Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường giao nhận vận tải tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS)

Tài liệu Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường giao nhận vận tải tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS): MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 4 Chương 1: Một số vấn đề về phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải và khái quát về công ty giao nhận kho vận ngoại thương- Vietrans. 6 Một số vấn đề về phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. 6 1.1.1. Phát triển thị trường dịch vụ 6 1.1.1.1. Phát triển thị trường dịch vụ và vai trò, ý nghĩa của việc phát triển thị trường dịch vụ. 6 1.1.1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường dịch vụ của doanh nghiệp. 8 Dịch vụ giao nhận vận tải và... Ebook Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường giao nhận vận tải tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS)

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường giao nhận vận tải tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển thị trường giao nhận vận tải. 9 1.1.2.1. Dịch vụ giao nhận vận tải. 9 1.1.2.1.1. Dịch vụ vận tải. 9 1.1.2.1.2. Dịch vụ giao nhận. 10 1.1.2.1.3. Mối quan hệ giữa dịch vụ giao nhận và vận tải. 13 1.1.2.2. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải và phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. 13 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của doanh nghiệp. 15 1.1.3.1 Các nhân tố chủ quan. 15 1.1.3.2. Các nhân tố khách quan. 16 1.2. Khái quát về công ty Giao nhận kho vận ngoại thương- Vietrans. 20 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 20 1.2.2. Chức năng- hoạt động. 22 1.2.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức. 27 1.2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty. 30 Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại Công ty Vietrans. 34 2.1. Tổng quan về sự phát triển dịch vụ giao nhận vận tải tại Việt Nam 34 2.2. Thực trạng thị trường và công tác phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại Vietrans. 41 2.2.1. Về thị trường. 42 2.2.2. Về đối thủ và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. 45 2.2.3. Về thị phần và chất lượng dịch vụ giao nhận vận tải của Công ty trên thị trường. 47 2.3. Đánh giá công tác phát triển thị trường giao nhận vận tải tại Vietrans. 48 Chương 3: Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương. 51 3.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển dịch vụ giao nhận vận tải của Công ty trong giai đoạn tới. 51 3.1.1. Phương hướng-nhiệm vụ. 51 3.1.2. Mục tiêu. 53 3.2. Biện pháp phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại Vietrans. 54 3.2.1. Giải pháp thị trường. 54 3.2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường. 54 3.2.1.2. Đẩy mạnh nghiên cứu nhu cầu thị trường và nhu cầu khách hàng. 55 3.2.1.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ và xây dựng cơ cấu giá hợp lý. 56 3.2.1.4. Tìm hiểu, đánh giá và có chiến lược thích hợp với các đối thủ cạnh tranh. 57 3.2.1.5. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. 59 3.2.1.6. Xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh cho các đại lý, chi nhánh của Công ty trong và ngoài nước. 60 3.2.1.7. Hạn chế đến mức thấp nhất sự ảnh hưởng của tính thời vụ để tạo sự chủ động trong kinh doanh. 61 3.2.2. Các giải pháp về quản lý, tài chính, nhân sự. 62 3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. 66 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là quốc gia đang nổi lên với nền kinh tế phát triển năng động và có tốc độ tăng trưởng cao thứ 2 thế giới. Các tổ chức kinh tế, tài chính trên thế giới đã đưa ra những đánh giá và sự báo rất khả quan về sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới. Cùng với sự phát triển kinh tế là quá trình chúng ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Dấu mốc quan trọng cho quá trình này là nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới. Đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế có nhiều ngành kinh doanh khác nhau. Trong đó ngành dịch vụ giao nhận vận tải là một ngành dịch vụ còn mới mẻ mới xuất hiện tại nước ta trong khoảng 20 năm trở lại đây nhưng đây là ngành dịch vụ được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng rất cao trong thời gian tới cùng với sự tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó dịch vụ giao nhận vận tải còn là ngành phù hợp với điều kiện của nước ta và có thể tận dụng ưu thế về vị trí địa lí để phát triển thành ngành kinh tế có khả năng cạnh tranh cao và trên thị trường quốc tế và có đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân. Hiện nay trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải. Trong đó công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS) là công ty hàng đầu của nước ta trong lĩnh vực này. Trong thời gian trước VIETRANS là công ty nhà nước độc quyền trong lĩnh vực giao nhận vận tải tại nước ta. Nhưng trong thời gian gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình mở của hội nhập kinh tế thì VIETRANS đã gặp nhiều khó khăn, mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng nhưng quá trình phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của công ty còn chưa thật sự có hiệu quả cao. Với mong muốn có thể góp một phần vào quá trình phát triển thị trường giao nhận vận tải tại công ty nói riêng và nước ta nói chung nên em đã chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm phát triển thị trường giao nhận vận tải tại công ty giao nhận kho vận ngoại thương (VIETRANS)" Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG - VIETRANS Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI TẠI CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG (VIETRANS) Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI TẠI CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG (VIETRANS). CHƯƠNG I Một số vấn đề về phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải và khái quát về công ty giao nhận kho vận ngoại thương- Vietrans. Một số vấn đề về phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. 1.1.1. Phát triển thị trường dịch vụ. 1.1.1.1. Phát triển thị trường dịch vụ và vai trò, ý nghĩa của việc phát triển thị trường dịch vụ. * Dịch vụ: Dịch vụ, trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất. Dịch vụ có các đặc tính sau: Tính đồng thời: sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời; Tính không thể tách rời: sản xuất và tiêu dùng dịch vụ không thể tách rời. Thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia; Tính chất không đồng nhất:không có chất lượng đồng nhất; Vô hình: không có hình hài rõ rệt. Không thể thấy trước khi tiêu dùng; Không lưu trữ được: không lập kho để lưu trữ như hàng hóa được. * Thị trường dịch vụ: Thị trường dịch vụ có thể hiểu là chỉ địa điểm hay không gian của trao đổi cung ứng dịch vụ, đó là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán các dịch vụ. * Phát triển thị trường: Phát triển thị trường với mục tiêu quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp là làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có chiến lược để phát triển thị trường thì doanh nghiệp luôn phải tính đến hiệu quả của việc phát triển thị trường đó mang lại, thước đo đầu tiên để đánh giá chính là doanh thu và lợi nhuận từ việc phát triển thị trường đem lại cho doanh nghiệp. Chất lượng của sản phẩm dịch vụ và giá cả là hai yếu tố quan trọng trong phát triển thị trường. Khi muốn chiếm lĩnh thị trường thì doanh nghiệp phải có chất lượng sản phẩm tốt thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường khi có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh và cạnh tranh lẫn nhau thì khách hàng có nhiều sự lựa chọn, do vậy sự lựa chọn sẽ dành cho sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn, thỏa mãn nhu cầu tốt hơn. Bên cạnh đó giá cả cũng là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển thị trường của doanh nghiệp. Giá cả sản phẩm sẽ được doanh nghiệp xây dựng phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Giá cả phải hợp lý, linh động phù hợp với sự thay đổi của thị trường đảm bảo cho sự phát triển trong dài hạn. Nâng cao năng lực cạnh tranh cũng là yếu tố giúp doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường mới và phát triển tốt hơn trên thị trường hiện tại. Khi mà sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp yếu kém thì khả năng đứng vững trên thị trường trước sự cạnh tranh gay gắt của nhiều đối thủ khác và việc phát triển thị trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Với một thị trường hàng hóa sản phẩm dịch vụ nào đó thì luôn tồn tại nhiều sản phẩm với thương hiệu khác nhau, người tiêu dùng sẽ chọn sản phẩm có uy tín và thương hiệu đã được khẳng định trên thị trường. Do vậy để phát triển thị trường doanh nghiệp phải tạo dựng được thương hiệu và uy tín cho sản phẩm. Điều này phải được khẳng định qua giá cả, chất lượng và sự thỏa mãn, hài lòng của người tiêu dùng trên thị trường. * Vai trò, ý nghĩa của phát triển thị trường dịch vụ. Trong quá trình sản xuất thì doanh nghiệp sử dụng nguồn lực của mình biến đầu vào là nguyên nhiên vật liệu thành đầu ra chính là sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Thị trường tiêu thụ chính là đầu ra cho sản phẩm đó, muốn tiêu thụ được hàng hóa thì doanh nghiệp cần có thị trường và phải tiến hành nhiều chiến lược và biện pháp để phát triển thị trường. Phát triển thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong sản xuất kinh doanh hàng hóa, mục đích của nhà sản xuất kinh doanh và của người bán là bán được nhiều hàng hóa và thu lợi nhuận. Vì vậy nền sản xuất càng phát triển thì việc bán hàng càng khó khăn hơn, khối lượng hàng hoá cần trao đổi ngày càng nhiều hơn và do đó cần thiết hơn cả là việc phát triển một thị trường mở rộng về không gian lẫn thời gian. Do đó làm tốt công tác phát triển thị trường là tiền đề then chốt để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và định hướng cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 1.1.1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường dịch vụ của doanh nghiệp. * Chỉ tiêu định lượng: Chỉ tiêu quan trọng hàng đầu trong sự đánh giá phát triển thị trường của doanh nghiệp đó chính là doanh thu và lợi nhuận từ việc phát triển thị trường đó mang lại. Mặc dù trong giai đoạn đầu phát triển thị trường doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận không cao thậm chí là phải bù lỗ nhưng khi xem xét đánh giá toàn bộ quá trình phát triển thị trường thì doanh thu và lợi nhuận tăng hay giảm thực sự thì doanh nghiệp có thể đánh giá được hiệu quả của sự phát triển thị trường đó. Kinh doanh dịch vụ có đặc thù, nó là một loại hàng hoá vô hình, rất khó để có thể đo lường, định lượng được do vậy mà chỉ tiêu để đánh giá khối lượng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đó chính là số lượng hợp đồng cung cấp dịch vụ đã thực hiện thành công. Khi tiêu dùng dịch vụ thì quá trình mua và bán luôn diễn ra đồng thời giữa người cung cấp và người tiêu dùng hay sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau. Số lượng dịch vụ đã tiêu dùng được đánh giá và thống kê trên chứng từ và các hợp đồng cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp, nó phản ánh khả năng chiếm lĩnh và phát triển thị trường của doanh nghiệp như thế nào. Thị trường luôn tồn tại cạnh tranh và có nhiều nhà cung cấp, thị trường dịch vụ cũng vậy, mỗi một loại hình dịch vụ sẽ có nhiều nhà cung cấp. Để đo lường sự phát triển của thị trường đến đâu thì chỉ tiêu thị phần cũng phản ánh tương đối rõ nét. Khi sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp được đánh giá tốt hơn các sản phẩm khác trên thị trường thì thị phần cho sản phẩm đó chắc chắn là cao và khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp là rất lớn. * Các chỉ tiêu định tính: Chỉ tiêu để đánh giá chất lượng dịch vụ là sự thỏa mãn và hài lòng của khách hàng về dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Do dịch vụ không có chỉ tiêu cụ thể và chuẩn mực để đánh giá về chất lượng do vậy mà nó tốt khi được người tiêu dùng cảm thấy hài lòng, đáp ứng được nhu cầu của họ đặt ra và họ sẽ tiếp tục tiêu dùng lại dịch vụ đó khi có nhu cầu. Ngược lại thì chất lượng dịch vụ đó là chưa tốt và doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và cần phải có điều chỉnh để thoả mãn nhu cầu của họ. Uy tín và thương hiệu tuy khó định lượng và đánh giá nhưng nó là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá được sự phát triển thị trường của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ngày nay, việc tạo dựng được uy tín trên thị trường là tương đối khó và mất nhiều công sức. Nhưng nó có thể dự báo được khả năng đứng vững và thành công của doanh nghiệp trong tương lai. Do vậy mà khi đánh giá khả năng phát triển thị trường của doanh nghiệp ta phải xem xét đến uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp đó trên thị trường là như thế nào. Dịch vụ giao nhận vận tải và phát triển thị trường giao nhận vận tải. 1.1.2.1. Dịch vụ giao nhận vận tải. 1.1.2.1.1. Dịch vụ vận tải. * Khái niệm: Vận tải được hiểu là hoạt động có mục đích của con người nhằm thay đổi vị trí của con người và hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Lịch sử phát triển của vận tải gắn liền với hoạt động và sự phát triển của loài người. * Vai trò và ý nghĩa của vận tải đối với hoạt động kinh tế: Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Giao thông vận tải rất quan trọng, quan trọng với chiến đấu, đối với sản xuất, đối với đời sống nhân dân. Nó như mạch máu của con người. Muốn chiến đấu tốt, muốn sản xuất tốt, muốn đời sống nhân dân bình thường thì giao thông vận tải phải làm tốt”. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì vai trò của giao thông vận tải ngày càng quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. - Trong một quốc gia thì vận tải góp phần phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, bên cạnh đó vận tải còn giúp cho việc lưu thông hàng hóa và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của xã hội. - Trong hoạt động kinh tế quốc tế: Vận tải giúp cho việc phát triển và mở rộng thị trường buôn bán quốc tế, mở rộng cơ cấu mặt hàng và cơ cấu thị trường. Vận tải quốc tế có thể bảo vệ tích cực hoặc làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế với hai chức năng phục vụ và kinh doanh. Mọi hoạt động buôn bán quốc tế đều cần đến dịch vụ vận tải, nó có quan hệ hữu cơ và gắn chặt với hoạt động kinh doanh quốc tế. 1.1.2.1.2. Dịch vụ giao nhận. * Khái niệm: Đặc điểm nổi bật của buôn bán quốc tế là người mua và người bán ở những địa điểm khác nhau. Sau khi ký hợp đồng thì hàng hóa được vận chuyển liên quan đến nhiều khâu khác nhau như: lựa chọn bao bì, đóng gói lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải, bốc dỡ hàng hóa và giao cho người nhận...Những công việc đó được gọi là dịch vụ giao nhận. Dịch vụ giao nhận (Freight Forwarding Service) theo “Quy tắc mẫu” của Hiệp hội giao nhận quốc tế FIATA thì dịch vụ giao nhận là bất kỳ loại hình dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp hay đóng gói, phân phối hàng hoá cũng như dịch vụ tư vấn có liên quan đến dịch vụ kể trên. Theo Luật Thương Mại của Việt Nam thì giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa từ người gửi, tổ chức vận chuyển lưu kho, lưu bãi làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của người chủ hàng, của người vận tải hoặc người giao nhận khác. * Phân loại dịch vụ giao nhận vận tải: - Căn cứ vào phạm vi hoạt động: + Giao nhận quốc tế. + Giao nhận nội địa. - Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh: + Giao nhận thuần tuý: Là hoạt động chỉ bao gồm thuần tuý việc gửi hàng đi hoặc nhận hàng đến. + Giao nhận tổng hợp: Là hoạt động giao nhận bao gồm tất cả các hoạt động như xếp dỡ, bảo quản, vận chuyển… - Căn cứ vào tính chất giao nhận: + Giao nhận riêng: Là hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu tự tổ chức, không sử dụng lao vụ của dịch vụ giao nhận. + Giao nhận chuyên nghiệp: Là hoạt động giao nhận của các tổ chức chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận theo sự uỷ thác của khách hàng. - Căn cứ vào phương thức giao nhận: + Giao nhận bằng đường biển. + Giao nhận hàng không. + Giao nhận đường thuỷ. + Giao nhận đường sắt. + Giao nhận ô tô. + Giao nhận bưu điện. + Giao nhận đường ống. + Giao nhận vận tải liên hợp, vận tải đa phương thức. * Vai trò và sự cần thiết của dịch vụ giao nhận: Giao nhận vận tải là ngành dịch vụ được chuyên môn hoá ngày càng cao, được tổ chức theo quy mô quốc gia và quốc tế. Nó có vai trò rất quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Dịch vụ giao nhận có vai trò bảo vệ quyền lợi của khách hàng và giảm chi phí vận tải. Khi việc chuyên chở hàng hoá được thực hiện thì trên cơ sở chuyên môn hoá sâu sắc nên người giao nhận biết rõ xu hướng của thị trường cùng giá cước, thông thạo các điều khoản trong hợp đồng và nắm vững các tập quán thương mại quốc tế… Những vấn đề này do phải tập trung vào kinh doanh nên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể gặp phải vướng mắc trong vận chuyển quốc tế và nhiều khi gây ra tổn thất rất lớn. Mặc khác do nắm chắc nghiệp vụ gom hàng nên người giao nhận tận dụng được dung tích tải trọng của công cụ, phương tiện vận tải nhờ đó giảm được chi phí vận tải cho người gửi hàng. Dịch vụ giao nhận còn tạo điều kiện cho các nhà xuất nhập khẩu hoạt động có hiệu quả hơn. Khi người giao nhận thực hiện công việc dựa trên sự uỷ thác của khách hàng, họ sẽ sử dụng kho của mình hoặc cho thuê kho của người giao nhận khác và sử dụng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của mình. Nhờ đó mà người kinh doanh sẽ tiết kiệm được chi phí xây dựng kho và chi phí đào tạo nhân công. Do giảm được chi phí này và thời gian nên các nhà xuất nhập khẩu sẽ giảm được giá thành sản phẩm, tập trung vào hoạt động kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. 1.1.2.1.3. Mối quan hệ giữa dịch vụ giao nhận và vận tải. Trong kinh doanh buôn bán quốc tế thì khi tiến hành dịch vụ giao nhận thì người giao nhận phải sử dụng phương tiện vận tải để chuyên chở hàng hoá. Hai loại hình dịch vụ này luôn gắn liền với nhau và nhiều lúc bao hàm lẫn nhau. Trong dịch vụ giao nhận nhiều lúc đã bao gồm cả dịch vụ vận tải luôn trong đó do người giao nhận cung cấp. Sự bổ sung cho nhau của dịch vụ giao nhận vận tải góp phần thực hiện buôn bán, kinh doanh quốc tế hiệu quả hơn. Đối với công tác vận tải thì với kinh nghiệm cũng như hiểu biết của người giao nhận về thị trường và các thủ tục cần thiết do vậy sẽ giúp cho người vận tải thực hiện công việc tốt hơn, tiết kiệm chi phí về kho bãi, bốc xếp…và công việc sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Người giao nhận được coi là kiến trúc sư của vận tải. Khi dịch vụ vận tải được tiến hành đúng thời gian và hiệu quả cao thì nó sẽ giúp dịch vụ giao nhận hoàn thành việc giao nhận hàng hoá nhanh chóng, chính xác và ít phát sinh chi phí do việc chậm trễ của vận tải đem lại. Tóm lại dịch vụ giao nhận và vận tải có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau tác động qua lại lẫn nhau giúp cho việc thông thương hàng hoá trên toàn thế giới. Do vậy khi tiến hành kinh doanh thì các doanh nghiệp thường tiến hành cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải cùng nhau, hỗ trợ nhau thực hiện việc vận chuyển hàng hoá với hiệu quả cao hơn. 1.1.2.2. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải và phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải là thị trường về hàng hoá dịch vụ, đây là sản phẩm vô hình nên thị trường cũng sẽ có những đặc điểm của hàng hoá dịch vụ. Chất lượng dịch vụ giao nhận vận tải rất khó đo lường chính xác được mà nó phụ thuộc vào sự thoả mãn của người tiêu dùng trên thị trường. Mặt khác cung trên thị trường dịch vụ giao nhận vận tải không ổn định vì các hợp đồng cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhiều khi gặp khó khăn về thời gian và phương tiện vận chuyển do khả năng cung ứng của doanh nghiệp nhiều khi bị quá tải. Cầu của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải mang tính thời vụ, vào những thời điểm mà hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ và tăng mạnh trong năm thì nhu cầu về vận chuyển và giao nhận hàng hoá tăng mạnh. Sự phát triển của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của nền kinh tế. Khi mà nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra mạnh mẽ, hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hoá cũng tăng theo và dịch vụ giao nhận vận tải cũng sẽ phát triển, thị trường cũng sẽ phát triển để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nếu hoạt động kinh tế quốc tế gặp khó khăn và cản trở vì nhiều lý do khác nhau sẽ dẫn đến sự suy giảm của thị trường do nhu cầu vận chuyển và giao nhận giảm xuống. Nếu xét về quy mô thị trường dịch vụ giao nhận vận tải thì đây là thị trường tương đối rộng lớn và có tính chất quốc tế cao. Do khoảng cách về địa lý nên vận chuyển hàng hoá và giao nhận có vị trí rất quan trọng trong buôn bán quốc tế. Yêu cầu đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cần phải có quy mô và nguồn khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu cũng như uy tín trên thị trường. Do vậy mà trên thị trường thường hình thành các công ty lớn, tập đoàn với kinh nghiệm, tính chuyên nghiệp, cơ sở vật chất hùng hậu có các chi nhánh, đại lý trên khắp thế giới. Sự phát triển của thị trường cũng chịu ảnh hưởng lớn của các tập đoàn này. Các doanh nghiệp có xu hướng liên doanh liên kết với nhau để có thể cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải tốt hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường. 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của doanh nghiệp. 1.1.3.1 Các nhân tố chủ quan. * Đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực đối với bất cứ doanh nghiệp dịch vụ nào cũng đều là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường. Đội ngũ nhân lực phải đảm bảo cả về số lượng cũng như chất lượng thì doanh nghiệp mới có thể làm tốt công tác phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải, nếu chỉ đáp ứng được về quân số mà không đảm bảo được trình độ của nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải thì doanh nghiệp cũng không thể đứng vững trên thương trường đầy tính cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh đó nếu không đáp ứng được số lượng cán bộ công nhân viên đảm trách thì doanh nghiệp cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh như là không thể bao quát hết khối lượng công việc do thiếu nhân sự, không đảm bảo tiến độ công việc nếu như thiếu nhân công…Do vậy cần một đội ngũ nhân lực đủ về số lượng và chất lượng cho công tác phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của doanh nghiệp. Một nguồn nguồn nhân lực tốt, chất lượng sẽ là tiền đề cho sự phát triển và tăng cường mạnh mẽ của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập WTO, cần có những giải pháp cụ thể cho nguồn nhân lực trong doanh nghiệp để thúc đẩy sự phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải trước những khó khăn thách thức trong thời gian tới. * Nguồn vốn đầu tư cho phát triển dịch vụ giao nhận vận tải. Nguồn vốn luôn là yếu tố đầu tiên, quan trọng, có thể nói là điều kiện cần của một doanh nghiệp. Nguồn vốn nhỏ, không thể đáp ứng được việc mở rộng hoạt động, phát triển doanh nghiệp, ngay cả việc duy trì hoạt động cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Đối với dịch vụ giao nhận vận tải, nguồn vồn đầu tư cho phát triển dịch vụ sẽ là điều kiện tiền đề cho phát triển dịch vụ vận tải cả về quy mô và chất lượng. Từ nguồn vốn đầu tư cho phát triển để mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, tuyển dụng thêm lao động để mở rộng các dịch vụ giao nhận vận tải hiện tại, khai thác thêm các dịch vụ khác. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển dịch vụ giao nhận vận tải này còn là chi phí cho điều tra thị trường, tổ chức các chương trình thu hút khách hàng, khuyến khích nhân viên làm việc. Ngoài ra nguồn vốn đầu tư cho phát triển dịch vụ giao nhận vận tải còn là yếu tố mang tính đảm bảo về khả năng tài chính, tạo lập sự tin tưởng của khách hàng vào công ty để tác động đến việc quyết định của khách hàng giao việc giao nhận vận tải cho công ty. * Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bộ phận chuyên trách. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bộ phân chuyên trách tác động trực tiếp đến từng khâu, từng bộ phận của các quá trình, các phần công việc trong việc phát triển thị trường dịch vụ giao nhận. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bộ phận chuyên trách quyết định chất lượng công việc của các khâu, quyết định tính chính xác của các kết quả phân tích thị trường, tính chính xác của các chiến dịch mở rộng dịch vụ, tiếp cận khách hàng từ đó mà tác động lên việc phát triển thị trường dịch vụ. Các cán bộ chuyên trách có chuyên môn tốt giúp giảm thiểu các rủi ro từ việc quyết định, thực hiện sai kế hoạch phát triển thị trường, mở rộng dịch vụ, nâng cao hiệu quả thực hiện công việc của các khâu, tiết kiệm chi phí, xây dựng uy tín cho doanh nghiệp Ngoài ra trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bộ phận chuyên trách còn giúp rút ngắn thời gian thực hiện các công việc và quyết định tính kịp thời của các quyết định, các kế hoạch phát triển thị trường dịch vụ giao nhận. 1.1.3.2. Các nhân tố khách quan. * Nhân tố kinh tế. Dịch vụ giao nhận vận tải nhằm vận chuyển hàng hoá phục vụ sản xuất kinh doanh, khi mà nền kinh tế có sự tăng trưởng cao hoặc chững lại sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường. Tăng trưởng kinh tế sẽ mở rộng quy mô của sản xuất kinh doanh. Khối lượng hàng hoá cần vận chuyển và lưu thông cũng sẽ tăng và thúc đẩy hoạt động giao nhận vận tải. Do đặc thù của dịch vụ giao nhận vận tải liên quan chặt chẽ đến cơ sở hạ tầng cùng hệ thống kho tàng bến bãi của ngành vận tải nên sự phát triển thị trường của dịch vụ này chịu ảnh hưởng của sự phát triển ngành vận tải. Hàng hóa muốn vận chuyển thông suốt, nhanh chóng thì hệ thống giao thông phải đảm bảo trong một quốc gia và trên thế giới. Khu vực nào hay quốc gia nào trên thế giới mà có hệ thống đường xá và cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành giao thông tốt thì thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại đó sẽ có cơ hội phát triển cao và hiệu quả. Ngược lại nếu thực hiện đẩy mạnh phát triển dịch vụ giao nhận vận tải mà sự đồng bộ của hệ thống giao thông vận tải không cao thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trên thế giới đang diễn ra xu thế lớn là toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại. Sự phát triển của mỗi quốc gia cũng sẽ chịu ảnh hưởng của sự phát triển của sự phát triển kinh tế thế giới. Dịch vụ giao nhận vận tải phụ thuộc nhiều vào hoạt động kinh doanh buôn bán quốc tế. Do vậy mà sự phát triển của thị trường phụ thuộc rất lớn vào sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia với nhau sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên, những ưu đãi về thuế quan và nhiều ưu đãi khác sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. Đối với sự phát triển của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải thì đòi hỏi phải có sự đầu tư tương đối lớn và đồng bộ, do quy mô hoạt động của thị trường là rất lớn và rộng trên phạm vi thế giới cần kỹ thuật nghiệp vụ cao theo kịp với xu thế giao nhận vận tải của thế giới. Mặt khác muốn phát triển thị trường tốt thì các doanh nghiệp lại phải có cơ sở vật chất kỹ thuất tương đối tốt cùng với hệ thống kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển chuyên dụng để kinh doanh. Với quy mô đầu tư lớn như vậy thì ít có doanh nghiệp có đủ khả năng đầu tư. Do vậy sự phát triển của thị trường phụ thuộc rất lớn vào sự đầu tư của Nhà nước về hệ thống cơ sở vật chất như cảng biển, cảng hàng không, nâng cấp các kho tàng, bến bãi cùng nhiều ưu đãi để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường. Sự phát triển của thị trường còn phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp lớn trên thế giới cùng cung cấp dịch vụ. Đó hầu hết là các doanh nghiệp lớn hoạt động lâu đời và có rất nhiều kinh nghiệm trong giao nhận vận tải quốc tế, bên cạnh là họ có đội ngũ thực hiện giao nhận rất chuyên nghiệp. Điều này sẽ tạo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đi sau muốn phát triển thị trường dịch vụ này. * Nhân tố chính trị, luật pháp. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải cũng là thị trường hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân nên sẽ chịu ảnh hưởng bởi đường lối phát triển thị trường và cơ chế thị trường của Nhà nước. Mỗi quốc gia có đường lối phát triển kinh tế khác nhau, thể chế chính trị khác nhau và do vậy quan điểm về phát triển, định hướng thị trường sẽ có những điểm khác nhau và trong đó nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải. Đặc điểm của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải là mang tính quốc tế cao. Muốn phát triển thị trường có hiệu quả thì cần có mối quan hệ tốt về chính trị và kinh tế. Thực tế thì các quốc gia có quan hệ chính trị và ngoại giao tốt thì sự thuận lợi trong giao nhận và vận tải là điều dễ nhận thấy. Bên cạnh đó các quốc gia này còn giành cho nhau những ưu đãi để thúc đẩy mối quan hệ và thị trường dịch vụ giao nhận vận tải sẽ phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Nếu quan hệ chính trị của hai quốc gia và khu vực không được tốt thì nó sẽ cản trở hoạt động buôn bán và thị trường dịch vụ giao nhận vận tải cũng khó mà phát triển được. Nhân tố luật pháp cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải, mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng biệt. Trong xu thế hiện nay tuy luật pháp các quốc gia thường tuân thủ các quy tắc buôn bán quốc tế nhưng trong các quy định, hệ thống luật pháp vẫn có những bảo hộ hay những ưu đãi cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia đó. Sự phát triển của thị trường dịch vụ giao nhận vận tải cũng chịu ảnh hưởng bởi những quy định đó. Thông thường các quốc gia có quy định rất chặt chẽ về thủ tục hải quan, quá cảnh hàng hóa tạo ra một số khó khăn cho các công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải. Trừ một số quốc gia trong cùng khu vực hoặc các khối liên kết như Asean, EU…sẽ giành cho nhau một số ưu đãi, tạo thuận lợi cho giao thương giữa các quốc gia. Do vậy mà khi tiến hành các biện pháp phát triển thị trường thì các doanh nghiệp phải tính đến yếu tố luật pháp để có chiến lược phát triển cho phù hợp. * Nhân tố văn hóa, xã hội. Trong buôn bán quốc tế luôn tồn tại các tập quán khác nhau ở các khu vực khác nhau. Châu Mỹ sẽ có phong tục tập quán khác Châu Phi, khác với Trung Đông, và khác với Châu Á… Đó chính là các quy định bất thành văn của các thương nhân nhưng chúng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc buôn bán và trao đổi hàng hoá và sự phát triển của thị trường giao nhận vận tải. Mặc dù hiện nay các quy định buôn bán quốc tế được tổ chức thành các quy định trong Incoterms nhưng tập quán buôn bán vẫn là một phần trong các quy định buôn bán quốc tế. Nó sẽ có những ảnh hưởng tích cực nếu các doanh nghiệp hiểu và có những điều chỉnh để phát triển thị trường, ngược lại nếu các doanh nghiệp thiếu hiểu biết hoặc tìm hiểu chưa sâu thì sẽ gặp phải những khó khăn trong việc phát triển thị trường. Trên thế giới tồn tại nhiều nền văn hoá khác nhau, với mỗi nền văn hoá có những ngôn ngữ phong tục khác nhau, cách thức sinh hoạt cũng sẽ khác nhau. Khi một doanh nghiệp giao nhận vận tải muốn kinh doanh như mở đại lý, chi nhánh thì phải tính đến yếu tố văn hoá của nước sở tại, thái độ của người dân địa phương đối với hoạt động của doanh nghiệp, bên cạnh đó là các tập quán sinh hoạt của họ cùng thiện cảm của họ về quốc gia có doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ giao nhận vận tải. Như vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của ._.thị trường có nhiều nhân tố. Mỗi nhân tố có những ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau nhưng khi phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải thì các doanh nghiệp cần phân tích các nhân tố này để có những chiến lược cùng các biện pháp để có thể phát triển thị trường mang lại hiệu quả cao nhất. 1.2. Khái quát về công ty Giao nhận kho vận ngoại thương- Vietrans. 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển. Công ty Giao Nhận Kho Vận Ngoại Thương là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Thương Mại. Tiền thân của Công ty là Cục kho vận kiêm Tổng Công ty Giao Nhận Kho Vận Ngoại Thương – đây là tổ chức giao nhận đầu tiên ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 554/BNT ngày 13/8/1970 của Bộ Thương Mại. Hiện nay tên chính thức của Công ty là “Công ty Giao Nhận Kho Vận Ngoại Thương”, tên tiếng anh là Viet Nam Foreign Trade Forwarding And Werehousing Corporation. Tên giao dịch đối ngoại viết tắt là VIETRANS, trụ sở chính được đặt tại 13 Lý Nam Đế, Quận Ba Đình, Hà Nội và được thành lập theo quyết định số 337/TM/TCCB ngày 31/3/1993 của Bộ Thương Mại. Trước năm 1986, do chính sách nhà nước độc quyền ngoại thương nên Vietrans là đơn vị duy nhất hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận ngoại thương phục vụ tất cả các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cả nước, như vậy hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận ngoại thương được tập trung vào một đầu mối để tiếp nối quá trình lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu trong và cả ngoài nước do Bộ Ngoại Thương chỉ đạo, Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch. Trong cơ chế thị trường hiện nay đã có rất nhiều đơn vị tham gia kinh doanh lĩnh vực giao nhận kho vận ngoại thương. Nhiều ngành, nhiều địa phương tự đảm nhận lấy công việc giao nhận hàng hóa của mình. Vietrans mất thế độc quyền và phải bước vào một cuộc cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận. Để thích ứng với môi trường hoạt động kinh doanh mới, công ty đã tiến hành đổi mới chiến lược, phương thức hoạt động, cách thức tổ chức và điều hành. Với chính những nỗ lực trong nội tại cũng như uy tín của doanh nghiệp mà hiện nay Vietrans đã đạt được thành tựu và kết quả kinh doanh rất tốt, khả năng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ được nâng cao, giữ vững vị trí là đơn vị hàng đầu về giao nhận kho vận ngoại thương tại Việt Nam. Lịch sử phát triển của công ty kể từ khi thành lập cho đến nay: Năm Lịch sử phát triển 13/8/1970 Vietrans được thành lập với trụ sở ở Hải Phòng. 1975 Mở chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh. 1976 Chuyển trụ sở chính ra Hà Nội. 1976 Thành lập các chi nhánh ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn và văn phòng đại diện ở Bến Thủy-Nghệ An và Nha Trang. 1987 Trở thành thành viên của VCCI (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam). 1988 Trở thành thành viên của FIATA. 1989 Thành lập xí nghiệp dịch vụ xây dựng. 1991 Liên doanh với Blasco (Ucraine) thành lập Công ty liên doanh Bông Sen, xây dựng và vận hành cảng Bông Sen ở TP Hồ Chí Minh. 1993 Đại lý hàng hóa cho Vietnam Airlines. 1994 Thành viên sang lập của VIFFAS (Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam). 1994 Là công ty đầu tiên kinh doanh kho ngoại quan ở Việt Nam. 1994 Thành lập văn phòng đại diện ở Oddessa –Ukaraine. 1995 Thương hiệu và logo của Vietrans được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam. 1995 Liên doanh với GD Express Worldwide (Hà Lan) thành lập Liên doanh chuyển phát nhanh TNT – Vietrans (Việt Nam) cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh. 1995 Thành lập văn phòng đại diện ở Vladivostock. 1997 Đại lý hàng hóa cho IATA. 2/1999 Cung cấp dịch vụ môi giới hải quan. 2001 Văn phòng đại diện ở Nha Trang trở thành chi nhánh Vietrans Nha Trang. 2003 Văn phòng đại diện ở Bến Thủy trở thành chi nhánh Vietrans Nghệ An. 2005 Bắt đầu tiến hành cổ phần hóa mốt số chi nhánh. 2006 Hoàn thành cổ phần hóa Vietrans Quy Nhơn và TP Hồ Chí Minh. 2006 Khánh thành Vietrans centre tại TP Hồ Chí Minh. 2007 Hoàn thành cổ phần hóa Chi nhánh Vietrans Hải Phòng và Đà Nẵng. 2007 Khánh thành Trung tâm điện máy Vietrans Yên Viên. 1.2.2. Chức năng- hoạt động. * Chức năng: Vietrans là một công ty làm nhiệm vụ quốc tế vận chuyển, giao nhận, xuất nhập khẩu hàng hóa, tư vấn, đại lý cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trên lĩnh vực vận chuyên, giao nhận và xuất nhập khẩu hàng hóa. Theo điều lệ của công ty có các điều khoản sau: . Tiến hành các dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam và ngược lại bằng các phương tiện chuyên chở của mình hoặc thông qua các phương tiện chuyên chở của người khác. . Tổ chức phối hợp với các tổ chức khác trong và ngoài nước để tổ chức và chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng hóa quá cảnh, hàng ngoại giao, hàng hội chợ, hàng triển lãm, tài liệu, chứng từ liên quan, chứng từ chuyển phát nhanh. . Nhận ủy thác về dịch vụ về kho vận, giao nhận, thuê và cho thuê kho bãi, lưu cước các phương tiện vận tải (tàu biển, ô tô, máy bay, sà lan, container, …) bằng các hợp đồng từ “cửa tới cửa” và thực hiện các hoạt động khác có liên quan tới hàng hóa nói trên như việc gom hàng, chia sẻ hàng, làm thủ tục nhập khẩu, làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hóa và giao nhận hàng hóa đó cho người chuyên chở để chuyển tiếp tới nơi quy định. . Nhận ủy thác nhập khẩu hoặc kinh doanh nhập khẩu trực tiếp hàng hóa trên cơ sở giấy phép nhập khẩu của Bộ Thương Mại cấp cho công ty. . Thực hiện kế hoạch vận tải công cộng phù hợp với quy định hiện hành của Nhà nước. Liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong các lĩnh vực giao nhận, vận chuyển, thuê tàu. Kinh doanh du lịch (dịch vụ khách sạn, vận chuyển, hướng dẫn khách du lịch), kinh doanh cho thuê văn phòng nhà ở. . Làm đại lý cho các hãng tàu nước ngoài và làm công tác phục vụ cho tàu biển của nước ngoài vào cảng Việt Nam. * Nhiệm vụ của công ty : Cùng với các chức năng trên, Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương có những nhiệm vụ chủ yếu sau: . Xây dựng kế hoạch và tổ chức các dịch vụ kinh doanh của công ty theo quy chế hiện hành nhằm thực hiện mục đích chức năng của công ty. . Thông qua các liên doanh, liên kết, trong và ngoài nước để thực hiện việc giao nhận, chuyên chở hàng hóa bằng các phương tiện tiên tiến, hợp lý, an toàn trên các tuyến vận tải, cải tiến việc chuyên chở đảm bảo hàng hóa an toàn trong phạm vi trách nhiệm của công ty. . Bảo đảm việc an toàn và bổ sung trên cơ sở tự tạo nguồn vốn, bảo đảm tự chủ về tài chính, sử dụng hợp lý, theo đúng chế độ, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, làm trọn nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. . Nghiên cứu tình hình thị trường dịch vụ kho vận, giao nhận, kiến nghị cải tiến biểu giá cước của các tổ chức vận tải có liên quan theo quy định hiện hành và nâng cao vị thế của công ty trên thị trường trong nước và quốc tế. . Mua sắm, xây dựng bổ sung và thường xuyên cải tiến, hoàn thiện, nâng cấp các phương tiện của công ty. .Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tài sản, các chế độ, chính sách cán bộ và quyền lợi của người lao động theo cơ chế tự chủ, gắn việc trả công với hiệu quả lao động bằng các hình thức khoán, chăm lo đời sống, chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ cho các cán bộ, công nhân viên của công ty để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh ngày càng cao. .Tổ chức quản lý, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của các đơn vị trực thuộc theo cơ chế hiện hành nhằm phát huy cao nhất hiệu quả kinh doanh của công ty. * Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty. - Kinh doanh kho tàng và kho ngoại quan. Kinh doanh kho vận là nghiệp vụ truyền thống của Công ty, do có sự nâng cấp cơ sở vật chất, hoạt động kinh doanh kho trong thời gian qua đã thu được những kết quả nhất định. Các hợp đồng thuê kho để và bảo quản hàng hoá tăng mạnh, các kho của Công ty luôn trong tình trạng hoạt động hết công suất. Hiện nay VIETRANS đang có hệ thống kho bãi tại Hải Phòng và Đà Nẵng và Công ty đang chuyển một số diện tích kho sang làm kho ngoại quan nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện nay tại một số địa phương đã áp dụng những quy định mới về thuế sử dụng đất, có những nơi thuế đất tăng gấp mười lần. Đây là khó khăn của toàn ngành và đặc biệt ảnh hưởng tới các đơn vị mà kinh doanh kho là nghiệp vụ đem lại nguồn thu nhập chính như VIETRANS Hải Phòng, VIETRANS Quy Nhơn. Lãnh đạo Công ty đang nghiên cứu chuyển đổi mục đích sử dụng kho để mang lại hiệu quả cao hơn, tiêu biểu là chi nhánh Tp Hồ Chí Minh đã mang lại lợi nhuận trên 3.5 tỷ đồng trong năm qua cho Công ty. - Dịch vụ giao nhận vận tải Mặc dù trên thị trường giao nhận Công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của nhiều doanh nghiệp khác nhưng hoạt động kinh doanh vẫn có những chuyển biến tốt và mang lại doanh thu chính cho Công ty. Hiện nay VIETRANS đang thực hiện đa dạng hoá các loại hình vận chuyển như vận tải đa phương thức, tiến hành cung cấp dịch vụ giao nhận trọn gói “door to door”. Đây là những loại hình kinh doanh vận tải còn mới tại nước ta nhưng là xu hướng phát triển trên thế giới và mang lại lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, Công ty đang tích cực mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn khách hàng trong và ngoài nước. Hiện Công ty đang tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng liên doanh, liên kết với các đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ…Triển vọng kinh doanh giao nhận vận tải trong thời gian tới là rất khả quan. - Nghiệp vụ chuyển phát nhanh TNT, dịch vụ xuất khẩu và các hoạt động khác. Trong thời gian qua hoạt động chuyển phát nhanh tại các đơn vị vẫn duy trì được tốc độ phát triển ổn định. Song đây là lĩnh vực ngày càng vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các hãng chuyển phát nhanh lớn trên thế giới, các Công ty của Bộ Bưu chính viễn thông trong nước. Do vậy mà hiệu quả kinh doanh chưa cao, mặc dù đã có sự hỗ trợ về giá cả liên doanh cho TNT- VIETRANS và nguy cơ bị thu hẹp thị trường là hiện hữu. Để khắc phục nguy cơ mất thị trường, một số chi nhánh đại lý chuyển phát nhanh tại các đơn vị như Hải Phòng và khu vực Miền Trung đã được chuyển giao sang công ty liên doanh, vì thế đã ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh tại một số đơn vị, nhưng đây là xu hướng tất yếu sẽ đem lại lợi nhuận lớn hơn cho Công ty trong thời gian tới. Kinh doanh XNK cũng đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Một số đơn vị như văn phòng Công ty, chi nhánh Nghệ An, chi nhánh Tp Hồ Chí Minh đã khai thác tốt dịch vụ này và đem lại lợi nhuận cao. Việc phát triển tốt dịch vụ XNK đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ giao nhận vận tải. Mảng kinh doanh dịch vụ xây dựng không những giữ được những khách hàng truyền thống còn đạt được thêm nhiều hợp đồng xây mới có giá trị cao. Công ty đã thực hiện xây dựng nhiều công trình lớn như: khu ký túc xá và giảng đường Học viện báo chí và tuyền truyền, khu nhà ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, xây dựng trụ sở làm việc cho VIETRANS Tp Hồ Chí Minh… đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng mang lại uy tín cho đơn vị. Kinh doanh vận tải ô tô trong thời gian qua là lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu và chính sách về giao thông vận tải. Tuy nhiên các đơn vị đã khắc phục được khó khăn, nâng cao năng lực cạnh tranh khai thác nguồn hàng kinh doanh và có lãi. 1.2.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức. * Đứng đầu Công ty là Tổng giám đốc Công ty do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Tổng giám đốc tổ chức điều hành mọi hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật và các cơ quan quản lý Nhà nước về mọi hoạt động của Công ty. Cơ cấu tổ chức của Công ty tuân theo chế độ một thủ trưởng có quyền hạn và nghĩa vụ theo quy định tại số 217/HĐBT và quy định của Bộ về phân cấp toàn diện của công ty. Giúp việc cho giám đốc còn có hai phó giám đốc, các phó giám đốc do giám đốc đề nghị và được thủ trưởng cơ quan chủ quản là Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm. Mỗi phó giám đốc được phân công phụ trách một hoặc một số lĩnh vực của công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về công việc được giao. Trong trường hợp Tổng giám đốc vắng mặt thì phó giám đốc thứ nhất là người thay mặt Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động của công ty. Giữa các phòng ban trong công ty có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện công việc một cách hài hòa và có hiệu quả. Ngoài ra, công ty còn có xí nghiệp dịch vụ xây dựng, đội xe và hệ thống kho bãi trực thuộc cùng phối hợp hoạt động kinh doanh. * Chức năng, nhiệm vụ của một số phòng ban. - Phòng xuất nhập khẩu: Tham mưu giúp việc cho Giám đốc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, có các chức năng nhiệm vụ sau: + Chủ động tìm kiếm thị trường, khai thác đơn hàng kinh doanh trong và ngoài nước theo lĩnh vực được phân công. + Nghiên cứu thị trường, làm tốt công tác marketing trong và ngoài nước nhằm tạo những mặt hàng chiến lược, ổn định và có hiệu quả. + Tổ chức thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu. + Soạn thảo hợp đồng và tổ chức thực hiện hợp đồng. + Hướng dẫn, quản lý và kiểm tra các đơn vị trực thuộc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại theo đúng luật của Nhà nước và các quy định của Công ty. + Thực hiện các nhiệm vụ khác có liên quan đến kinh doanh thương mại và Giám đốc Công ty giao. - Phòng kế toán tài vụ: + Thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo tài chính của Công ty, xây dựng quy chế quản lý tài chính, kế hoạch tài chính của toàn công ty và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc xây dựng kế hoạch tài chính hàng năm. + Quản lý, giám sát và hướng dẫn thực hiện các kế hoạch; tổ chức hoạt động kinh tế của công ty và chỉ đạo các phòng kế toán đơn vị trực thuộc phân tích hoạt động kinh tế của đơn vị. + Theo dõi, quản lý các nguồn vốn, tài sản của công ty đồng thời xây dựng các biện pháp sử dụng vốn để kinh doanh có hiệu quả. + Hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ hạch toán kế toán, tài chính, thống kê và các báo cáo quyết toán của các đơn vị trực thuộc. + Kiểm tra định kỳ, đề xuất biện pháp xử lý, quản lý tài sản của công ty; bảo quản lưu trữ tài liệu, chứng từ sổ sách kế toán theo Luật kế toán và quy định của công ty. + Báo cáo kế toán tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh… theo định kỳ, đúng hạn về các lĩnh vực công tác của phòng mình. + Thanh tra giá mua sắm vật tư thiết bị, phụ tùng thay thế và đơn giá quyết toán công trình xây dựng cơ bản trước khi trình giám đốc duyệt. + Công tác khác có liên quan đến công tác tài chính kế toán. - Phòng tổ chức cán bộ: + Đổi mới, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị trực thuộc, các phòng thuộc công ty. + Xây dựng và sửa đổi điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty, quy chế cán bộ, thẩm định quy định của đơn vị trực thuộc. + Quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, luân chuyển, nhận xét, đánh giá cán bộ theo phân cấp quản lý. + Dự thảo ủy quyền về nguyên tắc của giám đốc cho cấp dưới thực hiện; làm các thủ tục đăng ký kinh doanh hành nghề, thành lập đơn vị mới. + Thẩm định, trình giám đốc công ty quyết định cử cán bộ, người lao động của công ty đi công tác, học tập ở nước ngoài. + Các nghiệp vụ khác có liên quan đến công tác tổ chức cán bộ. Tổng giám đốc Khối kinh doanh dịch vụ 1.Phòng giao nhận vận tải quốc tế. 2.Phòng xuất nhập khẩu. 3.Phòng xúc tiến thương mại. 4.Xí nghiệp dịch vụ xây dựng. 5.Kho Yên Viên. 6.Đội xe. Công ty liên doanh 1.Lotus joint venture co.Ltd. 2.TNT- Vietrans Express Worldwide Vietnam Ltd. Khối quản lý 1.Phòng kế toán-tài vụ. 2.Phòng tổ chức cán bộ. 3.Phòng tổng hợp. 4.Phòng hành chính Các chi nhánh trực thuộc 1.Vietrans Hải Phòng. 2.Vietrans Nghệ An. 3.Vietrans Đà Nẵng. 4.Vietrans Nha Trang. 5.Vietrans Quy Nhơn. 6.Vietrans TP Hồ Chí Minh. CÁC VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN Ở NƯỚC NGOÀI 1.ODSA 2.VLADIVOSTOCK Phó tổng giám đốc 1.2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty. Nhìn chung hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua đã đạt được kết quả tương đối tốt. Qua bảng số liệu cho thấy doanh thu của công ty tăng đều qua các năm, chỉ tiêu lợi nhuận cũng tăng cho thấy công ty đang có sự phát triển tương đối tốt. Bảng 1.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Đơn vị: Tỷ VNĐ. Các chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh số 176,095 206,918 251,315 296,204 365,303 456,63 Lợi nhuận 49,234 59,676 52,457 55,020 58,102 72,63 Nộp ngân sách 21,233 27,854 30,689 53,153 43,156 45,30 Thu nhập bình quân(Tr đ) 2,572 2,793 3,313 3,500 4,200 4,85 (Nguồn: Phòng tổng hợp công ty Vietrans) Doanh thu từ năm 2002 là 176,095 tỷ, đến năm 2007 là 456,63 tỷ , tăng hơn 2,5 lần. Lợi nhuận của công ty cũng tăng đều từ năm 2002 là 49,234 tỷ thì đến năm 2007 là 72,63 tỷ. Đây thực sự là con số rất ấn tượng bởi trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, có nhiều công ty tham gia kinh doanh giao nhận vận tải bao gồm cả nhiều doanh nghiệp nước ngoài nhưng doanh thu và lợi nhuận của công ty vẫn tăng, với quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng. Trong hệ thống các doanh nghiệp của Bộ Thương Mại thì công ty được đánh giá là có sự phát triển rất tốt, tình hình tài chính minh bạch, không có nợ xấu, nợ khó đòi. Năm 2007 nộp ngân sách của công ty đạt 45,3 tỷ và là một trong những doanh nghiệp nộp ngân sách lớn của Bộ Thương Mại. Với đà tăng trưởng và phát triển như vậy, công ty đang có chiến lược mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, tiến hành cổ phần hóa và xây dựng mô hình kinh doanh công ty mẹ công ty con, trong tương lai sẽ phát triển thành tập đoàn kinh doanh mạnh của nước ta. VIETRANS là một doanh nghiệp Nhà nước do vậy hàng năm ngoài chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận thì Công ty còn phải tính đến chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước. Từ những chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận … có thể nhận thấy Vietrans là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước hàng năm. Giai đoạn 2002-2007 là giai đoạn mà Vietrans có những thay đổi lớn và được coi là mốc son trong chặng đường phát triển của Công ty. Vietrans đã vượt qua được những khó khăn và khủng hoảng, đạt được những thành tựu lớn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh. Doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách trong giai đoạn này đều đạt chỉ tiêu và tăng với số lượng tương đối lớn nhờ đó đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện và nâng cao, cụ thể thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên hiện nay vào khoảng hơn 4,5 triệu đồng/tháng. Để có được những thành tựu đó Công ty đã phải xây dựng những chiến lược kinh doanh khoa học, hợp lý để chủ động thích ứng với môi trường kinh doanh luôn biến động. Công ty luôn coi trọng mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế, đồng thời đa dạng hóa các loại hình dịch vụ trên cơ sở khai thác triệt để các thế mạnh vốn có của Vietrans như hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật về kho tàng, bến bãi, cầu cảng, đất đai, thương hiệu và đội ngũ nhân viên được đào tạo cơ bản và giàu kinh nghiệm. Vietrans cũng không ngừng tiến hành mở rộng hoạt động gia công hàng hóa xuất nhập khẩu, đa dạng hóa ngành nghề, đa dạng hóa quan hệ, tổ chức tốt việc chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Trong các loại hình kinh doanh dịch vụ của Công ty thì kinh doanh giao nhận vận tải chiếm vị trí lớn nhất. Dịch vụ giao nhận vận tải luôn là dịch vụ mang lại doanh thu chính cho Công ty, hàng năm thường chiếm khoảng 80-90% doanh thu. Nhưng trong thời gian gần đây, trước sự mở cửa của thị trường dịch vụ giao nhận thì sự cạnh tranh sẽ rất khốc liệt và cơ hội cũng sẽ mở ra. Do vậy mà lãnh đạo công ty đang có chiến lược và biện pháp nhằm củng cố thị trường và phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải để có thể biến khó khăn thách thức thành cơ hội để phát triển. Bên cạnh những nỗ lực của chính công ty thì sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn 2002-2007 cũng có những tác động tích cực tới hoạt động của Vietrans. Kinh tế đối ngoại phát triển tạo điều kiện cho xuất nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ, đây chính là cơ hội cho Công ty đẩy mạnh hoạt động giao nhận vận tải quốc tế mang lại doanh thu và lợi nhuận cao. CHƯƠNG II Thực trạng phát triển thị trường dịch vụ giao nhận vận tải tại Công ty Vietrans 2.1. Tổng quan về sự phát triển dịch vụ giao nhận vận tải tại Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển với tốc độ tương đối nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong phát triển kinh tế và được thế giới đánh giá rất cao, môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Trong sự phát triển chung của nền kinh tế, ngành dịch vụ giao nhận vận tải nước ta đã có bước tăng trưởng và phát triển khá tốt. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào khoảng 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt trên 3% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra. Kim ngạch nhập khẩu của nước ta năm 2007 đạt 60 tỷ USD, tăng 26,7% so với năm 2006. Cùng với sự tăng trưởng của xuất nhập khẩu thì khối lượng hàng hoá mà ngành giao nhận vận tải thực hiện được cũng tăng mạnh. Bảng 2.1: Khối lượng hàng hoá ngành giao nhận vận tải Việt Nam thực hiện giai đoạn 2005-2007 Đơn vị: nghìn tấn Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng khối lượng hàng hóa đã thực hiện 263.980 295.495 317.309 Đường sắt 8.385 8.874 8.838 Đường bộ 172.798 195.996 212.263 Đường sông 55.259 59.196 62.984 Đường biển 27.449 31.332 33.118 Đường không 90 98 105 Nguồn: Tổng cục thống kê Hiện nay nhiều hợp đồng giao nhận vận tải quan trọng và quy mô lớn, các doanh nghiệp Việt Nam đã đảm nhận và thực hiện rất tốt, uy tín cũng được nâng cao trên thị trường thế giới. Biểu hiện cụ thể là nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật…khi vận chuyển hàng hoá vào nước ta đã ưu tiên sử dụng dịch vụ giao nhận vận tải do các doanh nghiệp trong nước đảm nhận. Triển vọng phát triển của dịch vụ giao nhận vận tải trong thời gian tới là rất khả quan, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và giao nhận hàng hoá của nền kinh tế. Dịch vụ giao nhận vận tải là một loại hình kinh doanh còn tương đối mới mẻ, mới xuất hiện ở nước ta vào khoảng 20 năm trong khi trên thế giới thì dịch vụ này đã tồn tại và phát triển từ rất lâu. Tuy vậy nhưng trong thời gian gần đây dịch vụ này tại nước ta phát triển rất mạnh mẽ, đã có nhiều doanh nghiệp tham gia như: Vietrans, Giamatrans, Vinatransco, Vietrach…Chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao, nghiệp vụ và phương thức giao nhận hiện đại theo xu hướng phát triển của thế giới. Các dịch vụ vận tải mới như giao nhận đa phương thức, giao nhận hàng hoá trọn gói “Door to Door”, phương tiện vận tải được trang bị hiện đại, đội ngũ nhân viên giao nhận chuyên nghiệp và được các doanh nghiệp nước ngoài thừa nhận là những minh chứng cho sự phát triển của dịch vụ giao nhận vận tải tại nước ta. Trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân thì xu hướng ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Nước ta là một quốc gia đang phát triển và trong chiến lược phát triển thì chúng ta cũng ưu tiên phát triển dịch vụ. Dịch vụ giao nhận vận tải là ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, khi phát triển không cần một nguồn vốn quá lớn và nó mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, cải thiện cán cân thanh toán quốc gia và đóng góp không nhỏ cho ngân sách. Do vậy mà hiện tại và trong tương lai chính phủ sẽ có đầu tư mạnh mẽ cho ngành này. Theo thông tin từ Bộ Giao thông vận tải thì trong giai đoạn 2006-2010 tổng số vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông vận tải vào khoảng 200000 tỷ đồng với tỷ trọng huy động vốn ngoài ngân sách tới ¼, tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông. Về đường bộ thì toàn bộ hệ thống quốc lộ và hầu hết tỉnh lộ phải được đưa vào đúng cấp kĩ thuật, mở rộng và xây dựng các quốc lộ có nhu cầu vận tải lớn, xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc trên hành lang vận tải quan trọng. Đường sắt sẽ được hoàn thành việc mở rộng, nâng cấp các cảng tổng hợp quốc gia chính, xây dựng cảng nước sâu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm, phát triển cảng trung chuyển quốc tế tiếp nhận tàu trọng tải lớn, đáp ứng nhu cầu vận tải. Các cảng hàng không, sân bay quốc tế có quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật cũng sẽ được đầu tư xây mới nâng cấp, mở rộng ngang tầm khu vực, sân bay nội địa cũng được đầu tư đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Việc đầu tư nâng cấp cho hệ thống giao thông vận tải của chính phủ trong giai đoạn tới đã tạo động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ giao nhận vận tải. Chất lượng dịch vụ sẽ được nâng cao, hoạt động giao nhận hàng hóa sẽ diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, tiết kiệm và chính xác hơn. Bên cạnh sự đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng cho dịch vụ giao nhận vận tải thì các phương tiện phục vụ cho kinh doanh dịch vụ này của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc. Các phương tiện chuyên dụng phục vụ cho việc vận chuyển và bốc xếp hàng hoá như xe nâng, xe cẩu, xe kéo, băng chuyền vận tải… đã được các doanh nghiệp sử dụng với công nghệ hiện đại, đáp ứng mọi nhu cầu bốc xếp hàng hoá tại các cảng. Đội tàu phục vụ cho giao nhận vận tải bằng đường biển ngày một phát triển và có thể cạnh tranh với các đội tàu nước ngoài. Chúng ta đã đóng được nhiều tàu có tải trọng lớn như tàu chở hàng, container 2000-3000 tấn, mới đây lần đầu tiên Việt Nam đã được các công ty nước ngoài đặt mua như tàu chở hàng 5190 tấn và tàu container 3000 tấn mới đây đã được đóng mới theo hợp đồng xuất khẩu sang Canada, Đan Mạch và nhiều quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của ngành đóng tàu thì đội tàu quốc gia đã được đầu tư, trang bị hiện đại, đội ngũ thuyền viên ngày một chuyên nghiệp đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của vận tải biển quốc tế, điều này đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải của ta và góp phần giúp cho hoạt động giao nhận thuận lợi hơn và giá trị mà chúng ta thu được sẽ lớn hơn. Vận tải hàng không trong những năm gần đây phát triển rất mạnh mẽ. Theo Cục hàng không dân dụng Việt Nam thì hiện tại hãng hàng không trong nước đang không ngừng mở rộng và phát triển mạng bay và mở thêm nhiều đường bay mới quốc tế và nội địa, hiện tại các hãng hàng không này đang khai thác 18 đường bay trong nước và 38 đường bay quốc tế bao gồm Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Bắc Mỹ. Số lượng hành khách và khối lượng hàng hóa mà các hãng hàng không trong nước trong nước là Vietnam Airlines và Pacific Airlines thực hiện trong thời gian qua tăng mạnh và đạt kết quả rất tốt. Tính đến hết năm 2007 thì các hãng này đã vận chuyển được gần 6,8 triệu hành khách trong đó có khoảng 3,1 triệu hành khách trong các chuyến bay quốc tế và khoảng 3,7 triệu hành khách trên các chuyến bay nội địa, khối lượng hàng hoá vận chuyển vào khoảng 106 nghìn tấn. Các dịch vụ vận tải do các hãng hàng không của nước ta cung cấp được khách hàng trong và ngoài nước đánh giá cao và đạt tiêu chuẩn của thế giới, minh chứng cho điều này là Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế IATA đã chính thức đưa hãng hàng không quốc gia Việt Nam vào là thành viên. Các dịch vụ vận tải bằng đường bộ và đường sắt và một số loại hình vận tải hiện đại khác đang có sự phát triển tốt và ngày càng được hiện đại hoá để đáp ứng nhu cầu của giao nhận vận tải và theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù đã có bước phát triển tương đối tốt trong thời gian gần đây nhưng dịch vụ giao nhận vận tải tại nước ta vẫn được các chuyên gia kinh tế đánh giá là mới chỉ ở mức tiềm năng, và vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập cả từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Nếu so sánh chất lượng của dịch vụ giao nhận vận tải của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp vận tải nước ngoài thì chúng ta còn thua kém cả về phương tiện giao nhận và tính chuyên nghiệp của đội ngũ giao nhận vận tải. Khả năng chiếm lĩnh và phát triển thị trường tại nước ngoài của các doanh nghiệp nước ta còn yếu và chậm. Do là ngành mới phát triển tại nước ta nên các doanh nghiệp của ta chưa có được sự kinh nghiệm cùng nguồn lực cần thiết khác để phát triển thị trường quốc tế. Chúng ta chưa có nhiều các chi nhánh tại nước ngoài để thực hiện giao dịch và cung cấp các dịch vụ giao nhận trọn gói để thu được lợi nhuận là cao nhất. Trong khi thị phần của các doanh nghiệp nước ngoài chưa cao thì tại thị trường trong nước chúng ta vẫn chưa thật sự khai thác tốt, nhiều hợp đồng vận chuyển vẫn để các doanh nghiệp nước ngoài đảm nhận. Hiện nay giá cước vận tải đường biển đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thì các doanh nghiệp nước ngoài vẫn nắm khả năng chi phối cao chiếm tới hơn 80% thị phần vận tải. Đây thực sự là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước để có thể cạnh tranh và giành lấy thị phần trên thị trường. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại nước ta thì các doanh nghiệp thường mua theo giá CIF và bán với giá FOB. Đây thực sự là một thói quen mua bán rất không có lợi cho ngành giao nhận vận tải. Mặc dù nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu các doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng đảm nhận nhưng sự tin tưởng vào các doanh nghiệp giao nhận trong nước là chưa lớn, uy tín của các doanh nghiệp này trong giao nhận quốc tế chưa đủ để tạo dựng lòng tin và cũng do có sự liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước thực sự là chưa tốt. Chính điều này đã giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài thu được lợi nhuận rất cao, nhiều hợp đồng giao nhận vận tải có giá trị lớn đều thuộc về tay họ và gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải nước ta. Theo tính toán của hiệp hội giao nhận vận tải quốc tế FIATA thì giá cước vận chuyển quốc tế thường chiếm 10-15% giá hợp đồng thương mại. Do vậy mà khi tiến hành ký kết các hợp đồng thì doanh nghiệp thường rất quan tâm đến điều khoản giao nhận hàng hoá và mức giá cước dịch vụ. Giá cước vận tải của nước ta nhìn chung vẫn còn cao hơn so với khu vực và thế giới làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp do vẫn độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ về cảng biển và bốc xếp hàng hoá đã cố tình ép giá các chủ tàu và người giao nhận đẩy mức giá lên cao và mất uy tín trong kinh doanh. Thị trường dịch vụ giao nhận vận tải phát triển phụ thuộc rất lớn vào sự quản lý cũng như cơ chế chính sách của Nhà nước. Mặc dù Nhà nước đã có sự đầu tư mạnh mẽ và đổi mới phương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20510.doc
Tài liệu liên quan