỏ. Như vậy với bộ máy quản lý nhỏ gọn nhưng lại có tỷ trọng cán bộ có trình độ cao chiếm phần lớn nên công việc quản lý của xí nghiệp vẫn được tổ chức một cách khoa học và hiệu quả. Trong số cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ trọng cao, nhưng đó chưa phải là số lượng cán bộ đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất của xí nghiệp. Xí nghiệp cần chú trọng tuyển thêm cán bộ kỹ thuật về các phân xưởng phụ trách trực tiếp quá trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của xí nghiệp. Xí nghiệp có số lượng công nhân kỹ thuật bậc cao tương đối lớn, đó là những công nhân đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc, là những công nhân bậc thầy cho các lớp công nhân trẻ mới vào làm, tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Nhưng mặt khác số công nhân bậc cao này cũng gây ra những bất ổn cho xí nghiệp trong quá trình sản xuất, tuy là những công nhân lành nghề đã quen với nếp sống kỷ luật của xí nghiệp nhưng nó đồng nghĩa với tuổi tác của công nhân này đã cao, sắp hết tuổi lao động. Nhiều người trong số họ sức khỏe đã giảm đi nhiề ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động. Vì vậy xí nghiệp cần phải chuẩn bị tuyển người và đào tạo nâng cao tay nghề của các lớp công nhân trẻ, kịp thời thay thế cho các lớp thế hệ trước. 4. Đặc điểm về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất trực tiếp cấu thành nên thực thể sản phẩm. Thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. Vởy nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, đến hiệu quả của việc sử dụng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên vật liệu của xí nghiệp có đặc điểm là nguyên vật liệu của ngành in ấn và các nhiên liệu này là nếu không được bảo quản tốt sẽ nhanh bị thái hoá dẫn đến chất lượng nguyên vật liệu không tốt làm chất lượng sản phẩm cũng giảm theo, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ngày nay việc xuất hiện nhiều những xí nghiệp sản xuất in ấn chính vì vậy cũng xuất hiện rất nhiều các nhà cung cấp cac nguyên vật liệu phục vụ cho ngành in ấn. Do vậy việc cung ứng nguyên vật liệu đầu vào của xí nghiệp gặp rất nhiều thuận lợi nên xí nghiệp không phải mất nhiều chi phí dự trữ nguyên vật liệu trong kho, mà xí nghiệp có điều kiện trực tiếp mua trên thị trường cho sản xuất sản phẩm theo từng đợt hàng. 5.Đặc điểm về thị trường . *Về thị trường cung ứng nguyên vật liệu và hàng hoá kinh doanh. Đối với thị trường cung ứng nguyên vật liệu cho xí nghiệp như giấy Bãi Bằng, xí nghiệp giấy Tân Mai ... đều là những thị trường đầu vào trong nước. Đặc điểm này có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh như sau: -ảnh hưởng tích cực: xí nghiệp không phải chịu chi phí nhập ngoại, chi phí cho việc nghiên cứu thị trường đầu vào của mình và do có nhiều nhà cung cấp cạnh tranh với nhau nên giá thành có thể được giảm. *Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: -Đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm: hiện nay các sản phẩm in của xí nghiệop đã tạo được uy tín trên thị trường bằng chất lượng in ấn. III.Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp in I TTXVN. 1.Tình hình kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong thời gian qua: Bảng 7: Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tổng thiết bị 22000 23000 24000 2.Phụ tùng 235 250 260 3.Vật tư 2600 2800 2800 4.Sản xuất 1500 1600 1700 Tổng cộng: 26350 27650 28760 (Theo nguồn: Phòng kinh doanh tháng 02/2003) Qua bảng trên ta thấy năng lực sản xuất của xí nghiệp không ngừng tăng lên, giá trị tổng sản lượng cao và tăng mạnh trong 3 năm 2000, 2001 đặc biệt là có sự nhảy vọt của năm 2002. Qua bản báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, ta thấy rằng trong những năm qua tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp cơ bản là có hướng phát triển tốt. Chỉ tiêu tổng lợi nhuận đối với mọi doanh nghiệp vẫn được đặt lên hàng đầu vì đó là mục tiêu quan trọng nhất mà doanh nghiệp theo đuổi. Qua việc phân tích doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp ta có thể thấy được xí nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh thu hàng năm đều tăng đều đặn, năm sau cao hơn năm trước. Trong những năm qua Xí nghiệp in I TTXVN đã luôn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước, cùng với việc tăng kết quả sản xuất kinh doanh, xí nghiệp cũng góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách n thông qua việc đóng thuế: Thuế doanh thu(6%), thuế VAT(10%) và thuế thu nhập doanh nghiệp (32%). 2.Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp in I TTXVN 2.1. Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp: Cũng như mọi doanh nghiệp nhà nước khác, doanh thu và lợi nhuận là hai chỉ tiêu mà Xí nghiệp in I TTXVN coi là động lực thúc đẩy sự phát triển. Doanh thu chính là giá trị hay số tiền mà doanh nghiệp có được nhờ thực hiện sản xuất kinh doanh còn lợi nhuận chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Theo sự phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở trên, ta mới chỉ biết doanh nghiệp có phát triển theo chiều rộng hay không, nhưng để biết được sự phát triển theo chiều sâu của xí nghiệp ta phải xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Bảng 8: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2001/2000 2002/2001 1.Doanh thu trên đồng chi phí 2.5038 2.6078 3.0811 1,55 40,6 2.Sức sản xuất của vốn 4.9510 4.3200 30.7771 -15,9 525 3.Doanh lợi theo DT thuần 1,273% 6,588% 2,183% 729 12,4 4.Doanh lợi theo vốn KD 4,09% 19,32% 18,96% 538,2 18,5 5.Doanh lợi theo chi phí 2.18% 9,26% 5,39% 715,3 1,8 Qua 2 biểu đồ trên ta thấy chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí là tương đối cao, đặc biệt là sang năm 2001 là 3,0811 tăng 41% so với năm 2000. Điều này cho thấy, xí nghiệp đã tiết kiệm được chi phí sản xuất và tiêu thụ khiến cho một đồng chi phí bỏ ra thu về được nhiều đồng doanh thu hơn. Đây là một điều kiện cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.2.Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu tư cơ bản: 2.2.1. Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng lao động : Số lao động trong kỳ và tổng chi phí tiền lương trong vài năm gần đây được thống kê như sau: Bảng 9: Tình hình sử dụng lao động của xí nghiệp Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số lượng lao động bình quân trong kỳ Người 145 150 148 Tổng chi phí tiền lương Nghìn đồng 101.500 132.600 192.400 Thu nhập bình quân Nghìn đ/người 654,7 884,2 1.300 Số lao động hiện có Người 140 145 143 Qua số liệu trên ta có bảng chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động của xí nghiệp như sau: Bảng 10: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 2002 1.Chỉ tiêu năng suất lao động Nghìn đồng/người 334,24 308,194 983,245 2.Kết quả sản xuất trên 1 đồng chi phí tiền lương đồng/ đồng 41,875 31,521 89,376 3.Lợi nhuận bình quân tính cho 1 lao động Nghìn đồng/người 2,964 12,21 13,69 4.Hệ số sử dụng lao động % 68,35 65,98 69,49 Biểu năng xuất lao động Lợi nhuận bình quân 1 lao động Trong 3 năm qua thì số lao động bình quân trong xí nghiệp không thay đổi nhiều, nhưng chi phí tiền lương tăng lên với tốc độ ngày càng tăng, chứng tỏ công nhân được sử dụng nhiều về mặt thời gian(làm thêm giờ) Chỉ tiêu năng suất lao động tuy có giảm so với năm 2000, nhưng sang đến nam 2002 chỉ tiêu này tăng lên rất nhiều, bằng 703,98% và 804,56% so với năm 2000 và năm 2001. Con số này khá cao chứng tỏ tuy số lượng lao động không nhiều nhưng làm việc có hiệu quả. 2.2.2.Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định: Bảng 11: Thống kê sự biến động vốn cố định của Xí nghiệp in I TTXVN Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Vốn cố định 25.500 27000 28000 -Vốn lưu động 700 900 1000 -Vốn vay ngắn hạn 900 1000 1100 Bảng 12: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 2001/ 2000 (%) 2002/ 2001 (%) -Sức sản xuất vốn cố định(đ/đ) 5,5863 5,397 46,78 -3,39 766,8 -Sức sinh lợi của vốn cố định(đ/đ) 0,046 0,271 0,314 489 15,8 Sức sinh lợi của vốn cố định tăng liên tục từ năm 2000 đến năm 2002. Nếu năm 2000 sức sinh lợi của vốn cố định là 0,046 thì đến năm 2001 và năm 2002, sức sinh lợi của vốn cố định tăng lên 489%(0,225) và 582%(0,268) so với năm 2000. Như vậy có thể nói 3 năm qua việc quản lý và sử dụng vốn cố định ở xí nghiệp là tương đối tốt, đặc biệt là năm 2002, đó là kết qủa của việc đầu tư có hiệu quả cho công nghệ sản xuất mới, cải tiến tổ chức sản xuất hợp lý, hoàn chỉnh cơ cấu tài sản cố định, hoàn thiện những khâu yếu hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ. 2.2.3.Phân tích thực trạng sử dụng hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có vốn. Vốn lưu động là bộ phận thứ hai có vai trò quan trọng đặc biệt trong toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh. Nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị tài sản lưu động được sử dụng vào quá trình tái sản xuất. Do vậy để nghiên cứu tình hình sử dụng và quản lý vốn lưu động của Xí nghiệp in I TTXVN ta nghiên cứu cơ cấu vốn theo các nguồn sau: -Theo nguồn hình thành: +Vốn vay ngắn hạn +Vốn tự bổ sung -Theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển: +Vốn dự trữ +Vốn trong sản xuất + Vốn trong lưu thông a. Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành: Bảng 13: Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn hình thành Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Vốn lưu động 700 900 1000 -Vốn vay ngắn hạn 900 1000 1100 -Vốn tự bổ sung 345 357 719 Do sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả, nên năm 2001 và năm 2002 vốn tự bổ sung vào vốn lưu động của xí nghiệp ngày càng tăng lên. Năm 2000, vốn tự bổ sung là 345 triệu đồng, năm 2001 là 357 triệu đồng và năm 2002 là 719 triệu đồng, tăng 108,4% và 101,4% so với năm 2000 và năm 2001. b.Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển: Bảng 14: Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Vốn lưu động trong khâu dự trữ 795 1.408 2.884 Vốn lưu động trong khâu sản xuất 1.156 1.267 1.943 Vốn lưu động trong khâu lưu thông 1.454 2.254 5.279 Qua biểu trên, ta có thể thấy vốn lưu động trong khâu lưu thông của doanh nghiệp là lớn nhất mà chúng ở dạng tiền là chủ yếu, các khoản phải thu của doanh nghiệp nhỏ, điều đó có nghĩa là vốn lưu động của doanh nghiệp ít bị ứ đọng trong khâu dự trữ và khâu sản xuất kinh doanh. Tóm lại, qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, ta thấy rằng xí nghiệp in I TTXVN nhìn chung là kinh doanh có hiệu quả. Qua đây ta thấy, mặc dù xí nghiệp vẫn đạt được mục tiêu lợi nhuận nhưng tốc độ tăng lợi nhuận năm 2002 so với năm 2001 nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu, vốn kinh doanh và chi phí nên các chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu, theo vốn kinh doanh và theo chi phí giảm. Điều này chứng tỏ việc sử dụng các yếu tố đầu vào vẫn còn lãng phí. Nếu nỗ lực khắc phục nhược điểm này thì hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp sẽ được cải thiện nhiều. IV.Đánh giá tổng quát hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp : 1.Những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh Từ khi được thành lập và trải qua nhiều khó khăn, Xí nghiệp in I TTXVN đã đạt được những thành công nhất định, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế non trẻ nước ta nói chung và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp nói riêng. Trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh , Xí nghiệp in I TTXVN luôn đặt ra cho chính mình một mục tiêu phát triển và luôn nỗ lực trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra. Nhưng trong điều kiện hiện nay, mọi nỗ lực của xí nghiệp đều nhằm mở rộng quy mô hoạt động của mình trên cơ sở mở rộng thị trường, mặt hàng kinh doanh, đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh ..., đồng thời xí nghiệp cũng đặt ra vấn đề hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh lên hàng đầu. Thực tế tại xí nghiệp thời gian vừa qua chỉ thực hiện được mục tiêu mở rộng kinh doanh, mà mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh vẫn còn là một bài toán khó đang được lãnh đạo của xí nghiệp dần dần tìm ra lời giải. Mặc dù qua việc phân tích và đánh giá các chỉ tiêu cơ bản và cụ thể về hiệu quả kinh doanh ở xí nghiệp, ta thấy rằng thời gian qua xí nghiệp luôn đạt được kết quả khá cao về tổng doanh thu, tổng lợi nhuận thu nhập bình quân và khoản nộp ngân sách nhà nước của xí nghiệp, nhưng xí nghiệp vẫn chưa thực hiện ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0272.doc