Một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế của bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài

1 MỤC LỤC Mục lục 1 Danh mục các bảng 2 Lời mở đầu 3 1. Lý luận cơ bản về FDI và liên doanh nước ngoài 5 1.1. Khái niệm chung 5 1.2. Một số kinh nghiệm trong triển khai dự án FDI, liên doanh của các quốc gia trong khu vực 9 1.3. Một số kinh nghiệm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam 13 2. Tình hình vị thế của đối tác bên Việt Nam ở các công ty liên doanh nước ngoài tại Thành p

pdf67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế của bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hố Hồ Chí Minh 19 2.1. Tổng quan về Thành phố Hồ Chí Minh và hoạt động đầu tư nước ngoài 19 2.2. Kết quả thực hiện phiếu thăm dò ở một số công ty liên doanh nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh 28 2.3. Nhận xét chung 33 3. Một số biện pháp nâng cao vị thế bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài 48 3.1. Những quan điểm cơ bản về thu hút, sử dụng, quản lý FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh 48 3.2. Đề xuất và kiến nghị các biện pháp nhằm nâng cao vị thế bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài 52 Kết luận và kiến nghị những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo 66 Tài liệu tham khảo Phụ lục 2 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1- Số dự án FDI được cấp phép của Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước Bảng 2- Quy mô thu hút vốn FDI của dự án từ 1991 đến 2002 Bảng 3- Cơ cấu thu hút vốn FDI phân theo ngành nghề từ 1991 đến 2002 Bảng 4- Cơ cấu thu hút vốn FDI theo quốc gia và lãnh thổ từ 1991 đến 2002 Bảng 5- Tình hình FDI theo hình thức đầu tư từ 1991 đến 2002 3 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu hướng toàn cầu hóa, đầu tư quốc tế ngày càng đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn đầu tư chính trong giai đoạn cất cánh. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Xét trên bình diện cả nước, sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp FDI không chỉ khẳng định vị trí, vai trò của khu vực kinh tế “trẻ” mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa, phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, nghiêm túc nhìn nhận lại, chúng ta thấy rằng trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh- một hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu hiện nay- đã bộc lộ những bất cập. Hiện tượng các liên doanh làm ăn thua lỗ, phá sản, thanh lý giải thể trước thời hạn không còn là điều mới mẻ mà đã trở thành chuyện thường ngày. Đi đôi với hiện tượng này, vị thế của đối tác bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài vốn đã yếu nay càng yếu hơn. “Vị thế” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là: “vị trí, địa vị trong quan hệ xã hội, về mặt có vai trò, ảnh hưởng đến những đối tượng khác, mặt khác”. Hay nói cách khác, vị thế của đối tác bên Việt Nam là yếu tố đóng vai trò quyết định đến việc đạt được hay không đạt được các mục tiêu của bên Việt Nam khi tham gia công ty liên doanh với nước ngoài. Mục đích nghiên cứu đề tài: từ thực trạng các liên doanh nước ngoài và vị thế của đối tác bên Việt Nam để tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế của bên Việt Nam tại các liên doanh này, từ đó góp phần đưa hoạt động của các liên doanh nước ngoài theo đúng “quỹ đạo” mà Đảng, Nhà nước ta mong muốn. 4 Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là các công ty liên doanh nước ngoài và đối tác bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài. Về phạm vi nghiên cứu (không gian): các công ty liên doanh nước ngoài (nằm ngoài khu chế xuất và khu công nghiệp) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Về phạm vi nghiên cứu (thời gian): để đảm bảo đánh giá toàn diện, đồng bộ, số liệu được cập nhật đến hết năm 2002. Ngoài ra, đề tài cũng cung cấp một vài số liệu có liên quan được cập nhật đến hết tháng 09 năm 2003. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp điều tra khảo sát, phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp số liệu và phân tích. Kết cấu đề tài gồm ba chương chính: 1. Lý luận cơ bản về FDI và liên doanh nước ngoài. Chương này sẽ cung cấp một số kiến thức cơ bản nhất về FDI và liên doanh nước ngoài cũng như sẽ thông tin một số kinh nghiệm trong triển khai dự án FDI, liên doanh ở một số quốc gia trong khu vực. 2. Tình hình vị thế của đối tác bên Việt Nam ở các công ty liên doanh nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung chính của chương này là nêu lên tổng quan về Thành phố Hồ Chí Minh và hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như một số nhận xét về vị thế của bên Việt Nam dựa trên kết quả thực hiện phiếu thăm dò ở các liên doanh nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Một số biện pháp nâng cao vị thế bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài. Trên cơ sở những quan điểm cơ bản về thu hút, quản lý FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh cũng như các kết quả nghiên cứu, nhận xét ở chương 1 và chương 2, chương 3 sẽ đề xuất một số biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vị thế bên Việt Nam tại các liên doanh nước ngoài. 5 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ FDI VÀ LIÊN DOANH NƯỚC NGOÀI 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG: 1.1.1. Định nghĩa và các hình thức đầu tư quốc tế: Đầu tư quốc tế là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Đó là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, sản phẩm và dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, hình thức cao hơn xuất khẩu hàng hóa. Có 03 hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu: i. Đầu tư trực tiếp (FDI: Foreign Direct Investment): là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đây là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu với một số hình thức cụ thể như: hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và các hình thức khác (hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao BOT, hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh BTO, xây dựng- chuyển giao BT). ii. Đầu tư gián tiếp (FPI: Foreign Portfolio Investment): là hình thức đầu tư quốc tế mà trong đó chủ đầu tư nước ngoài chỉ được góp số vốn tối đa nào đó dưới hình thức mua cổ phiếu, sao cho bên nước ngoài không tham gia trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. iii. Tín dụng quốc tế: về thực chất đây cũng là hình thức đầu tư gián tiếp, nhưng nó có những đặc thù riêng cho nên trong thực tế hình thức này vẫn được phân loại như một hình thức độc lập. Đây là hình thức đầu tư dưới 6 dạng cho vay vốn và kiếm lời thông qua lãi suất tiền vay. Đáng chú ý ở hình thức này là có hình thức đầu tư thông qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA: Official Development Assistance) dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay vốn các nước chậm và đang phát triển với những điều kiện đặc biệt ưu đãi nhằm giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Trong các hình thức đầu tư nước ngoài nêu trên, doanh nghiệp liên doanh là hình thức phổ biến, thường được các nhà đầu tư nước ngoài và đơn vị tiếp nhận đầu tư lựa chọn do những ưu điểm cơ bản như sau: • Đối với nhà đầu tư nước ngoài: trong thời gian xúc tiến dự án (nhất là trong giai đoạn đầu mở cửa nền kinh tế của Việt Nam), khi chưa thông hiểu về phong tục, tập quán, chính sách và luật lệ, họ cần có bên Việt Nam giúp đỡ, giải quyết khâu thủ tục, tranh thủ mối quan hệ với cơ quan quản lý và chính quyền địa phương, sau đó là khai thác và chiếm lĩnh thị trường nội địa. • Đối với đơn vị tiếp nhận đầu tư: hình thức liên doanh tạo điều kiện để họ tiếp nhận nguồn vốn lớn, công nghệ, kỹ thuật mới, kinh nghiệm quản lý và đào tạo lao động có tay nghề; khai thác tiềm năng thế mạnh lao động, tài nguyên…, từ đó mở rộng quy mô hoặc phát triển năng lực kinh doanh mới, tiếp cận thị trường quốc tế; mặt khác, đảm bảo an ninh, quốc phòng. 1.1.2. Định nghĩa và đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam: Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ sung ngày 09/06/2000), doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 7 Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư. 1.1.3. Mục tiêu của các bên tham gia liên doanh tại Việt Nam: + Bên Việt Nam: i. Công nghiệp hóa- hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam áp dụng nhiều chính sách nhằm hướng các liên doanh nước ngoài tham gia chương trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa hướng về xuất khẩu như ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đơn vị có tỷ lệ xuất khẩu cao. ii. Nội địa hóa nguyên vật liệu. Chính phủ khuyến khích các dự án liên doanh sử dụng nguyên nhiên liệu, vật tư sẵn có, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa bằng cách áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi. iii. Tăng dần tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong liên doanh. Tuy nhiên, mục tiêu này rất khó được các nhà đầu tư nước ngoài chấp thuận vì nó làm giảm quyền kiểm soát liên doanh. Thường thì bên Việt Nam được bắt đầu tăng tỷ lệ góp vốn khi nhà đầu tư nước ngoài đã thu hồi được vốn đầu tư và thời gian liên doanh không còn nhiều nữa. iv. Bảo toàn và phát triển vốn thông qua lợi nhuận. Đây có thể nói là mục tiêu đầu tiên và quan trọng hàng đầu của đối tác bên Việt Nam. Tuy nhiên, không phải thành viên nào của bên Việt Nam tham gia quản lý 8 liên doanh có thể quán triệt được mục tiêu này; do đó, việc thất thoát hay mất luôn vốn là chuyện thường xảy ra. + Bên nước ngoài: i. Thâm nhập và mở rộng thị trường ở Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của các công ty đa quốc gia. Tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của công ty mẹ hoặc của các công ty con khác trong hệ thống của công ty đa quốc gia ở Việt Nam nhằm tối đa hóa lợi nhuận công ty mẹ thông qua phương cách chuyển giá bằng cách nâng giá đối với các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh như: chi phí nguyên vật liệu đưa vào sản xuất, chi phí quản lý, tiếp thị, quảng cáo... Kết quả là bên cạnh việc “thôn tính” vốn của đối tác bên Việt Nam, công ty mẹ còn tạo ra lợi thế cạnh tranh đặc biệt cho sản phẩm và dịch vụ của mình, từng bước thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước. ii. Nâng cao hiệu quả sản xuất. Tối đa hóa lợi nhuận công ty mẹ bằng việc tăng chi phí yếu tố đầu vào, hạ giá các sản phẩm, dịch vụ của liên doanh. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao kỹ thuật công nghệ máy móc thiết bị tuy chưa lạc hậu nhưng hiệu quả không cao, ít tính cạnh tranh hoặc đã lạc hậu vào Việt Nam vẫn phát huy hiệu quả, thu hồi được lợi nhuận cao ngay khâu đầu tư. Bên cạnh đó, khai thác yếu tố chi phí sức lao động tương đối rẻ của Việt Nam so với nhiều quốc gia trong khu vực. iii. Tranh thủ chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ các chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư của Chính phủ, đặc biệt là ưu đãi về thuế, để tối thiểu hóa chi phí, tạo lợi thế cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước. Cá biệt, có nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng để thu lợi riêng và ép đối tác bên Việt Nam vào tình trạng “khó xử”. 9 1.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG TRIỂN KHAI DỰ ÁN FDI, LIÊN DOANH CỦA CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC: Trong một số năm gần đây, xu hướng thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thay thế cho các liên doanh đang trở thành phổ biến tại các quốc gia trong khu vực do rút được kinh nghiệm sau một thời gian triển khai dự án. 1.2.1. ASEAN: Trong Tuyên bố về các biện pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN trong Hội nghị cấp cao lần thứ VI tại Hà Nội, một trong những biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư ASEAN cũng như khắc phục nhược điểm của các liên doanh là cho phép đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, các nước còn cụ thể hóa biện pháp này như Indonesia chấp nhận hình thức 100% sở hữu nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, thậm chí trong ngành ngân hàng, bán buôn và bán lẻ. Malaysia cũng vậy và không kèm theo điều kiện xuất khẩu nhưng loại trừ hình thức này trong bảy ngành cụ thể. Brunei thì dè dặt hơn, cho phép hình thức 100% vốn nước ngoài trong các ngành sản xuất công nghệ cao và sản xuất hướng vào xuất khẩu. Thái Lan cũng cho phép đầu tư theo loại hình này đối với dự án sản xuất công nghiệp, không phân biệt địa bàn. 1.2.2. Trung Quốc: Trung Quốc đã cho phép hình thức đầu tư 100% nước ngoài từ lâu và hình thức này có tốc độ phát triển nhanh hơn hình thức liên doanh. Trung Quốc cũng đã có một tổng kết ưu, nhược điểm của hình thức liên doanh như sau: - Ưu điểm: 10 + Đối với bên trong nước, giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hóa sản phẩm, đổi mới công nghệ, có cơ hội học tập ở nước ngoài, tạo ra thị trường mới. + Đối với bên nước ngoài, tận dụng hệ thống phân phối có sẵn, lương công nhân thấp hơn, đất thuê rẻ hơn, vào được những lĩnh vực mà 100% vốn nước ngoài bị cấm, thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Khỏi mất thời gian nghiên cứu thị trường mới, khỏi xây dựng các mối quan hệ ngay từ ban đầu. - Nhược điểm: + Khác biệt về nhìn nhận chi phí. + Mất nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề, thời gian định giá tài sản góp vốn, giải quyết công nhân cũ của đối tác trong nước. + Đối tác bên ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu của tập đoàn, đôi lúc vì sự phân công này mà buộc liên doanh chịu nhiều thua thiệt. + Đối tác nước ngoài thường không thích chia lợi nhuận mà muốn đưa lãi vào tái đầu tư mở rộng. + Thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh hưởng lớn đến tương lai phát triển của liên doanh. + Khó giải quyết khác biệt về văn hóa. - Liên doanh thành công được xây dựng trên căn bản: + Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư. + Tận dụng được những cơ sở tiện ích có sẵn. + Thực hiện được việc chuyển giao công nghệ. + Bên nhiều vốn hơn phải được quyền quyết định công nghệ, kế hoạch kinh doanh, tiếp thị, chất lượng sản phẩm và nguồn cung cấp nguyên liệu. 11 + Hợp đồng liên doanh soạn kỹ, lường trước cách giải quyết mọi mâu thuẫn có thể phát sinh. + Hai bên đồng ý tuyển người điều hành không thuộc bất kỳ bên nào. Trung Quốc rút ra kết luận hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài thích hợp nhất cho những dự án sản xuất hàng xuất khẩu, những dự án nằm trong các khu kinh tế đặc biệt. Một số trường hợp liên doanh mang lại kết quả khả quan nhờ khả năng thực thụ của đối tác địa phương. Như hãng Alcatel (Pháp) đã lập liên doanh Shanghai Bell với một xí nghiệp thuộc Bộ Bưu điện và viễn thông khai thác mạng lưới điện thoại cố định. Chính nhờ vào đối tác địa phương thật sự mạnh này mà Shanghai Bell nắm hơn phân nửa thị trường thiết bị chuyển mạch mới, vượt xa hãng AT&T (Mỹ) và Siemens (Đức). Nhưng đôi khi, chuyện làm ăn không được thuận buồm xuôi gió, như trong trường hợp của Pepsi. Do mong muốn hiện diện khắp nơi trên một thị trường bao la rộng lớn, hãng nước giải khát này đã không ngừng bơm vốn vào một số liên doanh mà trong đó họ nắm giữ cổ phần thiểu số. Chẳng bao lâu, Pepsi nhận ra rằng một khi họ không trực tiếp kiểm soát thì hãng bị vướng vào các dự án vượt xa tầm khả năng của mình. Còn hãng Gillette thì thâm nhập thị trường dao cạo râu và các sản phẩm phụ thông qua một xí nghiệp quốc doanh ở Thượng Hải chiếm đến 75% thị phần dao cạo. Nhưng họ chới với khi biết rằng bộ phận thương mại của hãng chỉ có 13 nhân viên. Tại các liên doanh do Unilever lập ra ở Thượng Hải, bầu không khí làm việc giữa các đối tác ngày càng xấu đi. Chẳng hạn như một trong những đối tác của Unilever, một xí nghiệp quốc doanh sản xuất mặt hàng bột giặt White Cat có công thức và thành 12 phần cấu tạo rất giống với Omo để cạnh tranh trực tiếp với nhãn hiệu Omo do chính liên doanh sản xuất. 1 Đối tác địa phương giúp cho các tập đoàn thâm nhập dễ dàng thị trường nội địa, nhưng không tỏ ra phù hợp trong việc thực hiện các chiến lược thương mại ở tầm mức quốc gia hoặc khu vực mà nhiều tập đoàn đa quốc gia mong muốn. Các tập đoàn này đầu tư ồ ạt vào việc tổ chức mạng lưới phân phối tương xứng với thị trường nội địa, nhưng đối tác địa phương của họ, do thiếu vốn, quan tâm nhiều đến việc kiếm lợi nhuận nhanh chóng hơn. Theo các nhà nghiên cứu, khi một công ty do các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát 100% vốn cung cấp được cái mà thị trường Trung Quốc mong muốn như công ăn việc làm, sản phẩm xuất khẩu hoặc công nghệ mới thì chính phủ nước này chắc chắn sẽ hài lòng. 1.2.3. Các nước khác: Theo Công ty Tài chánh quốc tế (IFC), tất cả mọi liên doanh, lúc này hay lúc khác, đều tỏ ra không hoàn toàn hài lòng về chuyện chung vốn làm ăn dù liên doanh đang làm ăn thuận lợi. Điểm chung là các bên thường coi trọng lợi ích của đồng vốn mình góp mà ít nghĩ đến lợi ích chung của liên doanh. Ngay cả ở Mỹ, IFC nhận thấy, sau 06 năm, khoảng hơn một nửa liên doanh với nước ngoài tan vỡ vì lý do này hay lý do khác. Ở Ấn Độ, chỉ mới cách đây vài năm, đầu tư nước ngoài chỉ được phép liên doanh và phải giữ vốn thấp. Đến khi Ấn Độ nới lỏng quy định này, hầu hết các liên doanh cũ đều cơ cấu lại vốn để phía nước ngoài chiếm phần đa số. 1 Quang Thái (1999), “Qua một số trường hợp liên doanh ở Trung Quốc”, Thời báo kinh tế Sài gòn, (02/1999), tr. 15. 13 1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN FDI NÓI CHUNG VÀ LIÊN DOANH NƯỚC NGOÀI NÓI RIÊNG TẠI VIỆT NAM 2: 1.3.1. Sự cần thiết phải ngăn ngừa và hạn chế rủi ro: Một trong những khó khăn rất lớn của quản trị các dự án FDI trong giai đoạn hiện nay chính là tính bất định của những biến chuyển về kinh tế, xã hội của nước sở tại. Đặc biệt là trong những dự án lớn và dài hạn, các chủ đầu tư không thể nào lường trước được tất cả các tình huống xảy ra có thể gây ra các tổn thất khôn lường. Nhiều trường hợp do không có sự chuẩn bị trước, những biến cố đột ngột xảy ra trong quá trình hoạt động của dự án như nguồn lực và phương tiện thiếu hụt hoặc không tương thích, thị trường thay đổi, chính sách thuế quan mới ban hành, tai nạn trên đường vận chuyển... đã gây cho dự án FDI những tổn thất nghiêm trọng, thậm chí làm dự án FDI bị đổ vỡ. Vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tổn thất là vấn đề ngày càng quan trọng trong quản trị các doanh nghiệp có vốn FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam. 1.3.2. Những rủi ro thường gặp trong quá trình triển khai các dự án FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam: 1.3.2.1. Các rủi ro ở mức độ thấp làm cho các dự án FDI phải tạm ngừng triển khai (triển hạn): So với các dự án bị giải thể trước thời hạn thì tỷ lệ các dự án phải tạm dừng hoạt động ít hơn, chủ yếu là tập trung vào giai đoạn khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á từ tháng 07 năm 1997. Luồng vốn FDI vào Việt Nam từ các nước châu Á vẫn chiếm đa số, đặc biệt là các nước ASEAN. Khủng hoảng 2 Nguyễn Thị Hường (2001), “Một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện 14 tài chính- tiền tệ đã tạo tâm lý lo ngại đối với các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Do hầu hết các nước trong khu vực đều phá giá đồng tiền của mình nên đồng tiền của Việt Nam trở nên đắt tương đối so với các đồng tiền khác, phần lớn các doanh nghiệp FDI phải tạm ngừng hoạt động do khả năng cạnh tranh của hàng hóa bị giảm sút, đặc biệt là một số dự án sản xuất hàng thay thế nhập khẩu đều bị thua lỗ do nguyên liệu nhập bằng đô la Mỹ. Khủng hoảng kinh tế còn gây cho nhà đầu tư những khó khăn về nguồn vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm, buộc các công ty phải củng cố và bảo tồn hoạt động hiện có của mình, thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư. Mặt khác, tổ chức IMF ràng buộc không cho chuyển tiền ra nước ngoài, các ngân hàng kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho vay vốn đầu tư. Các biến động trên đã làm cho số lượng các dự án đầu tư xin giãn tiến độ triển khai (triển hạn) của các nước Đông Á tăng lên trong giai đoạn 1998- 2001. Các dự án tạm dừng triển khai trong giai đoạn này tập trung vào ngành dịch vụ, kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê, xây dựng khu đô thị, trung tâm thương mại). Một số ít dự án trong ngành công nghiệp nhẹ triển hạn do phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường, vào việc cung cấp nguyên vật liệu, vào sự biến động tỷ giá của đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ (như các dự án hàng dệt may, giày dép, sản xuất hàng điện tử). 1.3.2.2. Các rủi ro ở mức độ trung bình làm cho các dự án phải chuyển đổi hình thức đầu tư so với cam kết ban đầu: Những năm qua, đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam chủ yếu thực hiện theo hình thức liên doanh; tuy nhiên, hình thức 100% vốn nước ngoài đang có xu hướng tăng lên. Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế, các dự án FDI tại Việt Nam”, Kinh tế và dự báo, (344), tr. 07- 09 15 đầu tư theo hình thức liên doanh bộc lộ nhiều hạn chế như khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam quá hạn hẹp, bình quân chỉ bằng 10% vốn đầu tư của các liên doanh; một số đối tác nước ngoài chưa thật sự có thiện chí làm ăn tại Việt Nam. Mặt khác, giữa các bên trong liên doanh còn nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng về hàng loạt các vấn đề như chiến lược kinh doanh, phương thức quản lý và điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết toán công trình, từ đó ảnh hưởng trến việc triển khai dự án và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự đổ vỡ của các dự án FDI. Chính vì vậy, một số doanh nghiệp liên doanh được chấp nhận chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam. Nhìn chung, sau khi chuyển đổi hình thức đầu tư, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã nhanh chóng tổ chức lại bộ máy quản lý và tổ chức lại sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp giảm dần tình trạng lỗ vốn và bắt đầu làm ăn có lãi. Các đối tác Việt Nam rút vốn ra để đầu tư các dự án khác. 1.3.2.3. Các rủi ro ở mức độ cao làm cho các dự án bị giải thể trước thời hạn: So với các lĩnh vực khác, ngành công nghiệp và xây dựng có nhiều dự án giải thể trước thời hạn nhất; trong đó, tỷ trọng lớn nhất về vốn đầu tư giải thể phải kể đến các dự án thăm dò và khai thác dầu khí (do hoạt động thăm dò dầu khí không có kết quả). Bên cạnh đó, còn có một số lĩnh vực có số dự án bị giải thể trước thời hạn lớn như công nghiệp nặng, hóa chất, dệt may và dược phẩm. Ngoài ra, trong nông- lâm- ngư nghiệp, các dự án triển khai còn chậm, tỷ lệ dự án giải thể trước thời hạn cao hơn so với các ngành khác, nhất là các dự án được cấp Giấy phép đầu tư thời kỳ trước năm 1992, hiệu quả kinh tế của nhiều dự án không cao. Tình hình trên đã chứng tỏ rằng các dự án FDI trong lĩnh vực này có độ rủi ro khá lớn. Về lĩnh vực dịch vụ, đầu tư nước ngoài trực tiếp đã góp 16 phần khai thác được những thế mạnh của lĩnh vực này nhưng chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ mức độ rủi ro trong ngành này cũng khá cao. Theo hình thức đầu tư: trước và sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, số dự án liên doanh phải giải thể đều chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các dự án phải giải thể trước thời hạn. Tiếp theo là các hợp doanh và các dự án 100% vốn nước ngoài do tác động khủng hoảng của khu vực dẫn tới khó khăn hơn về thị trường tiêu thụ sản phẩm, sự thay đổi trong chiến lược và địa bàn của chủ đầu tư Trong những năm gần đây, vùng lãnh thổ British Virgin Island đã vượt lên giữ vị trí đầu bảng về tỷ trọng vốn đầu tư bị giải thể ở Việt Nam, tiếp đó là Panama. Singapore và Đài Loan là một trong những nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam nhưng tỷ lệ dự án bị rút giấy phép trước thời hạn thấp nhất. 1.3.3. Một số kinh nghiệm chủ yếu nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI nói chung và liên doanh nước ngoài nói riêng tại Việt Nam: 1.3.3.1. Đồng bộ hóa hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp: Cho phép thành lập công ty có nhiều mục tiêu hoạt động trên cơ sở từng dự án cụ thể, tiếp tục nghiên cứu để giảm bớt thời gian chờ đợi Giấy phép đầu tư làm lỡ cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư, cho phép miễn giảm hơn nữa thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất đối với những dự án đặc biệt khuyến khích; bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài, tiếp tục thực hiện tốt hơn nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài; tiếp tục mở rộng phân cấp quản lý về đầu tư cho các Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, các Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở làm tốt công tác quy 17 hoạch, cung cấp thông tin và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chủ trương này trong quá trình triển khai thực hiện các dự án. Nhà nước nên sớm ban hành các quy định đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án BOT để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này; tích cực tham gia các công ước quốc tế và các nghị quyết của khối ASEAN; thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với những dự án có đào tạo công nhân và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp FDI. 1.3.3.2. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh: Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư thông qua việc xây dựng mặt bằng giá thống nhất giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; sửa đổi chính sách thuế, Luật đất đai, chính sách tài chính- tín dụng- ngoại hối... nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Nếu không tích cực cải thiện môi trường đầu tư thì các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư sang những thị trường có nhiều thuận lợi hơn, ổn định hơn và do đó mức độ rủi ro, vướng mắc cũng ít hơn. 1.3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án FDI nhằm lựa chọn các dự án có tính khả thi cao, giảm thiểu những rủi ro tiềm năng: Để nâng cao chất lượng của công tác thẩm định dự án FDI, các nhà thẩm định nên đi sâu nghiên cứu những vấn đề chủ yếu thường dẫn đến các rủi ro cho dự án FDI như vấn đề thị trường, khả năng tài chính, các nguồn số liệu, các giả định sử dụng trong dự án, đặc biệt là cần phải làm rõ những vấn đề chưa rõ và phải trả lời được các câu hỏi của các nhà phản biện... 1.3.3.4. Tăng cường công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ kịp thời khó khăn khi xảy ra vướng mắc, hỗ trợ các doanh nghiệp FDI hoạt động có hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro từ khi mới phát sinh: 18 Các cơ quan quản lý nhà nước đối với FDI cũng nên dành sự quan tâm thường xuyên để nắm chắc tình hình thực hiện dự án, theo sát diễn biến để chủ động xử lý ở các giai đoạn khác nhau: bắt đầu triển khai, xây dựng cơ bản, hay đang hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi những khó khăn, vướng mắc mới phát sinh, các dự án được các cơ quan quản lý nhà nước xử lý kịp thời và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI triển khai dự án một cách thuận lợi; khuyến khích họ tăng cường đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh để thu được hiệu quả cao hơn cho chủ đầu tư và đóng góp cho xã hội. 1.3.3.5. Đa dạng hóa hơn nữa các hình thức đầu tư để mở rộng cơ hội lựa chọn chuyển đổi hình thức đầu tư cho các doanh nghiệp FDI nhằm hạn chế các rủi ro có thể làm cho doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn: Để mở rộng hơn nữa các cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ nên quy định thêm một số hình thức đầu tư mới như doanh nghiệp cổ phần có vốn FDI, các khu thương mại tự do, thành phố mở, doanh nghiệp sở hữu chung... Việc mở rộng cơ hội chuyển đổi hình thức đầu tư cũng chính là hạn chế tình trạng giải thể của các doanh nghiệp có vốn FDI vì họ không còn con đường nào khác để duy trì doanh nghiệp của mình. 1.3.3.6. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực nâng cao trình độ chuyên môn về quản trị dự án FDI nhằm loại trừ rủi ro trong triển khai dự án FDI: Trước hết, cần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý dự án đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu các công nghệ tiên tiến khi làm việc trong các doanh nghiệp FDI và đặc biệt chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ ở các địa phương. 19 2. TÌNH HÌNH VỊ THẾ CỦA ĐỐI TÁC BÊN VIỆT NAM Ở CÁC CÔNG TY LIÊN DOANH NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI: 2.1.1. Tổng quan về tình hình kinh tế- xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh: 2.1.1.1. Vài nét về vị trí địa lý: Do có các ưu thế về mặt địa lý, nhân văn và xã hội, cũng như các thế mạnh về kinh tế và tiềm năng dồi dào về đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực, đồng thời lại là nơi mà cơ chế thị trường đã phát triển bước đầu từ trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thành phố Hồ Chí Minh được xem như một trung tâm kinh tế và là một thị trường năng động nhất của khu vực (đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam) và cả nước. “Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước ta, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước... Thành phố đã phát huy vai trò trung tâm của mình trên nhiều mặt với khu vực và cả nước, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (trích Nghị quyết 20 Bộ Chính trị) Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích là 2.092 km2, dân số khoảng 5,5 triệu người; cách thủ đô Hà Nội 1.738 km về phía._. Đông Nam, nằm trong tọa độ địa lý từ 10038’ đến 11010’ vĩ độ Bắc và 106045’ kinh độ Đông, có địa giới hành chính với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu; nam giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển là 15km. Chiều dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam là 102km, từ Đông sang Tây là 75km. Trung tâm Thành phố cách biển 50km đường chim bay. Độ cao trung bình so với mực nước biển là 6m. Địa hình cao về phía Bắc, là vùng đồi- đồng bằng và thấp dần về phía Nam- 20 Tây Nam, với hệ thống kênh rạch chằng chịt có tổng chiều dài là 7.955 km, sông Sài gòn nằm ở phía Đông Thành phố. 2.1.1.2. Vai trò trung tâm về kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao; cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch đúng hướng; có những ảnh hưởng và đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế của các tỉnh trong khu vực và của cả nước (đóng góp 1/3 ngân sách cả nước); năng động, sáng tạo và có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới. Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến như là một nơi tạo ra 1/5 tổng sản phẩm quốc dân- GDP, 1/3 sản lượng công nghiệp, 40%- 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn FDI, Thành phố còn là địa phương có sức hút lớn nhất trong cả nước với khoảng 1/3 tổng số dự án FDI trong cả nước được thực hiện và với số vốn có lúc chiếm tới 41% vốn FDI vào Việt Nam. GDP năm 2002 của Thành phố cao gấp gần 6,7 lần năm 1976, bình quân mỗi năm tăng 7,5%, cao hơn hẳn các chỉ số tương ứng của cả nước là 4,1 lần và 5,6%/năm. Ngay những năm nước ta bị tác động tiêu cực từ bên ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố cũng cao hơn hẳn của cả nước. GDP bình quân đầu người (tính theo giá so sánh) năm 2002 cao gấp 4,3 lần năm 1976, bình quân mỗi năm tăng khoảng 5,8%, vượt xa các số liệu tương ứng 2,4 lần và 3,4% của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Trong GDP, khu vực nông lâm nghiệp- thủy sản nay chỉ còn chiếm 1,7%, khu vực công nghiệp chiếm 41,7%, xây dựng chiếm 5,3% và khu vực dịch vụ đã 21 chiếm 51,6%. Công nghiệp đạt tốc độ tăng cao nhất. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2001 gấp trên 17,3 lần năm 1976, bình quân mỗi năm tăng 11,6%. Công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh gấp tới 26,4 lần, bình quân mỗi năm tăng tới 13,4%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2002 lên đến trên 32,5 ngàn tỉ đồng, đạt 33,7% so với GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2002 đạt 6,3902 tỉ đô la Mỹ, chiếm tới 38,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ tổng thu ngân sách trên địa bàn so với GDP đạt mức khá cao, năm 2002 đạt 35,5%, gấp rưỡi tỷ lệ chung của cả nước. Bên cạnh những thành tựu trên, Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại: “Tuy kinh tế tăng trưởng khá cao so với mức bình quân cả nước, nhưng chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tiềm năng và lợi thế của Thành phố. Kinh tế phát triển chưa vững chắc; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao; nhiều nguồn lực quan trọng và những yếu tố thuận lợi, thế mạnh của Thành phố chưa được khai thác, sử dụng có hiệu quả; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là trong công nghiệp và dịch vụ còn chậm. Các ngành công nghiệp mũi nhọn, có hàm lượng khoa học công nghệ cao và các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn, chuyển giao công nghệ... chưa phát triển. Cơ cấu kinh tế ngày càng bộc lộ sự bất hợp lý, lợi thế cạnh tranh của nhiều sản phẩm Thành phố đang bị giảm dần. Thành phố chưa gắn kết chặt chẽ với các tỉnh chung quanh trong phát triển kinh tế, chưa thể hiện rõ vai trò trung tâm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho cả khu vực phía Nam. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng xấu tới hiệu quả và sức cạnh tranh kinh tế của Thành phố...”. 2.1.2. Thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1991 đến tháng 09/2003: 22 2.1.2.1. Tình hình FDI trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Bảng 1- Số dự án FDI được cấp phép của Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước Năm Thành phố Hồ Chí Minh Cả nước TpHCM so với cả nước (%) Số dự án Vốn ĐT (trUSD) Vốn/ dự án Số dự án Vốn ĐT (trUSD) Vốn/ dự án Số dự án Vốn đầu tư 1991 73 621 8,51 151 1.322 8,75 48,34 46,97 1992 87 714 8,21 197 2.165 10,99 44,16 32,98 1993 102 1.585 15,54 269 2.900 10,78 37,92 54,66 1994 121 1.575 13,02 343 3.765 10,98 35,28 41,83 1995 155 2.498 16,12 370 6.530 17,65 41,89 38,25 1996 114 2.376 20,84 325 8.497 26,14 35,08 27,96 1997 89 1.179 13,25 345 4.649 13,48 25,80 25,36 1998 90 707 7,86 275 3.897 14,17 32,73 18,14 1999 109 471 4,32 311 1.568 5,04 35,05 30,04 2000 111 207 1,86 371 2.012 5,42 29,92 10,29 2001 187 545 1,85 523 2.536 4,85 35,76 21,49 2002 225 299 1,33 694 1.380 1,99 32,42 21,67 ->09/ 2003 151 263 1,74 496 1.237 2,49 30,44 21,26 Tổng 1.614 13.040 8,08 4.670 42.458 9,09 34,56 30,71 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh So với cả nước thì Thành phố chiếm tỷ trọng cao nhất về số dự án FDI được cấp phép và số vốn FDI vào đầu thập niên 90. Tuy nhiên, những năm về sau, số dự án FDI được cấp phép và đặc biệt là tỷ lệ vốn FDI đầu tư vào Thành 23 phố so với cả nước bị sụt giảm. Xét trên bình diện cả nước, thì đây là một điều tốt vì nó thể hiện sự phân bố đồng đều hơn và sự cải thiện môi trường đầu tư của các địa phương; tuy nhiên, nếu đứng trên góc độ của Thành phố, điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Thành phố đã sút giảm rõ rệt. Về số vốn bình quân trên một dự án FDI, sau một thời gian dài tăng đáng kể, từ 1997 đến nay đã sụt giảm liên tục. Tuy con số này không nói lên điều gì về hiệu quả hoạt động nhưng cũng phần nào nói lên sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Thành phố. Sự sụt giảm này là một nguy cơ lớn vì tầm quan trọng của vốn FDI đối với Thành phố ngày càng được khẳng định và sự thiếu hụt vốn FDI sẽ làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng. Muốn con số này tăng lại thì cần một thời gian dài nhưng với điều kiện phải thay đổi mạnh mẽ về chính sách và điều hành cũng như phải có môi trường bên ngoài tương đối thuận lợi. Bảng 2- Quy mô thu hút vốn FDI của dự án từ 1991 đến 2002 Quy mô dự án Số dự án FDI Vốn FDI (triệu USD) Tổng số Cơ cấu (%) Tổng số Cơ cấu (%) Vốn dưới 1 triệu USD 517 38,58 213 1,98 Vốn từ 1 đến 5 triệu USD 553 41,27 1.125 10,46 Vốn từ 5 đến 10 triệu USD 103 7,69 677 6,29 Vốn từ 10 đến 40 triệu USD 113 8,43 2.141 19,90 Vốn từ 40 đến 100 triệu USD 35 2,61 2.108 19,59 Vốn trên 100 triệu USD 19 1,42 4.496 41,78 TỔNG CỘNG 1.340 100,00 10.760 100,00 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh Nếu phân tích theo xu hướng thì số dự án FDI có quy mô dưới 5 triệu USD có xu hướng tăng dần qua các năm (chiếm gần 80% tổng số dự án). 24 Nguyên nhân chính là do các dự án nhỏ, dễ triển khai, dễ huy động vốn, thu hồi vốn nhanh và ít rủi ro hơn các dự án FDI có vốn lớn. Bảng 3- Cơ cấu thu hút vốn FDI phân theo ngành nghề từ 1991 đến 2002 Ngành Số dự án FDI Vốn FDI (trUSD) Vốn/dự án Tổng số % Tổng số % Công nghiệp 853 65,02 4.550 40,04 5,33 Nông nghiệp 10 0,76 56 0,50 5,60 Xây dựng 39 2,97 435 3,82 11,15 Vận tải, bưu điện 58 4,42 1.337 11,76 23,05 Các ngành khác 352 26,83 4.987 43,88 14,17 TỔNG CỘNG 1.312 100,00 11.365 100,00 8,66 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Trong cơ cấu đầu tư theo ngành, ngành sản xuất công nghiệp vẫn luôn là ngành thu hút vốn FDI mạnh nhất. Các ngành còn lại tuy chiếm tỷ trọng thấp nhưng có một số ngành (vận tải, bưu điện, xây dựng...) có tỷ lệ vốn bình quân trên dự án khá cao. Vài năm gần đây, các ngành như: công nghệ thông tin, địa ốc- dịch vụ, tư vấn- bảo hiểm- ngân hàng... cũng phát triển khá mạnh. Bảng 4- Cơ cấu thu hút vốn FDI theo quốc gia và lãnh thổ từ 1991 đến 2002 Quốc gia, lãnh thổ Số dự án FDI Vốn FDI (trUSD) Vốn/dự án Tổng số % Tổng số % Đài Loan 305 23,25 2.099 18,47 6,88 Hàn Quốc 183 13,95 813 7,15 4,44 Hồng Kông 117 8,92 1.876 16,51 16,03 25 Singapore 119 9,07 1.473 12,96 12,38 Pháp 54 4,12 900 7,92 16,67 Nhật 136 10,37 752 6,62 5,53 Anh 34 2,59 603 5,31 17,74 Úc 32 2,44 473 4,16 14,78 Thụy Sĩ 7 0,53 410 3,61 58,60 Hà Lan 16 1,22 483 4,25 30,19 10 đối tác lớn nhất 1.003 76,45 9.892 87,04 9,86 TỔNG CỘNG 1.312 100,00 11.365 100,00 8,66 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Tính đến năm 2002, vốn FDI của 10 đối tác lớn nhất chiếm hơn 87% tổng vốn FDI, cao hơn hẳn so với năm 2000 (khoảng 76%) và tương đương với thời kỳ cao nhất (năm 1994- 1995). Tuy các nước châu Á vẫn chiếm là các đối tác chủ yếu nhưng đa số đối tác có mức vốn bình quân một dự án lớn là các nước châu Âu. Năm 2002 đã xuất hiện nhiều nước đối tác mới, tuy số dự án và số vốn đầu tư còn ít nhưng cũng thể hiện tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam: Samoa, Campuchia, Maritius, Bỉ, Đan Mạch, Thổ Nhĩ Kỳ, Na Uy, Ấn Độ... Bảng 5- Tình hình FDI theo hình thức đầu tư từ 1991 đến 2002 Hình thức đầu tư Số dự án FDI Vốn FDI (trUSD) Vốn/dự án Tổng số % Tổng số % Liên doanh 431 32,85 6.571 57,82 15,25 HĐ hợp tác kinh doanh 53 4,04 1.348 11,86 25,43 100% vốn nước ngoài 819 62,42 3.440 30,27 4,20 Đầu tư ra nước ngoài 9 0,69 6 0,05 0,67 26 TỔNG CỘNG 1.312 100,00 11.365 100,00 8,66 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đến cuối năm 2000, FDI trên địa bàn Thành phố dưới hình thức liên doanh đã giảm mạnh; thay vào đó là sự gia tăng đáng kể hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Tuy hình thức này chỉ chiếm khoảng 30% tổng vốn FDI nhưng trong giai đoạn 2001- 2002 đã chiếm khoảng 78% số dự án và 62% tổng vốn FDI trên địa bàn. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ về số dự án nhưng quy mô vốn bình quân một dự án là cao nhất. 2.1.2.2. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: a/ Với hoạt động xuất khẩu: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Thành phố tăng mạnh nhất vào năm 1994 (241,75%) nhưng sau đó sụt giảm nhanh chóng xuống mức 34,9% vào năm 2000 (so với tỷ lệ 28,5% trong phạm vi cả nước). Mặc dù vậy, tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI của Thành phố so với các doanh nghiệp FDI của cả nước chiếm khá cao (trên dưới 30%). Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong cơ cấu xuất khẩu của Thành phố tăng mạnh từ mức 1,8% của năm 1993 lên tới mức 17- 18% vào những năm gần đây. Mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI luôn tăng nhanh hơn mức trung bình của Thành phố nhưng lại thấp hơn vào những năm 1999- 2000. Có thể có nhiều nguyên nhân như thị trường bị thu hẹp, hàng hóa ít có tính cạnh tranh hơn... nhưng cũng không thể loại trừ nguyên nhân quan trọng là những hành vi chuyển giá (khai báo giá xuất khẩu thấp hơn để tránh thuế). b/ FDI và lao động trên địa bàn: 27 Các dự án FDI góp phần quan trọng trong việc giải quyết lao động cho Thành phố. Đã có trung bình trên 4% tổng lao động toàn Thành phố được giải quyết việc làm ổn định suốt 10 năm qua. Việc tham gia vào hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã góp phần nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp cho cán bộ và tay nghề cho người lao động Việt Nam rất nhiều. Sau 10 năm, cung cách quản lý doanh nghiệp ở Thành phố, kể cả doanh nghiệp trong nước do gián tiếp chịu sự tác động của khu vực doanh nghiệp FDI đã thay đổi, tiến bộ rõ nét. Năng suất lao động của khu vực FDI cao hơn rất nhiều so với mức trung bình của Thành phố (từ 3,19- 6,53 lần). c/ FDI với vấn đề đóng góp vào tăng trưởng: Đóng góp của khu vực FDI vào GDP của Thành phố ngày càng có xu hướng tăng, tỷ trọng trong GDP của khu vực này chiếm tương đối cao từ năm 1995- 2000, trung bình 15- 16%. Ngoài ra, khu vực FDI còn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của Thành phố trong khoảng thời gian này là 30- 32%. Tốc độ tăng trưởng của khu vực này rất nhanh và luôn có mức tăng cao hơn mức tăng GDP chung của Thành phố. Điều này góp phần làm tăng liên tục và chắc chắn tỷ trọng của khu vực này trong kinh tế Thành phố từ mức 4,96% vào năm 1992 lên tới 18,66% vào năm 2000. Một điều đáng lưu ý là mặc dù chỉ sử dụng có trên 4% lao động của Thành phố nhưng đóng góp của khu vực này trong phần tăng trưởng của Thành phố lại rất cao và ổn định. Điều này là do năng suất lao động trong khu vực này tương đối cao so các khu vực kinh tế khác. d/ FDI với vấn đề đóng góp vào ngân sách Nhà nước: Khoản đóng góp thực tế vào ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp FDI tăng nhanh vào những năm 1994- 1998 nhưng sau đó sụt giảm vào năm 1999- 2000. Nguyên nhân một phần là do thay đổi phương thức thu ngân sách nhưng một phần là do tỷ lệ các doanh nghiệp FDI khai lỗ rất cao. 28 Nguồn thu chủ yếu của khu vực này giai đoạn 1991- 2000 chỉ tập trung vào thuế doanh thu (nay là thuế giá trị gia tăng) là 32,72% và thuế tiêu thụ đặc biệt (32,6%). Một nguồn thu mà Nhà nước chưa khai thác được hết (do các chính sách quản lý, chính sách thuế chưa phù hợp) đó là thuế lợi tức (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp), chỉ đạt 12,73% trên tổng số thu trong khu vực, không tương xứng với mức độ lợi nhuận đã phát sinh trên thực tế và với tốc độ tăng trưởng trong khu vực này. 2.2. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHIẾU THĂM DÒ Ở MỘT SỐ CÔNG TY LIÊN DOANH NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: Vào tháng 06/2003, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 473 công ty liên doanh nước ngoài đang hoạt động với quy mô và lĩnh vực kinh doanh rất đa dạng. Tác giả đã thu thập thông tin sơ cấp bằng phương pháp nghiên cứu điều tra qua thư tín (phiếu thăm dò gồm 11 câu hỏi) tại 100 liên doanh nước ngoài, đối tượng gửi là đại diện đối tác bên Việt Nam trong liên doanh và đã nhận được 20% số phiếu trả lời trên tổng số phiếu gửi đi. Sau đây là tóm tắt kết quả: 2.2.1. Về thông tin cá nhân: i. Độ tuổi đa số là từ 40- 50 tuổi (55%), 27% từ 30- 40 tuổi. ii. Chủ yếu là nam (chiếm 73%). iii. Lĩnh vực hoạt động của liên doanh: đa số là kinh doanh- dịch vụ (64%). 2.2.2. Về môi trường hoạt động của công ty liên doanh trong thời gian 05 năm gần đây (1998- 2003): i. Quy định của luật pháp và các bộ, ngành, địa phương: đa số cho rằng không ổn định (55%), 27% cho là ổn định và 18% tương đối ổn định. ii. Chủ trương, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài: 64% nhận định là hơi hấp dẫn (có ý kiến cho rằng các chủ trương chỉ tập trung vào chính sách 29 thuế, tiền thuê đất là khoản chi định kỳ dài hạn, trong khi họ quan tâm nhiều đến việc giảm chi phí hoạt động hàng ngày); 27% cho là không hấp dẫn đầu tư, không làm nhà đầu tư an tâm; chỉ có 9% cho là hấp dẫn. iii. Cơ chế quản lý của Nhà nước: 45% cho là thuận lợi, 18% cho là không thuận lợi. Số còn lại cho rằng chỉ tương đối thuận lợi vì chưa thật sự thông thoáng, còn nhiều bất cập và chưa có hướng ổn định lâu dài. iv. Quy mô thị trường Việt Nam: 63% cho là vừa và 37% cho là nhỏ. v. Mức độ cạnh tranh tại thị trường Việt Nam: 46% cho rằng cao (có ý kiến nhận định còn thể hiện sự không lành mạnh nhưng không được Nhà nước chấn chỉnh có hiệu quả), 27% cho là thấp và 27% cho là hơi cao. 2.2.3. Về tình hình hoạt động và một số thông tin khác của các công ty liên doanh trong thời gian 05 năm gần đây (1998- 2003): i. Kết quả kinh doanh: 55% thua lỗ, 18% bắt đầu có lãi trong vài năm gần đây, 27% hoạt động có lãi. ii. Vốn đầu tư: 45% từ 10 triệu USD trở lên nhưng chỉ có 18% có vốn pháp định trên 10 triệu USD. Đa số (73%) liên doanh đều vay vốn. iii. 82% liên doanh được cấp Giấy phép đầu tư từ năm 1991 đến năm 1996. 2.2.4. Hình thức và tỷ lệ góp vốn của đối tác bên Việt Nam: i. 36% liên doanh có tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam dưới 30%; 36% liên doanh có tỷ lệ từ 30% đến 39%; 28% liên doanh có tỷ lệ từ 40%- 49%. Không có liên doanh nào có tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam từ 50% trở lên. ii. Bên Việt Nam chủ yếu (81%) góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cửa. Số còn lại góp bằng phương tiện hoặc tiền VND. 2.2.5. Về đội ngũ cán bộ bên Việt Nam: 30 i. Đa số cán bộ tham gia Ban Tổng giám đốc là chuyên trách (63%), số còn lại trong Ban Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị là kiêm nhiệm. ii. Quan hệ với đại diện đối tác bên nước ngoài tại công ty liên doanh: 45% bình thường và 55% tốt. iii. Năng lực: Tiêu chuẩn YẾU TRUNG BÌNH KHÁ GIỎI Trình độ ngoại ngữ 18% 28% 36% 18% Trình độ vi tính 18% 18% 64% 0 Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ 0 27% 64% 9% Quan điểm, bản lĩnh chính trị 0 36% 55% 9% 2.2.6. Các biện pháp nâng cao vị thế bên Việt Nam tại liên doanh: 2.2.6.1. Về môi trường pháp lý (Luật và các văn bản dưới luật): + Không cần nhiều văn bản dưới luật, để tránh trùng lắp và mâu thuẫn nhau. + Luật phải rõ ràng, cụ thể, có tính lâu dài, khả thi và có giám sát thực hiện. + Luật trước khi ban hành cần phải tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp, có nghiệm thu một cách hệ thống và kịp thời chỉnh sửa cho phù hợp. + Các văn bản pháp lý của Việt Nam phải được dịch ra nhiều thứ tiếng để nhà đầu tư nước ngoài có thể nắm vững và tuân thủ. + Đối tác Việt Nam phải hướng hoạt động của liên doanh theo đúng luật (được cụ thể bằng Điều lệ liên doanh) thông qua các cuộc họp Hội đồng quản trị và công tác điều hành quản lý hàng ngày. + Xóa bỏ cơ chế hai giá. 2.2.6.2. Về cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước và bên Việt Nam: + Phối hợp bình đẳng, rõ ràng, theo pháp luật. Xóa bỏ cơ chế xin- cho. 31 + Phải lấy phương châm: “Sản xuất kinh doanh là gốc”, “Nuôi sản xuất kinh doanh” để Nhà nước phát triển mạnh hơn, tránh tư tưởng và hành động vì quyền lợi cục bộ của bộ, ngành, địa phương, tránh để doanh nghiệp phải tuân thủ bằng mọi giá các quy định cứng nhắc, lỗi thời của bộ máy hành chính mà triệt tiêu sản xuất kinh doanh, gây tổn thất cho toàn dân và đất nước. + Cơ chế hành chính một cửa, trực tiếp, đối thoại và hợp tác. Giải quyết thủ tục hành chính nhanh gọn khi đơn vị có văn bản đệ trình xin cấp phép hoặc trình báo nhờ giải quyết. Cán bộ cơ quan chức năng phải tránh chuyện nhũng nhiễu, quan liêu khi giải quyết vấn đề. Nên tổ chức thường xuyên các cuộc gặp gỡ, trao đổi để thông tin và xác lập cơ chế phối hợp phù hợp. + Nên luật hóa để quy định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, tuy chỉ là cơ chế phối hợp; hạn chế chức năng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý Nhà nước. + Các chế tài phải đủ mạnh để bên Việt Nam không bị thiệt thòi khi liên doanh: mất thương hiệu, bị đồng hóa, mất cán bộ... + Các cơ quan chủ quản cần quan tâm đến liên doanh có vốn góp của mình. + Tổ chức Đảng, đoàn thể phải phát huy được vai trò của mình để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đối tác bên Việt Nam. 2.2.6.3. Về đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa các bên liên doanh: + Phải hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. + Cân bằng về tỷ lệ góp vốn. + Cơ cấu nhân sự chủ chốt phải có đủ tâm, trí, lực, dũng để tiếp nhận và đương đầu với các khó khăn. + Phải nắm được văn hóa và tâm lý đối tác khi giải quyết vấn đề. Cần mềm dẻo nhưng rất cương quyết để thuyết phục, không nên tạo sự căng thẳng hay im lặng, tránh né khi hai bên đang bàn bạc để giải quyết vấn đề. 32 + Nhà nước phải có các chính sách phù hợp về thị trường, đầu tư, thuế, tiền thuê đất, thu hút lao động có trình độ cao... + Lấy hiệu quả kinh doanh trên cơ sở quy định của pháp luật làm điểm tương đồng chung để đẩy mạnh quan hệ hợp tác. + Hợp đồng liên doanh cần quy định rõ điều kiện, quyền cách chức Ban Tổng giám đốc để tránh xung đột giữa hai bên (do lợi ích cá nhân) trong liên doanh. + Thường xuyên tổ chức các khóa học, viếng thăm giữa hai bên để có thêm sự hiểu biết và quan hệ mật thiết với nhau. 2.2.6.4. Về tỷ lệ và hình thức vốn góp của bên Việt Nam tại liên doanh: + Tùy loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước quy định tỷ lệ và hình thức góp vốn cho phù hợp để nâng cao vị thế bên Việt Nam. + Nếu có khả năng thì mỗi bên nên góp một nửa tỷ lệ góp vốn (bằng tiền mặt, phương tiện hoặc cơ sở vật chất), nếu không thì là 1/3 và bên Việt Nam phải bù đắp bằng cách xử lý thật giỏi trong quan hệ với các cơ quan công quyền. 2.2.6.5.Tiêu chuẩn quan trọng đối với cán bộ bên Việt Nam (thứ tự giảm dần): i. Khả năng quản lý giỏi. ii. Chuyên môn, nghiệp vụ. iii. Khả năng quan hệ với đối tác nước ngoài. iv. Trình độ ngoại ngữ. v. Năng động, sáng tạo. vi. Quan điểm lập trường, bản lĩnh chính trị. vii. Am hiểu kinh tế thị trường. viii. Trình độ vi tính. ix. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. x. Cá tính. 33 Ngoài ra, để nâng cao vị thế bên Việt Nam trong liên doanh, cán bộ bên Việt Nam cần phải có quan hệ rộng với các cơ quan công quyền, am hiểu văn hóa bên đối tác; các chức danh chủ chốt (Ban Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị) phải là cán bộ chuyên trách; thường xuyên được bồi dưỡng về chuyên môn và chính trị; đặc biệt là phải có quy hoạch và luân chuyển cán bộ sau khi đã giữ nhiệm vụ tối đa từ 03 đến 05 năm. 2.3. NHẬN XÉT CHUNG: 2.3.1. Về tình trạng lỗ trong các công ty liên doanh nước ngoài: Theo kết quả thăm dò nêu ở phần 2.2.3, chỉ có 27% công ty liên doanh hoạt động có lãi liên tục từ ngày thành lập, 55% công ty liên doanh liên tục thua lỗ. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan để lý giải vấn đề này. + Các nguyên nhân khách quan: i. Những năm đầu, phương án sản xuất kinh doanh được duyệt có dự kiến lỗ do chưa có thị trường, cần thu hồi vốn nhanh. ii. Tình hình kinh tế Thành phố và nước ta có giai đoạn khó khăn: sức mua giảm; giá thành sản phẩm xuất khẩu cao hơn nhiều nước bị khủng hoảng tiền tệ, phá giá nội tệ; giá ngoại tệ ở Việt Nam ngày càng tăng... iii. Ở một số ngành sản xuất quan trọng như mía đường, xi măng, thép cán, ô tô, xe máy, xe đạp..., do dự đoán ban đầu sai, dẫn đến dư thừa năng lực sản xuất trong khi vốn đầu tư quá lớn, nay cung đã vượt cầu. iv. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan chưa đồng bộ trong việc tạo điều kiện cho các liên doanh nước ngoài phát triển. Đặc biệt là các vấn đề trong lĩnh vực hải quan, thuế, nhập khẩu hàng tiêu dùng trong nước... v. Buôn lậu và hàng giả vẫn còn là vấn đề nhức nhối cho nền kinh tế, làm ứ đọng sản phẩm, giảm doanh thu các doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp. 34 vi. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khách quan khác như: cơ chế áp dụng hai giá cho điện, cước viễn thông, vận tải... Còn nguyên nhân chủ quan chính là hiện tượng “chuyển giá” từ công ty mẹ ở nước ngoài gây ra hiện tượng “lãi công ty mẹ, lỗ công ty con”: i. Trước hết, lợi dụng lúc đầu Việt Nam chưa có cơ quan thẩm định kỹ thuật, giá cả của thiết bị mà bên nước ngoài đưa vào liên doanh dưới hình thức vốn góp, nhà đầu tư nước ngoài đã khai khống giá trị thực tế của máy móc thiết bị để tăng giá trị vốn góp của mình, tăng mức trích khấu hao hàng năm, tăng chi phí đầu vào để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Không những thế, họ còn đưa vào liên doanh thiết bị cũ, chất lượng kém, lạc hậu để lấy lợi nhuận ngay từ đầu khi liên doanh còn chưa hoạt động. ii. Một nguyên nhân khác liên quan đến việc tránh thuế là các nhà đầu tư nước ngoài tận dụng việc luật cho phép được hạch toán lỗ và chuyển lỗ. iii. Trong một số doanh nghiệp do bên nước ngoài độc quyền cung cấp nguyên phụ liệu hoặc tiêu thụ sản phẩm, có tình trạng nâng giá nguyên liệu và hạ giá bán sản phẩm đầu ra, song song đó là chi phí môi giới, hoa hồng rất lớn do không được hạch toán vào giá thành nên giảm lợi nhuận để ghi lỗ tránh thuế và tạo thế độc quyền trong cạnh tranh nhưng công ty mẹ bên ngoài vẫn lãi. iv. Một cách khác để bên nước ngoài lấy lợi nhuận là chi phí cao cho người nước ngoài làm công tác điều hành hay chuyên gia, phí bảo dưỡng sửa chữa thiết bị qua chuyên gia nước ngoài quá lớn... không được khống chế lúc lập dự án. v. Chấp nhận vay với lãi suất cao, mức phạt lớn (theo kết quả thăm dò đã nêu ở phần 2.2.3, 73% liên doanh đều có vay vốn). Thực tế các doanh 35 nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường gặp khó khăn trong việc vay vốn trong nước nên tìm cách vay thông qua các ngân hàng nước ngoài (nhiều khi là vay của đối tác bên nước ngoài) với lãi suất quá cao, thời hạn vay không dài và mức phạt trả chậm lớn. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này, một trong những nguyên nhân sâu xa, quan trọng nhất là các cán bộ bên đối tác Việt Nam được cử tham gia điều hành công ty liên doanh thông qua Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Kế toán trưởng không thể hiện được vai trò của mình, hay nói cách khác là không hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều cán bộ Việt Nam thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ mà giữ cương vị lãnh đạo do bên Việt Nam có đất góp vốn; cho nên, dẫn đến tình trạng không giám sát được việc thu chi, tình hình tài chính và các vấn đề chuyên môn khác trong liên doanh; trong khi đó, họ hầu như không quan tâm việc học tập, nâng cao kiến thức nghiệp vụ, chuyên môn và trau dồi bản lĩnh chính trị. Điều này cũng thể hiện rõ theo kết quả thăm dò đã nêu ở phần 2.2.5, khi hầu hết các cán bộ bên Việt Nam đều tự nhận có bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thuộc loại khá giỏi; trong khi liên doanh hoạt động bị thua lỗ. Một số cán bộ chưa phát huy được vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước trong liên doanh mặc dù Chính phủ đã có Nghị định 73/2000/NĐ-CP ngày 06/12/2000 ban hành Quy chế quản lý phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác. Một số người kém phẩm chất, thoái hóa, lo nghĩ trước hết đến thu nhập và lợi ích cá nhân, không quan tâm đến việc đấu tranh cho quyền lợi bên Việt Nam cũng như tập thể người lao động, cá biệt có trường hợp họ đứng về phía lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài. Một số khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, lãng phí, làm thất thoát tài sản, vốn của doanh nghiệp, gây mất đoàn kết nội bộ, 36 từ đó làm mất uy tín của bên Việt Nam trong liên doanh. Tuy nhiên, ngoài các lý do thuộc về cá nhân cán bộ, cũng còn có các lý do thực tế khách quan: i. Quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm các thành viên của bên Việt Nam tham gia quản lý liên doanh chưa được quy định rõ ràng và mang tính ràng buộc. Mặc dù có Thông tư số 64/2001/TT-BTC ngày 10/08/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 73, nhưng vẫn chưa có quy định rõ ràng, cụ thể, nhất là đối với trường hợp tại liên doanh nước ngoài; trong khi quyền lợi, trách nhiệm cán bộ bên Việt Nam gần như gắn chặt với công ty liên doanh; đặc biệt, là do liên doanh hoạt động theo nguyên tắc nhất trí hoặc đa số nên bên nước ngoài (thường chiếm đa số trong Hội đồng quản trị theo tỷ lệ góp vốn) hoàn toàn có điều kiện chi phối. ii. Các doanh nghiệp đứng tên đại diện phần vốn góp bên Việt Nam chưa thật sự nhận thức, quan tâm đến trách nhiệm quản lý phần vốn góp liên doanh. Có lợi nhuận thì tốt, nếu thua lỗ thì cũng không sao do vốn góp và kết quả hoạt động liên doanh không hòa vào kết quả sản xuất kinh doanh chung của đơn vị. Vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong liên doanh còn mờ nhạt cũng do một phần trách nhiệm của đơn vị chủ quản. Nhiều doanh nghiệp do chỉ được ủy quyền đứng tên thay cho cơ quan chủ quản nên cũng không đầu tư nhiều tâm trí và công sức cho liên doanh. 2.3.2. Sử dụng hình thức đầu tư và vốn Việt Nam trong doanh nghiệp FDI: Như đã trình bày ở các phần trên, các dự án đầu tư theo hình thức liên doanh chiếm tỷ trọng cao hơn so với các hình thức đầu tư khác do nhiều nguyên nhân; trong đó, có lý do thời gian đầu, bên nước ngoài cần có bên Việt Nam để giải quyết nhanh thủ tục cấp phép và được thuận lợi hơn trong khai thác thị trường nội địa. Tuy nhiên, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài dần dần ngày 37 càng tăng cùng với việc liên doanh ngày càng thua lỗ và bên nước ngoài nắm được quyền chi phối doanh nghiệp, đứng chân được trong thị trường Việt Nam. Trong việc sử dụng hình thức liên doanh, ý định tạo điều kiện cho đối tác Việt Nam kiểm tra hoạt động doanh nghiệp, đồng thời học tập thêm kinh nghiệm quản lý mới không được thực hiện trọn vẹn. Trong thực tế, tại nhiều doanh nghiệp, do chiếm ưu thế về vốn (theo kết quả thăm dò đã nêu ở phần 2.2.4, 100% liên doanh có tỷ lệ vốn góp bên Việt Nam dưới 50%), bên đối tác nước ngoài hoàn toàn chi phối hoạt động doanh nghiệp; chỉ phân công cho cán bộ Việt Nam đảm nhận các chức danh phụ, không kể nhiều trường hợp hai bên đối tác luôn xung đột, bất hợp tác làm ngưng trệ hoạt động của doanh nghiệp. Nguyên nhân chính của tình hình đó là do đội ngũ cán bộ Việt Nam tuy được chọn lựa khá kỹ, nhưng trình độ, kinh nghiệm còn thấp hơn nhiều so với đối tác đầu tư nước ngoài; việc quản lý, theo dõi, giúp đỡ, bồi dưỡng cho cán bộ Việt Nam sau khi được phân công vào liên doanh chưa được thực hiện tốt. Mặt khác, để phù hợp với thông lệ chung, luật pháp và chính sách của ta đã giảm dần các lĩnh vực hoạt động của liên doanh phải áp dụng nguyên tắc nhất trí, dẫn đến nhiều quyết định được tiến hành bằng nguyên tắc đa số, bên nước ngoài được lợi thế và có điều kiện điều hành doanh nghiệp theo ý định riêng của họ. Một vấn đề tiếp theo là trong thời gian qua, phần vốn Việt Nam trong liên doanh chưa được quan tâm quản lý hoặc phát huy sử dụng tốt. Trong trường hợp liên doanh bị lỗ không do nguyên nhân khách quan, trách nhiệm đó trước hết thuộc về doanh nghiệp đối tác Việt Nam, vì họ chưa đủ sức phân tích, đấu tranh với bên nước ngoài để điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, khắc phục tình trạng lỗ. Mặt khác, thời gian qua, n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0256.pdf