Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Xuất khẩu ở Công ty Nam Hà Nội (SIMEX)

Lời mở đầu Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam, xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi vì thông qua việc mở rộng xuất khẩu cho phép nước ta tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu xã hội, cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển các cơ sở hạ tầng. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn m

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Xuất khẩu ở Công ty Nam Hà Nội (SIMEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1990. Đại hội đã khẳng định: "xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong 5 năm 1990-1994, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo". Hơn thế nữa, xuất khẩu được coi là yếu tố có ý nghĩa "quyết định" để thực hiện chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng và các hoạt động kinh tế khác(1) Văn kiện Đại hội Đảng CSVN . NXB Sự thật Hà Nội năm 2001, trang 153 . Trên quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Sự phát triển đa dạng hoá và đa phương hoá hoạt động ngoại thương đã mang lại những thành tựu nổi bật cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây. Từ một đất nước ngoại thương chỉ nghiêng về nhập khẩu gần như đồng nghĩa với tiếp nhận hàng viện trợ, Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên tạo chỗ đứng cho mình trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều đặn hàng năm ở mức thấp trên dưới 20% và xấp xỉ gần 2,5% làm tốc độ tăng GDP, đạt 8,7 tỷ USD vào năm 2001, dần tiến tới cân bằng xuất nhập. Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu; cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, tôi mạnh bạo chọn đề tài "Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty SIMEX" làm đề tài nghiên cứu. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề về ý nghĩa của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và doanh nghiệp nói riêng của Công ty SIMEX., thực trạng của hoạt động xuất khẩu ở công ty SIMEX và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty SIMEX. Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Đề tài này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của Ban giám đốc Công ty và với sự hướng dẫn của thầy giáo PGS. PTS Đặng Đình Đào. Xin chân thành cảm ơn! Chương I Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. I/ Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. 1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế. Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì thương mại quốc tế đã trở thành một qui luật tất yếu khách quan và được xem như là một điều kiện, tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ kinh tế với thế giới. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Hoạt động đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế ra đời từ khi có Nhà nước ra đời, tức là nó xuất hiện từ chế độ chiếm hữu nô lệ. Đến hình thái xã hội phong kiến và đặc biệt là tư bản chủ nghĩa thì quan hệ hàng hoá phát triển mạnh, phức tạp làm cho hoạt động thương mại quốc tế có bước phát triển đột biến. Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người ta thấy có 3 giai đoạn phân công lao động xã hội lớn: Giai đoạn 1: nghề chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Những người chăn nuôi đem thịt sữa đổi lấy lương thực của người trồng trọt. Hình thức đầu tiên của thương mại xuất hiện. Giai đoạn 2: nghề thủ công tách khỏi nghề nông. Đây là giai đoạn xuất hiện nhà nước phong kiến. Sản xuất chuyên môn hoá phát triển cao hơn, những người làm thủ công đem sản phẩm của mình đổi lấy thức ăn. Cũng trong giai đoạn này xuất hiện tiền tệ, tiền tệ được dùng làm vật ngang giá chung cho mọi hàng hoá thúc đẩy lưu thông phát triển cao hơn. Giai đoạn 3: Xuất hiện những người chuyên buôn bán hàng hoá gọi là thương nhân. Sự xuất hiện của thương nhân đã góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, thương mại quốc tế vì vậy có bước phát triển về chất. Như vậy, sự ra đời và phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng tăng lên. Thương mại quốc tế cũng vì thế mà ngày càng mở rộng và phức tạp. Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia. Chính sự khác nhau đó nên đều có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự gia tăng của hoạt động thương mại quốc tế xét về kim ngạch cũng như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia được xem xét một cách đặc biệt chú trọng hơn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất lương thực? Tại sao Nhật bản lại xuất hàng công nghiệp và chỉ nhập nguyên liệu thôi? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu? Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1917) đã giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này. Theo qui luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích của mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (đó là các hàng hoá không có lợi thế tương đối). Mô hình của D.Ricardo có thể được minh hoạ bằng ví dụ sau: Lợi thế so sánh Việt Nam Đài Loan Thép (kg/1 giờ công) 1 6 Vải (m/1 giờ công) 2 4 Ta thấy rằng: Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Đài Loan chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối về sản xuất vải, còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ lợi thế tương đối trong sản xuất thép. Theo qui luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia đều sẽ có lợi thế nếu Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải. Sau đó, hai nước tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau. Lý thuyết lợi thế tương đối (hay so sánh) của David Ricardo đã phần nào giải thích được cơ chế lợi ích khi thương mại quốc tế diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng, thương mại quốc tế vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi giữa chúng có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn, sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng dem lại lợi ich cao cho họ. Vậy thương mại quốc tế bắt nguồn từ đâu: Một là, các nước khác nhau thường có các điều kiện sản xuất rất khác nhau, tức là sự khác nhau về khả năng chiếm dụng nguồn lực. Dựa trên cơ sở đó, mỗi nước sẽ tận dụng lợi thế của mình để sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng của mình giàu tiềm năng nhất, đồng thời nhập khẩu những sản phẩm có sử dụng nguyên liệu mà nước mình bất lợi nhất. Người ta chia nguồn lực ra làm 3 loại: Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới thương mại quốc tế là rất rõ. Các nước có đất đai và khí hậu thích hợp cho việc trồng cà phê sẽ có xu hướng xuất khẩu nhiều cà phê, trong khi các nước có nguồn dự trữ lớn về dầu mỏ có xu hướng xuất khẩu nhiều dầu mỏ. Nguồn nhân lực, đó là lực lượng con người của một quốc gia. Con người là lực lượng quan trọng nhất của một quốc gia. Bởi vì, sự di chuyển lao động giữa các quốc gia không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế mà nó còn liên quan đến nhiều vấn đề xã hội khác, do vậy, phạm vi để một nước mua được nhiều lao động có kỹ năng cao của các nước là mang tính hạn chế. Ngoài ra, đối với các sản phẩm chế tạo và dịch vụ mang tính trí tuệ cao thì lao động là đầu vào chính đối với sản xuất. Lực lượng lao động của một nước càng có kỹ năng cao, thì nước đó càng có nhiều khả năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, và đặc biệt là các sản phẩm có được giá cả phải chăng trên thị trường thế giới. Chúng ta đã chứng kiến những thập kỷ qua, nhờ dựa vào lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ mà các nước Đông Nam á đã thực hiện thành công chiến lược hướng ra xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là hàng điện. Hạ tầng cơ sở, hạ tầng cơ sở của một nước như giao thông với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy họăc kìm hãm sự phát triển thương mại của nước đó đối với thế giới.Chẳng hạn đường sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá. Mặt khác, hạ tầng cơ sở tốt là một nguồn lực phục vụ cho các hoạt động xuất khẩu. Hai là, hiệu quả kinh tế theo quy mô. Hiệu quả kinh tế theo quy mô hay lợi suất tăng dần theo quy mô có nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi quy mô sản xuất tăng lên. Nguyên nhân là, với nền sản xuất quy mô lớn, người ta có thể tiết kiệm được trong việc sử dụng máy móc và thiết bị chuyên môn hoá. Hơn nữa, do phân công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia theo một khía cạnh của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và sự đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế theo quy mô rất quan trọng cho nền thương mại quốc tế của các nước nhỏ. Phạm vi các hàng hoá, mà theo đó có thể có được quy mô hiệu quả trong sản xuất, bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn, bằng tỷ lệ xuất khẩu/ GDP). Đối với các nước nhỏ, việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích thương mại quốc tế về những hàng hoá nhất định nào đó. Rõ ràng nhất và cũng thực tế nhất là, một vài chủng loại sản phẩm rộng rãi như ngành hàng không dân dụng, là ngành mà cả thị trường thế giới nguyên vẹn cũng chỉ đủ lớn để ủng hộ cho một số nhà sản xuất. Nhưng điều tương tự cũng xảy ra đối với nhiều loại sản phẩm chế tạo chuyên môn hoá, đặc biệt là các sản phẩm công cụ sản xuất. Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người. Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước lẫn mọi người. Điều này giải thích về việc buôn bán các sản phẩm rất giống nhau giữa các nước tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế của bản quyền. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công sản xuất đối với các công ty ở nước khác, hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này trên thị trường thị giới. Những lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Thương mại quốc tế vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy, nó được coi là bộ phận của đời sống hàng ngày"(1) Kinh tế học tập II - trang 322. David Begg . NXB KHKT 1996. . Nhận thức rõ ràng những điều đó, Đảng và Nhà nước đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 10 năm trở lại đây đã liên tục tăng cả số lượng lẫn chất lượng với tốc độ tăng hàng năm là trên dưới 20% đóng góp 1 phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định "Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính sách xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại và hoà bình. Đất nước ta đang từng bước chuyển mình theo nhịp độ sản xuất với những công nghệ khoa học tiên tiến của thế giới, với những dự án đầu tư đầy triển vọng của các bạn bè quốc tế. Chúng ta tin tưởng rằng, một ngày mai với hướng đi đúng đắn, với những ưu thế của mình, dưới sự lãnh đạo, quản lý sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ trỗi dâỵ sánh vai với các cường quốc trên thế giới". 2. Vai trò của kinh doanh xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước. Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hơn một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với nước ta, nền kinh tế còn chậm phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số lại phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu là cực kỳ quan trọng. Trong thời kỳ phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu. Người ta nhận thấy, thu nhập từ xuất khẩu vượt xa tất cả các nguồn vốn khác, kể cả các nước có trình độ phát triển chênh lệch nhau rất nhiều. Thời đại ngày nay là thời đại hoà bình, mở rộng giao lưu kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Xu thế phát triển của nhiều nước là thay đổi chiến lược kinh tế từ "đóng cửa" sang "mở cửa" từ "thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả" sang "hướng mạnh vào xuất khẩu". Có thể nói đây là con đường duy nhất đúng đắn tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với nước ngoài. Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện: 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để thực hiện đường lối công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện dại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại, nếu nhập nhiều hơn xuất làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân. 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp vói xu hướng phát triển cuả kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác dộng này thể hiện: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp bao bì phục vụ nó. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. 2.3. Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động. 2.4. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động với thu nhập không thấp. Giải quyết được vấn đề bức xúc nhất trong xã hội hiện nay. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật liệu tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú hơn của nhân dân. 2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế. ...., xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế ...Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường... Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy,bất cứ một nước nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao. Để thấy rõ vấn đề này, chúng ta có thể nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế của các nước trong khu vực cũng như thế giới trong mối quan hệ với tăng trưởng xuất khẩu . Bảng I: Kim ngạch xuất khẩu với tăng trưởng GDP của các nước trong khu vực . Nước Tăng GDP% GDP (PPP,triệu USD) Kim ngạch XK (triệu USD) XK/GDP(%) Nhật Hồng Kông Singapore Đài Loan Hàn Quốc Malaysia Thái Lan Trung Quốc 2,6 6,1 7,8 6,5 6,3 8,4 6,4 9,6 2.953.440 155.144 76.291 333.529 563.745 208.502 501.331 3.380.016 411.000 181.000 125.000 122.000 132.000 78.000 56.900 145.000 0,139 1,167 1,638 0,366 0,234 0,375 0,113 0,036 Bảng II: Xuất khẩu với tăng trưởng GDP của Mỹ và các nước khác (2001) Nước Tăng GDP% GDP (PPP)(triệu USD) Kim ngạch XK (triệu (USD) XK/DP(%) Mỹ Anh Canada Pháp Đức Italy 3,6 3,4 3,7 2,2 2,8 1,7 7.633.465 1.181.962 1.660.540 1.284.182 1.723.366 1.179.283 633.000 251.000 201.000 275.000 521.000 244.000 0,083 0,212 0,304 0,214 0,302 0,207 Như vậy qua số liệu trên cho thấy, đa số các nước có nền kinh tế phát triển thì xuất khẩu đóng góp vào khoảng 10-30% GDP. Còn những nước có tốc độ phát triển cao, tỷ lệ này cũng có xu hướng cao hơn. Điển hình là trường hợp của Hồng Kông và Singapore, tỷ lệ này là trên 100%. Điều này phản ánh vai trò của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế. Tóm lại là, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. II/ Những nội dung và hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu. 1. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu Theo thuật ngữ chung, thương mại quốc tế là quá trình trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ vượt ra khỏi biên giới một quốc gia để thiết lập quan hệ với nước khác. Thuật ngữ này nhấn mạnh đến tính khác biệt về giới hạn địa lý giữa các quốc gia. Ngày nay, thương mại quốc tế đã phát triển ở khắp mọi nơi cũng mọi lĩnh vực trên thế giới dưới các hình thức rất đa dạng và phong phú. Điều này đã dẫn đến một yêu cầu là phải đưa ra được một định nghĩa mới bao hàm được toàn bộ nội dung cũng như hình thức thương mại quốc té. Người ta đi đến thống nhất với nhau rằng thương mại quốc tế là là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể mang quốc tịch khác nhau, không phân biệt thời gian và địa điểm. Theo tư duy mới này, mọi hoạt động chuyển giao quyền sở hữu giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau với mục đích sinh lời đều được coi là hoạt động thương mại quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá là một bộ phận rất quan trọng của thương mại quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì lĩnh vực hoạt động này được biểu hiện dưới nhiều hình thức rất khác nhau. Theo qui định của nghị định 33CP (19/4/1998) lĩnh vực kinh doanh này bao gồm các hình thức chủ yếu sau: - Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. - Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ vật tư phụ tùng cho sản xuất. - Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất - Làm các dịch vụ như đại lý, nhận uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức kinh tế nước ngoài. - Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. Đây là những hình thức xuất khẩu phổ biến nhất của nước ta hiện nay. Xuất khẩu dưới hình thức trao đổi hàng hoá là sự chuyển dịch quyền sở hữu của hàng hoá trong nước (hàng hoá do người Việt Nam sản xuất, chế biến) cho nước ngoài nhằm thu lợi nhuận. Hoạt động thông qua biên giới phải làm các thủ tục hải quan. Hình thức hợp tác sản xuất (được tổ chức tại Việt Nam) là hoạt động mà cả hai bên trong và ngoài nước cùng góp vốn, hợp tác liên doanh hoặc hợp tác theo hợp đồng phân chia sản phẩm để sản xuất và chế biến hàng hoá sau đó xuất khẩu cho nước ngoài. Gia công chế biến hàng xuất khẩu là hoạt động mà nước ta nhận nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của nước ngoài về, tổ chức gia cố làm nâng cao giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm sau đó xuất lại cho nước ngoài. Hình thức này được thực hiện theo hai loại sau: Quan hệ gia công chủ động. Nước đặt gia công cung cấp nguyên liệu bán thành phẩm (không chịu thuế quan) cho nước (hoặc ngườì) nhận gia công để chế biến sản phẩm và xuất trở lại cho nước (hoặc người) đặt gia công. ở đây chưa có sự chuyển giao quyền sở hữu đối với nguyên liệu. Quan hệ gia công thụ động. Nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được xuất đi nhằm gia công chế biến và sau đó nhập thành phẩm trở lại. Trong quan hệ này, quyền sở hữu đối với nguyên liệu đã được chuyển giao. Vì vậy, khi nhập trở lại các bộ phận, giá trị thực tế tăng thêm đều phải chịu thuế quan. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, hoạt động gia công là hình thức góp phần rất lớn vào quá trình thúc đẩy sản xuất, tham gia vào hợp tác quốc tế. Gia công sẽ giải quyết các tình trạng khó khăn trước mắt như thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công nghệ, giúp giải quyết công ăn việc làm và thúc đẩy xuất khẩu. Năm qua, hoạt động gia công hàng dệt may giữa ta và EU đã đạt kim ngạch là 1,2 tỷ đô la. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng, giá trị ròng thu về là còn khiêm tốn, chỉ chiếm từ 20-30% giá trị hàng gia công. Vì vậy, về lâu dài chúng ta cần có các chính sách để nâng cao giá trị gia công hơn nữa. 1.2. Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng cho sản xuất. Hình thức này là một dạng của hoạt động trao đổi hàng hoá, được thể hiện dưới dạng máy móc. Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng có thể là xuất khẩu toàn bộ có chuyển giao sở hữu, hoặc dưới hình thức cho thuê có thời hạn.Vì đây là hàng hoá đặc biệt liên quan đến quyền sở hữu về phát chế - sáng minh công nghệ nên thủ tục quản lý cũng được thực hiện khác với hàng hoá thông thường. Đối với nước ta là một nước còn nghèo và lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất thiếu thốn nên chủ yếu là nhập máy móc thiết bị. Tuy nhiên trong tương lai, khi nền kinh tế phát triển cao, cơ sở vật chất kỹ thuật đã được hiện đại hoá thì chắc chắn với sự thông minh của người Việt Nam, chúng ta cũng sẽ tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu này. 1.3. Chuyển khẩu - tạm nhập tái xuất ã Kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu là mua hàng hoá của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam. Việc chuyển khẩu được thực hiện dưới các hình thức sau: - Hàng chuyển khẩu được chuyển từ cảng nước xuất khẩu đến cảng nước nhập khẩu, không đến cảng Việt Nam. - Hàng chuyển khẩu được chở đến cảng Việt Nam nhưng không làm thủ tục hải quan nhập khẩu vào Việt Nam mà đi luôn tới cảng nước nhập khẩu. - Hàng chuyển khẩu được chở đến cảng Việt Nam trong một thời gian không quá 60 ngày rồi mới chở đến cảng nước nhập khẩu, không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam. Cơ sở pháp lý của phương thức chuyển khẩu là hai hợp đồng riêng biệt, hợp đồng mua hàng (do đơn vị Việt Nam ký với nước xuất khẩu). Hình thức kinh doanh chuyển khẩu có thể được thanh toán bằng tín dụng giáp lưng, tiền mặt hoặc thanh toán bằng hàng nhập khẩu. Đơn vi kinh doanh theo phương thức trên là những đơn vị được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Ngành hàng quy định trong phạm vi kinh doanh của giấy phép không ràng buộc đối với hàng hoá mua bán theo hợp đồng chuyển khẩu. ã Kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là hình thức mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho nước khác (nước nhập khẩu) nhằm mục đích kiếm lời, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam trong một thời gian nhất định rồi tái xuất khẩu mà không qua gia công chế biến. Các trường hợp sau không được coi là kinh doanh theo phương thức này: - Gia công cho nước ngoài: Nhập nguyên vật liệu, giao thành phẩm, - Mọi hình thức tạm nhập tái xuất và tạm tái nhận nhằm mục đích dự hội trợ triển lãm hoặc sửa chữa máy móc, phương tiện theo quy định của hợp đồng, hợp tác đồng tư, liên doanh sản xuất v.v... - Hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng sau một thời gian, vì lý do nào đó, không sử dụng trong nước nữa mà tái xuất khẩu ra nước ngoài. Tất cả hàng hoá tạm nhập tái xuất đều phải làm thủ tục hải quan và chịu sự kiểm tra giám sát của hải quan cho tới thời điểm hàng thực xuất ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Hình thức thanh toán giống như thanh toán theo phương thức chuyển khẩu. 1.4. Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức nước ngoài. Hình thức đại lý xuất khẩu là việc đơn vị trong nước nhận hàng của các tổ chức kinh tế nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam rồi sau đó chịu trách nhiệm xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài để hưởng chênh lệch giá hoặc thu hoa hồng. Ngược lại, uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức nước ngoài là hình thức đơn vị trong nước giao hàng cho tổ chức nước ngoài, các tổ chức này có trách nhiệm thực hiện xuất khẩu lô hàng được giao và hưởng khoản chênh lệch phần trăm theo giá bán, hoặc tiền hoa hồng như đã ghi trong hợp đồng . 1.5. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài. Các hoạt động này liên quan đến quá trình thực hiện sản xuất hàng hoá (tự độc lập họăc liên doanh liên kết với đơn vị kinh tế nước ngoài), nhận làm đại lý, uỷ thác xuất khẩu cho mọi tổ chức tại lãnh thổ của nước ngoài. 2. Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau và đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu về lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trực tiếp thì nội dung cơ bản của xuất khẩu có thể được thực hiện bởi các vấn đề sau: 2.1. Nghiên cứu thị trường Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện mà thị trường quốc tế có những biến động hàng ngày và sự biến động đó._. ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng kinh doanh hàng hoá thì công tác nghiên cứu thị trường phải được xem như là klhâu quan trọng nhất và được thực hiện ngay từ đầu. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường. Khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh hàng hoá. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiêt thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính. Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng là thu nập các thông tiin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai hay bán công khai, xử lý các thông tin đã tìm kiếm được. Phương pháp nghiên cứu tại chỗ thu nhập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp hay điều tra chọn mẫu bằng các câu hỏi... hoặc kết hợp nghiên cứu cả hai phương pháp trên. Thông thường nghiên cứu thị trường tập trung vào làm rõ những vấn đề căn bản sau: Một là, nghiên cứu về thị trường hàng hoá thế giới. Trong nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới, đặc biệt là khi muốn kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thành công, điều không thể thiếu được là phải nhận biết được sản phẩm nào phù hợp với thị trường và năng lực, mục tiêu của doanh nghiệp. Để xác định điều này cần làm rõ các vấn đề sau: ã Thị trường đang cần mặt hàng gì? ã Đặc điểm tiêu dùng của mặt hàng đó trên thị trường ã Mặt hàng đang ở thời kỳ nào của chu kỳ sống ã Tình hình sản xuất của mặt hàng đó ra sao ã Xu hướng biến động giá cả của hàng hoá Hai là, nghiên cứu về môi trường kinh tế nước ngoài. Ba là, lựa chọn đối tác buôn bán. Để lựa chọn đối tượng buôn bán có hiệu quả, nên tìm hiểu các nội dung sau: ã Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó ã Lĩnh vực kinh doanh của họ ã Khả năng vốn và cơ sở vật của họ ã Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ ã Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với công ty. 2.2. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tệ, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá và đã được thoả thuận quy định trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá, thanh toán phải xem xét đến các vấn đề sau đây: Tỷ giá hối đoái: là biểu hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá trong nước và giá thế giới, dùng để tính toán và thanh toán xuất nhập khẩu. - Các điều kiện đảm bảo hối đoái. - Tiền tệ trong thanh toán quốc tế. - Thời hạn trong thanh toán. - Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế. Trong các vấn đề trên thì phương thức và hình thức thanh toán quốc tế là phức tạp và quan trọng nhất. Nó phản ánh mức độ an toàn cho việc thu tiền của người xuất khẩu. Có sáu hình thức thanh toán hay được sử dụng trong thương mại quốc tế đó là: ã Trả trước bằng tiền mặt hoặc trả tiền mặt theo lệnh. Nhà xuất khẩu có quan điểm thích sử dụng quy tắc thanh toán này nhất vì họ không bị rủi ro về nhờ thu và không chịu chi phí tiền lãi cho giấy đòi nợ. Người nước ngoài mua hàng hiếm khi chấp nhận quy tắc này (trừ các đơn đặt hàng rất nhỏ) bởi quy tắc này ràng buộc vốn của người mua và họ không yên tâm có nhận được hàng hay không. ã Ghi sổ: đây là hình thức tín dụng hào phóng nhất và nguy hiểm nhất. Chỉ sau khi điều tra mức tiền gửi ở ngân hàng của khách hàng thì cách thanh toán này mới được giành cho khách hàng lâu năm có khoản tiền gửi lớn nhưng chỉ giành cho những nước không có vấn đề ngoại hối. ã Gửi bán: Việc thanh toán phải được thực hiện một khi hàng gửi ra nước ngoài đã được khách hàng nước ngoài bán xong. Cho đến khi hàng gửi ra nước ngoài thì sở hữu hàng hoá vẫn thuộc nhà xuất khẩu. Nhưng rủi ro rất nhiều. Việc bán hàng không được báo cáo, hàng bán không được thanh toán đúng thời gian hoặc việc thanh toán có thể không thưc hiện được do những diễn biến chính trị, hàng hoá có thể bị mất hoặc tổn hại trước khi bán. ã Hối phiếu trả ngay. Hàng gửi đi với vận đơn đường biển có thể giao dịch được và người mua sẽ nhận được các chứng từ, gửi hàng và chuyển chứng từ cho ngân hàng nước ngoài. Rủi ro vẫn còn, chủ yếu bởi vì tình hình tài chính của người mua có thể thay đổi giữa lúc hàng gửi đi và hàng đến và người mua có thể không có khả năng hoặc không sẵn lòng chấp nhận tờ hối phiếu khi nó được xuất trình. ã Hối phiếu kỳ hạn: Người mua sẽ có quyền sở hữu hàng hoá khi họ chấp nhận ký vào một hay vài hối phiếu mà việc thanh toán chúng sẽ xảy ra sau khi nó được chấp nhận khoảng 30,60,90 ngày. Đây là một hình thức tín dụng mà rủi ro sẽ cao hơn so với hối phiếu trả ngay. ã Thư tín dụng: Theo nhiều khía cạnh thì đây là hình thức thanh toán lý tưởng - quan điểm của nhà xuất khẩu cũng như khách hàng của họ ở nước ngoài đều cho thấy như vậy. Thư tín dụng là một chứng từ do ngân hàng của khách hàng mua phát hành có hứa hẹn trả cho người cung cấp một số tiền đã được thoả thuận nếu như ngân hàng này nhận được các chứng từ đã được quy ddịnh rõ (thông thường là hoá đơn thương mại, vận đơn và chứng từ bảo hiểm) trong một thời hạn cũng đã được quy định rõ. Để tạo thêm an toàn cho nhà xuất khẩu, người ta phát hành thư tín dụng không thể huỷ ngang (người mua không thể huỷ ngang hay thay đổi thư tín dụng nếu không được người bán đồng ý). Thực tế, một thư tín dụng có xác nhận của ngân hàng chính là một sự đảm bảo có thanh toán của ngân hàng thư tín dụng kiểu này rất có ích nếu như người ta nghi ngờ về tình hình ngoại hối hoặc nguy cơ hạn chế chuyển tiền tại nước hàng đêbs, 2.3. Lập phưong án kinh doanh. Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm: ã Đánh giá tình hình thị trường và thương nhận, phác hoạ bức tranh tổng quát vè hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn. ã Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. ã Đề ra mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng? Với giá bao nhiêu? Sẽ thâm nhập vào những thị trường nào ã Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. Những biện pháp này bao gồm các biện pháp áp dụng trong nước đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế và các biện pháp ngoài nước như quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế, mở rộng mạg lưới đại lý. ã Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ yếu: - Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ - Chỉ tiêu thời gian hoà vốn - Chỉ tiêu tỷ suất doanh loại - Chỉ tiêu điểm hoà vốn 2.4. Tạo nguồn hàng và định giá hàng xuất khẩu 2.4.1. Tạo nguồn hàng 2.4.1.1.Phân loại các nguồn hàng xuất khẩu a) Phân theo chế độ phân cấp quản lý - Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phân bổ. Đây là nguồn hàng được Nhà nước cam kết giao nước ngoài trên cơ sở các hiệp định (hiệp định thương mại, hiệp định sản xuất, hiệp định hợp tác khoa học...) hoặc các nghị định thư hàng năm. Sau khi ký kết các hiệp định hoặc các nghị định thư với nước ngoài, Nhà nước phân bố chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất để các đơn vị này giao hàng cho các tổ chức kinh doanh hàng xuất nhập khẩu thực hiện. Vì thế đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, nguồn hàng này đảm bảo cả về số lượng, chất lượng, thời hạn, giao hàng. - Nguồn hàng ngoài kế hoạch phân bổ của Nhà nước. Nguồn hàng này được trao đổi buôn bán trên tất cả các thị trường. Các tổ chức xuất khẩu căn cứ vào hợp đồng đã được ký kết với nước ngoài tiến hành sản xuất thu mua chế biến theo số lượng, chất lượng và thời hạn giao hàng đã thoả thuận với nước ngoài trong hợp đồng kinh tế. Ngày nay, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch giảm nhiều. Nhà nước chỉ giao những chỉ tiêu mang tính định hướng còn các doanh nghiệp tự quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn hàng xuất khẩu cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn, phần lớn việc trao đổi, giao dịch mua bán nguồn hàng này thông qua hợp đồng ngắn hạn hoặc mua bán trao tay. Trong tương lai, cần tăng tỷ trọng giao dịch thông qua hợp đồng mua bán dài hạn. b) Phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có thể thu mua, huy động (như đổi hàng, gia công...) hàng từ: - Các xí nghiệp công nghiệp của Trung ương và địa phương - Các xí ngihệp nông lâm nghiệp của Trung ương và địa phương - Các cơ sở trung ương sản xuất tiểu thủ công nghiệp - Các cơ sở công tư hợp doanh - Các hợp tác xã, hộ gia đình c) Phân loại nguồn hàng theo phạm vi doanh nghiệp được phân công khai thác. - Nguồn hàng nằm trong khu vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đây là địa bàn mà doanh nghiệp khai thác hàng. - Nguồn hàng nằm ngoài khu vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với việc quy định phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước muốn hạn chế việc tranh mua hàng hoá giữa các doanh gihệp dẫn tới giá thu mua hàng xuất khẩu tăng cao. Việc làm này ắt dẫn đến sự độc quyền của một số tổ chức ngoại thương qua việc khống chế giá, gây thiệt hại kìm hãm, phát triển sản xuất. e) Phân loại theo khối lượng hàng thu mua. - Nguồn chính (nguồn chủ yếu) là nguồn hàng hoá có khối lượng thu mua lớn nhất của doanh nghiệp. - Nguồn phụ là nguồn hàng hoá chiếm khối lượng nhỏ trong tổng số hàng xuất khẩu thu mua được của doanh nghiệp. g) Phân loại nguồn hàng theo mối quan hệ kinh tế. 2.4.1.2. Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Đây là hoạt động biểu hiện mối quan hệ giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu đối với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Dưới đây là một số hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu điển hình đang diễn ra trong thực tế. - Thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là những yêu cầu của người mua về mặt hàng, quy cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng... Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng là hình thức phổ biến được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá, sau khi các bên đạt được những thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng giá cả, phương thức giao hàng, phương thức thanh toán... các bên ký kết hợp đồng kinh tế, đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng: là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán, hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nổi trên thị trường. - Thu mua nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất, đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư 1 phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. - Thu mua nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý. Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chọn các đại lý thu mua cho phù hợp. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, vật liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu trên thị trường. Tóm lại, các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dụng các hình thức thu mua thích hợp. 2.4.1.3. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau: ã Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã và công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ (nếu là hàng nông lâm, thuỷ sản) những đặc tính, đặc điểm riêng của từng loại hàng hoá. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu còn phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật không? Trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với giá cả quốc tế như thế nào? Sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, bao gói... thì lợi nhuận thu về là bao nihêu cho doanh nghiệp, chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh ngiệp ngoại thương. ã Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công... Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. ã Tổ chức thu mua nguồn hàng xuất khẩu. Sau khi ký kết hợp đồng với các chủ hàng xuất khẩu, doanh ngiệp thương mại phải lập được kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp những phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch. Cụ thể là: - Hình thành hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương, các khu vực có mặt hàng thu mua, hệ thống thu mua phải gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương. - Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục, giấy tờ, chứng từ, hoá đơn, bộ phận giám định chất lượng hàng hoá và các thủ tục khác để giao nhận hàng hoá theo hợp đồng đã ký và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và đang có đưa vào lưu thông. Nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nhưng nó có thể hoặc không xuất hiện trên thị trường. - Tổ chức vận chuyển hàng theo các địa điểm đã quy định, làm các thủ tục cần thiết để thuê phương tiện vận chuyển thích hợp cho từng loại mặt hàng. - Đưa các cơ sở sản xuất, gia công chế biến vào hoạt động theo phương án kinh doanh đã vạch ra. - Chuẩn bị đầy đủ tiền để thanh toán kịp thời cho nhà sản xuất, các đại lý, các trung gian. - Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu. 2.4.2. Định giá hàng xuất khẩu. Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân như : quan hệ cung cầu - hàng hoá, tích luỹ tiêu dùng... Giá cả luôn gắn với thị trường và chịu tác động của các nhân tố khác nhau. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do buôn bán diễn ra trên các khu vực khác nhau, thời gian giao dịch dài hơn, hàng vận chuyển qua nhiều nước với chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động trên thị trường, các nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện định giá linh hoạt phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp. Công việc đanh giá được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Xây dựng giá thành xuất khẩu cơ sở. Bước 2: Xác định các chi phí cố định và chi phí biến thiên của xuất khẩu. Bước 3: Khảo sát mức giá và phạm vi biến động giá trên các thị trường nước ngoài. Bước 4: Quyết định chiến lược đánh giá và xây dựng mức giá xuất khẩu. Bước 5: Soạn thảo các văn bản chào hàng và báo giá xuất khẩu Xuất phát điểm của việc tính toán giá thành xuất khẩu cơ sở thường là giá thành sản xuất đơn vị, hay còn gọi là "giá xí nghiệp". Giá xí nghiệp tương đương với giá thành xuất khẩu cơ sở nếu sản phẩm được sản xuât riêng lẻ để xuất khẩu, nhưng nếu sản phẩm được bán ở thị trường trong lẫn ngoài nước thì sẽ có một số điều chỉnh nhất định. - Nếu sản xuất thêm một khối lượng hàng để xuất khẩu, giá thành đơn vị của toàn bộ khối lượng sản xuất sẽ bi ảnh hưởng: các chi phí cố định và chi phí biến đổi hoặc chi phí chung về hành chính và quản lý có thể sẽ phải trải ra cho một khối lượng lớn hơn so với trường hợp sản phẩm chỉ bán trên thị trường trong nước. - Sản phẩm bán ra nước ngoài có thể sẽ phải điều chỉnh hoặc sửa đổi để thích ứng, hoặc cần được đóng góp theo nhiều các khác nhau, hoặc phải có sách hướng dẫn bằng tiếng nước ngoài. Đây là những hạng mục làm tăng chi phí và mức chi phí xuất khẩu cơ bản phải tính đến các chi phí này. Ngoài chi phí sản xuất sản phẩm để xuất khẩu. Các chi phí này tập trung thành ba nhóm: các chi phí xuất khẩu trực tiếp, chi phí chung cho xuất khẩu và chi phí bán hàng xuất khẩu. - Chi phí xuất khẩu trực tiếp: các hạng mục chi phí này liên quan trực tiếp đến khối lượng hàng bán ra . Các khoản này bao gồm hoa hồng đại lý, cước phí chuyên chở và phí bảo hiểm, chi phí lập chứng từ và thu thập chứng từ xuất khẩu, phí trả lãi tín dụng cấp cho người mua, phí cãng bãi và dỡ hàng,. thuế hải quan và các khoản phí khác đánh vào việc nhập khẩu. Nhà xuất khẩu không phải gánh chịu toàn bộ tất cả các chi phí này. Những khoản phí nào mà Nhà xuất khẩu gộp vào giá bán của mình là tuỳ thuộc vào điều kiện bán hàng và thanh toán đã được thương lượng với người mua. - Chi phí chung cho xuất khẩu: Các chi phí này bao gồm phần chi phí của cơ quan xuất khẩu (lương nhân viên, tiền thuê văn phòng, trang bị văn phòng...) chi phí cho các chuyến đi sang các thị trường nước ngoài, nghiên cứu thị trường, phát triển và chỉnh lý sản phẩm cho thích ứng v.v... Tất cả những chi phí này phát sinh bất chấp khối lượng bán là bao nihêu và ở mức độ nào đó nó phát sinh trước cả khi tiến hành xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng vẫn phải được bù đắp và do đó phải được gộp vào giá bán của nhà xuất khẩu. - Chi phí Marketing xuất khẩu: Các chi phí cho quảng cáo, khuếch trương xuất khẩu và các hoạt động hỗ trợ marketing khác trên thị trường nước ngoài cũng sẽ phát sinh. Người xuất khẩu sẽ phải gánh hoàn toàn các chi phí này, hoặc chúng được phân bổ một phần cho nhà phân phối hoặc người mua nước ngoài. Trong việc xác định giá thị trường, điều quan trọng là phải đi ngược lại từ mức giá mà sản phẩm được bán đến người sử dụng cuối cùng. Đối với các mặt hàng tiêu dùng, đó là giá bán lẻ. Đối với hàng công nghiệp, đó là giá bán cho người sử dụng. Chúng ta gọi đó là giá cơ sở bởi hai lý do: thông thường đó là mức giá mà nhà xuất khẩu dễ dàng nắm vững nhất. Đó cũng là xuất phát điểm để nhà xuất khẩu tìm hiểu khoản chênh lệch đảm bảo buôn bán, mức chiết khấu và giảm giá đi, ngược lại từ mức giá cơ sở, một cơ cấu giá sẽ hình thành và sẽ cho thấy nhiều khoản chênh lệch khác nhau (đối với người bán lẻ, người bán buôn, người nhập khẩu) và đó chính là điều giải thích cho mức chênh lệch giữa giá cơ sở với chi phí đã được thông qua và sau khi mọi khó khăn về thuế cũng như mọi chi phí khác đã được trả. Ba bước trên đây đã cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để quyết định một chính sách định giá và hình thành mức giá xuất khẩu. Điều này kéo theo những vấn đề cần cân nhắc kỹ sau đây: - Việc định giá có nên được sử dụng như một công cụ thúc đẩy tích cực bằng cách cho hưởn các khoản chiết khấu và bớt giá, giảm giá hoặc "... giá đặc biệt" hay không? - Giá cả có nên được duy trì ổn định và thống nhất và việc bán sản phẩm có nên được khuyến khích thông qua quảng cáo và bán qua tư nhân, hay không? - Giá cả có nên thấp hơn, cao hơn, hay bằng với giá của đối thủ cạnh tranh trực tiếp, hay không? Sự khác nhau giữa việc ấn định giá với việc chuẩn bị các hãng chào giá và chào hàng đối với khách hàng nước ngoài cũng rất quan trọng. Các điều kiện bán hàng và thanh toán thường quyết định các khoản chi phí nào sẽ do nhà xuất khẩu chịu (và do đó phải được tính vào giá) và các khoản chi phí nào khác sẽ do người mua chịu. Cũng như vậy, các điều khoản bán hàng và điều kiện thanh toán bản thân chúng độc lập với mức giá, là một nhân tố quan trọng đến quyết định mua của khách hàng. Nhà xuất khẩu do đó sẽ phải đi đến quyết định những vấn đề sau: - Các điều kiện bán hàng là những điều kiện gì Nhà xuất khẩu có thể báo giá "giao tại nhà máy", tức là trong trường hợp này mọi chi phí và rủi ro từ điểm đó trở đi sẽ do người mua chịu. Điều đó có vẻ như có lợi cho nhà xuất khẩu, nhưng rất ít người mua có khả năng mua theo những điều kiện này. Ngược lại, nhà xuất khẩu có thể chào giá "CIF" tức là người bán sẽ chịu toàn bộ các chi phí và rủi ro cho đến khi hàng tới nơi nhận. Điều kiện thanh toán như thế nào? Khả năng của nhà xuất khẩu bán sản phẩm ra nước ngoài cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi điều kiện thanh toán mà nhà xuất khẩu có thể đề nghị với khách hàng. Nhà xuất khẩu sẽ tăng được mức bán hàng, nếu thay vì đòi trả trước bằng tiền mặt, nhà xuất khẩu có thể chào giá theo điều kiện tín dụng. Tuy nhiên, ngược lại với điều này, nhà xuất khẩu cũng sẽ phải cân nhắc đến thực tế là các điều kiện tín dụng cho người mua nước ngoài làm tăng thêm chi phí của xuất nhập khẩu còn tất nhiên, tăng thêm rủi ro trong kinh doanh. - Các điều kiện buôn bán chung Giống như các điều kiện bán hàng và điều kiện thanh toán, các điều kiện buôn bán chung này thường được thương lượng giữa nhà xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. Những điểm quan trọng cần phải thảo luận là: các quy cách phẩm chất của sản phẩm và quy cách đóng gói xuất hàng, xử lý hàng bị trả lại hoặc hàng bị hư hỏng, các khoản giảm giá đặc bịt cho người mua do thực hiện việc quảng cáo và xúc tiến bán hàng, sự khác biệt trong giới hạn cho phép về trọng lượng hay chất lượng, phương pháp tính toán. 2.5. Giao dịch - đàm phán - ký kết hợp đồng xuất khẩu 2.5.1. Các hình thức giao dịch Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có những đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Việc lựa chọn phương thức giao dịch căn cứ vào hàng xuất nhập khẩu, bạn hàng xuất nhập khẩu, thời gian hoạt động xuất nhập khẩu, quy mô xuất nhập khẩu, năng lực của bản thân doanh nghiệp. Thông thường có các hình thức giao dịch sau: ã Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư từ là "sứ giả" của mình đến với khách. Bởi vậy, cách viết thư, gửi thư cần đặc biệt chú ý. Những nhà kinh doanh khi giao dịch phải đảm bảo các điều kiện lịch sử, chính xác, khẩn trương. ã Giao dịch qua điện thoại. Việc giao dịch qua điện thoại giúp nhà kinh doanh đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức đàm phán này chỉ nên dùng trong những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chu đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán . ã Giao dịch bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Là việc gặp gỡ giữa hai bên để trao đổi về các điều kiện buôn bán. Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này thường được dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích căn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn,phức tạp. 2.5.2. Đàm phán và nghệ thuật đàm phán Đàm phán trong kinh doanh bất kỳ một loại hình nào, đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi dến ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao... Chính vì vậy, đàm phán kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo. Xét trên góc độ hiệu quả kinh tế thì đàm phán cũng mang lại những ảnh hưởng nhất định. Trên cơ sở đàm phán mà những điều khoản về mua bán hàng hoá được thoả thuận. Xác định các thoả thuận đó chính là ký kết hợp đồng vì vậy kết quả của đàm phán ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh xuất khẩu được thực hiện sau này. Đồng thời đàm phán cũng có thể làm các chi phí phát sinh làm tăng chi phí chung, giảm lợi nhuận. Trình tự đàm phán bao gồm các bước: Bước 1: Chào giá (phát giá), đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Nếu việc mua bán xuất phát từ phía người mua (người nhập khẩu) thì có thể hỏi giá bằng đơn đặt hàng. Bước 2: Hoàn giá, khi người mua nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá. Thường thì giao dịch không kết thúc ngay từ lần chào hàng đầu tiên mà phải trải qua nhiều lần hoàn giá. Bước 3: chấp nhận, là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó thì tiến hành làm hợp đồng. Bước 4: Xác định. Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã được thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện xác nhận và có chữ ký của cả hai bên. 2.5.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Hợp đồng xác nhận trách nhiệm rõ ràng của bên mua và bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm. Trước khi ký kết bất kỳ một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu nào, nhà xuất khẩu cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây: Thứ nhất là, tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu, thể hiện: - Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi. - Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. - Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. - Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân thủ theo những thể thức nhất định. Thứ hai là nội dung các điều khoản của hợp đồng. Một hợp đồng mua bán ngoại thương thông thường gồm có các điều khoản như sau: - Tên hàng (commodity) Cần kiểm tra xem tên hàng được ghi trong điều khoản này đã đủ để mô tả chính xác hàng hoá, phù hợp với đối tượng của hợp đồng hay chưa? - Điều kiện phẩm chất (quality) Điều khoản này cho biết các đặc trưng chính của hàng hoá bao gồm: Tính năng, quy cách, kích thước, chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, mùi vị... Trước khi ký kết, nhà xuất khẩu cần xem xét rõ những nội dung ghi ở điểm này đã đúng với thoả thuận đàm phán hay chưa, đồng thời xem xét phương pháp xác định phẩm chất có hợp lý, rõ ràng không? - Điều kiện về số lượng (Quality) Điều kiện này nói lên số lượng của hàng hoá giao dịch. Nhà xuất khẩu cần chú ý đến tính chính xác và đơn vị tính số lượng được ghi trong hợp đồng. Đơn vị được dùng trong mua bán ngoại thương thường theo những tiêu chuẩn quốc tế, có nhiều điểm khác với đơn vị tính toán trong nước. Vì vậy, cần thiết phải ghi rõ tính xác định của đơn vị là thuộc loại tiêu chuẩn gì. - Điều khoản giao hàng (Shipment/Delivery). Trong điều khoản này, cần lưu ý các nội dung sau: + Thời điểm giao hàng: là thời hạn giao hàng có định kỳ, thời hạn giao hàng không có định kỳ hay thời hạn giao hàng ngay. + Địa điểm giao hàng: phải tương ứng với điều kiện cơ sở giao hàng. + Phương thức giao hàng: Qui định về giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao nhận số lượng hay giao nhận chất lượng. + Thông báo giao hàng. + Một số qui định khác đối với việc giao hàng như: hàng có khối lượng lớn, trường hợp hàng cần thay đổi phương tiện vận chuyển, hàng hoá đến trước giấy tờ. - Điều khoản giá cả. Cần lưu ý các điểm sau đây: + Đồng tiền tính giá, phương pháp định giá. Phương pháp xác định, giá có thể thay đổi theo các cách như: giá xác định hay giá cố định, giá qui định sau hay giá có thể xem xét lại, giá di động hay giá trượt... Mỗi phương pháp xác định giá sẽ có các mức giá khác nhau. + Giảm giá: Cần qui định rõ ràng giá được xác định trong những trường hợp? Tỷ lệ phần trăm của mỗi lần giảm giá là bao nhiêu. - Điều kiện cơ sở giao hàng: Đây là một điều khoản phức tạp và quan trọng, có liên quan trực tiếp đến giá cả. việc xem xét tạo điều kiện cơ sở giao hàng có đúng như đàm phán hay không sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng sau này, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra. - Điều khoản thanh toán (Settement payment) Thanh toán là vấn đề quan trọng, trong hợp đồng mua bán ngoại thương, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi cũng như mục đích của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Điều ._.cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội vừa là điều kiện, vừa là giải pháp không thể thiếu được của việc khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu ở nước ta hiện nay. Thực trạng của kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội ở nước ta còn rất thấp kém. Do vậy, nếu thiếu hoặc đầu tư không tương xứng thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường, đến khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn có hạn, cần phải sử dụng tổng hợp sức mạnh trong nước và quốc tế thông qua nhiều hình thức liên doanh liên kết khác nhau để nâng cấp, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và phục vụ các nhu cầu khác của dân cư và thay đổi bộ mặt đất nước. II/ Các phương hướng và biện pháp phát triển xuất khẩu ở Công ty SIMEX. 1. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới. Trên cơ sở những kết quả hoạt động kinh doanh đã đạt được trong những năm qua. Xuất phát từ thực trạng tổ chức của Công ty cũng như bối cảnh chung của đất nước và thế giới. Căn cứ vào Nghị định 28/CP ngày 07.05.2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần. Căn cứ Thông tư 50-TC/TCDN ngày 30/08/2000 của Bộ Tài chính về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo Nghị định 28/CP ngày 07.05.2000 của Chính Phủ. Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội đã chủ trương tiến hành chuyển đổi từ Doanh nghiệp nhà nước sang Công ty cổ phần. Đây là chủ trương lớn phù hợp với tình hình chung của xã hội và cũng phù hợp với mục tiêu đổi mới và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chuyển sang hình thức Công ty cổ phần hóa, ngoài chức năng kinh doanh xuất khẩu tổng hợp, Công ty sẽ mở rộng thêm lĩnh vực kinh doanh xây dựng dân dụng, công nghiệp địa ốc và tổ chức các cơ sở gia công chế biến hàng xuất khẩu. Mục tiêu về hoạt động kinh doanh của Công ty trong ba năm 2002, 2003, 2004 được thể hiện bằng các chỉ tiêu cho ở bảng sau: Bảng: Chỉ tiêu kinh tế (2002 - 2004) Chỉ tiêu năm Đơn vị tính Năm 2002 2003 2004 1. Vốn điều lệ 1000đ 12.000.000 12.000.000 12.000.000 2. Doanh thu 610.000.000 670.000.000 732.000.000 3. Tổng chi phí 605.981.000 665.572.000 727.098.000 4. Lợi nhuận trước thuế 4.019.000 4.428.000 4.902.000 5. Lợi nhuận sau thuế 3.115.000 3.432.000 2.696.000 6. Nộp NSNN 26.762.000 28.673.000 31.556.000 7. Tỷ suất lợi nhuận/vốn điều lệ % 25,96 28,6 19,09 8. Tỷ suất lợi nhuận/cổ phần % 22,06 20,30 17,62 9. Lao động Người 38 38 38 Để đạt được những mục tiêu trên, Công ty SIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả xuất khẩu cao, Công ty xác định phương hướng phát triển xuất khẩu sau: * Củng cố và phát triển thị trường tiêu thụ. Tăng cường các mối quan hệ hợp tác với bạn hàng, tạo lập uy tín trong kinh doanh xuất khẩu. *Nâng cao hiệu quả nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế. Cải biến cơ cấu hàng hoá theo hướng tiên tiến. *Nâng cao hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đặc biệt là nghiệp vụ giao dịch và đàm phán, tạo nguồn hàng, ký kết và thực hiện hợp đồng. Mục tiêu xuất khẩu năm 2002 phải đạt được chỉ tiêu kế hoạch sau: - Doanh số bán: 42,6 triệu USD. - Giá vốn hàng bán: 42,0 triệu USD. - Lãi gộp: 0,6 triệu USD. 2. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới. 2.1. Hoạt động thị trường. Có thể nói, đối với một doanh nghiệp kinh tế xuất nhập khẩu thì hoạt động thị trường là nhân tố hết sức quan trọng quyết định kế quả kinh doanh. Đặc biệt, trong thị trường đầy tính cạnh tranh hiện nay hoạt động đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có phương án và kế hoạch hết sức rõ ràng, nhất quán. Bước sang năm 2002 và các năm tiếp theo, hoạt động thị trường của Công ty SIMEX phải đảm bảo đạt được mục tiêu là củng cố và tăng cường mối quan hệ kinh tế với các thị trường truyền thống, tìm hiểu và xâm nhập vào các thị trường mới có nhiều tiềm năng nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hơn nữa. Để tăng cường và mở rộng thị trường tiêu thụ, Công ty SIMEX cần xúc tiến các hoạt động tiếp thị, giao tiếp với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Công ty cần đặc biệt quan tâm đến các buổi hội chợ triển lãm, các hội nghị kinh tế và cần thiết gửi cán bộ trực tiếp ra nước ngoài để nghiên cứu và lựa chọn thị trường. Để thành công trong công tác nghiên cứu thị trường, Công ty cần chú ý vấn đề sau: + Phân loại thị trường nhằm hiểu biết quy luật hoạt động của từng thị trường trên các mặt: loại sản phẩm họ có và họ đang cần, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lượng, bao bì, mẫu mã, dung lượng của thị trường, điều kiện chính trị, thương mại, tập quán buôn bán, hệ thống pháp luật... Mục tiêu của việc phân loại để nắm rõ thị trường và có kế hoạch giới thiệu sản phẩm thông qua chào hàng. + "Gạn lọc sơ bộ" những thị trường không thích hợp. Đó là các thị trường có chế độ bảo hộ mậu dịch quá khắt khe, yêu cầu quá cao đối với chất lượng sản phẩm, thị trường quá xa chi phí xuất khẩu cao. Theo như điều kiện kinh doanh và mặt hàng của Công ty, trong những năm trước mắt, Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau: - Thị trường ASEAN và Đông Bắc á. Đây là thị trường chính của Công ty, tiêu thụ hơn 80% kim ngạch xuất khẩu. Công ty đã có mối quan hệ lâu dài với các bạn hàng ở các nước này. Trong những năm tới, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên các bạn có thể gặp nhiều khó khăn, vì vậy phương châm kinh doanh là tiếp tục củng cố và duy trì các mối quan hệ truyền thống này. - Thị trường Trung Quốc. Đây là thị trường gần gũi của Công ty. Tuy vậy kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này chưa lớn và cũng chưa ổn định, giá cả ở thị trường này biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng uy tín các bạn hàng không được đảm bảo. Vì thế, phương châm kinh doanh ở thị trường này nên thực hiện theo kiểu cuốn gói, trong đó vấn đề đảm bảo an toàn thanh toán cho Công ty phải được xem xét thật thận trọng. - Thị trường EU. Đây là thị trường mạnh, dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Nhìn chung quan điểm của thị trường này khá cởi mở, thông thoáng. Trong những năm qua, quan hệ giữa Công ty và thị trường này đã có những bước tiến tích cực. Mặt khác, do cuộc khủng hoảng kinh tế đang nổ ra ở Châu á nên Công ty cần tìm cách chuyển hướng sang khai thác thị trường này. Vấn đề quan trọng nhất ở thị trường này là Công ty phải đảm bảo được uy tín về chất lượng hàng hoá, các yêu cầu về kỹ thuật. - Thị trường Mỹ: Sức tiêu thụ của thị trường Mỹ rất lớn và rất phong phú. Gần đây Công ty đã xâm nhập một phần vào thị trường này. Trong những năm tới, để phát triển thị trường này Công ty cần xúc tiến mạnh việc giới thiệu sản phẩm thông qua các hình thức khác nhau. Công ty nên cử người trực tiếp đến thị trường này tìm hiểu để có các phương án kinh doanh phù hợp. 2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng. Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của hoạt động xuất khẩu là công tác tạo nguồn hàng. Việc tạo nguồn hàng tốt với chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh sẽ cho phép Công ty thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuận tiện, đảm bảo uy tín đối với khách hàng. Trong thu mua hàng hoá, vấn đề lựa chọn nguồn hàng đối với Công ty được coi trọng nhất, bởi vì qua đây nó đáp ứng được những yêu cầu về hàng hoá, cách thức mua của Công ty. Để lựa chọn nguồn hàng phù hợp, Công ty cần căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình, tình hình thị trường, yêu cầu của khách hàng. Trong những năm tới, Công ty chủ yếu khai thác ba nguồn hàng chính: - Nguồn hàng thu mua qua các đại lý. - Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở sản xuất chế biến. - Nguồn hàng liên doanh, liên kết. Nguồn hàng thu mua qua các đại lý có đặc điểm là cơ động, phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng với lô hàng nhỏ. Nguồn hàng này thường được đảm bảo về số lượng, thời hạn giao hàng, giá cả tương đối rẻ. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa thường biến động thất thường. Nguồn hàng ở các Công ty, cơ sở sản xuất, chế biến có đặc điểm là đảm bảo cả về số lượng, chất lượng. Tuy nhiên giá cả thị trường cao hơn các nguồn hàng đại lý và việc ký kết hợp đồng mua hàng thường gắn với nhiều điều kiện do phía nguồn hàng đưa ra vì thế nó chỉ phù hợp với những hợp đồng có khối lượng lớn, thời hạn giao hàng dài. Nguồn hàng liên doanh, liên kết có nhiều thuận lợi hơn cả. Do Công ty chủ động đầu tư nên nó vừa đảm bảo cả khối lượng, chất lượng, bao bì, mẫu mã lẫn giá cả, thời hạn giao hàng. Nhằm tạo điều kiện cho Công ty chủ động có được các nguồn hàng đảm bảo về số lượng, chất lượng mẫu mã, tăng cường khai thác các nguồn hàng có tỷ lệ chế biến cao, hạ thấp hàng chế biến thô, Công ty cần có chính sách đầu tư liên doanh, liên kết với các đơn vị, cơ sở sản xuất chế biến một cách thoả đáng. Để nâng cao công tác tạo nguồn hàng, Công ty cần chú trọng mấy vấn đề sau: - Lựa chọn các nguồn hàng hợp lý, có khả năng về tài chính và năng lực sản xuất, đảm bảo uy tín thực hiện đầy đủ hợp đồng mua hàng đã được ký kết. - Thiết lập mạng lưới thu mua hàng cơ động, thuận tiện. Bố trí các kho hàng hợp lý. - Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua, đặc biệt cần bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, thiết bị kiểm nghiệm hàng hoá. - Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa. Muốn vậy cần nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ thu mua, nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho người thu mua hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.3. Các biện pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. So với quy mô hoạt động cũng như vị thế của một Công ty xuất nhập khẩu, nguồn vốn của SIMEX còn rất nhỏ bé, thiếu thốn. Hiện tại, nguồn vốn hoạt động của Công ty dựa vào các nguồn chủ yếu: vốn tự có, vốn ngân sách cấp, vốn liên doanh liên kết và vốn vay. Nhằm để tăng cường nguồn vốn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quy mô hoạt động, Công ty SIMEX đã chủ trương và lập phương án thực hiện cổ phần hoá. Dự tính sau khi cổ phần, Công ty sẽ thu hút hơn 5 tỷ đồng từ các cổ đông. * Công ty cổ phần là mô hình mà nguồn vốn của công ty thuộc sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Công ty cổ phần được coi là hình thức kinh doanh hữu hiệu nhằm huy động một cách nhanh chóng số lượng lớn về vốn nhàn rỗi trong dân cư, các đơn vị, tổ chức xã hội... để tiến hành kinh doanh với quy mô lớn và đạt hiệu quả cao. Mô hình này đang được tiến hành tại một số doanh nghiệp Nhà nước. * Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội đã hội đủ các điều kiện để thực hiện cổ phần hoá theo quy định của Nghị định 28/CP (7/5/2000) đó là: - Là doanh nghiệp có quy mô loại vừa, có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp tổng hợp, không thuộc loại doanh nghiệp Nhà nước phải đầu tư và nắm giữ 100% vốn. - Từ năm 1996 đến nay, Công ty kinh doanh có lãi, đặc biệt từ năm 1998 đến nay mức lãi mỗi năm tăng cao. - Mức thu nhập bình quân của CBCNV hiện nay đạt trung bình khá, đủ đảm bảo cuộc sống và khi chuyển sang Công ty cổ phần với việc thay đổi cơ chế quản lý tự chủ hơn, có hiệu quả hơn, chắc chắc mức thu nhập sẽ tăng cao. - Công nhân viên Công ty đã nhận thức được đúng đắn chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước và có thái độ ungr hộ việc cổ phần hóa tại doanh nghiệp. Như vậy, cổ phần hóa là một kế hoạch lớn thông qua đó sẽ thu hút thêm được rất nhiều nguồn vốn, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công việc. Bên cạnh việc cổ phần hóa, Công ty cần tận dụng việc khai thác đa dạng hóa các nguồn vốn thông qua các hình thức sau. - Đẩy mạnh liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất, chế biến có tiềm lực tài chính. - Quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tín dụng, tận dụng các điều kiện vay với lãi suất ưu đãi của các tổ chức này. - Thực hiện việc mua chịu hoặc các biện pháp giãn thời hạn thanh toán đối với các khoản nợ đến hạn của Công ty. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, Công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán đúng thời hạn, tránh để tình trạng bị chiếm dụng vốn. - Phân bố cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh. Đảm bảo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và cố định là 8:2 ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn - Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hóa 8:2, tức là 80 phần trăm doanh thu là từ 20% mặt hàng. - Có các biện pháp giảm các chi phí bất hợp lý, đặc biệt là chi phí giao dịch, đi lại hiện vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn. - Tranh thủ các điều kiện tín dụng mà phía bán hàng dành cho Công ty như các hợp đồng có trả trước bằng tiền mặt, thúc đẩy thực hiện các hợp đồng gia công. 2.4- Về tổ chức bộ máy kinh doanh. * Nhìn chung, cơ cấu bố trí lao động của công ty như hiện nay là khá hợp lý, đảm bảo linh hoạt và hiệu quả cao trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong những năm tới Công ty cần tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết, mối quan hệ giữa các phòng ban, giữa cán bộ quản lý với cán sự trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. * Hiện tại, Công ty có 39 cán bộ trong đó chỉ có 10 cán bộ có trình độ đại học. Như vậy đa số các cán bộ khác đều chưa có bằng cấp hay bằng cấp thấp. Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy tốt, linh hoạt, phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ được những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng, thư chào hàng... Để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức: - Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo. - Mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày - Tạo điều kiện cho cán bộ đi tham quan ở nước ngoài. * Trong các năm tới, dự đoán quy mô hoạt động của Công ty sẽ tăng lên, do đó có thể có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Đây là điều kiện quan trọng giúp Công ty bổ sung thêm được cán bộ có trình độ cao. Công ty cần có kế hoạch tuyển dụng hợp lý, việc tuyển dụng lao động lao động phải thật trong sáng, vô tư và phải dựa vào các điều kiện: là người có bằng cấp, có sức khoẻ, kinh nghiệm đặc biệt là có trình độ thực sự trong kinh doanh. * Để nâng cao chất lượng hoạt động, tạo động lực và sự nhiệt tình cho người lao động, Công ty phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của cán bộ công nhân viên. Thực hiện thưởng phạt nghiêm minh, phân phối công bằng. Tạo ra bầu không khí vui vẻ, chân tình giữa các cán bộ. 2.5- Thực hiện tốt quá trình hạch toán nghiệp vụ. Trong thời gian tới, Công ty cần chấn chỉnh lại một số vấn đề trong quá trình hạch toán như sau: * Đối với nguồn cung ứng: Công ty cần tăng cường hạch toán chặt chẽ để làm rõ các loại chi phí phát sinh, khả năng lợi nhuận thu được. Qua quá trình hạch toán này cho phép Công ty quyết định dứt khoát ở các hợp đồng kinh tế tiếp theo sau nhằm tăng giảm hay ngừng hẳn thu mua ở các nguồn hàng này do thực hiện không đúng cam kết như giao hàng chậm, giao không đúng khối lượng, chủng loại, hàng có nhiều khuyết tật, kém phẩm chất đã từng bị khách hàng nhập khẩu khiếu nại, hoặc khả năng tài chính yếu. * Thông qua hạch toán nghiệp vụ trong quan hệ của Công ty với bạn hàng nước ngoài ở nhiều giai đoạn thực hiện hợp đồng cho phép Công ty phát hiện những sai sót, kịp thời điều chỉnh linh hoạt nhằm nâng cao uy tín với khách hàng. * ở giai đoạn tổng kết quá trình, Công ty cần thực hiện nghiêm túc hơn nữa việc kiểm điểm thực hiện hợp đồng của bạn hàng nước ngoài. Thông qua công tác này cho phép Công ty đánh giá được bạn hàng, thị trường tiêu thụ và từ đó rút ra nhận định chiến lược liệu có nên tiếp tục quan hệ với thị trường đó không. Cần có những điều chỉnh gì về khối lượng, chất lượng, mẫu mã, bao bì hàng hóa, cách thức tiến hành giao dịch như thế nào? Nhằm nâng cao chất lượng của quá trình hạch toán, Công ty thường xuyên đôn đốc, kiểm tra công việc này ở từng bộ phận có trách nhiệm, đồng thời bố trí hợp lý những người có trình độ chuyên môn thực hiện ghi chép đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ, báo cáo kịp thời những thay đổi bất thường lên ban giám đốc hoặc trưởng phòng kinh doanh để đưa ra các phương án đối phó kịp thời. III/ Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu ở Công ty . 1. Công tác đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng. Công tác này rất quan trọng nên cán bộ thực hiện đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ giỏi, nhất là yêu cầu về ngoại ngữ. Trước khi đàm phán, Công ty phải chuẩn bị đầy đủ các chi tiết có liên quan đến hợp đồng để trả lời những câu hỏi của khách hàng một cách rõ ràng. Mặt khác, phải hiểu rõ về khách hàng để tranh thủ những mặt yếu của họ, từ đó đề ra những quyết định đúng đắn và thích hợp. Trong quá trình ký kết hợp đồng còn quy định nhiều loại chứng từ kèm theo, các loại chứng từ này thường là kết quả xác nhận các bước thực hiện của hợp đồng nên rất có ý nghĩa trong việc thanh toán, giải quyết các loại tranh chấp, khiếu nại... Công ty phải thận trọng đối với từng loại chứng từ, trong ghi chép yêu cầu phải rõ ràng, không tẩy xóa. Trong quá trình ký kết các hợp đồng xuất khẩu của Công ty, điều kiện giao hàng thường áp dụng hình thức FOB, tức là hàng giao tại cảng Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, xuất khẩu theo hình thức này tránh cho người bán khỏi những rủi ro về hàng hóa không được đảm bảo trong khi vận chuyển. Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như: Công ty không chủ động, giá xuất bán hàng không cao nếu không muốn nói là thấp. Công ty không tham gia vào được các tổ chức bảo hiểm quốc tế nên lợi nhuận thu được thấp. Thời gian tới Công ty nên xem xét xuất theo hai hình thức: Với khách hàng ở thị trường xa như ở Châu Âu, châu Mỹ thì cần tiếp tục xuất theo hình thức FOB. Còn đối với các bạn hàng ở thị trường gần trong khu vực châu á thì Công ty nên xuất theo điều kiện CIF. Ngoài ra trong nội dung hợp đồng, Công ty cần chọn phương pháp thanh toán nào an toàn nhất, đảm bảo cho Công ty thu về đủ số tiền đúng thời hạn. Tốt nhất là nên lực chọn hình thức L/C không thể hiện ngang có xác nhận bảo lãnh của Ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó, Công ty xem xét các hình thức thuê tàu và cước phí vận chuyển nếu xuất theo CIF, thời gian giao hàng... Cần dự đoán trước những nhu cầu thị trường và xác định chính xác thời điểm ký kết hợp đồng có lợi nhất, chẳng hạn như khi mặt hàng giá quốc tế lên cao hoặc tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ tăng thì nên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu. Các điều kiện của hợp đồng nên quy định ngắn gọn, chặt chẽ và dễ hiểu. 2. Một số vấn đề trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu * Khâu chuẩn bị hàng hóa cần được thực hiện chu đáo và nhanh chóng hơn. Công ty cần biết chính xác ngày giao hàng ra cảng và ngày tàu vào nhận hàng để bến có hàng kịp thời. * Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện vận tải, đội ngũ cán bộ vận chuyển để thực hiện chuyển hàng hóa từ kho ra cảng một cách kịp thời. * Thực hiện phân loại rủi ro thị trường, bạn hàng.. để thực hiện mua các loại bảo hiểm phù hợp theo quy định như trong hợp đồng. * Luôn luôn rà soát lại các nghiệp vụ xuất khẩu, phát hiện và có biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót có thể xảy ra. * Chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết để tạo điều kiện làm nhanh thủ tục hải quan. Thực hiện bốc hàng lên tàu an toàn, kịp thời, lấy đầy đủ các chứng từ như trong L/C quy định. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhất thiết phải tạo điều kiện cho phía bạn hàng nhận hàng thuận tiện, an toàn, đúng như hợp đồng ký kết. Việc đảm bảo uy tín với khách hàng là vấn đề then chốt của quá trình xuất khẩu nhằm duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ kinh doanh lâu dài. 3. Một số biện pháp giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Công ty thường gặp những rủi ro nhất định như: bạn hàng không đủ khả năng thanh toán, hoặc việc thanh toán chậm, hàng trong quá trình xuất khẩu bị mất mát, hư hại, việc chuẩn bị các loại chứng từ cũng có thể thiếu sót... Những điều này có thể dẫn đến các tranh chấp, khiếu nại đáng tiếc. Vậy thì, Công ty cần làm gì để tránh được hoặc ít nhất là hạn chế những rủi ro xẩy ra? Có thể giải quyết điều này theo các cách thức sau: * Tránh toàn bộ rủi ro: Công ty có thể quyết định không bán ở thị trường sẽ có nhiều rủi ro, không chấp nhận đơn hàng của khách hàng, có nhiều nghi hoặc về khâu tín dụng, khong bán sản phẩm đối với những nước có nhiều luật lệ quá nghiêm ngặt đối với độ tin cậy của sản phẩm Công ty. * Những biện pháp hạn chế rủi ro: Có nhiều biện pháp để hạn chế những rủi ro về xuất khẩu xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ: bán hàng theo hình thức thư tín dụng đã được xác nhận và không thể huỷ ngang hơn là hình thức "thanh toán bằng tiền mặt khi nhìn thấy chứng từ" thì phải bao gồm cả điều khoản điều chỉnh giá trong hợp đồng giao hạn kỳ hạn, cải tiến chất lượng sản phẩm và giám sát chất lượng phải được đảm bảo tốt hơn trước những lời phàn nàn về độ tin cậy đối với sản phẩm đó. * Chia xẻ rủi ro: Nếu vận chuyển tất cả những quả trứng vào một cái giỏ sẽ là điều nguy hiểm có thể tránh được bằng cách: - Đảm bảo hàng xuất khẩu của Công ty không phải tập trung tất cả vào một thị trường mà mỗi sản phẩm vào mỗi kênh phân phối. - Luôn luôn tìm kiếm những thị trường mới và tìm cách đưa ra những sản phẩm mới. Phải thấy trước được những điểm mạnh của nhiều kênh phân phối khác nhau ở mỗi thị trường * Chuyển giao rủi ro: Mục đích nhằm chuyển bớt một số rủi ro nhất định nào đó sang người khác, thường là khách hàng. Ví dụ: - Nên bán theo điều kiện FOB hơn là CIF, như vậy tất cả rủi ro trong quá trình vận chuyển là do khách hàng gánh chịu. - Rút ngắn thời gian bảo hành đối với các mặt hàng bán ở nước ngoài. * Giải quyết rủi ro qua bảo hiểm: - Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: chịu trách nhiệm về những rủi ro có tính thương mại hoặc chính trị của hàng hoá theo hình thức cấp tín dụng xuất khẩu. - Bảo hiểm về độ tin cậy: Bảo hiểm trong trường hợp có sự kiện cáo về độ tin cậy của mặt hàng đến người sản xuất. Có hai nguyên tắc cơ bản để xử lý rủi ro trong công tác xuất khẩu: - Trước hết, khai thác tất cả những khả năng có thể giảm bớt được hoặc tránh nguy hiểm bằng cách tránh rủi ro, hạn chế rủi ro, san xẻ hoặc chuyển rủi ro sang chỗ khác. - Nếu rủi ro đã xảy ra rồi thì cố gắng đến mức tối đa thực hiện những bảo hiểm có thể được. Đối với những rủi ro lớn, nhất thiết phải có bảo hiểm thì tốt nhất nên có những lời mời chào của nhiều nhà bảo hiểm và phaỉ có sự so sánh thận trọng để chọn được những lời chào hàng tối ưu nhất. Kết luận Hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường diễn ra hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Trong khi đó, môi trường kinh doanh lại luôn luôn biến đổi và có nhiều bất cập. Chính vì vậy, kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi nhà thương mại phải luôn luôn tìm tòi, đổi mới và sáng tạo để đạt được cái đích là lợi nhuận. Qua quá trình thực tập tại Công ty SIMEX, xuất phát từ bối cảnh trong và ngoài Công ty, tác giả đã trình bày hoạt động xuất khẩu của Công ty từ những cái chung nhất và nổi bật nhất, đồng thời cố gắng tiếp cận tính tối đa toàn diện. Những nội dung đã được đề tài làm rõ bao gồm: 1. Các hoạt động nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty. 2. Đánh giá kết quả xuất khẩu ở Công ty. 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Công ty SIMEX. Trong quá trình nghiên cứu viết chuyên đề tốt nghiệp, tôi được sự giúp đỡ tận tình của các phòng ban Công ty SIMEX, đặc biệt là giám đốc Công ty SIMEX - Đỗ Xuân Thuý. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. "Kinh tế thương mại dịch vụ" - NXB Thống Kê, Hà Nội 2001. 2. "Giáo trình thương mại quốc tế" - NXB Thống Kế, Hà nội 2000. 3. "Báo cáo kiểm toán của Công ty SIMEX" - Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học 2001. 4. "Tài liệu cổ phần hoá của Công ty SIMEX" - 2001. 5. "Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 1999, 2000, 2001 Công ty SIMEX". 6. "Các tài liệu kế toán của Công ty SIMEX từ 1996 đến 2001". 7. Tình hình kinh tế xã hội năm 2001" - Tổng cục thống kê, số 38/TCTK - TH. 8. "Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 2001" - Bộ Thương mại. 9. "Báo cáo tình hình hoạt động xuất nhập khẩu năm 2002 của Thành phố Hà nội" - Sở Thương mại Hà Nội, tháng 2/2002. 10. "Kinh tế 2001 - 2002 Việt Nam và thế giới" - Thời báo kinh tế Việt Nam, số 23 - 24. 11. "Giáo trình kinh tế học quốc tế " - NXB Thống kế, Hà nội 1999. 12. "Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế" - Trung tâm kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, NXB Thống Kê 1998. 13. "Giáo trình kinh tế ngoại thương" - Đại học Ngoại thương, NXB giáo dục - Hà Nội 1998. 14. Võ Thanh Thu "Kinh tế đối ngoại" - NXB Thống Kê 1998. 15. Võ Thanh Thu, Đoàn Thị Hồng Vân "Hướng dẫn thực hành xuất nhập khẩu tại Việt Nam" - NXB Thống kê tháng 6 - 1998. 16. Vũ Phạm Quyết Thắng "Kinh tế đối ngoại Việt Nam - nội dung - giải pháp - hiệu quả" NXB Thống kê 1998. 17. G.A Schomll "Cẩm nang nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu" - Trung tâm thông tin thương mại Việt Nam 1994. 18. Các nghị định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xuất nhập khẩu. 19. Các thông tư của các Bộ. 20. Hà Nguyễn "Thương mại quốc tế và kinh nghiệm phát triển ngoại thương" - NXB Thống kê 1998. 21. Các tạp chí thương mại từ 1994 - 2001. 22. Các thời báo kinh tế 2000, 2001, 2002. 23. Các bản tin nhanh 2001, 2002. 24. Các luận văn tốt nghiệp, khoá 34, 35. Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương I: Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. 3 I/ Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. 3 1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế. 3 2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân 8 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. 9 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. 9 2.3 Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. 10 2.4. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 10 2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 10 II/ Những hình thức và nội dung kinh doanh xuất khẩu chủ yếu. 12 1. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu chủ yếu. 12 1.1. Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. 13 1.2. Tái xuất, chuyển khẩu hàng hoá. 13 1.3. Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác xuất khẩu cho các tổ chức kinh tế đối ngoại. 14 1.4. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài. 15 2. Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. 15 2.1. Nghiên cứu thị trường thế giới. 15 2.2. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. 17 2.3. Lập phương án kinh doanh 19 2.4. Thu mua cung ứng hàng xuất khẩu. 19 2.5. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu. 25 2.6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 32 III/ Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá. 35 A. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp 35 1. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước. 35 1.1. Trạng thái của nền kinh tế trong nước. 36 1.2. Các chính sách và qui định của Nhà nước. 37 2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý. 38 3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới 38 B. Các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp 39 1. Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính. 39 2. Nhân tố về con người 39 3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. 39 4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. 40 Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá ở Công ty SIMEX thời gian qua. 41 I/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty. 41 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 41 2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của công ty. 43 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. 44 4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty. 46 4.1. Mặt hàng kinh doanh. 46 4.2. Địa bàn kinh doanh. 47 4.3. Phương thức kinh doanh. 48 44. Tài chính của công ty. 49 II/ Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua (1998-2001). 49 1. Vài nét về tình hình xuất khẩu ở nước ta. 49 1.1. Kim ngạch xuất khẩu. 49 1.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu. 50 1.3. Thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam 53 1.4. Những hạn chế khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam 55 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong thời gian qua. 56 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh. 56 2.2. Các hoạt động nghiệp vụ về xuất khẩu của Công ty. 62 III/ Tổng quát kết quả xuất khẩu của Công ty. 67 1. Tình hình kinh doanh xuất khẩu theo mặt hàng. 68 2. Tình hình kinh doanh xuất khẩu theo thị trường. 71 3. Phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Công ty. 74 IV/ Những thành tựu và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. 76 1. Những thành tựu. 76 2. Những tồn tại. 77 Chương III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu ở công ty SIMEX. 79 I/ Chính sách xuất khẩu hàng hoá ở nước ta. 79 1. Hệ thống quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương, đẩy mạnh xuất khẩu ở nước ta. 79 2. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 84 II/ Các biện pháp và phương hướng phát triển xuất khẩu ở Công ty. 88 1. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty trong thời gian tới. 88 2. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty. 90 2.1. Hoạt động thị trường. 90 2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng 91 2.3. Các biện pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 93 2.4. Về tổ chức bộ máy kinh doanh 94 2.5. Thực hiện tốt quá trình hạch toán nghiệp vụ. 95 III/ Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu ở Công ty. 96 1. Công tác đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng. 96 2. Một số vấn đề trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 97 3. Một số biện pháp giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu. Kết luận 100 Tài liệu tham khảo. 101 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0434.doc