Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội

Lời mở đầu Đường lối đổi mới do đảng ta khởi xướng bắt đầu từ đại hội đảng lần thứ VI, tiếp tục phát triển qua đại hội lần thứ VII , thứ VIII đã đi vài cuộc sống và đã tạo ra những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng khẳng định thành tựu có ý nghĩa hàng đầu của công cuộc đổi mới “nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng triền miên và bước vào thời kì tăng trưởng ổn định”. Thành tựu đạt được này có sự đóng góp không nhỏ của nghành đ

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện, bởi vì sản phẩm điện năngmang tính chất xã hội hoá cao đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất và đời sống đặc biệt là đối với sự nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nước ta , như Lê Ninđã nói “chủ nghĩa xã hội bằng chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành điện Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ VIII đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó “nhiệm vụ phát triển nguồn điện, cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu cầu cung cấp điện ổn định”. Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam kinh doanh một loại hàng hoá chiến lược là điện năng. Trong cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, điện năng chỉ được xem là một loại hàng hoá cung cấp theo các mức độ khác nhau, phục vụ cho nhu cầu toàn thể xã hội, vấn đề lỗ lãi không quan tâm chú trọng, chỉ tiêu chủ yếu của thời kỳ này là vận hành lưới điện an toàn. Khi có chủ trương đổi mới của Nhà nước, nhất là sau QĐ91/TTg của Thủ tướng chính phủ thì Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội đã bước sang một giai đoạn phát triển mới giai đoạn hạch toán kinh doanh độc lập thì công cuộc đổi mới thực sự diễn ra trong nghành điện nói chung và Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội nói riêng, các chỉ tiêu kinh doanh bán điện được đặt vào vị trí trọng tâm và được coi là nhiệm vụ sống còn của nghành điện trong giai đoạn mới. Cần khẳng định rằng việc đổi mới cơ chế quản lý trong 3 năm qua đã đưa lại nhiều chuyển biến quan trọng cho Công ty song vì tổn thời gian đổi mới chưa lâu nên trong hoạt động kinh doanh của Công ty còn có nhiều mặt yếu kém cần khắc phục. Trong đó vấn đề kinh doanh bán điện trong cơ chế thị trường chưa được hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn đã trở thành một điều bức súc cần phải nghiên cứu đổi mới cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của nước ta. Nghiên cứu việc đổi mới công tác kinh doanh bán điện góp phần củng cố nâng cao vị trí vai trò của nghành điện nói chung và Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội nói riêng trong cơ chế thị trường hiện nay. Mặt khác, nó tạo ra thế và lực đưa đất nước chuyển sang “thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trong thời gian thực tập tại phòng kinh doanh bán điện của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội, ý thức được những đặc thù của Công ty, nhận thức được những đòi hỏi bức thiết của cơ chế thị trường, của xã hội đối với nghành điện kết hợp với những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập ở trường em xin chọn đề tài: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội Trong phạm vi chuyên đề của mình em xin được trình bày những nội dung cơ bản sau: Phần I: Vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh bán điện trong nền kinh tế quốc dân I./ Đặc điểm mặt hàng điện và hoạt động kinh doanh bán điện. II./ Vai trò của điện năng trong nền kinh tế quốc dân. III./ Tầm quan trọng của kinh doanh bán điện đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh của Công ty. Phần II:Phân tích thực trạng của hoạt động kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. I./ Khái quát về Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. II./ Tổ chức công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. III./ Tình hình kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. IV./ Những thuận lợi và khó khăn trong việc hoàn thành các nhiệm vụ kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Phần III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. I./ Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. II./ Những biện pháp chủ yếu nhằm đổi mới công tác kinh doanh bán điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. Do thời gian và trình độ có hạn, nên mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chuyên đề không tránh khỏi nhwng thiếu sót nhất định, em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy, cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Phần I Vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh bán điện trong nền kinh tế quốc dân I./ Đặc điểm mặt hàng điện và hoạt động kinh doanh bán điện. 1./ Đặc điểm của mặt hàng điện năng Điện năng là một sản phẩm công nghiệp, nó là kết quả trực tiếp hữu ích của hoạt động sản xuất công nghiệp được biểu hiện dưới dạng vật chất là một năng lượng chính vì vậy điện năng có một số đặc trưng sau: ã Sản phẩm điện không được chia theo mức độ hoàn thành, không có sản phẩm dở dang mà chỉ được biểu hiện dưới một dạng duy nhất đó là thành phẩm. Sản phẩm điện chỉ coi là hoàn thành khi đã trải qua đủ các quy trình sản xuất. ã Quá trình sản xuất và tiêu thụ điện năng diễn ra đồng thời, nó đòi hỏi có sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng để tỷ lệ tổn thất là nhỏ nhất. Do đó, điện không được lưu trữ ở bất kỳ khâu nào, không thể cất vào kho đệm như các hàng hoá thông thường khác, không thể sử dụng các biện pháp đầu cơ tích trữ để thay đổi giá cả trên thị trường mà phải căn cứ vào chi phí sản xuất, nhu cầu sử dụng điện để điều chỉnh giá bán điện cho phù hợp, đảm bảo hết công suất và cân bằng thu, phát. ã Điện năng được phân phối từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ thông qua hệ thống dây tải điện, hệ thống các trạm biến áp cao thế, trung thế vầ hạ thế. Vì vậy, trong quá trình truyền tải điện luôn luôn có lượng điện năng bị hao hụt tự nhiên gọi là tổn thất điện năng. Tổn thất điện năng phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng có thể phân làm hai loại là: tổn thất do các yếu tố kỹ thuật và tổn thất do các nguyên nhân quản lý: Tổn thất kỹ thuật là do các yếu tố kỹ thuật gây ra như chất lượng dây dẫn, chất lượng máy biến áp, cường độ dòng điện, cấp độ điện áp. Tổn thất thương mại là do các nguyên nhân quản lý gây ra như việc quản lý không chặt chẽ dẫn tời tình trạng ăn cắp điện. Nói tóm lại, điện năng là một loại sản phẩm, một loại hàng hoá đặc biệt và thiết yếu của nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân dân nên hiện nay nó là sản phẩm độc quyền của nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý và phân phối. 2./ Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bán điện Như đã trình bày, điện năng là một dạng hàng hoá đặc biệt nên quy trình sản xuất kinh doanh cũng có những đặc điểm riêng khác biệt. Tính chất kinh doanh riêng biệt của nghành điện thể hiện trong dây truyền sản xuất: phát, truyền dẫn và sử dụng xảy ra đồng thời liên tục. Với một lưới điện rộng khắp, ngành điện thực hiện việc bán điện trực tiếp tới từng khách hàng sử dụng điện năng. Ngành điện phải hàng ngày, hàng giờ vừa đảm bảo cung ứng điện năng, vừa theo dõi quản lý, thu tiền từ sản phẩm của mình bán ra. Để phục vụ cho việc theo dõi và hạch toán, ngành điện tiến hành lắp đặt hệ thống công tơ đo đếm theo các ranh giới được phân cấp từ nhà máy tới các điện lực đặt tại các quận, huyện và sau đó đến từng khách hàng sử dụng điện. Cùng với quá trình trên, mỗi cấp quản lý còn phải tự hạch toán đầu vào và đầu ra giữa điện nhận đầu nguồn và điện năng phân phối hay điện năng thương phẩm. Hiện nay, chu kỳ kinh doanh điện năng diễn ra đều đặn hàng tháng theo thuộc tính khách hàng tiêu dùng trước, trả tiền sau. Tính chất liên tục của hoạt động kkinh doanh bán điện còn thể hiện ở chỗ các chu kỳ kinh doanh bán điện phân biệt với nhau một cách tương đối vì việc cung ứng và sử dụng điện năng không thể gián đoạn được, trong khi việc ghi chỉ số của chu kỳ sau đã bắt đầu thì việc thu tiền điện của chu kỳ trước vẫn đang tiếp tục, thêm vào đó chu kỳ của khu vực này có thể tính từ đầu tháng này đến đầu tháng sau thì ở khu vực khác lại có thể bắt đầu từ giữa hoặc cuối tháng và tương đương kết thúc vào giữa hay cuối thang sau. Từ đó ta thấy chu kỳ kinh doanh điện năng có tính liên tục và tính phân đoạn tương đối làm cho quá trình kinh doanh của ngành có những điểm khác biệt với các ngành khác. Bên cạnh đó là việc khách hàng sử dụng trước trả tiền sau cũng là đặc tính riêng của hoạt động kinh doanh bán điện. ở đây cần phân biệt việc kinh doanh bán điện của ngành điện với việc bán hàng trả chậm ở một số ngành kinh doanh khác, bởi dù có bán hàng trước trả tiền sau thì doanh nghiệp ở một số ngành kinh doanh nào đó vẫn xác định được doanh thu của mình từ khi xuất bán. Còn ở ngành điện thì phải sau khi khách hàng tiêu thụ một lượng điện năng nhất định thể hiện trên công tơ đo đếm điện năng thì ngành điện mới xác định được doanh thu của mình và từ đó mới tiến hành công tác thu tiền bán điện. II./ Vai trò của điện năng trong nền kinh tế quốc dân 1./ Điện năng đối với quá trình phát triển các ngành sản xuất vật chất. 1.1./ Vai trò của năng lượng trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế quốc dân năng lượng là một trong những yếu tố tối quan trọng để thúc đẩy sự tăng trư ởng của qáu trình kinh tế xã hội . Xết về mọi mặt, cả về tiêu dùng cũng như trong sản xuất , năng lượng là một yếu tố khong thể thiếu trong quá trình sản xuất cũng như các lĩnh vực xã hội khác. Mặt khác hầu hết các khả năng không thể tái sinh nên nó chịu tác động rất mạnh xủa quy luật khan hiếm các nguồn lực . Ngày nay , khi sự khan hiếm các nguồn lực trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu thì việc sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng đã trở thành một yếu tố hàng đầu của sự phát triển. Nước ta là một trong số các nước trên thế giới cố những tiềm năng dồi rào về năng lượng. Ta có thể kể đến như: than đá , than bùn , thuỷ năng, dầu khí năng lượng thuỷ triều , gió ... Sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn năng lượng đó không những có tác dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước mà còn là nguồn lực qưuan trọng để xuất khẩu năng lượng sau này. Trong giai đoạn hiện nay , để đáp ứng nhu cầu công nhiệp hoá, hiện dại hoá dất nước, hơn bao giờ hết ngành năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng phải có những bước phát triển vượt bậc trong cung ứng, phục vụ cũng như trong hoạt động kinh doanh , gópphần đưa nền kinh tế nước nhà phát triển kịp thời đại . 2.2/ Vai trò của điện năng trong hệ thống các ngành năng lượng , đặc biệt là tiềm năng điện lực Việt Nam . Trong các nguồn năng lượng thì điện năng đóng một vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với các nước đang tiến hành công nhiệp hoá. Bởi vì , công nhiệp hoá chỉ có thể thực hiện được dựa trên điện khí hoá. Loại “ nhiên liệu” này cung cấp cho đa số nhu cầu sản xuất cũng như trong tiêu dùng, ở nước ta điện năng lại có vai trò vô cùng quan trọng vì những lí do sau đây: Thứ nhất , do trìng độ phát triển kinh tế của ta còn thấp nên khả năngkhai thác các nguồn năng lượng khác như: năng lượng mặt trời , năng lưọng gió , năng lượng hạt nhân là một điều mà còn rất xa ta mới có thể đạt tới được , trong khi nền kinh tế đang phát triển ở nước ta lại có những đòi hỏi rất lớn về năng lượng. Thứ hai, trong các nguồn năng lượng được khai thác như dầu khí , than đá đang cạn dần và chất lượng có phần hạn chế thì điện năng với hai nguồn cung cấp chủ yếu là nhiệt điện và thuỷ điện , đặc biệt là thuỷ điện lại là một nguồn lực rất phong phú , mới được khai thác, sử dụng rất ít so với tiềm năng thực có. trong khi đó, nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện nay năng lượng diện qua các giải pháp kĩ thuật đã có thể tích luỹ được năng lượng đư thừa bằng cách tích điện vào ắc quy, hay chuyển từ điện năng thành thế năng thông qua việc sử dụng năng lượng dư thừa giờ thấp điểm , bơm nước vào các hồ chứa nước trên cao đẻ xả lại các tuốc bin giờ cao điểm . Thứ ba, và cũng là điều mà các nhà kinh tế thường quan tâm, đó là giá thành. Điện năng và đặc biệt là thuỷ điện có giá thành mà ít loại năng lượng phổ biến hiện nay có thể cạnh tranh được. Kể cả trong đầu tư ban đầu cũng như đầu tư trong khai thác đều tiết kiệm hơn các loại năng lượng khác. Bên cạnh đó , khai thác nguồn năng lượng thuỷ điện lại có tác dụng điều tiết và cải tạo khí hậu môi trường. Vì những căn cứ trên, ta có thể nói rằng điện năng là nguồn năng lượng chủ yếu, tối quan trọng đói với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Có lẽ mà theo em hiện nay và mai sau ngành điện sẽ là một trong ssó gành mà Nhà nước đọc quyền quản lý và khai thác. 2.3./ Sự ảnh hưởng của điện năng tới quá trình phát triển các ngành sản xuất vật chất: Sự ảnh hưởng của điện năngtới quá trình phát tiển các ngành sản xuất vật chất là voo cùng to lớn, đối với nhiều ngànhn nó có ý nghĩa sống còn trong sản xuất và kinh doanh bởi lẽ sau. Thứ nhất, như trên đã nêu điện năng là một dạng năng lượng phổ biến và rẻ tiền hiện nay. Chính vì vậy, trong sản xuất cũng như trong tiêu dùng tỉ trọng sử dụng năng lượng điện thường chiếm đa số. Thứ hai, ở nước ta hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới việc sử dụng năng lượng điện đă ăn ssâu vào tiềm bao thế hệ, đến mức ta có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết các thiết bị sản xuất, các thiết bị truyền tải đều trực tiếp hay gián tiếp sử dụng năng lượng điện trong hệ thống động lực hay truyền tải. Thứ ba, điện năng là một nguồn năng lượng được sử dụng như một nhân tố sản xuất không thể thiếu được của rất nhiều ngành sản xuất vật chất. Cùng với nguyên liệu, điện năng với tư cách là nguyên liệu chính là một trong những yếu tố để sản xuất ra sản phẩm, ngoài ra ở một số ngành công nghiệp điện năng còn là chất xúc tác, là điều kiện để cho các công nghệ được thực hiện. Đặc biệt là đối với nước ta hiện nay, giá điện lại có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các ngành sản xuất – dịch vụ. Gía điện tăng sẽ đẩy chi phí của các ngành này lên và sản phẩm công nghiệp Việt Nam khó cạch tranh với hàng nhập khẩu. Nguyên nhân chính là do thiết bị của các ngành công nghiệ Việt Nam đều đã cũ, tiêu nhao nhiều năng lượng, khiến chi phí điện năn tính vào giá thành sản phẩm của Việt Nam tăng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh mặc dù giá điện Việt Nam rẻ hơn. Vì vậy, đối với nhiều ngành sản xuất như công nghiệp nặng, coong nghiệp nhẹ thì chỉ cần một thay đổi nhỏ trong cung ứng điện hay giá bán điện cũng ảnh hươngr rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ như dệt may, luyện kim, thông tin liên lạc... Dđó mọi chủ trương về phát triển cơ câúa hạ tầng ngành điện cũng như thay đổi về giá bán điện trên tầm vĩ mô của Nhà nước cần phải được cân nhắc cẩn thận để tránh dẫn tình trạng mất ổn định trong phát triển kinh tế. Xác định được vai trò quan trọng của điện năng nên trong văn kiện đại hội đảng lần thứ VIII đã nêu: “Phát triển nguòon điện, cải tạo và mở rộng lưới điện đáp ứng nhu caauf cung cấp điện ổn định” ( Văn kiện đại hội đại biểu toàn quóoc lần thứ VIII- NXB chính trị quốc gia, trang 98). 2./ Điện lực đối với quá trình phát triển văn hoá giáo dụctrong phạm vi toàn quốc. 1.1/ Nhu cầu điện năng trong đời sống sinh hoạt xã hội ngày càng gia tăng. Trong đời sống sinh hoạt xã hội hiện nay, không chỉ riêng nước ta mà trên toàn thế giới điện năng cũng là loại năng lượng phổ biến nhất được sử dụng trong đời sống sinh hoạt. Ngày nay, việc điện khí hoá toàn quốc cũng là moọt vấn đè mà hầu hết các quốc gia quan tâm, và trên một khía cạnh nào đó nó còn là thước đo trrình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh mà quốc gia đó đạt được. ở nước ta nhu cầu về điện năng đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng. Trong sinh hoạt, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. việc mức sống dân cư ngày càng được nâng cao, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu điện năng có sự thay đổi về chất. Nếu trước đây điện năng chủ yếu dùng cho nhu cầu chiếu sáng sinh hoạt và một số nhu cầu thiết yếu của đời sống, thì ngày nay điện năng đã trở thành nguồn năng lượng không thể thiếu trong việc phục vụ mức sống tinh thần của người dân. Ngày nay nhiều vùng nông thôn và vùng núi đã có điện sử dụng và nhu cầu điện năng ngày càng trở nên không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt và trong đời sống xã hội của các vùng dân cư đó. 2.2./ Sử dụng điện năng trong các hoạt động dịch vụ công cộng làm tăng thêm nét đẹp cho đời sống của toàn xã hội. Điện năng không những chỉ phục vụ cho mục đích cá nhân mà còn là một nhu cầu thiết yếu trong lĩnh vực phát triển các dịch vụ công cộng nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho toàn xã hội. Trong đời sống xã hội hiện đại thì mức độ phân phối các dịch vụ công cộng tới từng thành viên trong xã hội cũng là một thước đo để đánh giá sự phát triển. Ngày nay đi trên đường phố chúng ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng của việc sử dụng điện năngcho các hoạt động công cộng: Những hàng đèn cao áp, những đài phun nước ( Đặc biệt trong các ngày lễ hội ) được trang hoàng đủ mầu sắc làm sinhđộng tem các nơi vui chơi giải trí,là một nét đẹp tinh thần và là một nguồn động viên giúp mọi nhười tin tưởng về một cuộc sống tươi đẹp ở phía truớc. Ngoài việc sử dụng điện năng vào các công việc giải trí, làm đẹp thêm thành phố thì rất nhiều hoạt động dịch vụ công cộng khác cần sử dụng điện năng đặc biệt là trong giao thông hiện đại, các phương tiện vận chuyển hành khách dùng năng lượng điện là rất phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam bộ phận này còn nhiều hạn chế. Tóm lại, việc sử dụng năng lượng điện trong các hoạt động công cộng vừa rẻ tiền lại vừa đảm bảo yêu cầu mĩ quan và giữ cho môi trường luôn luôn trong sạch. 2.3/ Nhu cầu điện năng trong các hoạt động văn hoá văn nghệ là không thể thay thế. Cuối cùng ta không thể không nói đến nhu cầu điện năng sử dụng trong các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động văn hoá nghệ thuật là không gì có thể thay thế được. Không thể hình dung được một xã hội hiện đại mà không có các rạp chiếu phim, nhà hát, sân khấu... và các hoạt dộng trên lại không thể thiếu nhu càu về diịen năng. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ và trang thiết bị cho việc sáng tạo racác sản phẩm trí tuệ cho các ngành văn hoá nghệ thuật, ngày nay việc dùng năng lượng điện để phục vụ cho các hoạt động này là một nhu cầu quen thuộc và tất yếu. Ngay kể cả khi cuộc biểu diễn, san khấu ngoài trời cũng phải có điiện để phục vụ sinh. Khi đời sống ngày một nâng cao, khi nhu cầu thiết yếu dần đến giới hạn thì nhu cầu văn hoá tinh thần trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống và do đó nhu cầu điện năng cho hoạt động này cũng trở nên mạnh mẽ. III./ tầm quan trọng của kinh doanh bán điện đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Kinh doanh bán điện là hoạt động cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh đện năng, là yếu tố quyết định. Kinh doanh bán điện thực hiện mục đích của sản xuất là tiêu dùng, đưa điện đến nơi tiêu dùng cuối cùng, nó là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Thực tiễn cho thấy, ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế, công tác kinh doanh bán điện được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lí chủ yếu bằng mệnh lệnh. Các cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp rất sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty,nhưng lại không chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm hiện vật. Tóm lại trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm là: cái gì , bao nhiêu , cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì hoạt động kinh doanh bán diện chủ yếu là bán điện sản xuất theo kée hoạch và giá cả đã được ấn định từ trước, ngành đieenj mới chỉ chú trọng tới công tác giảm tỉ lệ tổn thất điện năng và quan tâm nhiều tới khía cạnh kĩ thuật của quá trình bán điện do đó hiệu quả kinh tế không cao. Trong nền kinh tế thị trường, nhất là đến năm 1995 khi ngành điện chuyển đổi cơ cấu từ đơn vị có chức năng quản lý Nhà nước sng hạch toán độc lập tự trang trải thì kinh doanh bán điện được coi là chỉ tiêu chủ chốt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh , đóng vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, cụ thể là: Kinh doanh bán điện gắn người sản xuất và người tiêu dùng, nó giúp các Công ty hiểu biết thêm về kết quả sản xuất của mình thông qua nhu cầu sử dụng điện của khách hàng. Khi điện năng được tiêu thụ tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ ssản phẩm thể hiện uy tín của Công ty, chất lượng của sản phảm điện và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác nó phản ánh điểm mạnh và điểm yếu của Công ty, giúp Công ty hiểu thêm về quá trình sản xuất của mình và rút ra được các bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo. Mặt khác thông qua cách thức kinh doanh bán điện khách hàng hiểu rõ về năng lực sản xuất của Công ty. Kinh doanh bán điện giúp Công ty xác định được phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất – kinh doanh cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua công tác bán điện Công ty dự đoán được các yếu tố sau: Dự báo được nhu cầu xã hội của từng thành phần sử dụng điện nói riêng, sự thay đổi của thái độ tiêu dùng và đông cơ của khách hàng hàng, sự tiến triển của bộ máy phân phối... Hoạt động kinh doanh bán điện giúp Công ty dự báo diễn biến của thị trường trong giai đoạn tiếp theo. Từ đó nắm bắt được cơ hội trường và nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường kinh doanh, đánh giá những lợi ích và thiệt hại khi xâm nhập thị trường từ đó tìm ra thị trường trọng điểm của mình. Qua quá trình kinh doanh bán điện ở giai đoạn trước giúp Công ty phát hiện được thế mạnh của mình và những điều còn tồn tại trong công việc cần được khắc phục. Phân tích việc duy trì hay thay đổi các chính sách đã có, đánh giá mức độ và hiệu quả của những thay đổi cần thiết... trên cơ sở so sánh triển vọng bán điện của Công ty tương ứng với những thay đổi trong chính sách của mình. Trên cơ sở đó Công ty sẽ xây kế hoạch sản xuất –kinh doanh phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên, liên tục và hiệu quả thì công tác kinh doanh bán điện phải được tổ chức khoa học linh hoạt phù hợp với từng giai đoạn phát triển. IV./ nội dung của kinh doanh bán điện ở nước ta 1./ Điều tra, nghiên cứu nhu cầu của thị trường: Nghiên cứu thị trường thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá, có hệ thống và tỉ mỉ để xử lý vấn đề Marketing với mục đích tìm ra những điều kiện cần thiết, thích hợp để tìm thị trường cho các loại hàng hoá, dịch vụ nào đó trong khoảng thời gian cụ thể và trong phạm vi nguồn lực hạn chế. Nghiên cứu thị trường là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác. nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách hàng cùng với sự phân tích những thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề marketing hỗn hợp đó là: sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến (4ps: produt, price, placeand promotion). Ngiên cứu thị trường hàng hoá giúp các nhà kih doanh nhận biết được quy luật vận động của thị trường hàng hoá. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng, thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường nắm vữg các quy luật thị trường hàng hoá để vận dụng giải quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như nhu cầu của thị trường đối với hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh, khả năng tiêu thụ, khà năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế, các hình thức và các biện pháp xâm nhập thị trường. Nội dung của nghiên cứu nhu cầu thị trường nhằm trả lời ba câu hỏi: cái gì? bao nhiêu? cho ai? Tức là thị trường đâng cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của loại sản phẩm đó ra sao? Dung lượng thị trường của loại sản phẩm đó như thế nào? Ai là người tiêu thụ loại sản phẩm đó? Như đã điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt và là loại hàng hoá độc quyền của nhà nướ, tất cả mọi người đều có nhu cầu tiêu dùng nó. Mặt khác điện năng có tổn thất kĩ thuật và tổn thất thương mại, nên để kinh doanh có hiệu quả cao thì phải xác định được số lượng cần cung ứng. Vì vậy nghiên nhu cầu của thị sản phẩm điện nhằm trả lời câu hỏi “Bao nhiêu?”. 2./ Định giá bán và thông báo giá: Điện năng là loại sản phẩm độc quyền giá mua và giá bán là do Nhà nước quy định cho từng đối tượng sử dụng điện, nên công việc của công ty là: Phải xác định được giá bán điện sao cho bảo đảm phù hợp với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới lại vừa phù hợp với mức sống của dân cư trong nước, đảm bảo kinh doanh có lãi. Từ đó lập và trình lên chính phủ. Gía thành kế hoạch là căn cứ để xác định giá bán điện nó dựa vào những yếu tố sau Chế độ tài chính: Khấu haô tài sản cố định, vốn và sử dụng vốn, hạch toán các cchi phí do bộ tài chính quy định. Lãi vay ngân hành quy định. Tiền lương và cấp bậc công việc do Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội xác định. Giá cả và những vật tư chủ yếu cho sản xuất như: xăng, dầu, than, khí....do ban vật giá chính phủ đề xuất trong khung giá hàng năm đã báo cáo Thủ tướng chính phủ. Ban vật giá chính phủ là cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ thẩm định phương án giá điện do ngành điện đưa lên và trình thủ tướng chính phủ. Trong quá trình thẩm định ban Vật Gía Chính phủđã phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành liên quan như Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ Tài Chính, Bộ Công Nghiệp... Tổng công ty Điện lực cùngg thẩm định về mức giá thành kế hoạch để làm căn cứ xác định giá bán bình quân. Đồng thời phối hợp với các bộ ngành để cân nhắc về một mức giá cụ thể tác động đến đời sống, sản xuất. áp giá cho từng loại khách hàng một cách chính xác và thông báo rõ ràng cho từng khách hàng. Từ việc xác định giá công ty phải ghi giá vào hợp đồng để luật pháp hoá tránh gây trânh chấp sau này. 3./ Lên phưong án phân phối điện: Đó là vấn đề xây dựng và thực hiện quy trình bán điện từ công tơ đến các hộ tiêu dùng. Tuỳ theo đối tượng phân phối khác nhau, có thể phân phối tới hộ tiêu dùng cuối cùng ( Đối với các hộ ở hệ thốngành phố hay thị xã) hay phân phối gián tiếp qua các đơn vị trung gian của các tỉnh, huyện, xã như là hợp tác xã điện năng hoặc ban điện xã kinh doanh bán điện trên từng địa bàn (đối với những hộ ở vùng nông thôn mà Công ty chưa có khả năng cung cáp đến từng hộ). Phân phối trực tiếp: Công ty sản xuất kinh doanh điện năng Hộ tiêu dùng cuối cùng Theo thông tư 18/TT-LB Công ty sản xuất kinh doanh điện có nhiệm vụ ký hợp đồng bán điện sinh hoạt và phân phối đén tậnn công tơ cuả từng hộ tiêu dùng cuối cùng theomức giá quy định . Hình thức này có ưu điểm là giúp Công ty thường xuyên tiếp xúc với khách hàng và thị trường, biết rõ thị trường từ đó tạo điều kiện thuận lợi để gây thanh thế vsà uy tín cho Công ty, bảo đảm ti nhs chủ đạo của Công ty trong kênh phân phối sản phẩm điện vì đây là sản phẩm công nghiệp đòi hỏi dịch vụ kỹ thuật kèm theo. Hình thức này có hsạn chế là trình độ chuyên môn hoá, tổ chức và quản lý kênh phân phối phức tạp, vốn và nhân lực bị phân tán do có quá nhiều đầu mối tiêu dùng. Phân phối gián tiếp: Công ty sản xuất kinh doanh điện năng Hộ tiêu dùng cuối cùng Đơn vị kinh doanh bán điện của khu vực Theo thông tư 18/TT-LB Công ty sản xuất kinh doanh điện có nhiệm vụ ký hợp đồng bán điện sinh hoạt cho nông thôn tại công tơ tổng đặt tại các máy biến áp phần hạ thế với mức giá quy định là 450đ/Kwh. Lượng điện tính giá này áp dụng cho lượng ghi trên công tơ tổng không tính lượng điện tổn thất ở máy biến áp. Tỉnh, huyện, xã chịu trách nhiệm tổ chức quản lý lưới điện sinh hoạt ở địa bàn mình và tính toán giá bán điện tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Chính quyền xã là người đại diện ký hợp đồng trực tiếp mua điện của Công ty, đồng thời là cấp trực tiếp quản lý lưới điện và giá bán lẻ điện của Công ty thông qua đơn vị kinh doanh là ban điện xã. Hình thức này giúp Công ty có thể bán điện với số lượng lớn bà giảm bớt công tác quản lý khách hàng. Nhưng hạn chế của nó là ở chỗ Công ty không kiểm soát được khâu trung gian và giá bán điện tới hộ tiêu dùng cuối cùng. Trong những năm gần đây xu hướng sử dụng hình thức phân phối trực tiếp ngày càng được quan tâm phát triển. 4./ Công tác thu tiền điện. Nghiệp vụ thu tiền điện là rất quan trọng nhất là khi khách hàng tiêu dùng điện trước trả tiền sau. Chẳng hạn điện năng đã được phân phối hết vào các kênh tiêu thụ song vẫn chưa thu được tiền điện về thì hoạt động kinh doanh bán điện vẫn chưa kết thúc. Chỉ khi nào tiền bán điện được thu từ tay người tiêu dùng cuối cùng thì hoạt động kinh doanh bán điện mới thực sự kết thúc. Việc thu tiền bán điện là hoạt động biến kết quả của quá trình kinh doanh thành hiệu quả vật chất thực sự. Nghiệp vụ này đảm bảo cho việc bảo toàn và phát triển vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty do đó nó phải được thực hiện chính xác kịp thời và có nghệ thuật. Chính vì vậy, Công ty phải tổ chức được một đội ngũ nhân viên thu tiền điện có trình độ và lòng nhiệt tình. Yêu cầu cơ bản đối với họ là: Phải có thái độ và cách cư sử lịch thiệp khi giao tiếp với khách hàng. Phải có tính trung thực kiên trì khi thu tiền điện. Phần II Phân tích thực trạng kinh doanh điện ở Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội I./ Khái quát về Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội 1./ Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội. 1.1. Sự ra đời của công ty Tháng 10 năm 1954 công ty điện lực Hà Nội được thành lập với tên gọi ban đầu là Nhà máy điện Hà Nội mà dân quen gọi là “Nhà đèn Bờ Hồ” bao gồm cả chức năng quản lý, sản xuất và kinh doanh điện. Việc thành lập một nhà máy điện tại Hà Nội lúc bấy giờ là phù hợp và cần thiết với yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Năm 1961 nhà máy điện lực Hà Nội đổi tên thành cơ sở điện lực Hà Nội trên cơ sở tách chức năng quản lý và phân phối điện ra khỏi nhà máy điện Hà Nội. Ngày 1/4/1995 theo QĐ 91/CP của chính phủ sở điện lực Hà Nội được đổi tên thành Công ty điện lực Hà Nội. 1.2 Các giai đoạn phát triển của công ty 1.2.1. Giai đoạn 1961-1994 Năm 1961, như đã trình bày nhà máy điện Hà Nội được đổi tên thành sở điện lực Hà Nội trên cơ sở tách chức năng quản lý và phân phối điện ra khỏi nhà máy điện Hà Nội. Sở điện lực Hà Nội là một bộ phận của Công ty điện lực I và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của công ty này. Trong giai đoạn này sở điện lực Hà Nội đã đạt nhiều thàn tích phục vụ cho nhu cầu ngày càng đa dạng của nền kinh tế quốc dân. Năm 1961-1974 Sở điện lực Hà Nội đã cung cấ điện cho toàn thầnh phố Hà Nội và một số khu vực ngoại thành. Sản lượng điện ra tăng 2,7 lần, cuối 1965 sản lượng điện tăng 3,7 lần, điện phục vụ cho công nghiệp tăng 4,3 lần, cho noong n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0258.doc
Tài liệu liên quan