Một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây (66tr)

Mở đầu Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế của Tỉnh, cùng với các chính sách phát triển kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá và tham gia hội nhập. Tỉnh uỷ Hà Tây dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đã từng bước thực hiện có hiệu quả hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội được ban hành như: chính sách việc làm, thu nhập, giáo dục-đào tạo nghề, phát triển các ngành nghề, doanh nghiệp, công ty…Nhờ đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thúc đẩy quá trình phát triển ki

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây (66tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế xã hội diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được có thể nói rằng còn tồn tại khá nhiều vấn đề xã hội gay gắt như: tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng gia tăng, phân hoá giàu nghèo giữa hai khu vực thành thị -nông thôn ngày càng sâu sắc, tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng tăng lên… Nhưng trong tất cả các vấn đề xã hội nêu trên thì vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm là đáng quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay, vì nó là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không phải là vấn đề đáng quan tâm của riêng Tỉnh mà đối với cả nước ta và các nước khác trên thế giới, không phân biệt phát triển hay đang phát triển. Do đó trong công cuộc CNH-HĐH và hội nhập kinh tế của tỉnh thì việc nghiên cứu các chương trình, mục tiêu và đề ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Với ý nghĩa đó tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây”. Nội dung của đề tài gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm. Phần II: Phân tích thực trạng vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây. Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Hà Tây. Tôi xin trân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Nam Phương và cán bộ giúp đỡ Phạm Văn Thanh- trưởng phòng chính sách xã hội cùng toàn thể cán bộ của phòng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Mặc dù đã cố gắng nhưng do thời gian và khả năng còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo, cán bộ giúp đỡ và cán bộ của phòng để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội ngày 29 tháng 4 năm 2004 Sinh viên: Đỗ Thị Quyên nội dung Phần I Lý luận chung về vấn đền việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường hiện nay I. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 1. Các khái niệm. 1.1. Việc làm. * Khái niệm. Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có việc làm. Đó là một trong những quyền cơ bản nhất của con người đã được khẳng định trong hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam. Nhưng trên thực tế đảm bảo quyền có việc làm cho người lao động là vấn đề thách thức, là bài toán phức tạp và đầy khó khăn không những ở nước ta mà còn ở tất cả các nước trên thế giới trong điều kiện hiện nay. Vì vậy vấn đề việc làm được nhắc đến rất nhiều, nhưng trong mỗi thời gian và không gian khác nhau thì khái niệm về việc làm lại có những thay đổi nhất định. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp người lao động được coi là có việc làm là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, ngoài ra không có sự thừa nhận các hoạt động ở lĩnh vực khác. Trong cơ chế đó Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động do đó chứ có khái niệm về thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ. Ngày nay trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì quan niệm về việc làm có sự thay đổi về căn bản. - Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. - Theo điều 33 của Bộ luật lao động Việt Nam: Việc làm là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động. Việc làm là nhu cầu, quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với mọi người. Theo đại hội Đảng lần thứ VII: “ Mọi việc mang lại thu nhập cho người lao động có ích cho xã hội đều được tôn trọng”. Theo khái niệm này việc làm được thể hiện dưới các dạng sau: + Làm những công việc mà người lao động khi thực hiện nhận đựoc tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. + Làm những công việc khi người lao động thực hiện thu lợi nhuận cho bản thân ( người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động cho bản thân để sản xuất sản phẩm). + Làm những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó ( do chủ gia đình làm chủ sản xuất). - Theo quan niệm của thế giới về việc làm thì: người có việc làm là những người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Khi vận dụng vào điều kiện và hoàn cảnh của nước ta thì khái niệm về việc làm có sự thay đổi và được nhiều người đồng tình đó là: Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp một phần cho xã hội. Với khái niệm trên thì nội dung của việc làm đã được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người cụ thể. + Thị trường việc làm đã được mở rộng rất lớn gồm tất cả các thành phần kinh tế( quốc doanh, tập thể, tư nhân, hợp tác xã…), mọi hình thức và cấp độ sản xuất kinh doanh( kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ hợp…) và sự đan xen giữa chúng. Nó không bị hạn chế về mặt không gian. + Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do thuê mướn lao động theo luật pháp và sự hướng dẫn của nhà nước để tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động. * Phân loại. - Theo mức độ sử dụng lao động: + Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn các công việc khác. + Việc làm phụ là những công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. + Việc làm hợp lý là những công việc tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm phù hợp với năng lực sở trường của người lao động. + Việc làm hiệu quả là việc làm với năng suất chất lượng cao. Đối với tầm vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động tức là tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực. - Theo thời gian làm việc của người lao động. + Việc làm tạm thời là việc làm được tạo ra trong thời gian người lao động đang tìm một công việc thích hợp với chuyên môn và sở trường của họ. + Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ luật định( độ dài thời gian lao động hiện nay ở Việt Nam là 8 giờ/ ngày) và không có nhu cầu làm thêm. + Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động họ phải làm việc không hết thời gian theo luật định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Theo tổ chức lao động quốc tế ILO thiếu việc làm được thể hiện dưới hai dạng: Thiếu việc làm hữu hình: Chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm việc làm thêm và sẵn sàng làm việc. Cụ thể ở Việt Nam một tuần làm việc dưới 40 giờ, một tháng làm việc dưới 22 ngày là thiếu việc làm. Thước đo thiếu việc làm hữu hình: K1= (Số giờ làm việc thực tế/ Số giờ quy định) * 100%. Thiếu việc làm vô hình là trạng thái là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp không đảm bảo cuộc sống và có nhu cầu muốn làm việc thêm để có thu nhập. Thước đo thiếu việc làm vô hình: K1= ( Thu nhập thực tế/ Mức lương tối thiểu hiện hành) * 100% 1.2. Giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo ra việc làm để thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm, người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh thứ hai của nó là vấn đề tạo ra việc làm. Vậy tạo việc làm là gì? Tạo việc làm là hoạt động kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật ngăn cấm. Người tạo ra công việc cho người lao động có thể là Chính phủ thông qua các chính sách, có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế ( các công ty, doanh nghiệp, các cở sở hoạt động sản xuất kinh doanh…) và các cá nhân, thông qua các hoạt động thuê muớn nhân công. Quá trình tạo việc làm là quá trình tạo ra những của cải vật chất ( số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất), sức lao động ( số lượng, chất lượng sức lao động) và điều kiện kinh tế- xã hội khác. Có thể mô hình hoá quy mô tạo việc làm theo phương trình sau: Y= f( C, V, X…) Trong đó: Y: số lượng việc làm được tạo ra C: vốn đâù tư V: sức lao động X: thị trường tiêu thụ sản phẩm vv… Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố vốn đầu tư C và sức lao động V. Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa C và V phụ thuộc vào tình trạng công nghệ có thể được biểu hiện trên đồ thị như sau: Đường N là năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Trên đường N tập hợp mọi sự kết hợp giữa C và V. Đường N thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp được mở rộng. Đường AO thể hiện trình độ công nghệ nhất định ( C/V không đổi). Khi năng lực sản xuất được mở rộng. Khả năng tạo việc làm phụ thuộc vào trình độ và vốn đầu tư như sau: - Trong điều kiện công nghệ không thay đổi, mở rộng năng lực sản xuất theo quan hệ tỷ lệ C/V như cũ. Trên đồ thị tại điểm B CA/ VA = CB/ VB song năng lực sản xuất được mở rộng thêm vì vốn ba đoạn CA- CB, số việc làm VA đến VB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô, song trình độ công nghệ cao hơn trước, biểu hiện tỷ lệ C/V cao hơn tức là vốn đầu tư cao hơn song khả năng thu hút lao động lại bị hạn chế. Trong đồ thị, đường AI biểu hiện trình độ công nghệ tiến bộ hơn tại điểm I có CI > CB, nhưng cơ số việc làm VI > VB, hay nói cách khác lượng việc làm giảm đi một cách tương đối VIVB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, song trình độ công nghệ thấp hơn trước, biểu hiện C/V thấp hơn tức là vốn đầu tư ít hơn, song khả năng mở rộng việc làm lại lớn hơn. Trên đồ thị, đường AK là đường biểu hiện trình độ công nghệ thấp hơn. tại điểm K có CK VB tức là lượng việc làm tăng tương đối một lượng VBVK. Tuy nhiêm sự tồn tại hai yếu tố C và V dưới dạng là những khả năng. Để chuyển hoá khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các chính sách của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc ký kết hợp đồng lao động tập thể và thoả ước lao động tập thể, quy định điều kiện và an toàn lao động vv… 1.3. Thất nghiệp. * Khái niệm. Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế- xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội, trong tất cả các thời kỳ của mọi nền kinh tế. Thất nghiệp hiểu một cách đơn giản là mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Khái niệm về thất nghiệp ngày càng được bổ sung và mở rộng dần nên hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp nhưng nhìn chung đều xoay quanh 3 đặc trưng của người thất nghiệp đó là: Những người có khả năng lao động, nhưng không có việc làm và đang đi tìm việc. Cụ thể: - Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp bao gồm những người mà phần lớn thời gian trong thời kỳ quan sát không làm việc, nhưng đang tìm việc làm. - Theo viện Khoa học lao động: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng khổng thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành. - Thất nghiệp là những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký với cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết ( tạp chí Lao động- Xã hội số 118 tháng 11/1996). - Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. ( Quy định của Bộ LĐTB&XH năm 1996). * Phân loại. Tuỳ theo từng tiêu thức nhất định người ta chia ra nhiều loại thất nghiệp khác nhau. - Theo nguyên nhân thất nghiệp người ta chia thành: + Thất nghiệp cơ cấu: do cơ cấu của cung lao động ( chủ yếu dựa vào trình độ tay nghề và cơ cấu nghiệp vụ) không phù hợp với nhu cầu sản xuất hàng hoá dịch vụ. Loại thất nghiệp này mang đặc điểm tồn tại lâu dài. + Thất nghiệp công nghệ: do thay đổi công nghệ và áp dụng tiến bộu kỹ thuật mới, làm giảm nhu cầu chung về lao động hoặc giảm lao động trong một số nghề nhất định. Loại này có đặc điểm là có thể tồn tại lâu dài hoặc ngắn hạn tuỳ thuộc vào khả năng đào tạo lại, bổ túc nâng cao tay nghề cho người thất nghiệp và độ tuổi của những người cần đào tạo lại. + Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực. + Thất nghiệp theo mùa vụ: tuỳ thuộc vào mùa vụ trong năm, đặc biệt là trong nông nghiệp và một số ngành công nghiệp thực phẩm và xây dựmg, nó xuất hiện như là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội lao động. + Thất nghiệp tạm thời: xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao động không phù hợp. Người ta cũng gọi loại này là thất nghiệp tự nhiên, với ý nghĩa là thời gian tìm việc ngắn và không ảnh hưởng đến tình trạng cân bằng trên thị trường lao động. * Xét về tính chủ động của người lao động phân chia thành: + Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm một công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được một việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng. + Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm được việc làm. + Thất nghiệp hữu hình: xảy ra khi người lao động có sức lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được việc làm ở mức tiềm công hiện hành. Loại thất nghiệp này có thể thống kê được + Thất nghiệp vô hình: là khi người lao động làm các việc với năng suất rất thấp không góp phần tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân gì đáng kể mà cốt có thu nhập lấy từ tái phân phối để sống. Loại thất nghiệp này thường thấy khả phổ biến ở nông thôn nơi thời gian sử dụng lao động còn rất thấp (76%). Loại này rất khó thống kê. 2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đang là vấn đề bức xúc có tính thời sự không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các nước trên thế giới, sức ép về việc làm đang ngày càng gia tăng. Vì vậy giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của nước ta hiện nay. Mà đối tượng để giải quyết việc làm chính là con người, cụ thể là người lao động, một lực lượng chiếm tỷ lệ rất lớn và đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Do đó để thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì trước hết ta phải tìm hiểu rõ về vai trò quan trọng của con người trong xã hội. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. ở bất cứ giai đoạn nào thì con người cũng luôn là trung tâm của sự phát triển vì vậy mà Mác đã từng nói: “ Con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động là yếu tố quyết địn tốc độ phát triển của tiến bộ kỹ thuật”. Khi nghiên cứu, tìm hiểu về con người thì ta phải nghiền cứu trên hai khía cạnh: Thứ nhất, con người là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải, vật chất và tinh thần. Như vậy, để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của mình (một yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất) tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. Muốn vậy, phải có quá trình kết hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất, gọi là quá trình lao động làm việc hay là họ có việc làm. Vậy thông qua việc làm con người mới tạo ra của cải cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội. Thức hai, con người là chủ thể sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. Trong khái niệm đã nêu ở trên, việc làm đem lại thu nhập cho người lao động và không bị pháp luật ngăn cấm. Người ta sử dụng thu nhập đó để tiêu dùng, để tái sản xuất sức lao động và phục vụ những nhu cầu khác cho bản thân cũng như là gia đình… từ đó góp phần cho sản xuất và phát triển kinh tế. Như vậy, việc làm có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đó là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, tạo việc làm càng đóng vai trò quan trọng hơn nữa cho sự phát triển vì: - Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống đồng thời giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội ngày càng văn minh hơn. - Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa quan trọng ở chỗ: tạo cơ hội cho người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền cơ bản nhất của họ là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần xây dựng đất nước. Như vậy, ta thấy được tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm đối với người lao động trong xã hội hiện nay. II.Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây. 1. Yếu tố tự nhiên. 1.1. Vị trí địa lý- khí hậu. Hà Tây nằm ở vị trí có toạ độ địa lý là 20,310- 21,170 Vĩ Bắc và 105,170- 1060 Kinh Đông, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng tiếp giáp với thủ đô Hà Nội về hai phía Tây- Nam với ba cửa ngõ vào thủ đô là các quốc lộ 1, 6 và 32. Mặt khác Hà Tây là tỉnh giáp giới với các tỉnh Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam và có hai con sông lớn chảy qua là sông Đà ở phía Tây, sông Hồng ở phía Bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho mạng lưới giao thông phát triển và kéo theo nó là sự phát triển kinh tế- xã hội, trao đổi lưu thông hàng hoá ra bên ngoài-> Tạo nhiều cơ hội về việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh vì: + Mạng lưới giao thông phát triển là điều kiện cần thiết để thu hút các nhà đầu tư không những trong và ngoài nước như khu công nghiệp trên đường cao tốc Láng- Hoà Lạc thuộc địa phận huyện Hoài Đức, công ty TNHH xuất nhập khẩu may mặc Huy Ngọc, DHA thuộc địa bàn tỉnh Thanh Oai… là một trong những điển hình, khi đầu tư vào đó các nhà đâù tư sẽ nghĩ đến nguồn lao động có sẵn trên địa bàn huyện trước tiên,vì họ sẽ không cần lo lắng đến chỗ ăn ở cho công nhân dẫn đến giá nhân công sẽ rẻ hơn. Như vậy việc thu hút đầu tư vào địa bàn tỉnh đã góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng không nhỏ người lao động trong tỉnh đồng thời thu hút thêm bộ phận lao động ngoài tỉnh. Mặt khác mạng lưới giao thông phát triển thì việc trao đổi hàng hoá từ tỉnh này đến tỉnh khác cũng dễ dàng mà trao đổi, lưu thông hàng hoá ra bên ngoài được thuận lợi-> tạo khả năng cho các hộ buôn bán nhỏ, các làng nghề, xã nghề phát triển từ đó giúp giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trong các làng nghề, xã nghề, hộ gia đình-> cải thiện đời sống của người dân và nâng cao trình độ dân trí, từ đó họ có cách nhìn nhận tích cực hơn về vai trò của giáo dục và đào tạo-> đầu tư về học hành cho con cái họ nhiều hơn, đây là điều kiện cần để có thể tìm được việc làm trong tương lai khi mà nền kinh tế thị trường đang từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Về khí hậu: Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng nên khí hậu của nó cũng mang đầy đủ các đặc trưng của khí hậu miền Bắc tức là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa đông lạnh và khô. Tuy nhiên do đặc điểm về địa hình nên khí hậu Hà Tây được phân ra làm vùng rõ rệt: + Vùng đồng bằng, độ cao trung bình 5-7m khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,80C, lượng mưa trung bình 1.700- 1.800mm. + Vùng đồi có độ cao trung bình 15-50m, khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng của gió Lào, nhiệt độ trung bình hàng năm 23,50C, lượng mưa trung bình 2.300- 2.400mm. + Vùng núi Ba Vì có độ cao trung bình 700m, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình 180C. Với tài nguyên khí hậu như trên Hà Tây có điều kiện để nuôi trồng nhiều loại động, thực vật, thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp đa dạng-> cải thiện đời sống của người dân đồng thời góp phần tạo việc làm cho người lao động, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Vì ngoài những vụ chính trong năm ra, người dân còn tăng gia trồng nhiều loại cây ngắn ngày, cây công nghiệp hay nuôi gia súc, gia cầm, như vậy họ tự tạo công ăn việc làm cho mình suốt cả năm. Tuy nhiên bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên thì Hà Tây cũng gặp không ít khó khăn vì đây là vùng chịu nhiều lụt bão và là nơi thoát lũ cho Hà Nội nên đời sống của nhân dân không ổn định vào những mùa mưa bão. Trong khi đó Hà Tây có trên 90% dân số sống ở nông thôn, đời sống của người nông dân dựa chủ yếu vào nông nghiệp nên khi gặp khó khăn trong sản xuất nông nghiệp họ trở thành những người thất nghiệp. Do trình độ của người dân thấp nên vấn đề tìm việc làm là rất khó khăn, một bộ phận đổ ra thành phố để kiếm sống dưới nhiều dạng nghề như: bốc vác, buôn bán nhỏ,phu hồ …->khó kiểm soát được những lao động này và giải quyết việc làm cho họ là một thách thức lớn. Mặt khác Hà Tây là tỉnh tương đối rông,vùng núi và gò đồi chiếm tỷ lệ không nhỏ mà ở nhũng vùng này cơ sở hạ tầng kém phát triển, kinh tế xã hội ngèo nàn, trình độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực kém do đó giải quyết việc làm cho những người trong độ tuôi lao động là rất khó khăn. 1.2. Tài nguyên khoáng sản. Một trong những tài nguyên quý của tỉnh đó là đất đai vì đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội. Trong nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế được, đối với Hà Tây một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng sản xuất nông nghiệp có từ lâu đời thì đất đai là tài nguyên rất quý, với diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 2142.9 km2 và được phân ra 18 loại đất. Vùng đồng bằng có những loại đất chủ yếu sau: +Đất phù sa được bồi 17032 ha. +Đất phù sa không đươc bồi 51392 ha. +Đất Gley 51551 ha. => Thích hợp cho trồng các loại cây lương thực như: lúa, lạc, ngô… cho năng suất và chất lượng cao Vùng núi chủ yếu các loại đất sau: +Đất lâu vàng trên phù sa cổ 20603 ha. +Đất đỏ vàng trên đá phiến sét 10783 ha. +Đất nâu đỏ và mùn đỏ vàng trên đá macma trung tính và đất đỏ nâu trên núi đá vôi. => Thích hợp với các cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày Nhìn chung đất ở Hà Tây có độ phì nhiêu cao, với nhiều loại hình, phát triển các loại cây trồng ngắn ngay, dài ngay, cây công nghiệp, cây lương thực… Xen canh tăng vụ nhiều loại cây trồng. Do đó tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên cao. Mặt khác, phát triển các cây công nghiệp, lương thực tạo điều kiện để phát triển ngành công nghiệp chế biến, tạo ra các khu công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm dần từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng nông nghiệp-> chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo ra nhiều chỗ việc làm mới cho người lao động ở nông thôn. ở Hà Tây, diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng là 122.821 ha( chiếm 57.2% tổng diện tích đât), đất lâm nghiệp mới sử dụng 9.405 ha ( chiếm 4.4% tổng diện tích). Trong khi đó đất có khả năng sử dụng cho nông nghiệp là trên 135.000 ha, đất có thể sử dụng cho lâm nghiệp là 15.000 ha. Như vậy nếu tận dụng tối đa nguồn tài nguyên này sẽ giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động và tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên cao hơn, chất lượng việc làm được đảm bảo hơn. Ngoài nguồn tài nguyên đất phong phú Hà Tây còn được biết đến với nhiều cảnh quan di tích lịch sử. Hà Tây là địa phương đứng thứ 3 cả nước về số lượng di tích lịch sử ( hơn 300) với mật độ 14 di tích/100km2 trong khi cả nước là 2,2 di tích/100km2. Tỉnh có nhiều di tích lịch sử quý giá gắn với lịch sử phát triển của dân tộc, có nhiều điểm du lịch đạt tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Các di tích lịch sử và điểm du lịch của Hà Tây được hình thành theo cụm: Cụm chùa Hương, cụm Ba Vì- Suối Hai- Ao vua- Đồng Mô; cụm Sơn Tây- Thạch Thất –Quốc Oai; nên dễ dàng quy hoạch xây dựng thành những trung tâm du lịch lớn. Mà ngành du lịch là một trong những ngành mang lại nhiều lợi nhuận và việc làm vì kéo theo nó là các ngành dịch vụ phát triển như: dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ, hàng lưu niệm, hướng dẫn viên… do đó tạo công ăn việc làm cho bộ phận dân cư sống ở những vùng quanh đó. Như ở chùa Hương: vào mùa lễ hội kéo dài suốt 3 tháng người dân ở xung quanh chùa có các nghề: chèo đò, bán hàng lưu niệm, hàng ăn uống, trông xe, cho thuê nhà trọ… Tuy nhiên, việc làm ở đây lại không được ổn định mà theo mùa lễ hội cho nên ngoài các tháng lễ hội, ngày nghỉ ra thì người dân ở những vùng này lại không có việc làm mà những người này trình độ văn hoá của họ thường là thấp, kém nên tìm một việc làm hay tạo cho họ một công ăn việc làm vào những ngày thường là rất khó khăn nên họ trở thành những người thất nghiệp hay thiếu việc làm. Về khoáng sản: khá phong phú và đa dạng với một số loại điển hình sau: + Đá vôi( ở Mỹ Đức, Chương Mỹ): dùng để sản xuất xi măng mác cao với quy mô hàng triệu tấn/ năm, mặt khác các công ty, xí nghiệp khai thác thường đặt gần nguồn nguyên liệu nên giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động gần vùng đó như: công ty xi măng Sài Sơn( Quốc Oai) đã giải quyết việc làm cho hàng trăm người lao động và tạo thêm việc làm cho cả một lượng không nhỏ những người công nhân ở nơi khác thác đá, đất sét. +Đất sét ( Chương Mỹ, Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai): dùng để sản xuất gạch nung đỏ với quy mô 0,5 tỷ tấn/năm. Với tốc độ xây dựng như hiện nay, các xí nghiệp sản xuất ghạch không ngừng được mở rộng quy mô và công suất tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút lao động không chỉ ở những vùng lân cận mà còn ở các tỉnh khác đến tuy nhiên lao động làm trong ngành này cũng không được ổn định mà theo mùa, vào mùa mưa người ta không thể khai thác đất sét nên lao động thường nghỉ việc vào mùa này. + Cao lanh ( Ba Vì, Quốc Oai): dùng để sản xuất sứ trang trí xây dựng, các đồ dùng… và các xí nghiệp khai thác, chế biến cũng thường đặt ở gần vùng nguyên liệu này, giúp giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động ở đây. +Nước khoáng ( Ba Vì) có một trữ lượng rất cao cho phép khai thác với quy mô công nghiệp lớn, đặc biệt nước khoáng ở vùng này có chứa một hàm lượng khoáng chất vi lượng lớn có tác dụng chứa bệnh và giải khát, có thể khai thác ở quy mô 20 triệu tấn/ năm-> giải quyết việc làm cho lượng lớn lao động trong tỉnh và các tỉnh lân cận. 2. Yếu tố kinh tế- xã hội. 2.1. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng. Do đặc điểm về vị trí địa lý nên Hà Tây có mạng lưới giao thông khá phát triển bao gồm: đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Mạng lưới đường bộ phát triển đồng đều tạo thành hệ thống liên hoàn về đến các vùng kinh tế, các cụm dân cư, các khu du lịch, đặc biệt với 3 cửa ngõ vào thủ đô là các quốc lộ 1;6 và 32 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển hàng hoá từ tỉnh ra bên ngoài cũng như hàng hoá từ các nơi khác đến. Mặt khác , Hà Tây còn là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh với các điểm du lịch, khu di tích lịch sử đã được công nhận không chỉ trong nước mà cả quốc tế biết đến nên giao thông đường bộ phát triển làm cho ngành du lịch, dịch vụ của tỉnh phát triển thuận lợi hơn. Mà ngành này hàng năm mang lại nguồn lợi tất lớn cho tỉnh không chỉ về tỷ trọng giá trị GDP mà còn về mức độ thu hút và tạo việc làm cho một lượng lớn lao động trong tỉnh. Ngoài hệ thống đường bộ phát triển thì Hà Tây còn được biết đến với hệ thống đường thuỷ khá linh hoạt và thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá cồng kềnh hay việc vận chuyển các hàng hoá với trọng tải lớn. Sở dĩ như vậy là do địa thế Hà Tây có hai con sông lớn chảy qua là sông Đà và sông Hồng nên việc xây dựng hệ thống bến cảng cũng được dễ dàng. Hà Tây có 2 cảng lớn là cảng Sơn Tây và cảng Hồng Vân ( sông Hồng) với năng lực bốc dỡ 100- 120 ngàn tấn/năm, ngoài ra còn một số các cảng nhỏ khác như: Vạn Điểm, Vân Đình… Mà chúng ta đều biết đến một đặc điểm quan trọng trong nền kinh tế đó là các khu công nghiệp, khu chế xuất hay các công ty xuất nhập khẩu, công ty sản xuất… thường được xây dựng ở gần các trục đường lớn, gần sân bay, bến cảng giúp cho việc chuyên trở hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu được dễ dàng -> giảm chi phí trong sản xuất, tăng lợi nhuận-> thu hút các nhà đầu tư. Khi đầu tư vào vùng đó thì họ sẽ tận dụng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh đó trước tiên để giảm chi phí do đó giúp giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Như vậy, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng có tác động gián tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu cơ sở vật chất được đảm bảo, giao thông thuận tiện thì sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư -> nhiều xí nghiệp, công ty sản xuất, khu công nghiệp được hình thành như: KCN An Khánh( Hoài Đức), công ty xuất nhập khẩu may mặc Huy Ngọc, Long Mã ( Thanh Oai)…-> giúp tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động -> giải quyết việc làm cho người lao động được thuận lợi, nhưng nếu ngược lại thì vấn đề giải quyết việc làm là rất khó khăn. 2.2. Các ngành nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ. * Ngành sản xuất nông- lâm- thuỷ sản. Hà Tây là một tỉnh lớn, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng nơi có truyền thống về trồng lúa. Với diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng hiện nay khoảng 125.000 ha và đất lâm nghiệp khoảng 10.000 ha cho giá trị sản xuất hàng năm là 4.643._..091 triệu đồng và tạo việc làm cho 896.703 người (năm 2002). Đồng thời, tỉnh còn có tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản với diện tích mặt nước là 3.800 ha cho giá trị sản lượng khoảng 177.622 triệu đồng ( 2002) thu hút 5.806 người vào làm việc. Tuy nhiên tiềm năng về nông- lâm- thuỷ sản ở tỉnh vẫn chưa được khai thác hết. Ước tính chỉ riêng ngành lâm nghiệp nếu sử dụng hết diện tích đất trống thì sẽ tăng thêm được 15.000 ha, mà đất này có độ phì nhiêu cao thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây ăn quả…như vậy nếu tận dụng hết sẽ tạo tiền đề phát triển ngành công nghiệp chế biến nông- lâm sản. Mặt khác do chủ trương của tỉnh và cả nước là chuyển đổi kinh tế từ nông nghiệp thuần nông sang sản xuất hàng hoá đa dạng: lương thực, rau, quả, trứng, sữa…tức là sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến, điều này vừa góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vừa tạo thêm việc làm cho nhiều người lao động ở tỉnh. Hiện nay, ngành chế biến này mới chỉ tập trung ở Hoài Đức(chế biến bột dong làm miến, bột sắn làm nha, bánh kẹo…), Thạch Thất (khai thác gỗ đóng nội thất, bàn ghế,…) nhưng trong tương lai ngành công nghiệp này sẽ được mở rộng và phát triển mạnh nếu ta biết khai thác và tận dụng hết tiềm năng về đất của tỉnh-> tạo thêm việc làm cho người lao động . * Ngành công nghiệp- xây dựng. Toàn tỉnh có 74.858 cơ sở sản xuất công nghiệp trong đó số cơ sở thuộc khu vực kinh tế nhà nước là 46 cơ sở còn lại đều thuộc thành phần kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể và hỗn hợp quản lý. Sản xuất công nghiệp không chỉ là ngành đem lại nhiều lợi nhuận thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội mà còn thu hút và tạo ra nhiều chỗ làm việc, còn ngành xây dựng thì có đặc trưng là sử dụng lao động chân tay nhiều nên tính đến hết năm 2002 số lao động có việc làm trong ngành công nghiệp- xây dựng là 199.302 người. Như vậy, phát triển các ngành công nghiệp- xây dựng là một biện pháp giải quyết việc làm hữu hiệu cho người lao động điều nay đã được kiểm chứng ở các nước công nghiệp phát triển, tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc dân của nền kinh tế trong khi đó ở nước ta nói chung và cụ thể là ở tỉnh Hà Tây thì tỷ lệ này lại Đơn vị: % Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 N-L-NN 39,21 38,02 36,62 35,91 35,03 CN- XD 31,45 32,35 33,88 34,58 35,81 TM- DV 29,34 29,63 29,5 29,51 29,16 Nhìn vào bảng số liện trên ta thấy, ngành nông- lâm –thuỷ sản chiếm tỷ trọng chính trong nền kinh tế trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp- xây dựng thấp hơn rất nhiều-> điều này cho thấy nền kinh tế của tỉnh vẫn mạng đậm chất thuần nông, nông nghiệp vẫn được coi là ngành chủ yếu, còn công nghiệp vẫn nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về kỹ thuật chưa có bước tiến nào đáng kể, trong suốt 5 năm 1999- 2003 tốc độ tăng mới chỉ đạt13,86% tức là tốc độ tăng bình quân hàng năm vào khoảng 2,77% rất chậm chạp. Mà công nghiệp có phát triển (tức khoa học kỹ thuật hiện đại được áp dụng rộng rãi) thì mới thúc đẩy được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động làm việc ở nông thôn, tăng thời gian sử dụng lao động-> chất lượng việc làm đạt hiệu quả, giải quyết việc làm được dễ dàng hơn. * Thương mại- dịch vụ. Do đặc điểm về địa lý Hà Tây đã được thiên nhiên ban tặng một cảnh quan tuyệt đẹp với nhiều di tích lịch sử, khu du lịch đã được xếp hạng được nhiều du khách không chỉ trong nước mà cả quốc tế biết đến, hàng năm thu hút hàng triệu khách du lịch. Đây là một lợi thế để phát triển ngành du lịch dịch vụ của tỉnh như: khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, buốn bán nhỏ…. Tuy nhiên do chưa có các chương trình quy hoạch và bảo vệ hợp lý nên tiềm năng này chưa được khai thác triệt để. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ trọng dịch vụ trong tổng GDP của tỉnh mới chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn và có xu hướng ngày càng giảm năm 2000 tỷ trọng này là 29,63% nhưng đến năm 2003 thì chỉ còn 29,16% ( trong khi đó mục tiêu của tỉnh đặt ra năm 2000 tỷ trọng dịch vụ đạt 30%). Nguyên nhân của sự suy giảm trên là do tỉnh chưa có sự đầu tư , quản lý và bảo vệ các địa điểm di tích du lịch một cách quán triệt như: ở chùa Hương hiện tượng xây dựng chùa, miếu lừa du khách vẫn diễn ra hàng năm, trong khi đây là một nơi linh thiêng được các du khách rất trân trọng điều này làm giảm lòng tin của các khách du lịch đến với hội Chùa dẫn đến số lượng du khách giảm, hay ở chùa Tây Phương lại có hiện tượng người dân lấn chiếm đất và xây dựng trái phép làm mất đi vẻ cổ kính của chùa…. Và một yếu tố quan trọng nữa làm giảm tỷ trọng ngành dịch vụ, thương mại đó là cơ sở hạ tầng của tỉnh vẫn còn nghèo làn, yếu kém chưa được đầu tư xây dựng nên chưa thu hút được các du nhiều du khách. Trong khi Hà Tây lại là tỉnh có số lượng di tích lớn thứ 3 nước ta với mật độ di tích là 14 di tích/km2 hơn rất nhiều so với mật độ chung của cả nước ( 2 di tích/km2) và mới chỉ thu hút được 97.876 lao động vào làm việc. Nếu có các biện pháp khai thác hợp lý thì trong tương lai gần, đây sẽ là ngành mang lại giá trị GDP rất lớn và giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. 2.3. Các làng nghề, ngành nghề truyền thống. Hà Tây là tỉnh có số làng nghề cao nhất cả nước và có truyền thống từ lâu đời như: lụa Vạn Phúc, nón Chuông, sơn mài Duyên Thái, gỗ trạm khảm Vạn Điểm, tương Cự Đà… Tính đến hết năm 2003 cả tỉnh có 1.116 làng nghề với các quy mô và loại hình sở hữu khác nhau: công ty TNHH ( 80), doanh nghiệp tư nhân ( 35), HTX (60) còn lại là mô hình hộ gia đình, trong đó có 160 làng nghề được công nhận theo tiêu chí của tỉnh nên nó có ảnh hưởng lớn đến vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh. Việc phát triển các làng nghề, xã nghề, nhân cấy các nghề mới đã góp phần tạo công ăn việc làm tại chỗ cho người dân. Điều đặc biệt là những người này đa phần là không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của họ thường là cha truyền con nối nên vấn đề tìm một công việc ở bên ngoài là rất khó khăn. Khôi phục làng nghề, nhân cấy nghề mới chính là biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết việc làm cho người lao động. Theo số liệu của cục thống kê tỉnh thì nhờ chủ trương khôi phục phát triển các làng nghề, xã nghề này mà mỗi năm đã góp phần dạy nghề và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, xoá đói giảm nghèo. Điển hình là hai làng nghề Vạn Phúc và Vạn Điểm: + Làng nghề lụa Vạn Phúc không những tạo việc làm tại chỗ cho người dân của xã mà còn thu hút lao động đến từ nơi khác ( gần 15% trong tổng số lao động), cả xã chỉ còn 3,58% số hộ làm nông nghiệp thuần. Tổng giá trị sản lượng từ làng nghề đạt khoảng 27.692 triệu đồng ( năm 2002) và 42.432 triệu ( năm 2003) giải quyết việc làm cho 1.600 lao động , thu nhập bình quân đầu người rất cao. Hiện nay trong làng không có hiện tượng thất nghiệp, 100% lao động trong độ tuổi có việc làm, bên cạnh đó còn thu hút lao động ngoài độ tuổi, vấn đề tệ nạn xã hội cũng giảm, không có đối tượng nghiện ma tuý. Vấn đề giáo dục đào tạo cũng được các hộ quan tâm đầu tư. + Làng nghề gỗ khảm trai Vạn Điểm: cũng giống như làng nghề Vạn Phúc, Vạn Điểm cũng là một trong những làng nghề lớn nhất của tỉnh với 424/467 hộ làm nghề mộc cao cấp tạo việc làm cho trên 1.000 lao động, ở làng nghề nay cũng không còn hiện tượng thất nghiệp, 100% lao động trong độ tuổi có việc làm bên canh đó còn tận dụng cả lao động ngoài độ tuổi và lao động từ nơi khác đến, thu nhập bình quân của người lao động khá cao khoảng 800.000- 1.000.000 đồng/tháng, vấn đề tệ nạn xã hội cũng giảm, các hộ gia đình đầu tư cho giáo dục của con cái cũng nhiều. Như vậy, phát triển làng nghề, xã nghề, khôi phục nghề cũ và nhân giống nghề mới có ảnh hưởng rất tích cực không chỉ đến vấn đề giải quyết việc làm mà còn góp phần phát triển kinh tế- xã hội. 2.4. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề việc làm ở tầm vĩ mô. Vì từ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, tỉnh uỷ và các ban ngành có liên quan sẽ đề ra các mục tiêu và phương hướng thực hiện chiến lược đó. Mà các chiến lược này đều có một mục đích chung là góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, tăng mức thu nhập và mức sống cho người dân … Mà đối tượng để thực hiện mục tiêu đó chính là con người, nên trong quá trình thực hiện nó đã góp phần tạo việc làm cho người lao động. Cụ thể: Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đề ra mục tiêu đến năm 2005 chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp theo tỷ lệ : Nông nghiệp 35%- Công nghiệp, xây dựng 35%- dịch vụ 30%. Để thực hiện được mục tiêu đề ra đó, UBND tỉnh phải có các chính sách, biện pháp thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển như đầu tư vốn cho ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp có nhiều tiềm năng( công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí…), phát triển ngành công nghiệp chế biến để chuyển dần cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp, tập trung đầu tư cho các khu du lịch, cụm du lịch( cụm Sơn Tây- Ba Vì, cụm chùa Hương…), phát triển ngành thương mại theo hướng tập trung phục vụ các trung tâm đô thị, đầu tư cho đào tạo nghề…-> phát triển kinh tế xã hội, tạo mở việc làm-> giải quyết việc làm cho người lao động. Hay trong chiến lược phát triển cũng trực tiếp đề ra mục tiêu giải quyết từ 6-8 vạn việc làm cho người lao động năm 2005 và 10 vạn trở lên năm 2010. Để đạt được điều đó tỉnh phải có các biện pháp thực thi nó. Và khi thực thi dù ít nhiều cũng đã giải quyết được việc làm cho người lao động. 3. Yếu tố con người. Hà Tây là một tỉnh có quy mô và mật độ dân số cao, dân số toàn tỉnh là 2.490.023 người đứng vị trí thứ 5 so với cả nước và mật độ dân số là 1134 người/km.2. Đây là một lợi thế của tỉnh vì quy mô dân số lớn, tốc độ tăng cao làm cho quy mô nguồn lao động cao là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, đối với nước ta nói chung và Hà Tây nói riêng khả năng mở rộng sản xuất còn hạn chế, nguồn vốn, thiết bị, nguyên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao động tăng nhanh lại gây sức ép về việc làm rất lớn. Năm 1994 số người trong độ tuổi lao động chỉ có 1.118.095 người nhưng đến năm 2003 là 1.443.000 người, tức là tốc độ tăng bình quân vào khoảng 3.2%/năm. Mỗi năm tỉnh phải tạo thêm hơn 2.700 chỗ làmviệc mới thì mới đủ đáp ứng yêu cầu về việc làm trên địa bàn chưa kể Hà Tây là một tỉnh có số người sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn( hơn 90%), nơi mà thời gian sử dụng lao động còn thấp <80%, để đảm bảo việc làm cho người lao động nông thôn, tận dụng hết thời gian lao động thì mỗi năm ở tỉnh phải tạo ra một số lượng việc làm lớn hơn nhiều so với con số 2.700 chỗ làm việc mới. Rõ ràng dân số tăng nhanh gây sức ép về việc làm rất lớn. Mặc dù nguồn lao động dồi dào là nguồn lực để phát triển kinh tế nhưng để tạo việc làm cho người lao động không phải là đơn giản mà kéo theo nó là tài chính, tư liệu sản xuất, các chiến lược, chính sách hợp lý…trong khi nước ta còn nghèo nàn, ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp. Năm 2000 trong chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của Đảng và Nhà nước cũng đã nhấn mạnh vai trò của con người nhưng đồng thời cũng cảnh báo về tốc độ tăng nguồn nhân lực như sau: + Coi con người là mục tiêu, là động lực chính của sự phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển. + Nguồn lực và con người Việt Nam- lợi thế của sự phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng quá nhanh mà chưa sử dụng hết, lại là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm. Như vậy, yếu tố về dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm, tuỳ từng thời điểm, từng điều kiện của một nước, một vùng mà yếu tố này có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến vấn đề việc làm của một quốc gia, một vùng lãnh thổ. III. ý nghĩa và sự cần thiết của việc làm và giải quyết việc làm. 1. ý nghĩa. Từ xa xưa, khi con người vẫn chỉ là loài động vật bậc cao chưa hoàn thành quá trình tiến hoá thì cũng nhờ có làm việc mà họ nuôi sống bản thân, chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đồng thời cũng góp phầnvào sự tiến hoá thành con người hoàn hảo như ngày nay. Như vậy, ý nghĩa của việc làm đã được thể hiện rất rõ trong đời sống, trong sự phát triển và tồn tại của con người. Việc làm giúp cho con người tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần và cũng nhờ có việc làm con người tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình họ. Ngoài ra, nhờ có việc làm con người mới thực sự trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế. Việc làm giúp cho quan hệ giữa người với người trong xã hội được đoàn kết hơn, làm cho xã hội ngày càng tiến bộ hơn. Vì có làm việc thì con người mới sáng tạo, phát minh sáng chế ra các thiết bị máy móc hiện đại, mới tạo ra các bước nhảy vọt về thành tựu kinh tế- xã hội đưa xã hội ngày một tiến lên và hoàn thiện hơn. Chúng ta đã thấy được ý nghĩa rất lớn của giải quyết việc làm nhưng có một khía cạnh khác của nó cũng có tầm quan trong và ý nghĩa không kém đó chính là vấn đề giải quyết việc làm . Giải quyết việc làm tức nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đưa nó về một tỷ lệ hợp lý có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tê- xã hội. Như vậy giải quyết việc làm đã gián tiếp tạo ra lợi ích không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả mặt xã hội. + Về mặt kinh tế: Sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác và sử dụng các nguồn lực hiện có của đất nước như: Tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ và đặc biệt là vốn con người vì con người tạo ra mọi của cải vật chất và giá trị tinh thần. Nước ta là một trong những nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đã được xếp hạng tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành thương mại dịch vụ. Tuy vậy, các nguồn lực trên muốn đem lại hiệu quả thiết thực thì cần phải có sự đầu tư khai thác hợp lý và con người là yếu tố quyết định trong sự khai thác đó. Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng đi kèm với nó cần có một đội ngũ lao động có kiến thức, trình độ để vận hành nó do đó phải đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn lực về con người. Nước ta theo ước tính có khoảng 10 triệu người trong độ tuổi lao động chưa được sử dụng. Lực lượng này nếu không được sử dụng sẽ là một sự lãng phí rất lớn về nguồn lực, là gánh nặng cho ngân sách của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển kinh tế do phải tăng các chi phí bằng tiền cho số người thất nghiệp. Vậy giải quyết việc làm có một ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, làm giảm chi phí cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám… + Về mặt xã hội: Giải quyết việc làm giúp xóa đói giảm nghèo, giảm tình trạng thất học, giảm tệ nạn xã hội góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân… 2. Sự cần thiết của giải quyết việc làm: Trong quá trình tồn tại và phát triển con người vừa đóng vai trò là người hưởng thụ, vừa đóng vai trò là nguồn cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình sản xuất. Điều đó thể hiện: - Con người trong cuộc sống của mình luôn xuất hiện các nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại… Do đó, con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. - Mọi của cải mà con người sử dụng không phải tự nhiên có, mà với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần, con người đã bằng sức lao động của mình( lực lượng sản xuất cơ bản nhất) tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. Max đã từng khẳng định rằng: “ Thế giới này không ngừng hoạt động lao động sản xuất dù chỉ là một ngày”. Như vậy vấn đề việc làm và tạo việc làm cho người lao động là rất cần thiết và đang là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, nước ta có một lực lượng lao động đông đảo với hơn 45 triệu người và sự bổ sung cho nguồn lao động mỗi năm vẫn là mức cao, như vậy bình quân mỗi năm có trên 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao so với thế giới và khu vực ( 7,4 % ) nhưng nước ta vẫn còn một lượng lao động dôi dư rất lớn. Mặt khác do tác động của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới đã khiến cho các doanh nghiệp nước ta phải sắp xếp lại sản xuất và bố trí lại lao động. Chính điều này đã làm cho nhiều lao động phải nghỉ việc hoặc thiếu việc làm khiến cho số người thất nghiệp ngày một tăng lên. Mà thất nghiệp và thiếu việc làm thực sự đang là một gánh nặng và là một áp lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, vấn đề tạo việc làm hiện nay đang là một vấn đề bức xúc, gay cấn và nhạy cảm đối với từng gia đình, đơn vị, ngành kinh tế, khu vực…Nếu việc làm được giải quyết không tôt có thể kéo theo nhiều hậu quả to lớn về mặt kinh tế, chính trị, đời sống xã hội. Phần II Phân tích thực trạng vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây I. Khái quát về Sở LĐ-TBXH tỉnh Hà Tây. 1. Đặc điểm tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Tây. Hà Tây là một tỉnh nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi 20,31độ-21,17 độ Vĩ Bắc và 105,17 độ Kinh Đông bao quanh Hà Nội về phía Tây Nam và là cửa ngõ của thủ đô. Mặt khác Hà Tây còn nằm giáp danh với các tỉnh: Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Phú Thọ nên tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội, trao đổi lưu thông hàng hoá. Hà Tây là một tỉnh có diện tích khá rộng lớn của cả nước, với diện tích đất tự nhiên là 2193,95 km2, được hình thành từ ba vùng sinh thái: vùng núi, vùng gò đồi, vùng đồng bằng. Toàn tỉnh có14 huyện, thị xã được chia làm 325 xã, phường, thị trấn, trong đó có 9 xã miền núi, 2 xã thuộc đảo sông Hồng và một số xã gò đồi, ở những vùng này cở sở hạ tầng kém phát triển, đời sống của người dân còn thấp. Hà Tây cũng là tỉnh có quy mô và mật độ dân số cao, theo số liệu thống kê năm 2003 của cục thống kê Hà Tây dân số của toàn tỉnh là 2.490.023 người (trong đó nam giới là 1.207.613 người và nữ giới là 1.282.410 người) đứng vị trí thứ 5 so với cả nước. Mật độ dân số vào khoảng 1134 người/ km2 nhưng phân bố không đều giữa các vùng, dân tập trung đông ở 2 thị xã Hà Đông,Sơn Tây và các vùng đồng bằng con ở miền núi và gò đồi dân cư ít. Dân số Hà Tây sống chủ yếu là ở nông thôn chiếm trên 90%, số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng trên 1,2 triệu người trong đó đa số là lao động trẻ, cần cù có trình độ văn hoá, gần 30% số lao động đã qua các cấp đào tạo ĐH, CĐ, THCN & CNKT. Đây là một lợi thế về nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số của tỉnh vẫn còn ở mức cao so với cả nước 2,05%(2001) và trên 1,8% (năm 2003) nên đời sống của người dân trong tỉnh nói chung vẫn ở mức trung bình, thu nhập bình quân đầu người mấy năm gần đây tuy có cải thiên hơn trước nhưng vẫn còn thấp, số người thất nghiệp vẫn còn cao, phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, tình trạng dân cư đổ xô ra Hà Nội kiếm việc làm nhiều đa số là lao động tự do. * Một số thành tựu kinh tế- xã hội của tỉnh đạt được năm 2003. Cùng với quá trình CNH- HĐH và hội nhập kinh tế của cả nước nền kinh tế Hà Tây cũng đạt được những tiến bộ vượt bậc: Tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh tăng đều trong mấy năm gần đây, tuy nhiên trong năm 2003 có giảm sút nhưng vẫn cao so với mức chung của cả nước 7,4% ( 2003 ). Năm 2000 2001 2002 2003 GDP 7,2 7,9 9,8 9,1 Cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng có sự dịch chuyển tiến bộ theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công ngiệp, dịch vụ và giảm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp cụ thể ta có bảng số liệu dưới đây: Năm 2000 2001 2002 2003 DV- TM 28,1 28,1 27,4 28,4 NN 40,4 38,8 37,9 36,2 CN-XD 31,5 33,1 34,7 36,7 Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị có xu hướng giảm nhanh từ năm 2000-2002 nhưng riêng năm 2003 tỷ lệ này lại có xu hướng tăng lên ở mức 5,06% tuy nhiên so với mức chung của cả nước vẫn ở mức thấp ( 5,24% ). Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn được nâng cao cụ thể qua bảng số liệu dưới đây: Năm 2000 2001 2002 2003 % 76,31 77,45 78,96 81,3 Chỉ riêng năm 2003 Hà Tây cũng đã giải quyết việc làm cho 27000 lao động và đưa 1825 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giới thiệu và cung ứng việc làm cho 9600 lao động vào làm việc tại các công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty TNHH, các DNNN. Năm 2003 toàn tỉnh có 168 doanh nghiệp Quốc Doanh trong đó 53 DNTW và trên 1500 công ty TNHH-> thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc. Toàn tỉnh có 1116 làng nghề trong đó có 160 làng nghề được công nhận theo tiêu chí của tỉnh. Với chủ trương của tỉnh về việc khôi phục phát triển làng nghề truyền thống nhân cấy nghề mới, mỗi năm đã dạy nghề và giải quyết việc làm cho gần 1 vạn lao động. Mạng lưới dạy nghề mỗi năm đã đào tạo trên 70% số lao động của tỉnh. * Mục tiêu năm 2004: tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 10%, giải quyết việc làm cho 27000 lao động và đưa 1200 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 5% và nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 82,3%, cơ cấu kinh tế vẫn chuyển dịch theo hướng tiến bộ nâng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng lên 37,1% và các ngành TM- DV lên 28,4%, giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 34,5%. Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, tạo ra các trường trọng điểm để nậng cao trình độ cho người lao động, khuyến khích phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống bằng việc cho vay vốn ưu đãi, tìm thị trường tiêu thụ… 2. Quá trình hình thành và phát triển của Sở LĐ-TBXH Hà Tây. 2.1. Lịch sử hình thành của Sở LĐ-TBXH Hà Tây. Trong tuyên cáo ngày 28/8/1945 về việc thành lập chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Bộ LĐ và bộ Cứu Trợ Xã Hội trong tổng số 13 Bộ của chính phủ để đảm trách những nhiệm vụ về lao động, thương binh, xã hội trong những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng nước ta. Trải qua quá trình phát triển của đất nước và xuất phát từ tình hình nhiệm vụ và giai đoạn cách mạng Bộ đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với tình hình mới và từ năm 1987 đến nay Bộ được gọi với tên chung là Bộ LĐ- TBXH. Cùng với sự ra đời của Bộ thì ở các địa phương trong cả nước ngành LĐ- TBXH cũng được hình thành và được củng cố về mọi mặt cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới và Sở LĐ-TBXH Hà Tây là một đại diện. Kể từ khi được thành lập tới nay Sở đã có nhiều thay đổi về cả quy mô lẫn tên gọi cụ thể: Năm 1965: ty LĐ, ty TBXH Hà Đông, Sơn Tây được sát nhập thành ty LĐ, ty TBXH Hà Tây. Năm 1976: ty LĐ, ty TBXH Hà Tây sát nhập với ty LĐ, ty TBXH Hoà Bình thành ty LĐ, ty TBXH Hà Sơn Bình. Năm 1988: đổi tên thành Sở LĐ- TBXH Hà Sơn Bình. Năm 1991: Sở LĐ- TBXH Hà Sơn Bình được chia tách theo quyết định của tỉnh thành Sở LĐ- TBXH Hà Tây và giữ nguyên tên đó đến ngày nay. 2.2. Quá trình phát triển của Sở LĐ-TBXH Hà Tây Sở LĐ-TBXH Hà Tây có trụ sở đặt tại 144 phố Trần Phú- phường Văn Mỗ- thị xã Hà Đông- tỉnh Hà Tây, sau khi chia tách sở gặp nhiều khó khăn trong thời kỳ đầu do cơ sở vật chất thiếu thốn, bộ máy cán bộ chưa đầy đủ về cả mặt số lượng lẫn chất lượng. Song được sự quan tâm cuả tỉnh uỷ, Hội Đồng Nhân Dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh và chính quyền, đoàn thể, nhiệm vụ công tác thuộc lĩnh vực LĐ- TBXH mà nghành quản lý đã đi vào cuộc sống và không ngừng phát triển. Đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có những bước trưởng thành và nâng cao về trình độ chuyên môn, tinh thần đoàn kết nhất trí nên sở luôn hoàn thành và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Không chỉ dừng lại ở đó, Sở LĐ-TBXH đã liên tục đề ra những chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ công tác, mục tiêu phương hướng thực hiện nên Sở đã đạt được nhiều thành tích cao và được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý của Đảng bộ tỉnh uỷ và của chính phủ: + Sở vinh dự đón nhận huân chương lao động hạng Nhất do chủ tịch nước trao tặng. + Hai huân chương lao động hạng Hai. + Bằng khen của Chính phủ năm 1998. + huân chương lao động hạng ba. +Một lãng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng gửi tặng. + Một lãng hoa của Chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh gửi tặng. + Trong các năm 1989, 1990, 1997, 1999, 2002, 2003 được Chính phủ tặng cờ luân lưu thưởng đơn vị xuất sắc dẫn đầu cả nước về công tác LĐ- TBXH. + Bộ LĐ- TBXH tặng đơn vị thi đua xuất sắc năm 2000. +Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây tặng cán bộ nhân viên ngành LĐ- TBXH hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới ( 1990- 2000 ). + Và nhiều phần thưởng cao quý khác. Trong những năm gần đây, nền kinh tế đang có những bước chuyển mình đi lên, đất nước đang từng bước hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, tình hình kinh tế trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Sở LĐ-TBXH Hà Tây vẫn tranh thủ được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng cơ sở chính quyền quan tâm, Sở không ngừng đổi mới về mọi mặt để phù hợp với tình hình mới và thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ công tác của ngành. trạng vấn đề II. Thực trạng vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Tây (từ 1999-2003). 1. Thực trạng nguồn lao động của tỉnh Hà Tây (1999-2003). 1.1. Quy mô nguồn lao động của tỉnh. Hà Tây là tỉnh có quy mô dân số đứng vị trí thứ năm của nước ta, nên quy mô nguồn lao động của tỉnh cũng rất lớn. Bảng 1: Quy mô dân số và nguồn lao động của tỉnh. Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Dân số 2.393.549 2.420.936 2.448.466 2.473.000 2.490.230 NLĐ 1.330.813 1.355.724 1.383.383 1.409.610 1.436.144 Tỷ lệ NLĐ/DS 55,6 56 56.5 57 57,6 ( Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà Tây) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy một thực tế khá rõ ràng là quy mô nguồn nhân lực của tỉnh là rất lớn. Mặc dù, tốc đồ tăng dân số của tỉnh từ 1999-2003 có xu hướng liên tục giảm, năm 1999 dân số tăng so với năm 1998 là trên 2% thì đến năm 2002 tốc độ này là 1% so với năm 2001, nếu dân số tiếp tục chuyển biến theo xu hướng này thì dân số tỉnh trong vài năm tới sẽ ổn định ở con số hợp lý. Nguyên nhân của thành quả trên là do Uỷ ban dân số của tỉnh đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền các biện pháp KHHGĐ đến mọi người dân ở các vùng rộng khắp trong tỉnh đồng thời kết hợp với các biện pháp xử lý nghiêm. Tỷ lệ sinh con thứ 3 ở tỉnh đến năm 2003 chỉ còn là 1,1%. Nhờ công tác tuyên truyền tốt nên mọi người đều hiểu được tầm quan trọng của việc đầu tư giáo dục cho con em họ. Mặt khác trong hoàn cảnh nền kinh tế xã hội hiện nay, đông con là cái nôi của nghèo nàn và thất học vì chi phí cho giáo dục đào tạo cho một học sinh ngày nay là rất lớn. Mà thất học, thiếu kiến thức kỹ năng lại là nguyên nhân của thất nghiệp, do đó giảm mức sinh là cần thiết và Hà Tây đã đạt được điều đó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được trong công tác dân số thì Hà Tây vẫn đang đứng trước thách thức lớn, do tỷ lệ tăng dân số giai đoạn trước của tỉnh là rất cao nên hậu quả hiện nay gánh chịu là số người trong độ tuổi lao động đang ngày càng tăng lên. Nếu năm 1999 toàn tỉnh có 1.330.813 người trong độ tuổi lao động thì đến hết năm 2003 con số này đã là 1.436.144 người tức là chỉ trong vòng 5 năm đã có trên 105.331 người bước vào độ tuổi lao động và bình quân mỗi năm có 21.0662 người cần việc làm. Tỷ trọng nguồn lao động trong tổng dân số của tỉnh cũng rất lớn nếu năm 1999 là 55,6% thì đến năm 2003 là 57,6%, nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ tăng nguồn lao động qua các năm vẫn còn ở mức cao trên 1,8% năm 2003. Đây là một lợi thế của tỉnh trong tương lai nhưng đối mặt với điều kiện hiện nay thì đây lại là một nhân tố hạn chế quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. 1.2. Cơ cấu nguồn lao động của tỉnh. * Theo khu vực: Hà Tây có hơn 90% dân số tập trung ở khu vực nông thôn nên số người trong độ tuổi lao động của tỉnh cũng tập trung đa số ở khu vực này. Bảng 2: Cơ cấu nguồn nhân lực theo khu vực Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 NLĐ 1.330.813 1.355.724 1.383.383 1.409.610 1.436.144 Thành thị 93.024 99.917 109.720 116.575 119.635 Nông thôn 1.237.789 1.255.807 1.273.663 1.293.035 1.316.559 (Nguồn: Sở LĐ-TBXH Hà Tây) Theo số liệu thống kê của tỉnh ta thấy số người trong độ tuổi lao động tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn tuy nhiên có xu hướng ngày một giảm mạnh. Nếu năm 1999 tỷ lệ nguồn lao động sống ở khu vực nông thôn trong tổng số người trong độ tuổi lao động là xấp xỉ 93% thì đến năm 2003 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 91,67%. Đi đôi với số lượng nguồn lao động sống ở khu vực nông thôn giảm là số người sống ở khu vực thành thị ( hai thị xã Hà Đông và Sơn Tây) có xu hướng tăng lên, năm 1999 có 93.024 người sống ở khu vực này ( chiếm khoảng 7% số người trong độ tuổi của tỉnh), thì đến năm 2002 là 116.575 người và năm 2003 là 119.635 người( chiếm 8,33%). Tăng số lượng người sống ở đô thị là một xu thế của quá trình phát triển kinh tế xã hội diễn ra trên thế giới. Nhìn vào thực tế một số nước phát triển ta thấy rất rõ điều này như: Singapo 100% dân số sống ở thành thị, Canada, Thuỵ Điển… có trên 90% dân số sống ở đô thị. Do đó, sự chuyển đổi trong cơ câú nguồn lao động của tỉnh theo khu vực là một thành quả đáng mừng. Nguyên nhân của kết quả trên là do: Hà Tây có 2 thị xã lớn là Hà Đông và Sơn Tây đều nằm ở vị trí trọng yếu, cửa ngõ vào thủ đô Hà Nội đặc biệt thị xã Hà Đông nằm ngay cạnh khu tam giác kinh tế lớn của miền Bắc là Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh nên hoạt động kinh tế diễn ra rất sôi động, thu hút nhiều nhà đâù tư nhảy vào xây dựng doanh nghiệp, công ty hoạt động sản xuất kinh doanh-> thu hút nhiều lao động dẫn đến kéo theo một bộ phận lao động ở nông thôn chuyển ra. Mặt khác, ở khu vực này du lịch rất phát triển với nhiều danh lam thắng cảnh lớn, di tích lịch sử nên dịch vụ ở đây cũng rất phát triển-> loại hình buôn bán nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, tư nhân cũng được phát triển> rút dần lao động ra khỏi khu vực nông thôn. * Cơ cấu theo giới tính: Ta có bản._.hoang hoá vào sản xuất, hỗ trợ vốn ban đầu cho các hộ gia đình để phát triển các công trình thuỷ lợi giao thông phục vụ cho việc phát triển trang trại. + Đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật ở các trang trại bằng cách khuyến khỉch chuyển giao công nghệ về địa phương. + Tỉnh cần có các giải pháp để tìm kiếm thị trường tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho các trang trại. Cần phát triển công nghiệp chế biến để nâng giá trị nông phẩm tạo thêm việc làm và thu nhập cho người nông dân. 2. Giải quyết việc làm dưới hình thức xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động của tỉnh. Do đó cần phải đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, thực hiện đa dạng hoá thị trường và thành phần tham gia xuất khẩu lao động. Đồng thời trợ giúp vốn ưu đãi và giảm chi phí để khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hiện nay, trong điều kiện toàn cầu hoá thì điều này là hết sức cần thiết bởi vì xuất khẩu lao động không chỉ mang lại lợi ích cho người lao động mà còn cho cả xã hội. Việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài của Hà Tây trong thời gian qua tuy mới bước đầu nhỏ bé nhưng cũng đã mang lại hiệu quả to lớn về kinh tế và xã hội cho tỉnh. Kể từ năm 1980 đến nay công tác xuất khẩu lao động của Hà Tây vẫn chưa có bước tiến đáng kể, năm 1980 vẫn là năm đưa được người đi xuất khẩu lao động nhiều nhất ( 6000 lao động ), còn các năm trở lại đây mỗi năm chỉ đưa được vài trăm người. Nguyên nhân chính của thực trạng trên là do: Về nhận thức xuất khẩu lao động trong tỉnh chưa được hiểu đầy đủ, nhất là trong điều kiện mới. Các ngành chức năng chưa chủ động tham mưu đề xuất biện pháp nhằm đây mạnh công tác xuất khẩu lao động, công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động chưa được đạt đúng mức, việc giải quyết các thủ tục hành chính cho người đi xuất khẩu lao động còn chưa được chú ý từ đó nảy sinh tiêu cực, phiền hà gây thiệt thòi cho người lao động. Chất lượng lao động, trình độ tay nghề của lao động trong tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu. Các doanh nghiệp trong tỉnh chưa thực sự quan tâm khai thác, tìm kiếm thị trường đưa lao động trong tỉnh đi xuất khẩu lao động. Toàn tỉnh chưa có doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động, việc tạo nguồn lao động đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thời gian qua mới chỉ là tranh thủ chỉ tiêu của các đơn vị khác, vì vậy kết quả chưa cao. Đứng trước những khó khăn đó, năm 2005 để thực hiện mục tiêu đưa được 3.000- 4.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thì cần tập trung vào các giải pháp sau: * Về thị trường: tập trung mọi biện pháp, mọi nguồn lực ưu tiên cho việc củng cố, ổn định và phát triển thị trường đã có( như thị trường Malysia, Đài Loan), tăng thị phần ở các thị trường đó, đồng mở rộng thêm một số thị trường tiềm năng khác như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông…. Muốn vậy phải tập trung đầu tư giáo dục định hướng cho người lao động chuẩn bị đi xuất khẩu đồng thời tăng cường quản lý người lao động cả trong và ngoài nước. * Triển khai thực hiện Nghị Định 81/2003/NĐ-CP. + Chấn chỉnh sắp xếp lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo hướng loại bỏ doanh nghiệp kém hiệu quả, lập lại trật tự kỷ cương và lành mạnh hoá hoạt động xuất khẩu lao động. + Các ngành, địa phương chủ quản doanh nghiệp xây dựng quy hoạch các doanh nghiệp xuất khẩu trong phạm vi quản lý; sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh; chỉ đạo thanh tra kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp trực thuộc và quan tâm chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh đối với doanh nghiệp. + UBND Tỉnh chỉ đạo các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng trực thuộc tăng cường giáo dục, vận động nhân dân trong tỉnh thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về xuất khẩu lao động, giáo dục con em thực hiện đúng hợp đồng; đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp, trung tâm xuất khâủ lao động tạo nguồn lao động có chất lượng; tăng cường quản lý hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn; ngăn chặn các hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, của các doanh nghiệp và đến hoạt động xuất khẩu lao động. * Tăng cường công tác thanh tra và xử lý vi phạm. + Công tác thanh tra, kiểm tra tập trung vào những địa bàn phức tạp, những doanh nghiệp có qui mô hoạt động rộng và số lượng lao động đưa đi nhiều. + Quản lý chặt chẽ các trung tâm giới thiệu việc làm, ngăn ngừa việc lợi dụng hoạt động này để lừa đảo người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài. +Tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện kịp thời và kiên quyết triện phá các đường dây đưa người đi làm việc bất hợp pháp, xử lý nghiêm theo pháp luật các tổ chức và cá nhân có hành vi lừa đảo trên địa bàn tỉnh. * Nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. + Tiếp tục đẩy mạnh triển khai mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp và địa phương trong tỉnh để có đủ nguồn lao động đáp ứng được thị trường. +Thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác xuất khẩu lao động như đào tạo về: trình độ ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, phong tục tập quán của nước đến…phù hợp với yêu cầu của từng thì trường. + Tỉnh phải có biện pháp hỗ trợ nguồn kinh phí để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Các trường đào tạo nghề dành một phần chỉ tiêu đào tạo cho xuất khẩu. * Công tác thông tin, tuyền truyền. + Đổi mới công tác thông tin về xuất khẩu lao động đến tận người dân với nhiều hình thức phù hợp. + Tăng cường hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng ở từng địa phương để thông tin kịp thời đầy đủ các nội dung về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia nhằm tạo ra nhận thức đúng đắn trong các ngành, các cấp và người lao động. Đồng thời thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao động để người lao động chủ động đầu tư học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế. * Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong toàn tỉnh Chỉ thị số 41/ CT – TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị, NGhị định 152 CP ngày 20 / 9 /1999 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền ở TW nhằm nâng cao một bước nhận thức về xuất khẩu lao động và chuyên gia. Các đơn vị tham gia làm công tác xuất khẩu lao động cần ý thức rõ đây không phải là hoạt động kinh doanh thuần tuý, chỉ vì lợi nhuận mà còn là một nhiệm vụ xã hội to lớn. Do đó phải tạo điều kiên thuận lợi và quan tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động. * Tiếp tục cải cách hành chính trong các khâu làm thủ tục cho người lao động, tránh phiền hà, chống tiêu cực, lợi dụng thu tiền không hợp pháp. 3. Tăng cường các hình thức thông tin, dịch vụ về việc làm, đào tạo cho người lao động Người lao động muốn tìm được một công việc phù hợp với trình độ, khả năng, năng lực của mình, anh ta cần tìm thế nào? Đi gõ cửa từng doanh nghiệp? Ra đường hỏi từng người? Thông qua các hình thức thông tin thị trường lao động và dịch vụ việc làm người lao động sẽ có câu trả lời. Các thông tin dịch vụ đó là: Thứ nhất: doanh nghiệp muốn tìm người lao động phù hợp, họ sẽ đưa ra những yêu cầu tuyển dụng trên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng… người lao động muốn tìm được việc làm phù hợp thì cũng tiến hành tương tự. Có được thông tin, người lao động và các nhà tuyển dụng lao động tìm được cho mình những công việc phù hợp, người lao động phù hợp đáp ứng yêu cầu công việc. Do đó người lao động tìm được việc làm, doanh nghiệp tìm được lao động. ở tỉnh thời gian qua đã có một số trung tâm thực hiện tốt về thông tin dịch vụ việc làm như: Trung tâm dịch vụ việc làm tăng thiết giáp Trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở LĐ- TBXH Hà Tây. Thứ hai: Phát triển trung tâm dịch vụ việc làm, một đơn vị sự nghiệp hoạt động với mục tiêu xã hội. Đây là chiếc cầu nối cần thiết giữa cung và cầu lao động. Chức năng cơ bản củat trung tâm dịch vụ việc làm là tư vấn cung cấp thông tin cho lao động và người sử dụng lao động về những vấn đề có liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động.Trung tâm dịch vụ việc làm còn là tổ chức hữu hiệu thông qua việc thu thập cung và cung cấp thông tin về thị trường lao động cho cơ quan quản lý về lao động. Trong nhưng năm qua các trung tâm dịch vụ việc làm ở tỉnh đã thực hiện rất tốt chức năng và nhiệm vụ của mình cụ thể là mấy trung tâm sau: - Trung tâm dịch vụ việc làm Cục quản lý xe máy Bộ Quốc phòng, giới thiệu và cung ứng cho 1220 lao động. - Trung tâm dịch vụ việc làm công đoàn thuộc Liên đoàn lao động tỉnh giới thiệu và cung ứng việc làm cho 1.358 lao động. Với sự cố gắng phấn đấu nỗ lực của cán bộ nhân viên, giáo viên. Hàng năm các Trung tâm đều thực hiện tốt công tác đào tạo nghề. Tổng số học viên đăng ký đào tạo tại trung tâm là: 16.370 người trong đó thực hiện là 15.819 người, đào tạo tại trung tâm là 13.163 người, liên kết 2.656 người. Bên cạnh những mặt đạt được đó công tác dịch vụ việc làm vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: - Tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động về các chế độ tiêu chuẩn, pháp luật lao động còn hạn chế. - Giới thiệu việc làm và học nghề chưa có biện pháp kế hoạch thường xuyên thiết lập mối quan hệ với các người sử dụng lao động để nắm bắt yêu cầu việc làm với người sử dụng lao động cần tuyển lao động trong thực hiện chưa được nề nếp, chặt chẽ. - Việc thông tin về thị trường lao động, những ngành nghề mà người sử dụng lao động đang cần tuyển đối với các trung tâm còn hạn chế. Vì vậy, dânc đến nhiều lao động học nghề xong nhưng không có việc làm. Trong khi đó nhiều người sử dụng lao động thì thiếu những lao động kỹ thuật cần thiết cho sản xuất kinh doanh lại không có để tuyển dụng, từ đó dẫn đến mất cân đối về cung và cầu lao động Như vậy, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống dịch vụ việc làm là rất quan trọng. Để làm được điều đó UBND Tỉnh kết hợp với Sở LĐ-TBXH và các ban nghành chức năng liên có quan trên địa bàn tỉnh đề ra một số giải pháp sau: + Tiếp tục rà soát, đánh giá năng lực và kiên quyết giải quyết giải tán những trung tâm không đảm bảo cơ sở pháp lý và không đạt yêu cầu, tăng cường kiểm tra việc thực hiện luật pháp trong tuyển dụng lao động, thực hiện nghiêm chỉnh bộ luật lao động và tạo điều kiện cho các trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động. Phát triển và mở rộng mạng lưới thông tin dịch vụ việc làm với các huyện, thị xã trong tỉnh. Hợp tác với các trường dạy nghề trong và ngoài tỉnh. + Tập trung nâng cao đào tạo nghề, thực hiện đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. + Mở rộng việc đào tạo, giới thiệu và cung ứng lao động cho các đơn vị có chức năng xuất khẩu lao động để đưa một phần lao động của tỉnh đi học tập, lao động ở nước ngoài. + Cần có quy định cụ thể về mức thu lệ phí tránh tình trạng có mức thu lệ phí khác nhau dẫn đến môi giới lừa đảo người lao động. + Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động của các Trung tâm. Tuyên truyền phổ biến nghị định 72/CP ngày 31/10/1995 của chính phủ. Thông tư 08/LĐ-TBXH ngày 15/3/1999 của Bộ Lao động –TBXH về hướng dẫn tổ chức hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm. Các trung tâm dịch vụ việc làm phấn đấu thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ có hiệu quả được quy định tại thông tư 08/ LĐ-TBXH ngày 10/3/1997 của Bộ Lao động- TBXH. Cụ thể có 4 nhiệm vụ là: Tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động về chính sách chế độ, tiêu chuẩn về việc làm, hướng nghiệp, cách thức tìm việc làm, lựa chọn việc làm, học nghề vv… Giới thiệu việc làm và học nghề. Tổ chức cung ứng lao động. Thông tin thị trường lao động. 4. Kết hợp đào tạo nghề với giải quyết việc làm. Ngày nay trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật- công nghệ phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng từng ngày, từng giờ đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức rõ vai trò của chất lượng nguồn nhân lực. Vì vậy, giáo dục đào tạo trở thành “ chiếc chìa khoá vàng” để mở rộng tất cả các cánh cửa thăng tiến cho mỗi xã hội cũng như mỗi cá nhân. Nhằm tăng cường hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề đáp ứng nhu cầu đội ngũ lao động giỏi phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung đồng thời thực hiện đúng mục tiêu đề ra đến năm 2005 có 25% lao động của tỉnh qua đào tạo nghề và đến 2010 là 30%, Tỉnh uỷ Hà Tây đã kết hợp với Sở LĐ-TBXH đề ra một số giải pháp sau: + Tăng cường đầu tư cho các trường dạy nghề, trường CNKT, trung cấp… đóng trên địa bàn tỉnh để mở rộng quy mô, thay thế các thiết bị, cơ sở vật chất cũ của trường. + Phát triển mạng lưới các trường dạy nghề rộng khắp trên địa bàn tỉnh sao cho mỗi huyện, thị xã đều có một trường dạy nghề trong những năm tới. +Quan tâm tới việc sắp xếp việc làm cho học viên sau khi tốt nghiệp, cố gắng đến năm 2005 trong tất cả các trường dạy nghề đều có một bộ phận đặc trách công tác hướng nghiệp và xếp việc làm sau đào tạo. Bộ phận này làm nhiệm vụ: đánh giá và giúp người lao động tự đánh giá năng lực hướng vào các ngành nghề phù hợp với bản thân và nhu cầu của xã hội. Đương nhiên bộ phận này cần nắm được các thông tin cơ bản về cơ hội việc làm ở địa phương cũng như ở các vùng lân cận của tỉnh. Giải pháp này cần được tổ chức triển khai một cách có kế hoạch từ các lớp cuối cấp của hệ trung học cơ sở và trung học phổ thông. + Tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo giữa học viên của trường với các doanh nghiệp để giúp học viên nắm bắt được yêu cầu của các nhà tuyển dụng trong tương lai, đồng thời giúp nhà trường có các biện pháp cải tiến hợp lý hình thức đào tạo sao cho đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. 5. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và các quỹ quốc gia về giải quyết việc làm - Bảo đảm các dự án mới xây dựng triển khai có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích, cho vay đúng đối tượng, tạo điều kiện hỗ trợ thêm vốn cho các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, các địa phương phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu hút và tạo thêm việc làm cho nhiều người lao động, góp phần vào quá trình chuyển dịch kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, để từng bước phấn đấu giảm dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang làm việc thuộc các ngành kinh tế khác trên địa bàn tỉnh. - Các dự án mới xây dựng trong những năm tới đến hạn trả gốc và lãi Nhà nước có quy định, phấn đấu không để dự án nào nợ quá hạn phát sinh mới. - Các huyện, thị xã còn các dự án nợ quá hạn từ những năm trước đây chuyển tiếp đến nay phải có biện pháp tích cực nhất tập trung thu nợ quá hạn. Phấn đấu hạ thấp tỷ lệ nợ quá hạn vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm ( các năm trước đây ) xuống dưới 3 %và tiếp tục giảm dần trong những năm tới. - Để thực hiện có kết quả mục tiêu về việc làm và thực hiện cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, các huyện, thị xã cần thực hiện tôt một số việc sau đây: + Do công tác sắp xếp, tổ chức bộ máy, vì vậy huyện, thị xã nào khi có thay đổi cán bộ cần khẩn trương kịp thời kiện toàn, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo giải quyết việc làm. Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, mục tiêu việc làm của địa phương, chỉ đạo hướng dẫn xây dựng các dự án vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm có tính khả thi cao, phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ câú kinh tế, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Kiểm tra đôn đốc các dự án vay vốn, quá trình triển khai thực hiện dự án bảo đảm có hiệu quả cao, hết hạn hoàn trả cả gốc và lãi Nhà nước đúng quy định. + Các huyện, thị xã, các tổ chức, các đoàn thể còn có dự án nợ quá hạn phải tập trung, có biện pháp tích cực nhất thu nợ quá hạn. Đối với các chủ dự án có điều kiện trả nợ nhưng cố tình dựa dẫm, dây dưa phải có biện pháp kiên quyết để thu được nợ, cần thiết xử lý theo quy định của pháp luật. + Đề nghị cấp Uỷ và chính quyền các cấp coi việc chỉ đạo và xây dựng tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu việc làm, xây dựng các dự án vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm và thu hồi nợ quá hạn là một trong các chỉ tiêu thi đua hàng năm của cấp uỷ và chính quyền các cấp. + Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII về giải quyết việc làm cho người lao động và xoá đói giảm nghèo. Trong những năm tới, số người đến độ tuổi lao động hàng năm vẫn còn cao khoảng 2%. Số lao động tăng thì sức ép về việc làm càng lớn. Vì vầy, việc vay vốn từ quỹ quốc gia cần được duy trì và phát triển. Ngoài số vốn mà Chính phủ đã phân bổ cho Hà Tây trong những năm trước cần tiếp tục đề nghị chính phủ tạo nguồn bổ sung thêm hàng năm từ 4-5 tỷ đồng. + Tiếp tục quán triệt mục tiêu của chương trình vay vốn là tạo việc làm mới và việc làm đầy đủ hơn cho người lao động. + Tiếp tục cho vay và khuyến khích chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, khuyến khích nghành nghề chế biến nông sản… + Quan tâm hơn nữa đến việc làm của hai thị xã và các thị trấn. + Tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa ban chỉ đạo cá huyện thị xã với ban chỉ đạo tỉnh và Trung ương. Thường xuyên theo định kỳ phải có văn bản báo cáo tình hình thực hiện dự án vốn vay của địa phương mình lên cấp trên, để có gì sai sót thì xử lý kịp thời. + Tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương này đồng thời phổ biến những kinh nghiệm hay trong quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả trong hội nghị sơ kết sau này của các địa phương để mọi người cùng tham khảo nhằm làm sao để những người được vay vốn của quỹ này không những hoàn trả vốn lãi đúng thời hạn mà vẫn phát huy được sản xuất góp phần từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng tích cực như Nghị quyết của tỉnh và trung ương đề ra. 6. Huy động các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, công ty đóng trên địa bàn tỉnh hoạt động thuận lợi Do đặc điểm về địa lý, các thành phần kinh tế hoạt động trên địa bàn tỉnh chủ yếu là tư nhân, cá thể, thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Do đó ở tỉnh các doanh nghiệp, công ty vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn. Các thành phần kinh tế này đã mở ra nhiều cơ hội tìm việc làm đối với những người thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực thành thị, nông thôn. Theo thống kê năm 2003 số doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh chiếm gần 90% trong tổng số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ tạo lên sự tăng trưởng của nền kinh tế, phát triển ngành công nghiệp, từng bước rút dần lao động ra khỏi khu vực nông thôn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm chủ yếu cho phần lớn lao động ở nông thôn. Một câu hỏi đặt ra: Vì sao doanh nghiệp vừa và nhỏ này lại phát triển và tạo được nhiều việc làm? Sở dĩ doanh nghiệp vừa và nhỏ làm được như vậy là vì: - Đây là tổ chức kinh tế mở ra cơ hội tạo nhiều việc làm từ nguồn vốn trong nhân dân do nhân dân tự lo là chính. - Doanh nghiệp, công ty loại này sử dụng chủ yếu là lao động chân tay. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ đa số là của tư nhân, cá thể thành lập với động cơ gây dựng một sự nghiệp và thu được nhiều lợi nhuận do đó họ sẽ làm việc hết mình, không ngại khó khăn gian khổ để đưa công ty phát triển đi lên. - Do tính năng động, nhạy bén trong lựa chọn, thay đổi mặt hàng và hướng đi nên các doanh nghiệp này có khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường, tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. - Doanh nghiệp loại này là trường đào tạo lực lượng lao động và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh từ thực tiễn. Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng không chỉ trong sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh mà của cả đất nước. Nó tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Vì vậy việc mở rộng và phát triển hơn nữa các doanh nghiệp này hay việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp loại này đóng trên địa bàn được hoạt động thuận lợi là rất cần thiết. Để làm được điều này tỉnh cần có các giải pháp sau: + Tạo hành lang pháp lý và khuyến khích người dân tự do kinh doanh. Trong đó, cần đơn giản các thủ tục hành chính, giảm lệ phi khi thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. + Thực hiện chính sách khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh bằng cách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi ( từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm của tỉnh) khi họ có phương án mở rộng sản xuất kinh doanh. + Phát triển việc đào tạo cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hộ kinh doanh về kiến thức quản lý doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. + Phải làm cho các chủ doanh nghiệp nhận thức được cạnh tranh là vấn đề bức xúc khi họ gia nhập nền kinh tế thị trường, từ đó mà chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm và nâng cao năng suất. Vấn đề cấp thiến đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải giải quyết những khó khăn( máy móc, thiết bị lạc hậu do nhập công nghệ cũ của các nước; chất lượng lao động chưa đảm bảo yêu cầu, quản lý còn yếu kém chưa nắm bắt được luật kinh doanh…) nảy sinh từ chính bản thân mình, tức là phải tự đổi mới máy móc, thiết bị, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, xây dựng và thực thi chiến lược tồn tại và phát triển lâu bền của doanh nghiệp. II. Một số kiến nghị. Đối với Tỉnh. UBND Tỉnh cần kết hợp với Sở LĐ-TBXH và các ban ngành chức năng có liên quan, qua tâm hơn nữa đến việc phát triển các ngành trọng tâm, mũi nhọn của tỉnh và việc đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chế biến nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế-> chuyển dịch cơ cấu lao động , tạo mở việc làm. UBND Tỉnh cần chỉ đạo sát sao hơn nữa việc thực hiện các nguồn vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, để việc phân bổ nguồn vốn đạt hiểu quả hơn. Phối hợp với Sở kế hoạch và đầu tư, Sở công nghiệp, xây dựng mới các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề đến từng huyện, thị nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động trong địa bàn Tỉnh góp phần giải việc làm được dễ dàng hơn. Đầu tư hợp lý và có hiệu quả hơn nữa cho các trung tâm, doanh nghiệp hoạt động về lĩnh vực xuất khâủ lao động để ngày càng đưa được nhiều lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đồng thời tăng cường chặt chẽ hơn nữa hoạt động giám sát các trung tâm, doanh nghiệp loại này để không còn tình trạng lừa người lao động. Đối với Trung ương. Cần có sự chỉ đạo chặt chẽ hơn đến việc thực hiện các quyết định, chính sách về giải quyết việc làm của tỉnh. Quan tâm đầu tư hơn đến việc xây dựng màng lưới cơ sở dạy nghề của tỉnh gắn nó với giải quyết việc làm. Đưa ra các chính sách khuyến khích, khen thưởng thích đáng cho những đơn vị của tỉnh làm tốt công tác giải quyết việc làm ở tỉnh. Có các chính sách ưu đãi ( giảm thuế) cho các doanh nghiệp, công ty đóng trên địa bàn tỉnh sử dụng nhiều lao động nhằm giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ của Tỉnh. Kết luận Một lần nữa chúng ta lại khẳng định vấn đề việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng không đối với Hà Tây mà mọi vùng trong nước ta. Vấn đề giải quyết việc làm trong các năm qua tuy đã đạt được một số thành quả, số người có việc làm trong mọi ngành kinh tế đều có tăng tuy nhiên với tốc độ tăng nguồn lao động hàng năm còn cao, số người hàng năm ra nhập đội quân chờ việc tăng lên không ngừng thì vẫn đề tạo ra ngày càng nhiều chỗ làm việc là một thách thức và là vấn đề thời sự. Do đó cần có các biện pháp cấp bách giải quyết việc làm, tạo ra nhiều việc làm mới góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đưa tỉnh Hà Tây trở thành một trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng điều tra lao động- việc làm năm 1999, 2000, 2001, 2002 và 2003 của ban chỉ đạo điều tra lao động –việc làm thuộc UBND tỉnh Hà Tây 2. Giáo trình kinh tế lao động- Nhà xuất bản giáo dục 1998 3. Báo cáo kết quả xuât khẩu lao động những năm 1996-2000 của Sở LĐ-TBXH tỉnh Hà Tây 4. Báo cáo kết quả cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm 10 năm (1992-2002) của ban chỉ đạo giải quyết việc làm UBND tỉnh Hà Tây 5. Báo cáo kết quả thực hiện chương trình mục tiêu việc làm 2001-2003 của Sở Lđ-TBXH tỉnh 6. Báo cáo kết quả công tác lao động thương binh xã hội năm 2000,2001,2002,2003 của Sở LĐ-TBXH tỉnh 7. Chương trình thực hiện công tác dạy nghề và giải quyết việc làm đến năm 2005 và 2010 của tỉnh uỷ Hà Tây 8. Liên giám thống kê năm 1998-2000, 2001,2002,2003 của cục thống kê tỉnh Hà Tây. Table of Contents Mục lục Mở đầu. 1 Nội dung 3 Phần I: Lý luận chung về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm 3 I. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 3 1. Các khái niệm. 3 1.1. Việc làm 3 1.2. Gải quyết việc làm 6 1.3. Thất nghiệp 8 2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế quốc dân 10 II. Các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây 11 1. Yếu tố tự nhiên 11 1.1. Vị trí địa lý 11 1.2. Tài nguyên khoán sản 13 2. Yếu tố kinh tế- xã hội 15 2.1. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng 15 2.2. Các ngành nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ. 16 2.3. Các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở tỉnh. 19 2.4. Chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của tỉnh 20 3. Yếu tố con người 21 III. ý nghĩa và sự cần thiết của việc làm và giải quyết việc làm 22 1. ý nghĩa của việc làm và giải quyết việc làm 22 2. Sự cần thiết của việc làm và giải quyết việc làm. 23 Phần II: Phân tích thực trạng vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây 25 I. Khái quát về Sở LĐ- TBXH tỉnh Hà Tây 25 1. Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh. 25 2. Quá trình hình thành và phát triển của Sở LĐ-TBXH tỉnh Hà Tây 27 II. Thực trạng vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1999-2003. 29 1. Thực trạng nguồn lao động ở tỉnh Hà Tây giai đoạn 1999-2003. 29 1.1. Quy mô nguồn lao động. 29 1.2. Cơ cấu nguồn lao động. 30 2. Thực trạng về việc làm trên địa bàn tỉnh gia đoạn 1999-2003. 33 2.1. Theo khu vực. 33 2.2. Theo giới tính. 35 3. Vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây gia đoạn 1999-2003. 36 3.1. Trong hoạt động cho vay vốn. 36 3.2. Trong hoạt động xuất khẩu lao động. 39 3.3. Thông qua các mô hình kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống. 41 3.4. Trong công tác giáo dục đào tạo nghề. 43 III. Mục tiêu giải quyết việc làm trong thời gian tới. 43 1. Phương hướng giải quyết việc làm đến hết năm 2004. 43 1.1. Mục tiêu. 43 1.2. Chương trình. 44 2. Phương hướng giải quyết việc làm giai đoạn 2005-2010. 45 2.1. Mục tiêu. 45 2.2. Chương trình. 46 Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Hà Tây. 49 I. Giải pháp giải quyết việc làm. 49 1. Phát triển mạnh mẽ kinh tế- xã hội ở khu vực nông thôn. 49 2. Thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. 51 3. Tăng cường các hình thức thông tin, dịch vụ về việc làm, đào tạo cho người lao động. 54 4. Gắn kết đào tạo nghề với giải quyết việc làm 56 5. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, công ty đóng trên địa bàn tỉnh hoạt động được thuận lợi. 57 6. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm 59 II. Một số kiến nghị. 60 Kết luận. 62 Mở đầu Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước, cùng với các chính sách phát triển kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá và tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước đã từng bước thực hiện có hiệu quả hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội được ban hành như: chính sách việc làm, thu nhập, giáo dục-đào tạo nghề, phát triển các ngành nghề, doanh nghiệp, công ty…Nhờ đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được có thể nói rằng còn tồn tại khá nhiều vấn đề xã hội gay gắt như: tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng gia tăng, phân hoá giàu nghèo giữa hai khu vực thành thị -nông thôn ngày càng sâu sắc, tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng tăng lên… Nhưng trong tất cả các vấn đề xã hội nêu trên thì vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm là đáng quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay, vì nó là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không phải là vấn đề đáng quan tâm của riêng một ngành, một lĩnh vực mà đối với cả nước ta và các nước khác trên thế giới, không phân biệt phát triển hay đang phát triển. Do đó trong công cuộc CNH-HĐH và hội nhập kinh tế của tỉnh thì việc nghiên cứu các chương trình, mục tiêu và đề ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Với ý nghĩa đó tôi đã chọn đề tài: “Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 - 2010" Nội dung của đề tài gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về lao động và việc làm. Phần II: Đánh giá kết q ủa hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001 - 2005 Phần III: Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 - 2010 Tôi xin trân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn TS. Lê Huy Đức và cán bộ giúp đỡ TS. Trần Ngọc Diễn cùng toàn thể cán bộ của Vụ Lao động việc làm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Mặc dù đã cố gắng nhưng do thời gian và khả năng còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của thày giáo, cán bộ giúp đỡ và cán bộ của phòng để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội ngày 20 tháng 4 năm 2005 Sinh viên: Nguyễn Thị Kim Phượng Kết luận Một lần nữa chúng ta lại khẳng định vấn đề việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng không đối với đất nước và mọi vùng trong nước ta. Vấn đề giải quyết việc làm trong các năm qua tuy đã đạt được một số thành quả, số người có việc làm trong mọi ngành kinh tế đều có tăng tuy nhiên với tốc độ tăng nguồn lao động hàng năm còn cao, số người hàng năm ra nhập đội quân chờ việc tăng lên không ngừng thì vẫn đề tạo ra ngày càng nhiều chỗ làm việc là một thách thức và là vấn đề thời sự. Do đó cần có các biện pháp cấp bách giải quyết việc làm, tạo ra nhiều việc làm mới góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, đưa nước ta trở thành một trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội của khu vực trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT088.doc
Tài liệu liên quan