Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Công trình đường thuỷ

Lời nói đầu Lợi nhuận là mục đích của tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng để có thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng một số vốn nhất định để đầu tư, mua sắm những yếu tố cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn đó gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy vốn là điều kiện cơ sở vật chất không thể thiếu được đối với mọi doanh nghiệp. Vốn được thể hiện bằng các loại tài sản trong doanh nghiệp. Căn cứ vào

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Công trình đường thuỷ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc điểm vận động của từng loại tài sản, tài sản trong doanh nghiệp được chia thành 2 loại: tài sản cố định và tài sản lưu động. Tương ứng vốn kinh doanh của doanh nghiệp cũng gồm vốn cố định và vốn lưu động. Việc khai thác, sử dụng vốn cố định một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng tác động đến toàn bộ việc sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Thông qua việc đánh giá tình hình sử dụng cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định của các kỳ kinh doanh trước, doanh nghiệp sẽ đặt ra các biện pháp, chính sách sử dụng cho các kỳ kinh doanh tới sao cho có lợi nhất đạt được hiệu quả cao nhất nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của hiệu quả sử dụng vốn cố định đối với các doanh nghiệp, đồng thời qua thời gian thực tập tìm hiểu tình hình thực tế tại Công ty Công trình Đường thuỷ, em chọn đề tài: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Công trình đường thủy" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở nội dung biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng như hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung của các doanh nghiệp, có sử dụng nguồn số liệu thực tế của Công ty Công trình Đường thuỷ để minh hoạ. Với cách nhìn như vậy, bản luận văn này gồm 3 phần: Phần I: Lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp. Phần II: Phương pháp xác định hiệu quả sử dụng vốn cố định và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công Ty Công Trình Đường Thuỷ. Phần III: Một số ý kiến đề xuất về phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công Ty Công Trình Đường Thuỷ. Đây thực sự là một vấn đề phức tạp mà giải quyết nó không những phải có kiến thức, năng lực mà còn phải có kinh nghiệm thực tế. Mặt khác do những hạn chế nhất định về mặt trình độ, thời gian đi khảo sát thực tế ngắn nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo trong bộ môn cùng các bạn đọc. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Văn Định, các thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính Khoa Kế toán tài chính trường Đại học Thương mại Hà Nội cùng tập thể các cô, chú, các anh, các chị trong Phòng Kế toán tài chính của Công ty Công trình Đường Thuỷ đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Phần I Lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty công trình đường thuỷ I/ Khái niệm tài sản cố định, vai trò tác dụng của tài sản cố định 1. Khái niệm tài sản cố định Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng phải có ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Để có được doanh nghiệp phải dùng một khoản tiền nhất định để đầu tư, mua sắm, khoản tiền ứng trước này được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được biểu hiện dưới hai hình thái : Hình thái hiện vật và hình thái giá trị. Vốn biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các tài sản mang hình thái vật chất cụ thể như: Công cụ, dụng cụ, máy móc, thiết bị nhà kho, hàng hoá. Tất cả các loại tài sản trong doanh nghiệp giá trị của chúng được đo bằng thước đo tiền tệ và nằm ẩn dưới hình thái giá trị. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Việc phân chia này được căn cứ vào hình thức vận động và tốc độ chu chuyển của các loại tài sản trong doanh nghiệp. Đối với tài sản lưu đọng giá trị của nó được chuyển dịch một lần vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do vậy tốc độ và thời gian chu chuyển nhanh.Có thể coi vốn lưu động tương ứng với toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp. Còn tài sản cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh giá trị của nó được dịch chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm. Tài sản cố định được định nghĩa như sau: Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc dưới hình thức thuê mua mà chúng hội tụ đủ 2 điều kiện: có giá trị lớn và có thời gian sử dụng dài (theo qui định của chế độ quản lý hiện hành) và có đặc điểm là tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Ngày nay khái niệm Tài Sản Cố Định được mở rộng không chỉ bao gồm những tài sản mang hình thái hiện vật mà còn bao gồm những tài sản không mang hình thái hiện vật như:chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí sưu tầm phát triển,chi phí mua bằng phát minh sáng chế, những chi ohí về đầu tư khai hoang,cải tạo đất,nạo vét lòng sông, luồng lạch, các chi phí về chuẩn bị khai thác mỏ. 2. Đặc điểm của tài sản cố định - Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ Sản Xuất Kinh Doanh và chỉ khi nào biết thời gian sử dụng hoặc không có lợi về mặt kinh tế mới phải thay thế đổi mới. Trong quá trình sử dụng thì Tài Sản Cố Định hao mòn về mặt giá trịvà gí trị sử dụng. Có hai loại hao mòn: +Hao mòn hữu hình:giảm giá trị và giá trị sử dụng ố mang lại hiệu quả kinh tế. +Để khắc phục hao mòn thì phải nâng cao trình độ sử dụng và làm tốt công tác bảo dưỡng. +Hao mòn vô hình :làm giảm hoạt động , giá trị. Nguyên nhân là do tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho máy móc trở nên lạc hậu so với thời đại. Để khắc phục: +Đầu tư Tài Sản Cố Định làm cho phù hợp với thời đại,cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. +Trích khấu hao để thu hồi vốn,tính khấu hao đúng đủ. 3. Phân loại tài sản cố định: a) Căn cứ vào hình thức Tài Sản Cố Định được chia thành hai loại: +Tài Sản Cố Định hữu hình:là những tài sản cố định được chia thành hai loại: - Tài Sản Cố Định hữu hình: là những Tài Sản Cố Định có hình thái vật chất hội đủ tiêu chuẩn về giá trị và thời gian sử dụng theo qui định của chế độ quản lý hiện hành, bao gồm: + Đất: Gồm giá trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển và những chi phí cải tạo chung nhằm mục đích tạo mặt bằng cho sản xuất , khai thác hoặc xây dựng cơ bản. + Nhà cửa, vật kiến trúc: gồm tất cả những công trình xây dựng cơ bản như: nhà cửa vật kiến trúc (bờ rào, tháp nước, sân bãi...), các công trình trang trí thiết kế cho nhà cửa,các công trình cơ sở hạ tầng như: đường sá, cầu cống, cầu tầu.... + Máy móc thiết bị: Gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm cả những máy móc chuyên dùng, máy móc thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ và những máy móc đơn lẻ. +Phương tiện vận tải:Gồm tất cả các loại phương tiện vận tải,kể cả các loại đầu máy như:ô tô,máy kéo...và các loại phương tiện vận tải khác như: rơ mooc,xe bò...,đường ống dẫn dầu,dẫn nước.... +Thiết bị, dụng cụ quản lý: Gồm các dụng cụ đo lường máy tính điện tử, quạt trần, quạt bàn, bàn ghế... +Cây lâu năm,gia súc làm việc cho sản phẩm:gồm các loại cây lâu năm (cà phê,chè,cao su...), các gia súc làm việc (trâu, bò, ngựa cầy kéo), các gia súc nuôi để lấy sản phẩm (bò sữa, dê sữa, các vật sinh sản...) +Các loại tài sản cố định khác như: tài sản cố định phúc lợi (nhà nghỉ, câu lạc bộ, sân bóng, các thiết bị dụng cụ thể dục, thể thao, văn nghệ, học tập...) - Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, được thể hiện bằng một lượng giá trị đã được đầu tư,tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, các lợi ích hoặc các nguồn có tính kinh tế mà giá trị của chúng xuất phát từ các độc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như: +Chi phí thành lập doanh nghiệp, chuẩn bị sản xuất: là những chi phí phát sinh từ lúc doanh nghiệp mới bắt đầu thành lập như: tiền thù lao cho công tác nghiên cứu, thăm dò, lập dự án đầu tư, chi phí về huy động vốn ban đầu, chi phí đi lại, chi phí về các cuộc họp thành lập, chi ohí khai hoang...các chi phí này thường có giá trị tương đối cao với mục đích tổ chức cơ cấu để hoàn thành việc khai sinh ra doanh nghiệp và phục vụ một, lợi ích lâu dài. Bằng phát minh sáng chế: Đối với loại tài sản cố định vô hình này, giá trị của nó được xác định bởi các chi phí doanh nghiệp phải trả cho các công trình nghiên cứu sản xuất thử được nhà nước cấp bằng sáng chế hoặc doanh nghiệp mua lại tác quyền, bằng sáng chế của các nhà nghiên cứu khác. +Chi phí nghiên cứu, phát triển doanh nghiệp: Là các chi phí do doanh nghiệp tự thực hiện hoặc thuê ngoài thực hiện các công trình có qui mô về nghiên cứu, lập các kế hoạch dài hạn để đầu tư, phát triển nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. +Chi phí về lợi thế thương mại: Là các khoản chi phí tính thêm ngoài giá trị thực tế của tài sản cố định hữu hình bởi sự thuận lợi của vị trí thương mại, sự tín nhiệm đối với khách hàng, danh tiếng của doanh nghiệp. +Quyền đặc nhượng: Là các chi phí mà doanh nghiệp phải trả để có được quyền được thực hiện khai thác các nghiệp vụ quan trọng hoặc sản xuất độc quyền một loại sản phẩm theo hợp đồng đặc nhượng kí kết với nhà nước hoặc đơn vị nhượng quyền. + Quyền thuê nhà: Là một chi phí về sang nhượng, chuyển quyền mà doanh nghiệp trả cho người thuê trước đó để được thừa kế quyền lợi về thuê nhà theo hợp đồng kí kết với nhà nước hoặc đơn vị nhượng quyền. + Quyền thuê nhà: là một chi phí về sang nhượng, chuyển quyền mà doanh nghiệp trả cho người thuê trước đó để được thừa kế quyền lợi về thuê nhà theo hợp đồng kí kết với nhà nước hoặc đối tượng khác. + Bản quyền tác giả: là chi phí tiền thù lao mà doanh nghiệp trả cho tác giả và được nhà nước công nhận cho tác giả độc quyền phát hành và bán tác phẩm của mình. + Độc quyền nhãn hiệu và tên hiệu: là chi phí mà doanh nghiệp trả cho việc mua loại nhãn hiệu và tên hiệu nào đó. + Tài sản cố định vô hình khác như: chi phí đầu tư cải tạo đất trong ngành nông-lâm nghiệp, chi phí đầu tư bốc đất đá để khai thác trong ngành công nghiệp khai thác, chi phí nạo vét lòng sông, bến cảng, luồng lạch trong ngành giao thông vận tải... b. Căn cứ vào công cụ kinh tế, tài sản cố định được chia thành 2 loại: - Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: là những tài sản cố định hữu hình và vô hình trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh doanh cơ bản của đơn vị. - Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: là những tài sản cố định hữu hình và vô hình dùng trong sản xuất kinh doanh phụ trợ của doanh nghiệp và những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất chẳng hạn như: tài sản cố định phúc lợi, tài sản cố định cho thuê... c. Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành ba loại: - Tài sản cố định đang dùng. - Tài sản cố định chưa cần dùng. - Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý. 4. Vai trò và ý nghĩa của tài sản cố định đối với hoạt động của doanh nghiệp. Tài sản cố định là cơ sở vật chất kĩ thuật, là yếu tố chủ yếu thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác tài sản cố định là "hệ thống xương" và "bắp thịt" của quá trình kinh doanh. Vì vậy trang thiết bị hợp lý, bảo quản và sử dụng tốt tài sản cố định có ý nghĩa quyết định đến việc tăng năng suất lao động, tăng chất lượng kinh doanh, tăng thu nhập và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt đông kinh doanh, tài sản cố định có vai trò hết sức lớn lao và bất kì hoạt động kinh doanh nào muốn diễn ra đều phải có tài sản cố định. Như trên ta đã nói, tài sản cố định là một "hệ thống xương" và "bắp thịt" của quá trình kinh doanh. Thật vậy bất kì một doanh nghiệp nào muốn tiến hành kinh doanh đều phải có tài sản cố định, có thể là tài sản cố định của doanh nghiệp, có thể là tài sản cố định đi thuê ngoài. Tỉ trọng của tài sản cố định trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp cao hay thấp phụ thuộc vào tính chất kinh doanh từng loại hình. Các đơn vị kinh doanh có các loại hàng giá trị lớn thì tỉ trọng tài sản cố định của nó thấp hơn so với đơn vị kinh doanh mặt hàng có giá trị nhỏ. Tỉ trọng tài sản cố định càng lớn (nhưng phải nằm trong khuôn khổ của nhu cầu sử dụng tài sản cố định) thì chứng tỏ trình độ kinh doanh của doanh nghiệp càng hiện đại với kĩ thuật cao. Tuy nhiên các doanh nghiệp hiện nay đang nằm trong tình trạng thiếu vốn để phát triển và tái sản xuất mở rộng. Vì vậy vấn đề phân bổ hợp lý tài sản cố định và tài sản lưu độnglà rất quan trọng. Việc đầu tư vào tài sản cố định phải thoả đáng tránh tình trạng thừa tài sản cố định sử dụng không hết năng lực tài sản cố định trong khi đó tài sản lưu động lại thiếu. Cơ cấu các loại tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định tài chính) trong các doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực kinh doanh, xu hướng đầu tư kinh doanh, phụ thuộc vào khả năng dự đoán tình hình kinh doanh trên thị trường của lãnh đạo doanh nghiệp. Nói chung tỷ trọng tài sản cố định trong các doanh nghiệp nó có tỷ trọng phụ thuộc vào đặc thù của ngành. Việc sử dụng tài sản cố định hợp lý có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó cho phép khai thác tối đa năng lực làm việc của tài sản cố định góp phần làm giảm tỷ suất chi phí tăng doanh lợi cho doanh nghiệp. Mặt khác sử dụng tài sản cố định hợp lý là một điều kiện đảm bảo giữ gìn hàng hoá sản phẩm an toàn và cũng chính là điều kiện bảo quản tài sản cố định. II. Phương pháp xác định hiệu quả sử dụng vốn cố định và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty CTĐT. 1. Khái niệm hiệu quả a) Khái niệm hiệu quả Hiệu quả là vấn đề được các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý kinh doanh quan tâm hàng đầu. Hiệu quả theo cách duy nhất được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Nếu chi phí bỏ ra càng ít và kết quả mang lại càng nhiều thì điều đó có nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường để thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế đảm bảo lấy thu nhập bù đắp chi phí và có lãi đòi hỏi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả cao để doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trong nền kinh tế có nhiều thành phần, có cạnh tranh và quan hệ quốc tế với nước ngoài ngày càng được mở rộng. Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những mặt lợi đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh của nước ta được phản ánh trên 2 mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phản ánh sử dụng các yếu tố trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế là tối đa hoá kết quả kinh tế thu được hoặc tối đa hoá chi phí bỏ ra để thực hiện được kết quả đó. Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp phản ánh sự đóng góp của doanh nghiệp vào thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là hiệu quả xã hội của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua hoạt động của doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ văn hoá xã hội, góp phần làm giảm bớt những chi phí tiêu dùng của xã hội và lĩnh vực thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, góp phần nâng cao văn minh xã hội, đồng thời doanh nghiệp cũng có trách nhiệm trong việc cải tạo tiêu dùng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả xã hội là sự thoả mãn nhu cầu có tính chất xã hội trong sự tương ứng với các nguồn nhân tài vật lực ảnh hưởng tới mục đích đó. Hiện nay hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua các biện pháp xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có khi thống nhất cũng có khi mâu thuẫn với nhau. Nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi thì đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện, đồng thời doanh nghiệp sẽ nộp nhân sách để thực hiện chính sách xã hội như: xây dựng các công trình công cộng, giảm bớt sự bất công bằng trong xã hội... Như vậy doanh nghiệp vừa đạt được hiệu quả kinh tế vừa đạt được hiệu quả xã hội, nếu hiệu quả kinh tế kém thì doanh nghiệp cũng không đạt được hiệu quả của xã hội. Đối với các doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ kinh doanh nhằm phục vụ hải đảo và miền núi thì chi phí rất cao làm cho giá thanh toán trở thành cá biệt, cao hơn giá thị trường chấp nhận hoặc giá chỉ đạo của nhà nước do đó doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ. Vì vậy doanh nghiệp không đạt được hiệu quả kinh tế nhưng thực hiện được hiệu quả xã hội. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì quá trình hoạt động kinh doanh phải đem lại hiệu quả. Do vậy các doanh nghiệp trên thường phải được nhà nước có biện pháp về giá, bù đắp tài chính... để doanh nghiệp yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo doanh nghiệp vừa đạt được hiệu quả xã hội vừa đạt được hiệu quả kinh tế, ổn định mức thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên việc xác định rõ hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội chỉ là tương đối vì có thể chỉ tiêu phanr ánh đồng thời hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Thông thường, hiệu quả kinh tế luôn luôn được các doanh nghiệp quan tâm hơn, bởi vì chỉ tiêu cơ sở hoạt động có hiệu quả kinh tế thì doanh nghiệp đó mới tồn tại và phát triển được. Mặt khác các kết quả mà doanh nghiệp đạt được về mặt kinh tế cũng chính là sự phục vụ nhu cầu xã hội tức là các doanh nghiệp này cũng đạt được hiệu quả xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay có thể nói doanh nghiệp nào phục vụ tốt khách hàng, chiếm được "cảm tình" và lòng tin của khách hàng thì doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả kinh tế cao, đó cũng là phù hợp. Như vậy thì hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội là hai mặt của một vấn đề mà một trong hai mặt đó tốt sẽ làm ảnh hường tới mặt kia và ngược lại. Chúng ta đã biết, mục đích của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận của mình hay nói rộng hơn là tăng hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh doanh của mình, lợi nhuận là khoản còn lại sau khi doanh nghiệp đã trừ đi mọi khoản chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh. Nhờ thu được lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất mở rộng trong lĩnh vực trao đổi càng lớn. Từ đó không những tạo điều kiện để cải thiện đời sống của chính nhân viên trong doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện để nâng cao điều kiện phục vụ khách hàng, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Như vậy xét cho cùng hiệu quả kinh tế là nội dung quan trọng nhất, là đối tượng chính của nghiên cứu hiệu quả kinh doanh một đơn vị hạch toán độc lập. Nhưng để đánh giá hiệu quả kinh doanh, người ta không đánh giá hiệu quả kinh tế một cách độc lập mà thường xuyên xem xét cả hiệu quả xã hội. Trong điều kiện xã hội hiện nay ở nước ta, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng. Nâng cao hiệu quả đó là việc tăng kết quả thu được trên một đơn vị chi phí bỏ ra. Các doanh nghiệp luôn luôn tìm mọi cách nâng cao hiệu quả, bằng mọi biện pháp để tăng hệ số so sánh giữa kết quả và chi phí qua các thời kỳ khác nhau. Khi nói đến hiệu quả kinh doanh người ta luôn có một sự so sánh nào đó giữa hai đại lượng: kết quả đầu ra và chi phí đầu vào. Từ trước đến nay có hai cách phản ánh và xác định hiệu quả. Hiệu quả = kết quả đầu ra - chi phí đầu vào Hiệu quả = kết quả đầu ra chi phí đầu vào Cách tính và đánh giá hiệu quả ở dạng hiệu số có ưu điểm là đơn giản, dễ dàng, nhưng có nhiều nhược điểm. Thứ nhấtkhông cho phép đánh giá được hết chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và không so sánh được kết quả giữa các năm hoặc giữa các doanh nghiệp. Thứ hai không phản ánh được các tiềm tàng hiệu quả của doanh nghiệp. Vì vậy cách tính này làm mất tính bản chất của hiệu quả. Thật vậy, giả sử xem xét chỉ tiêu lợi nhuận với cách đánh giá ở dạng hiệu số có thể dẫn tới cách hiểu đơn giản và thông thường là cứ kinh doanh đảm bảo thu bù chi có lãi là có hiệu quả, doanh nghiệp nào được nhiều lãi hơn là doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hơn. Mặc dù lợi nhuận của kết quả kinh tế cuối cùng thu được sau khi đã hoàn trả mọi chi phí bỏ ra để thu được, nó cũng phản ánh ở một mức độ nhất định chất lượng hoạt động kinh doanh, những sự đánh giá như vậy là không chính xác, bởi lẽ tổng mức lợi nhuận thu được phụ thuộc vào cả sự phát triển theo chiều rộng lẫn chiều sâu, tức bằng cả mở rộng qui mô doanh nghiệp, tăng lượng đầu tư vào và bằng cả tăng kết quả thu được trên một đơn vị chi phí đầu tư. Tổng kết quả năm này thu được có thể lớn hơn năm trước nhờ vào việc tăng lượng đầu tư vào lớn hơn lượng tăng kết quả thu được. Hay nói cách khác việc so sánh dạng hiệu số với chỉ tiêu đơn thuần xem xét đầu ra đạt được qua các thời kỳ khác nhau. Hiện nay, cách phản ánh và xác định hiệu quả ở dạng phân số được hầu hết các nhà kinh tế công nhận và áp dụng rộng rãi trong thực tế. Ưu điểm của cách này ở chỗ, không những khắc phục được tất cả những nhược điểm trên mà còn cho phép phản ánh hiệu quả một cách toàn diện. Với cách phản ánh và cách đánh giá xác định hiệu quả ở dạng phân số hình thành nên một hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả từ mọi góc độ khác nhau từ tổng quát đến chi tiết. Tuy nhiên sử dụng chỉ tiêu hiệu quả ở dạng phân số để đánh giá có nhược điểm là phức tạp và đòi hỏi phải có một quan điểm hợp lý trong việc sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả trong quản lý kinh tế. Để xây dựng một hệ thống chỉ tiêu hợp lý cần có các quan điểm đúng đắn về chỉ tiêu kết quả và chi phí. b. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản cố định Hiệu quả sử dụng tài sản cố định cần được xem xét từ góc độ là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định phản ánh mối quan hệ giữa số kết quả đạt được trên một chi phí tài sản cố định hay phản ánh mức chi phí đạt được trên một đơn vị kết quả khi đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định người ta thường sử dụng công thức dạng phân số, ít sử dụng công thức hiệu số bởi lẽ kết quả để xác định hiệu quả trong trường hợp này vẫn là kết quả chung song chi phí để tính hiệu quả lại chỉ là một bộ phận vì vậy nếu dùng công thức hiệu số sẽ không phản ánh chính xác. Mặt khác như đã phân tích ở trên tài sản cố định bao gồm nhiều loại, nó có đặc điểm vận động khác nhau vì vậy ngoài việc xác định hiệu quả chung còn có thể căn cứ vào đặc thù từng loại hình tài sản cố định để có thể xác định hiệu quả cho thích hợp. Tiêu chuẩn và chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định cần cấu thành hệ thống liên hệ duy nhất trong tái sản xuất kinh doanh và cần tính đến những nét đặc thù mỗi môi trường và mỗi giai đoạn xem xét hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Theo dạng chung nhất thì hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp là sự đạt được của doanh nghiệp với kết quả nhiều nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí về sử dụng tài sản cố định ít nhất, đồng thời đảm bảo thực hiện các mục tiêu về tài sản cố định của doanh nghiệp như kế hoạch khấu hao, đầu tư đổi mới tài sản cố định, mua sắm thêm tài sản cố định. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định là một chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tiêu chuẩn của hiệu quả sử dụng tài sản cố định là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá giá trị tài sản cố định sử dụng để đạt được một đơn vị kết quả. Khi xem xét hiệu quả sử dụng tài sản cố định, chỉ tiêu kết quả có thể là doanh thu, thu nhập hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp. Còn chỉ tiêu chi phí tài sản cố định được xem xét là mức hao phí về tài sản cố định ở các khía cạnh khác nhau. 2. Các chỉ tiêu xác định định hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty. Đối với các doanh nghiệp thì vốn cố định là điều kiện cần phải có để phục vụ kinh doanh nhưng nó không phải là loại vốn tham gia trực tiếp kinh doanh như vốn lưu động. Trong các ngành nghề kinh doanh khác nhau thì kết cấu tài sản cố định cũng khác nhau. Do vậy để sử dụng có hiệu quả vốn cố định đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải quan tâm đến tính chất ngành nghề kinh doanh, tốc độ phát triển cũng như chất lượng công tác quản lý tài sản cố định... từ đó đề ra những phương hướng dầu tư cho tài sản cố định một cách hợp lý đồng bộ. - Tài sản cố định vô hình và những vấn đề liên quan. Như ở trên đã trình bày tài sản cố định vô hình thường là những khoản chi phí đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, tiến bộ khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp "hàm lượng chất xám " trong sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng chiếm một tỷ lệ lớn nên vấn đề này càng trở nên quan trọng. Ngay cả khi một số nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới có những công ty mà " tài sản cố định vô hình " có giá trị lớn hơn cả phần giá trị " tài sản cố định hữu hình" vốn đã rất hiện đại. Đơn cử : Nhãn hiệu thương mại là một loại tài sản cố định hữu hình, nhờ có nhãn hiệu thương mại nổi tiếng doanh nghiệp có thể bán chạy sản phẩm cao hơn các sản phẩm cùng loại có nhãn hiệu không nổi tiếng không được người tiêu dùng chú ý đến. Hay vị trí của cửa hàng, các quyền đặc nhượng, quyền khai thác, các bằng phát minh sáng chế cũng là tài sản cố định vô hình mà tác dụng của nó có ý nghiã rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy để phát triển và giảm hao mònvô hình đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đầu tư thiết bị tiên tiến, hiện đại và lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp, rút ngắn thời gian thu hồi vốn tài sản cố định nhằm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. a. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. - Hiệu xuất sử dụng vốn cố định: Hệ số này được xác định bằng tỷ số giữa mức doanh thu đạt được trong kỳ với tồng số vốn cố định bình quân trong kỳ. HMVCĐ = M VCĐ Trong đó: HMVCĐ : hiệu xuất sử dụng vốn cố định M : Doanh thu thực hiện trong kỳ VCĐ : Số dư bình quân vốn cố định trong kỳ là số bình quân giữa giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Bởi vì nếu tính theo nguyên giá của tài sản cố định có tác dụng thúc đẩy công ty quan tâm đến việc sử dụng đầu tư tất cả các tài sản cố định cố định hiện có và khai thác triệt để thời gian, công xuất hoạt động của tài sản cố định. Tuy nhiên xét về mặt kinh tế cách tính này không chính xác bởi nó không phản ánh đúng giá trị của tài sản cố định tham gia vào quá trình kinh doanh cũng như giá trị cón lại của tài sản sử dụng ở kỳ kinh doanh sau. Do đó khắc phục hạn chế này chúng ta thống nhất tính bằng giá trị còn lại của tài sản cố định có ưu điểm là loại trừ được phần giá trị tài sản cố định tham gia vào quá trình kinh doanh kỳ trước, thúc đẩy công ty quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo dưỡng, sử dụng triệt để khả năng tiềm tàng giá trị tài sản cố định còn lại sẽ tham gia vào chu kỳ kinh doanh kỳ này và kỳ sau. Ngoài cách tính nàychúng ta sẽ phản ánh hiệu quả của chi phí khấu hao tài sản cố định riêng rẽ mà phần sau sẽ đề cập đến. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu (thể hiện năng lực kinh doanh của vốn cố định). Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản xuất kinh doanh của đơn vị, nó có thể được sử dụng so sánh giữa các thời kỳ trong cùng một đơn vị hoặc giữa các đơn vị với nhau trong cùng một thời kỳ. - Hệ số sinh lời vốn cố định: Hệ số này được xác định bằng tỷ số giữa lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trong kỳ với số dư bình quân của vốn cố định. Và được coi là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. HLNVCĐ = LN VCĐ Trong đó: H: Hệ số sinh lợi vốn cố định LN: Lợi nhuận thu được trong kỳ VCĐ: Số dư bình quân vón cố định trong kỳ Hệ số này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn cố định. Cứ một đồng tiền vốn cố định trong một thời kỳ nhất định bỏ ra sẽ thu được báo nhiêu đồng lợi nhuận, do đó chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn cố định sử dụng càng có hiệu quả. Nó để dùng đánh giá chất lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ của một đơn vị hoặc giữa các đơn vị có cùng qui mô trong cùng thời kỳ. - Hệ số hiệu quả sử dụng diện tích sản xuất kinh doanh : Hiệu quả sử dụng diện tích sản xuất kinh doanh được xác định bằng hai công thức: Hd = M Và HS = LN Dsxkd Dsxkd Trong đó: Hd : Hiệu quả sử dụng diện tích sản xuất kinh doanh M : Doanh thu trong kỳ Dsxkd : Diện tích sản xuất kinh doanh LN : Lợi nhuận trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đơn vị diện tích sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định đơn vị thu được bao nhiêu đòng doanh thu và bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên cơ sở đó đánh giá hiệu quả sử dụng hợp lý hiệu quả sử dụng diện tích sản xuất kinh doanh của đơn vị. - Hiệu quả sử dụng chi phí tài sản cố định: Hiệu quả sử dụng chi phí tài sản cố định được xác định bằng hai công thức: HMFTSCĐ = M Và HLFTSCĐ = LN FTSCĐ FTSCĐ Trong đó : HMFTSCĐ : Hiệu quả sử dụng chi phí tài sản cố định FTSCĐ : Mức khấu hao tài sản cố định trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ với một chi phí cho tài sản cố định đã bỏ vào sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đốngoanh thu và bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tài sản cố định sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp trên người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong kỳ. Thuộc loại này bao gồm những chỉ tiêu sau: + Hệ số hao mòn vốn cố định: được xác định bằng tỷ số giá trị còn lại của tài sản cố định với tổng nguyên giá của tài sản cố định tại thời điểm kiểm tra: Hệ số hao mòn vốn cố định = ồ giá trị còn lại của TSCĐ tại thời điểm kiểm tra ồ nguyên giá của TSCĐ tại thời điểm kiểm tra Nếu hệ số hao mòn vốn cố định càng tiến gần về 1 chứng tỏ tài sản cố định được đổi mới, công ty có chú ý đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị và những tài sản cố định khác. Ngược lại hệ số này càng tiến gần về 0 thì tài sản cố định đang sử dụng tại công ty càng cũ cho thấy công ty không chú trọng đến đầu tư và hiện đại hoá tài sản cố định. Chỉ tiêu này một mặt phản ánh số vốn cố định còn phải tiếp tục thu hồi để bảo toàn vốn, mặt khác chỉ tiêu, mặt khác chỉ tiêu này còn phản ánh hiện trạng và năng lực vốn và năng lực sản xuất kinh doanh của đơn vị tại thời điểm kiểm tra. + Hệ số bảo toàn vốn cố định: Bảo toàn vốn cố định ở các doanh nghiệp được thực hiện ở quá trình sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh, đảm bảo cho tài sản cố định không bị hư hỏng trước thời hạn, không bị mất mát hoặc ăn chia về vốn, không được tạo ra lãi giả làm giảm vốn cố định. Trong điều kiện có trượt giá tăng lên thì số vốn cố định cũng phải được tăng theo cho phù hợp số vốn cố định phải bảo toàn đến cuối kỳ được xác định như sau: VCĐck = [(VCĐđk - VCĐt - VCĐg)] x Htg x Hvh Trong đó: VCĐck : Vốn cố định phải bảo toàn đến cuối kỳ báo cáo VCĐđk : Vốn cố định phải bảo toàn đầu kỳ báo cáo VCđt : Vốn cố định tăng trong kỳ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33980.doc
Tài liệu liên quan