Một số biện pháp phát triển nông thôn từ nay đến 2010

lời nói đầu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, công nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, khái niệm công nghiệp nông thôn mức chỉ nêu ra từ những năm 70 thập kỷ này nh

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1731 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp phát triển nông thôn từ nay đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưng thực tế công nghiệp nông thôn đã được hình thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Từ thực tiễn và trên cơ sở tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, các cán bộ công tác tại Vụ Công nghiệp Bộ Kế hoạch Đầu tư, em đã xác định đề tài nghiên cứu sau: “Một số biện pháp phát triển công nghiệp nông thôn từ nay đến năm 2010. Với đề tài này, em mong góp phần vào những cố gắng chung đáp ứng nhu cầu nghiên cứu tình hình phát triển công nghiệp nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 3 phần: Chương I - Cơ sở lý luận về công nghiệp nông thôn Chương II - Thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam Chương III - Phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam đến năm 2010. Là một sinh viên năm cuối, tuy được trang bị những kiến thức cơ bản song trình độ nhận thức có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Nhờ sự giúp đỡ của lãnh đạo, chuyên viên Vụ Công nghiệp Bộ Kế hoạch - Đầu tư cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn Nguyễn Tiến Dũng, các thầy cô giáo trong khoa, đến nay em đã hoàn thành được chuyên đề thực tập theo yêu cầu của nhà trường, và khoa. Chương I Cơ sở lý luận về công nghiệp nông thôn I-/ Nông thôn và cơ cấu kinh tế nông thôn 1-/ Khái niệm về nông thôn. Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì nông thôn được hiểu là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông. Còn thành thị thì được hiểu là khu vực dân cư mà phần lớn dân cư tập trung làm nghề ngoài nông nghiệp. Hai định nghĩa đơn giản này đã nêu lên một trong những điểm cơ bản khác nhau của nông thôn và thành thị, nhưng cũng chỉ mới đề cập đến một trong những đặc điểm của nông thôn. Định nghĩa nông thôn là gì được hiểu ở nhiều mặt: - Về địa lý tự nhiên, nông thôn là một địa bàn rộng lớn trải ra thành các vành đai bao quanh các thành thị. - Về kinh tế, nông thôn là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản xuất vật chất nông lâm ngư nghiệp và các ngành nghề sản xuất và kinh doanh, dịch vụ ngoài nông nghiệp, khác với hoạt động kinh tế của đô thị tập trung hoàn toàn vào công nghiệp và dịch vụ. - Về tính chất xã hội, cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu là nông dân và gia đình họ, vói mật độ dân cư thấp, ngoài ra cũng có một số người làm việc ở nông thôn nhưng sống ở đô thị và một số người làm việc ở đô thị nhưng sống ở nông thôn. - Về mặt văn hoá, nông thôn thường là nơi bảo tồn và lưu giữ được nhiều di sản văn hoá của mỗi quốc gia như phong tục tập quán cổ truyền về đời sống, lễ hội, các ngành nghề cổ truyền, y phục nhà ở di tích văn hoá, lịch sử, danh lam thắng cảnh... Nông thôn là kho tàng văn hoá dân tộc, là nơi nghỉ ngơi và du lịch xanh hấp dẫn đối với dân đô thị trong và ngoài nước. - Về trình độ văn hoá, khoa học công nghệ hay mặt cơ sở hạ tầng, nông thôn còn thấp, thua xa so với thành thị. Trong quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển, vấn đề công nghiệp hoá nông thôn xuất hiện làm nảy sinh khái niệm và tiêu chí cụ thể của nông thôn trong khi đó, chưa có tiêu chí cụ thể về nông thôn thì trước mắt tạm chấp nhận tiêu chí về đô thị từ đó suy ra tiêu chí của nông thôn. ở Việt Nam, chính phủ ra quyết định số 132 HĐBT quy định nước ta có 5 loại đô thị: Biểu 1 - Tiêu chí loại đô thị Tiêu chí Đô thị Số dân Tỷ lệ lao động ngoài NN Mật độ dân cư Đô thị loại 1 > 1 triệu > 90% > 15.000 người/km2 Đô thị loại 2 350.000 - 1 triệu > 80% > 12.000 người/km2 Đô thị loại 3 100.000 - 350.000 > 70% > 10.000 người/km2 Đô thị loại 4 30.000 - 100.000 > 70% > 8.000 người/km2 Đô thị loại 5 4.000 - 30.000 > 60% > 600 người/km2 Như vậy, nước ta phân loại đô thị theo 3 tiêu chí chủ yếu là số lượng người dan một địa điểm dân cư, mật độ dân cư và tỷ lệ lao động ngoài ng. Qua đó có thể thấy để là một đô thị thì phải đáp ứng được ba tiêu thức tối thiểu của đô thị loại 5 hay ngược lại, để là khu vực nông thôn thì tiêu chí phải kém hơn tiêu chí đô thị loại 5 tức là địa bàn có số dân cư trú dưới 4.000 người, mật độ dân số thấp hơn 6.000 người/km2, tỷ lệ lao động làm nông nghiệp từ 40% trở lên. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa hai khái niệm nông thôn và đô thị chỉ có tính chất tương đối, trong thực tế vẫn đang tồn tại hoặc xuất hiện những sự chòng gối, xen ghép về mặt đất đai, địa bàn dân cư cũng như các mặt hoạt động kinh tế xã hội, nhất là mối quan hê nông thôn thành thị trên địa bàn của đô thị nhỏ, thị trấn đang xuất hiện ngày càng nhiều ở các nước đang phát triển. 2-/ Khái niệm về cơ cấu kinh tế. Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội C.Mác viết “cơ cấu là sự phân chia về mặt chất lượng và 1 tỷ lệ về số lượng của quá trình sản xuất, ở đây bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Phát triển kinh tế hiệu quả luôn là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia, nhưng để phát triển kinh tế thì cần phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý. Nếu một nền kinh tế ở vào thời điểm cơ cấu kinh tế lạc hậu lỗi thời không đáp ứng được nhu cầu phát triển thì tất yếu sẽ xảy ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đạt được sự hợp lý hơn. Vì vậy cơ cấu kinh tế có vai trò quyết định đến nền kinh tế của một nước. Nền kinh tế mỗi nước, mỗi địa phương bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, kết hợp chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau, có thể xem xét nền kinh tế trong mỗi quan hệ giữa các ngành kinh tế, giữa các thành phần kinh tế, giữa các vùng lãnh thổ trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất về mặt số lượng mà cả chất lượng nữa. Vậy, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế, gồm các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế phản ánh ở hai mặt chất và lượng. Còn cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế với quy mô, trình độ công nghệ, tỷ trọng tương ứng từng bộ phận và sự tương tác giữa các bộ phận ấy, gắn với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn phát triển nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế đã được xác địh. Cơ cấu kinh tế không chỉ giới hạn ở mối quan hệ giữa các ngành mang tính cố định mà luôn luôn biến động, không có một khuôn mẫu mà tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể theo không gian và thời gian. Vì vậy, cơ cấu kinh tế không cố định lâu dài mà nó phải có những thay đổi cần thiết, thích hợp với sự thay đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vậy nên chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải là sự mong muốn chủ quan mà nó là một quá trình phát triển tất yếu. Tuy nhiên một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả thì vai trò quản lý cũng rất quan trọng, đặc biệt việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý cho giai đoạn hiện tại cũng như thời gian tới nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển đã đề ra. 3-/ Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông thôn. Nông thôn là một trong hai khu vực kinh tế đặc trưng của nền kinh tế quốc dân, khu vực kinh tế đô thị và khu vực kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn bao gồm các lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp liên quan đến sản xuất nông nghiệp như công nghiệp chế biến, các ngành tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ ở nông thôn. Khu vực kinh tế nông thôn sản xuất vật chất cung cấp cho xã hội những sản phẩm lương thực thực phẩm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu, nuôi sống con người. Những nhu cầu này không gì có thể thay đổi mặc dù rồi đây khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội có phát triển đến mấy, tỷ trọng của cải vật chất đóng góp cho xã hội của khu vực kinh tế nông thôn có thể giảm dần nhưng khối lượng sản phẩm tuyệt đối không ngừng tăng lên. Khu vực kinh tế nông thôn đã, đang và sẽ cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm nguyên liệu cho công nghiệp, chi viện lực lượng sản xuất cho khu vực thành thị. Khu vực kinh tế nông thôn được phát triển luôn gắn với tổng thể các quan hệ kinh tế nhất định cơ cấu kinh tế nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau trong những tỷ lệ về mặt lượng cũng như mặt chất. Cơ cấu kinh tế nông thôn không chỉ giới hạn về các quan hệ, tỷ lệ giữa các ngành, các phân ngành trong nông thôn. Nó tồn tại khách quan nhưng không mang tính bất biến, luôn thay đổi thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội từng thời kỳ. Như vậy, cơ cấu kinh tế nông thôn là tổng thể các quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn, bao gồm các mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành kinh tế nông thôn trong những điều kiện cụ thể về không gian và thời gian. Nó bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và cả các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế phát triển tại các vùng nông thôn. Khi xem xét nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn phải xem xét đến các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế trên địa bàn nông thôn: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ. - Cơ cấu ngành: Cùng với đà phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, khu vực nông thôn không đơn thuần chỉ có hoạt động cua các ngành nông nghiệp mà phải được phát triển cả công nghiệp và thương mại dịch vụ. Trong đó, ngành nông nghiệp là ngành sản xuất chính chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề khác nhằm hỗ trợ cho ngành nông nghiệp phát triển đồng thời làm tăng thu nhập của nông dân. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xác lập quan hệ cân đối, gắn bó giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thương mại là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Mối quan hệ cung cầu giữa ba ngành này hết sức mật thiết nông nghiệp tạo ra sản phẩm làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp, công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho dịch vụ phát triển theo, khi công nghiệp phát triển các sản phẩm nông nghiệp sẽ được chế biến tạo nên những hàng hoá có chất lượng và giá trị cao kích thích tiêu dùng xã hội tăng lên, từ đó quay lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Việc thay đổi này sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành. Cơ cấu kinh tế nông thôn phân theo ngành: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chế biến nông lâm thuỷ hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng, điện, cơ khí. - Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: là thể hiện sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi nông thôn nhằm xác lập cơ cấu kinh tế bằng việc bố trí các ngành sản xuất nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực của từng vùng. Nhìn lại cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam được tổ chức gắn với các ngành nghề và lãnh thổ có thể phân ra như sau: (1) Làng xã thuần nông nghiệp. (2) Làng nông nghiệp, kiêm thêm nghề phụ (3) Làng chuyên các ngành nghề truyền thống, thí dụ như làng gốm sứ, làng dệt, làng thêu ren, làng sơn mài, làng nghề chạm khắc bạc và gỗ, làng tranh, làng luyện đúc kim loại... (4) Làng nghề mới hình thành (ven đô thị, ven các trục đường giao thông) thí dụ như các làng vận tải, làng xây dựng, làng may mặc, làng làm đồ da dụng cao cấp, làng vật liệu xây dựng, làng chế biến và cung cấp thực phẩm cho các thành phẩm. (5) Các cơ sở và doanh nghiệp phi nông nghiệp (trang trại, xí nghiệp phi nông nghiệp ở các thị trấn thi tử) thường là quy mô nhỏ, thí dụ như các trạm giống, trạm sửa chữa cơ khí, ngân hàng huyện, chi nhánh điện, hạt giao thông, bưu điện, trường học, y tế. (6) Các xí nghiệp dịch vụ thương mại của tỉnh. (7) Các xí nghiệp dịch vụ thương mại Trung ương đặt tại địa bàn nông thôn Trong cơ cấu kinh tế nông thôn hiện tại ở Việt Nam, một thực thể bao gồm các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn với phạm vi trải rộng từ các dạng hình tổ chức hoạt động kinh tế từ (2) đến (5) đựoc quy ước là các dạng hoạt động của công nghiệp nông thôn. Từ một nông thôn thuần nông nghiệp, Việt Nam cần nỗ lực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nông nghiệp thoát khỏi thuần nông chuyển sang các dạng hình phi nông nghiệp nói chung. Cơ cấu này gắn liền với nhu cầu kinh tế và đời sống nông thôn. II-/ Công nghiệp nông thôn và vai trò của công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá. 1-/ Khái niệm về công nghiệp nông thôn. Bản thân nông nghiệp có những mặt hạn chế như không thể tự mình tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về cơ sở vật chất kỹ thuật, về công nghệ và thiết bị để hiện đại hoá sản xuất tạo ra mức tăng trưởng nhanh hơn, cũng như không đủ khả năng tạo ra việc làm với thu nhập cao hơn cho số lao động tăng lên ở nông thôn, mà phải cần đến sự tác động của công nghiệp. Nhưng chính công nghiệp đô thị ở các nước công nghiệp lạc hậu lại chưa phát triển đến nước có thể thu hút được nhiều lao động dư thừa ở nông thôn và các nhu cầu khác ở nông thôn. Đó là lý do đặt ra vấn đề công nghiệp hoá nông thôn. Công nghiệp nông thôn là một khái nhiệm đơn ngành dùng để chỉ một bộ phận của ngành công nghiệp được tiến hành ở nông thôn, hoặc chính xác hơn là các hoạt động sản xuất mang tính chất công nghiệp diễn ra ở nông thôn. Tuy nhiên một số tác giả sử dụng thuật ngữ công nghiệp nông thôn để bao hàm toàn bộ những hoạt động phi nông nghiệp diễn ra ở nông thôn, tức là bao gồm cả xây dựng thương nghiệp và các loại dịch vụ khác. Dưới góc độ địa bàn sản xuất, công nghiệp nông thôn là các hoạt động mang tính chất công nghiệp diễn ra ở nông thôn của quá trình phân công lao động tại chỗ. Công nghiệp nông thôn gọi chung cho các dạng hình hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, là một bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bố ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, bao gồm nhiều ngành nghề đan xen chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã, các tổ hợp, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực thực phẩm hoặc các xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn là một trong những nội dung của công nghiệp hoá, là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn. Nó tác động tích cực và hiệu quả tới toàn bộ sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp hoá nông thôn là khái niệm để chỉ quá trình biến đổi của công nghiệp nông thôn từ chỗ là các hoạt động kinh tế phụ trong cơ cấu kinh tế thuần nông truyền thống trở thành ngành sản xuất chính trong cơ cấu kinh tế mới ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp, gia tăng tỷ trọng của phi nông nghiệp, bao gồm công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ trên địa bàn. Công nghiệp hoá nông thôn phải bắt đầu từ biến đổi của chính bản thân sản xuất nông nghiệp thông qua việc tạo ra những tiền đề về năng suất lao động dư thừa đủ để hình thành, duy trì và phát triển những hoạt động công nghiệp chuyên ngành. Công nghiệp hoá nông thôn chỉ ra quá trình thay đổi và những nỗ lực đa ngành ở tầm vĩ mô từ các cơ quan Nhà nước các cấp nhằm biến đổi toàn bộ cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn mà trước hết là của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn biểu thị sự vận động nội tại của chính bản thân nông thôn bắt đầu từ sản xuất nông nghiệp đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của thị trường. Từ quan điểm phục vụ phát triển nông thôn, hai khái niệm công nghiệp nông thôn và công nghiệp hoá nông thôn có những điểm khác nhau nhưng đều hướng tới thực thi một vấn đề: xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập thông qua con đường phi thuần nông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tưang hàm lượng côngnghiệp dịch vụ. 2-/ Vị trí công nghiệp nông thôn trong mối quan hệ với nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp nông thôn là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ ở địa bàn nông thôn do những đặc điểm vốn có của nó. Theo quá trình tiến hành CNH - HĐH đất nước, công nghiệp nông thôn ngày càng phát triển tự khẳng định vị trí của mình trong cơ cấu kinh tế nông thôn, điều đó được thể hiện ở tỷ trọng gia tăng công nghiệp nông thôn theo các năm có xu hướng tăng lên tuy rằng số lượng gia tăng còn nhỏ so với số lượng gia tăng lớn của nông nghiệp khi tốc độ gia tăng có xu hướng giảm. Đây chính là tính quy luật chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn trong sự nghiệp CNH - HĐH nông thôn. Tuy quá trình sản xuất, công nghiệp nông thôn không những là ngành khai thác tài nguyên, mà cứ tiếp tục chế biến các nguyên liệu hay khai thác các ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Nghĩa là công nghiệp nông thôn trước tiên gắn chặt với sản xuất nông nghiệp ở 3 vị trí của công nghiệp nông thôn trong quan hệ với nông nghiệp. - ở vị trí đứng trước sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nông thôn tạo ra và cung cấp cho nông nghiệp công cụ và điều kiện bắt đầu tiến hành quy trình sản xuất nông nghiệp như cung cấp máy móc, công cụ khai hoang làm đất, thuỷ lợi hoa màu, phân bón. - ở vị trí song song với sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp các máy móc công cụ chăm sóc cây trồng vật nuôi, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu... - ở vị trí đứng cuối quy trình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cung cấp các máy móc, công cụ phục vụ thu hoạch phơi sấy, bảo quản sơ chế, chế biến, vận chuyển nông sản. 3-/ Vai trò công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá. 3.1. Nội dung, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nghị quyết TW 5 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nội dung của chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, chủ yếu là: - Đổi mới cơ cấu kinh tế nông lâm ngư nghiệp để khai thác các tiềm năng nông nghiệp về lao động, đất đai, rừng và biển theo phương thức hợp lý và hiệu quả nhất. - Cải tổ cơ cấu kinh tế nông thôn gắn liền với mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn. - Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng gắn với đô thị hoá nông thôn. Sự chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường là điều kiện, tiền đề cho chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Quá trình chuyển đổi ở nông thôn được thực hiện một cách có hệ thống bằng các cuộc cải cách pháp lý, thể chế và cải cách tài chính Nhà nước. Mục tiêu phát triển của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn là sử dụng toàn bộ các tiềm năng về đất và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn, hướng vào tạo việc làm và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các mục tiêu cụ thể là: - Tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và văn hoá cho nhân dân nông thôn nói chung và cho nông dân nói riêng. - Từng bước chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác. - Tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhằm đạt tỷ lệ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong kinh tế nông thôn Việt Nam tới năm 2010 tương ứng khoản 50:25:25%. - Tạo một nền kinh tế nông thôn ổn định, phát triển góp phần tích luỹ cho công nghiệp hoá đất nước nói chung. Như vậy chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ làm thay đổi căn bản bộ mặt của xã hội nông thôn Việt Nam và mối quan hệ của nó với khu vực thành thị. Trong tổng thể chương trình tạo ra một kế hoạch cho cơ cấu kinh tế, dân số, công nghiệp và xã hội chính trị cân đối và phi tập trung cao với sự chú trọng đặc biệt tới các nhóm dân cư bất lợi, các vùng nghèo hơn và các dân tộc thiểu số. Có thể nhận xét rằng chương trình tổng hợp CDCCKT nông thôn là một phần không thể tách rời của chiến lược tạo việc làm, tăng nguồn lao động và tạo thu nhập khu vực nông thôn. Đó là con đường riêng của Việt Nam để chuyển đổi nền kinh tế và xã hội. 3.2. Khái quát quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trước tiên, để thấy được chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cần phân tích thấy rõ xu hướng chuyển dịch của nền kinh tế về tốc độ cũng như tổng giá trị của các ngành. Theo thống kê từ 94 - 98 cho thấy giá trị của tổng sản phẩm quốc nội tăng cả về quy mô lẫn tỷ lệ. Trong đó các ngành nông lâm thuỷ sản, công nghiệp xây dựng, dịch vụ cũng tăng lên về quy mô lẫn tốc độ nhưng tỷ trọng có xu hướng thay đổi theo yêu cầu đạt ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước, nghĩa là công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng tỷ trọng và nông nghiệp giảm dần tỷ trọng. Điều đó được thể hiện ở ba bảng thống kê sau: biểu 2 - Tổng sản phẩm quốc nội theo giá so sánh năm 1994 chia theo ngành kinh tế. Năm Ngành 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số 178.599 195.566 213.832 231.262 244.740 - Nông lâm thuỷ sản 48.968 51319 53.577 55.895 57.422 - Công nghiệp 38.595 43960 50.078 56.618 62.775 - Xây dựng 12.946 14.590 16.938 18.855 20.434 - Dịch vụ 78.048 85.697 93.239 99.894 104.089 biểu 3 - Tốc độ tăng trưởng sản phẩm quốc nội Việt Nam theo giá so sánh năm 1994. Năm Ngành 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số 100 109,5 109,3 108,2 105,8 - Nông lâm thuỷ sản 100 104,8 104,4 104,2 102,7 - Công nghiệp 100 113,9 113,9 113,1 110,9 - Xây dựng 100 112,7 116,1 111,3 108,4 - Dịch vụ 100 109,8 108,8 107,1 104,2 Nguồn: Vụ tổng hợp thông tin - Tổng cục Thống kê - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đi vào chiều sâu và chưa đạt hiệu quả cao, biểu hiện là chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa gắn liền với chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy, tình trạng chưa sử dụng hết lao động không những không được cải thiện mà còn có chiều hướng xấu đi. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì hiện nay lực lượng lao động ở nước ta tăng lên đáng kể, năm 1995 tăng lên 17,6% so với năm 1991 (41,3 triệu người so với 35,2 triệu người). Số lao động ở độ tuổi lao động có khả năng lao động tăng 14,6% (39,3 triệu so với 34,3 triệu người năm 1991). Trong đó lao động khu vực thành thị là 23,4% năm 1991 tăng lên 23,9% năm 1995, lao động khu vực nông thôn 76,6% năm 1991 và giảm xuống 76,08% năm 1995 (29,9 triệu người). Số người lao động tham gia nền kinh tế năm 1995 là 35,2 triệu người năm 1991 là 30,3 triệu người. Tỷ lệ lao động tham gia nền kinh tế năm 1995 là 89,6%, năm 1991 là 88,4%. Xét theo cơ cấu thì năm 1995 tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng là 14% so với 13,9% (1991), lao động trong ngành nông lâm ngư nghiệp là 72% (1995) so với 72,3% (1991). Theo số liệu điều tra về cơ cấu ngành nghề của hộ nông thôn cả nước năm 1994 thì tỷ lệ hộ nông nghiệp còn cao hơn là 80,6%, còn hộ phi nông nghiệp chiếm 19,4% trong tổng số hộ nông thôn. Quán triệt tinh thần Nghị quyết TW5, cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta đã có sự chuyển biến đáng kể theo hướng đa ngành, đa canh và phát triển kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm trong GDP từ 29,3% trong năm 1995 xuống 25,7% trong năm 1997 nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng lên 4,5 - 4,9%/năm trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng có sự thay đổi, ngành không còn chiếm độc canh cây lúa mà chuyển sang đa canh như trồng màu, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn dài ngày theo từng vùng. Bên cạnh đó, lâm nghiệp ngư nghiệp cũng có sự phát triển, tỷ trọng thuỷ sản từ 7,5% năm 1991 lên 9,9% năm 1997. Điểm nổi bật trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là sự tăng trưởng và phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Thực hiện đường lối kinh tế mở, các ngành nghề thủ công và các loại dịch vụ ở nông thôn phát triển đều khắp cả nước, khoảng 200 làng nghề mới hình thành, 100 làng nghề truyền thống được khôi phục, phát triển với nhiều mô hình mới. Những sản phẩm của các làng nghề không những phục vụ đắc lực cho tiêu dùng trong nước mà còn tham gia xuất khẩu góp phần tăng tích luỹ, đẩy mạnh tái sản xuất mở rộng. Công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã vượt qua thời kỳ sa sút, mai một đang từng bước phục hồi và phát triển nhanh chóng. Theo ước tính dân cư làng nghề đã đầu tư khoảng 8.000 tỷ đồng để phát triển sản xuất phi nông nghiệp, đưa tốc độ phát triển công nghiệp nông thôn bình quân lê 8,9%/năm và những năm gần đây đạt 10%/năm. Cơ cấu nền kinh tế chậm biến đổi dẫn đến cơ cấu kinh tế nông thôn chậm biến đổi theo. Mặc dù trong những năm qua cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng đa ngành nhưng hiện nay kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ thực sự chưa phát triển: công nghiệp chiếm tỷ trọng 14,7% năm 1996, 15,5% năm 1997, 15,9% năm 1998, còn dịch vụ dao động ở 13,8%, trong khi đó nông nghiệp 71,5% năm 1996, 70,8% năm 1997, 70,3% năm 1998. Nông nghiệp nông thôn vẫn giữ tỷ trọng cao và giá trị sản phẩm nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế trong kinh tế nông nghiệp nhưng tỷ trọng của nó có xu hướng giảm đi xuống. Biểu 4 - Cơ cấu GDP cả nước và cơ cấu GDP nông thôn. Năm Ngành Cơ cấu GDP cả nước Cơ cấu GDP nông thôn 1996 1997 1998 1996 1997 1998 - Nông nghiệp 30,74 31,23 32,0 14,7 15,5 15,9 - Lâm nghiệp 27,2 26,22 25,7 71,5 70,8 70,3 - Thuỷ sản 24,06 43,55 42,55 13,8 13,7 13,8 Nguồn: Thông tin tài chính số 23/11/98 trang 6. Thời gian qua do thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn số hộ và lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm. Nhiều hộ đã có xu hướng chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Năm 1994, cả nước có khoảng 12 triệu hộ sinh sống ở nông thôn, trong đó gồm 2 triệu hộ làm phi nông nghiệp. Hiện nay, tốc độ phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn còn ở mức thấp biểu hiện ở tỷ lệ hộ gia đình lâm nghiệp và hộ phi nông nghiệp ở một số vùng trong cả nước cho thấy: biểu 5 - Tỷ lệ hộ nông nghiệp và hộ phi nông nghiệp. Tỷ số Cả nước MN TD Bắc Bộ DB Sông Hồng Khu IV cũ DH Miền Trung TN DNB DBSCL 100 100 100 100 100 100 100 100 Hộ nông nghiệp 80,6 91,4 92,2 83,0 75,6 77,9 51,0 72,1 Hộ phi nông nghiệp 19,4 8,6 7,8 17,0 24,4 22,1 49,0 27,9 Nguồn: Tổng cục thống kê Số hộ làm nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Tuy nhiên tỷ trọng đóng góp vào GDP lại rất nhỏ bé, chỉ 5% GDP năm 1997 trong khi công nghiệp - xây dựng là 13,07, dịch vụ 8,9%. Những năm gần đây do thiên tai tỷ trọng GDP của nông nghiệp có xu hướng giảm. Đây là kết quả không tương xứng với tiềm năng đất đai và lao động vốn có ở nông thôn. Nếu xét về cơ cấu thu nhập thì thu nhập từ nông nghiệp chiếm tới 55,6%, dịch vụ chiếm 17,3%, đặc biệt tỷ trọng công nghiệp nông thôn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 5,06%, không những thu nhập từ công nghiệp nông thôn chiếm tỷ lệ nhỏ mà trình độ kỹ thuật công nghiệp nông thôn cả về thiết bị lẫn công nghệ. Nếu trừ đi một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ thì sản phẩm công nghiệp nông thôn phần lớn kém chất lượng, mẫu mã đơn điệu, kiểu dáng chậm thay đổi, tốn nhiều nguyên liệu và năng lượng. Những kết quả đó dần khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta là: “Phát triển nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện cơ cấu kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội”. Nhưng khách quan mà nói những thành tựu trên còn khiêm tốn so với yêu cầu đặt ra cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. 3.3 Vai trò công nghiẹp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu và thực hiện công nghiẹp hoá Để đưa kinh tế nông thôn đi lên thì thực hiện bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều tất yếu, phải đồng thời phát triển kinh tế nông nghiệp và công nghiệp nông thôn nhưng không làm phương hại đến sự tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Nhu cầu mở mang công nghiệp ở nông thôn phải tạo việc làm cho lao động nông thôn dư thừa nhiều mà ruộng đất nông nghiệp lại có hạn. Phát triển công nghiệp nông thôn tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, sử dụng vốn tiết kiệm cho nông nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp. Hiện nay, giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn có xu thế tăng dần cả về số tuyệt đối lẫn tương đối. Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn trong cơ cấu kinh tế nông thôn từ chỗ thấp hơn tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp, tiến lên bằng rồi vượt nông nghiệp. Điểm mấu chốt của công cuộc phát triển nông thôn theo quan điểm bền vững và tích cực là phát triển và chuyển dịch nền kinh tế nông thôn từ kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nông nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Hoạt động kinh tế của lao động nông thôn có sự chuyển dịch không phải từ khu vực địa lý này sang khu vực địa lý khác, mà là chuyển dịch từ khu vực kinh tế nông nghiệp sang khu vực kinh tế công nghiệp, dịch vụ ngay tại nông thôn. Đại bộ phận tài nguyên, thiên nhiên, nhân lực, các ngành nghề truyền thống của Việt Nam đều phân bố ở những vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó việc đưa các nguồn tài nguyên này vào quá trình công nghiệp hoá toàn quốc tất yếu phải thông qua các hoạt động của công nghiệp nông thôn. Khi tiến hành thực hiện công nghiệp hoá đất nước, công nghiệp nông thôn đã đóng góp những mặt chủ yếu sau: (1) Phân bố lại lao động, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập và sức mua cho thị trường nông thôn. Khi việc làm ở nông thôn không được tạo ra thì vấn đề di dân ra đô thị trở nên nặng nề. Thực tế ở Việt Nam cho thấy nạn thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn đã vượt ra khỏi phạm vi nông thôn và ảnh hưởng rất rõ đến vùng đô thị, gây ra nhiều vấn đề mà bản thân đô thị không thể tự giải quyết được nếu không bắt đầu bằng phát triển sản xuất, giải quyết việc làm tại nô._.ng thôn. Tạo công ăn việc làm cho lao động tại chỗ trong khu vực nông thôn trong dư thừa lớn hiện nay và sẽ còn tăng thêm trong tương lai (do quỹ đất nông nghiệp quá hạn hẹp, tốc độ tăng dân số còn cao). Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và dịch vụ công nghiệp có khả năng chuyển lao động dư thừa từ nông nghiệp sang, góp phần phân công lại lao động hợp lý trong nông thôn. Đây là xu hướng hợp quy luật, có điều kiện hiện thực đối với nông thôn nước ta (công nghiệp thành thị sẽ ngày càng được mở rộng nhưng vẫn phải thu hút lao động thất nghiệp tại chỗ là chính. Đây cũng là con đường có hiệu quả nhất từng bước đô thị hoá nông thôn, hạn chế sự di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, góp phần ổn định kinh tế xã hội cả nước. Cùng với khả năng tạo việc làm, phát triển công nghiệp nông thôn là biện pháp chủ yếu để nâng cao thu nhập, tăng mức sống mọi mặt của đông đảo dân cư nông thôn. Thực tế cho thấy tình trạng thuần nông đối với phần lớn hộ gia đình nông dân cho dù trồng trọt và chăn nuôi có đạt giá trị sản phẩm 20 triệu đồng/ha cũng chỉ xoá được nghèo đói. ở các làng nghề hoặc xã có nghề thủ công, các hộ làm công nghiệp nhỏ thường có mức thu nhập gấp 2 - 3 lần hộ thuần nông. Thực tiễn đã khẳng định, phát triển công nghiệp nông thôn là chìa khoá để xoá đói, giảm nghèo tác động mạnh đến sự chuyển đổi tích cực cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo cho số lượng hộ khá, giàu ngày càng nhiều. (2)Công nghiệp nông thôn được coi là khâu dịch vụ đầu ra với công nghệ sau thu hoạch làm tăng giá trị sản phẩm nông lâm ngư nghiệp tạo khả năng thương mại hoá các sản phẩm đó theo nhu cầu của thị trường, nhất là xuất khẩu. Cho nên phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản là điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ, hậu thuẫn trực tiếp, thúc đẩy cho nông lâm ngư nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn hàng hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nâng cao năng lực chế biến nông lâm thuỷ sản với công nghệ tiến bộ đảm bảo hiệu quả và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cao là biện pháp thiết thực để tăng sức cạnh tranh hàng nông lâm thuỷ sản của nước ta trên thị trường thế giới. Trước hết và rõ rệt hơn là bảo đảm giá án tương đương với mặt hàng cùng loại của các nước khác, hoặc thêm những thị trường xuất khẩu ổn định tiêu thụ vốn khối lượng lớn và giá bán cao, như đối với mặt hàng gạo, cà phê, lạc, hạt điều, thịt, rau quả... (3) Bảo đảm cân đối, phát triển về cơ cấu ngành, vùng của quá trình công nghiệp hoá, làm cho nội dung của công nghiệp hoá được thực thi trong thực tế gắn các khía cạnh ngành và các khía cạnh lãnh thổ trong một quá trình công nghiệp hoá thống nhất, cơ cấu ngành kinh tế xã hội hài hoà. (4) Tăng cường tính bền vững trong quá trình công nghiệp hoá theo nghĩa đảm bảo cơ sở vững chắc cho tăng trưởng kinh tế trong nước trước những biến động thất thường của thị trường thế giới. Chỉ khi nào xây dựng được một nền kinh tế công nghiệp hoá liên kết vững chắc với sản xuất nông nghiệp trong nước, đủ sức tự đứng vững và phát triển thì mới có thể hướng nền kinh tế vào quỹ đạo gia tăng xuất khẩu. (5) Đẩy mạnh công nghiệp hoá nông thôn sẽ góp phần hiện đại hoá nông thôn, giảm bớt khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, bảo đảm công bằng xã hội, tạo những cơ hội sống không quá khác nhau cho mọi công dân bất kể người đó sinh ra ở nông thôn hay thành thị. (6) Phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống thông qua quá trình công nghiệp hoá nông thôn sẽ là cơ hội để củng cố, tăng cường và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc thể hiện ở các mặt hàng được chế biến bởi bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của người thợ thủ công Việt Nam, giới thiệu những nét đẹp, độc đáo của văn hoá Việt Nam với bè bạn thế giới. Nét phổ biến là công nghiệp nông thôn phát triển nhanh có hiệu quả trên các vùng đất ít người đầy, đặt biệt là khu vực vốn có các làng nghề truyền thống, ngành có lịch sử từ 300 đến 1000 năm tạo ra sản phẩm tinh xảo, mang bản sắc dân tộc, có giá trị văn hoá nghệ thuật cao đáp ứng được nhu cầu sản xuất, xuất khẩu như khảm chạm gỗ, chạm bạc, gấm mỹ nghệ, sơn mài, khảm trai. Phát triển công nghiệp nông thôn sẽ phát huy và duy trì được những làng nghề truyền thống cũng như gia trị văn hoá nghệ thuật của dân tộc qua các đường nét trạm trổ điêu luyện của các nghệ nhân. Tóm lại, công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, hiện đang thu hút khoảng 60% tổng số lao động và 40% giá trị tổng sản lượng của tiểu thủ công nghiệp trong cả nước. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành hoàn thiện và mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng quy mô của quá trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nó cung cấp điện, máy móc mở rộng hệ thống tưới tiêu, mở rộng diện tích đất canh tác, thúc đẩy áp dụng các loại máy động lực phục vụ công tác chế biến nông sản, cung cấp phân bón, máy móc phục vụ công tác làm đất, chăm sóc cây trồng, bơm nước chống úng, đồng thời công nghiệp nông thôn cung cấp máy, công cụ phục vụ thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển trước khi tới tay người tiêu dùng. III-/ Những thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển (1) Mặc dù nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng hiện nay khu vực nông thôn vẫn đang ở trong tình trạng xuất phát điểm thấp khi chuyển sang giai đoạn mới GDP từ nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội, trong khi đó nếu không tính đổi theo lao động thực tế làm việc thì gần 60% lao động trong xã hội thu hút vào ngành nông nghiệp, chứng tỏ khả năng tạo thu nhập rất thấp. Điều tra cho thấy thu nhập bình quân một lao động/tháng của số hộ thuần nông chỉ khoảng 100.000 đồng, thấp hơn rất nhiều so với khu vực thành thị. Tình trạng này dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo giữa khu vực thuần nông và phi thuần nông, giữa nông thôn và thành thị. (2) HIện nay ở khu vực nông thôn tỷ lệ người nghèo còn quá lớn, tỷ lệ này gấp 15 lần so với thành thị. ở khu vực thành thị số đói chiếm khoảng 2,4%, nghèo 4,6%, trong khi con số tương ứng ở nông thôn 10%, 40% đặc biệt là ở các vùng cao, vùng xa. (3) Có sự phát triển không đều giữa các khu vực nông thôn. Có 3 khu vực tương đối phát triển là đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông Hồng, còn lại là khu vực chậm phát triển. Ngay trong khu vực tương đối phát triển thì cũng chỉ ở một số tỉnh, trong các tỉnh lại chỉ có một số khu vực. Những tỉnh đó thường nằm ven đô, có điều kiện giao thông tốt, thuận lợi về ngành nghề truyền thống và dịch vụ. Bởi vậy khi bàn tới định hướng và giải pháp thì phải phân tầng, ngoài việc chia từng giai đoạn cho toàn xã hội Việt Nam; phân tầng theo sự phát triển và thực trạng của mỗi khu vực, có như vậy tính khả thi mới cao. (4) Môi trường sinh thái là vấn đề vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Nếu không đề cập đến vấn đề này thì sự bùng nổ ngành nghề ở nông thôn sẽ tạo điều kiện phá hoại môi trường sinh thái, mà hậu quả của nó để lại rất lâu dài đến thế hệ sau vẫn phải gánh chịu. (5) Vấn đề xã hội về giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn đang trở nên bức thiết, trong khi lực lượng lao động hàng năm tăng thêm vẫn giữ tỷ lệ cao. (6) Những cản trở về mặt nhận thức dẫn đến khó khăn lớn trong hoạch định và thực hiện chính sách phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng và quá trình công nghiệp hoá nói chung: thiếu nghiên cứu nhu cầu thực tế từng địa phương do không nghiên cứu thị trường, không xem xét kỹ thực trạng kinh tế nông thôn ở khu vực hoạch định, nhận thức về các khái niệm công nghiệp nông thôn hay công nghiệp hoá nông thôn có nhiều khác biệt, chưa có chính sách hiệu quả hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các hộ tiểu thủ công nghiệp để đạt mục tiêu phát triển công nghiệp nông thôn. IV-/ Những điều kiện tiền đề cho công nghiệp hoá nông thôn. (1) Phân công lao động trong nông thôn phải thực sự diễn ra theo hướng người nào giỏi nghề nào thì làm nghề đó. Người không có khả năng và không kiếm sống bằng nghề nông thì chuyển sang làm nghề khác. Việc đáp ứng yêu cầu này rõ ràng có liên quan đến vấn đề sở hữu ruộng đất nông nghiệp ở nông thôn. Một chế độ sở hữu ruộng đất không triệt để (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, nhượng bán) hoặc quá cứng nhắc về quyền chiếm hữu sẽ cột chặt người nông dân vào ruộng đất không tạo ra một bộ phận nông dân sẵn sàng rời bỏ nông nghiệp chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Muốn vậy, cần có thể chế tồn tại thị trường, trao đổi và chuyển nhượng ruộng đất và thị trường lao động trong nông thôn. (2) Năng suất lao động trong nông nghiệp phải đủ cao để nuôi sống số người không có việc làm nông nghiệp, nhưng chưa tìm được việc làm phi nông nghiệp mà vẫn không phải quay về làm nghề nông. Hiện nay trong nông thôn Việt Nam một số ngành nghề thủ công nghiệp vẫn chỉ là ngành nghề phụ ở nông thôn, điều kiện này giúp duy trì một đội ngũ những người lao động nông nghiệp bị bứt ra khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp, làm tăng sức ép tạo ra các việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. (3) Phải có các trung tâm ngành nghề mới phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ được mở ra với thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp có như vậy mới thu hút lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề mới. (4) Văn hoá tâm lý tập quán của nông dân địa phương phải phù hợp và thuận lợi cho việc di chuyển ngành nghề, chuyển đổi lao động văn hoá truyền thống có tính ổn định tuy là tương đối và không thể thay đổi nhanh chóng khi chưa có tiền đề tự nhiên, kinh tế, xã hội làm nền tảng và cơ sở. Các vùng đất ít người tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp có khókhăn về sản xuất nông nghiệp đã buộc người ta phải tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Vai trò văn hoá, tập quán hình thành các nhu cầu chi phối sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động sản xuất nông nghiệp hay phi nông nghiệp. Có những tập quán khuyến khích người ta vào một nghề nhất định suốt đời, có những nơi khuyến khích người ta buôn bán, có nơi lại trong nghề làm ruộng. Tóm lại, phải tuỳ thuộc vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội văn hoá tập quán của từng vùng để có những con đường hay phương thức hình thành và phát triển các hoạt động phi nông nghiệp khác nhau và thích hợp cho từng vùng. Mọi cách tiếp cận ngành hẹp hay là liên ngành nếu không gắn liền với đặc điểm của vùng lãnh thổ thì sẽ không thể hữu ích cho phát triển và không có lối đi vào cuộc sống. V-/ Kinh nghiệm phát triển công nghiệp nông thôn một số quốc gia. 1-/ Trung Quốc: Công nghiệp hoá Trung Quốc hình thành và phát triển theo phương châm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” được thể hiện ở sự phát triển của các xí nghiệp công nghiệp mang tên hương trấn. Xí nghiệp hương trấn là một hình thức mới của công nghiệp nông thôn mang màu sắc Trung Quốc đã góp phần đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá đất nước làm giảm sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, đời sống công nhân nông dân. Xí nghiệp hương trấn là các xí nghiệp do dân lập nên với sự giúp đỡ của Nhà nước, dùng vốn tích luỹ của họ để tổ chức sản xuất kinh doanh và họ tự quản lý theo cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi xí nghiệp hương trấn có trong nhiều thành phần kinh tế, có các xí nghiệp tập thể của xã, thôn, xí nghiệp cá thể hay liên doanh khác. Việc hình thành xí nghiệp hương trấn đã thu hút hơn 100 triệu lao động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn chuyển sang hoạt động công nghiepẹ dịch vụ lại các công xưởng công nghiệp địa phương ngay tạy các làng xã. Xí nghiệp hương trấn sản xuất thủ công nghiệp và chế biến sản phẩm phụ nông nghiệp, công nghiệp, kiến trúc, giao thông vận tải và ngành dịch vụ thương nghiệp diễn ra trên địa bàn nông thôn. Sự phát triển xí nghiệp hương trấn đã tăng cường thực lực kinh tế nông thôn, tăng đầu tư cho nông thôn. Xí nghiệp hương trấn trích lợi nhuận xây dựng công việc nông thôn dưới hình thức lấy “công bù nông, lấy công dựng nông”. Phát triển công nghiệp hương trấn sẽ tăng thêm thu nhập cho nông dân, từ đó làm tăng thực lực đầu tư của nông dân vào nông nghiệp. Xí nghiệp hương trấn tiến hành xây dựng hàng loạt các xí nghiệp chi viện cho nông nghiệp như các xưởng sửa chữa công cụ vừa và nhỏ, xưởng hoá chất dùng cho nông nghiệp... trực tiếp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, tăng thêm việc cung ứng có hiệu quả của tư liệu sản xuất cho nông nghiệp. Xí nghiệp hương trấn đã chuyển dịch khối lượng lớn sức lao động dôi thừa của nông nghiệp trong 10 năm, xí nghiệp hương trấn đã chuyển dịch được gần 70 triệu lao động dư thừa, tính ra mức bình quân ruộng đất cho mỗi lao động hiện nay là 3,5ha thì bằng dôi ra được trên 200 triệu ha . Sự dịch chuyển lớn lao động nông nghiệp dôi thừa sang làm công nghiệp dịch vụ đã nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, tạo điều kiện để kinh doanh nông nghiệp một cách quy mô hơn, tạo điều kiện để hiện đại hoá nông nghiệp. Xí nghiệp hương trấn phát triển gắn liền với một cơ chế linh hoạt, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm liên hệ trực tiếp với thị trường, thích ứng với sự biến đổi của nhu cầu thị trường và tự vươn lên trong cuộc cạnh tranh thị trường gay gắt. Xí nghiệp hương trấn có quyền tự chủ kinh doanh đầu tư Chính phủ không can thiệp, giám đốc điều hành, chú trọng sản phẩm mới và ứng dụng công nghệ mới theo chế độ phân phối làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. 2-/ ấn Độ. Từ thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo ấn Độ đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công nghiệp làng xóm nông thôn trong phát triển nông thôn. ấn Độ đề ra nguyên tắc phát triển công nghiệp nông thôn trên cơ sở tư nhân và hợp tác ở các vùng nông thôn và đề cập các lợi thế của khu vực công nghiệp nhỏ trong nền kinh tế ấn Độ như đảm bảo việc làm tối đa quy mô lớn, tạo ra một phương thức đảm bảo phân chia hợp lý hơn thu nhập quốc gia và huy động có hiệu quả các nguồn lực, vốn và tay nghề chưa được sử dụng hết. Theo khái niệm của ấn Độ, công nghiệp nông thôn là bất kỳ xí nghiệp công nghiệp nào xây dựng và hoạt động trên địa bàn nông thôn, một tụ điểm dân cư có số dân không quá 10.000 người, có vốn cố định không quá 25.000 rupi. Công nghiệp nông thôn bao gồm các ngành nghề truyền thống và các ngành nghề mới phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Các hoạt động công nghiệp ở nông thôn bao gồm một loạt các ngành chế biến sản phẩm sơ cấp (lương thực thực phẩm, các hoạt động gắn với nông nghiệp và khai thác mỏ... ) các xưởng chế tạo cho nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng tiêu thụ ở nông thôn. Nhờ các ngành công nghiệp nông thôn mà người nghèo có thể dễ dàng tham gia hoạt động công nghiệp. ở ấn Độ, việc khuyến khích các xí nghiệp nông thôn được xem như một yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển quốc gia Chính phủ ấn Độ đề ra phương hướng phát triển công nghiệp nông thôn theo mặt công nghệ sử dụng công nghệ ít vốn, nhiều lao động, công nghệ thủ công không cao thiết bị đơn giản, phải sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, trong nước là chủ yếu, công nghệ tiết kiệm năng lượng hay tận dụng năng lượng tại chỗ. Ngoài ra Chính phủ còn tiến hành các biện pháp hỗ trợ thành lập trung tâm công nghiệp huyện hỗ trợ cho các xí nghiệp nông thôn, nó nghiên cứu tiềm năng tài nguyên khu vực, cng cấp máy móc thiết bị, phân bố tín dụng nhận được ở ngân hàng, giúp đỡ hoạt động thương mại, công tác đào tạo, huấn luyện thanh niên nông thôn để tự mình kiếm công ăn việc làm. ấn Độ chú trọng bảo tồn và phát triển triển các ngành thủ công mỹ nghệ, tinh hoa của dân tộc, tạo ưu thế vươn ra thế giới. Chính phủ thành lập các trung tâm công nghệ và thiết kế mẫu các mặt hàng thủ công nghiệp phù hợp thị hiếu của khách hàng các trung tâm chuyên nâng cao tay nghề cho thợ cả giữ gìn, khôi phục các nghề thủ công cổ truyền, bồi dưỡng tay nghề các nghệ nhân. Có như vậy, phát triển công nghiệp nông thôn ấn Độ mới có bộ mặt sáng sủa như ngày nay. chương ii thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam i-/ Thực trạng kinh tế nông thôn. 1. Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm nông lâm thuỷ sản có tốc độ tăng nhanh và liên tục, bình quân 4,5%/năm cao hơn nhiều so với mức tăng thời kỳ trước đó. Thành tựu nổi bật nhất là sản xuất lương thực tăng nhanh và liên tục. Từ năm 1989 - 1999 bình quân mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn lương thực bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và góp phần xuất khẩu. Bên cạnh ngành sản xuất lương thực xuất hiện một số ngành sản xuất hàng hoá đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu, bước đầu có chỗ đứng trên thị trường quốc tế với kim ngạch xuất khẩu khá như cà phê, cao su, hạt điều..., các loại cây ăn quả, mía đường, bông vải... cũng khá phát triển. Chăm sóc bảo vệ trồng rừng phủ xanh đồi núi trọc có tiến bộ bước đầu chặn đứng được tình trạng sa sút về diện tích rừng. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản 10 năm qua từ 1989 đến 1999 đạt trên 15 tỷ đô la, bình quân hàng năm tăng 20%, cụ thể xuất khẩu 22 triệu tấn gạo, 1,9 triệu tấn cà phê, hơn 1 triệu tấn cao su mủ khô. So với năm 1989 khối lượng xuất khẩu năm 1999: gạo gấp 2, 67 lần, cà phê 7 lần, cao su mủ kho 3,4 lần. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản năm 1998 ước đạt 2.600 triệu đô la gấp 3,2 lần năm 1989. Trong ngành nông lâm thuỷ sản, giá trị sản xuất của ngành tăng lên, 48968 tỷ đồng (1994) tăng lên 57422 tỷ đồng (1998) với tốc độ khoảng 1,17%. Tuy về giá trị, ngành nông lâm thuỷ sản vẫn tăng nhưng tốc độ tăng theo các năm giảm dân, một phần do tình hình kinh tế chính trị bất ổn chung của thế giới và khu vực ảnh hưởng đến các ngành nông lâm thuỷ sản của nước ta. Năm 1995 tăng 4,8%, năm 1996 tăng 4,4% nhưng năm 1998 đã giảm xuống nhanh chóng còn 2,7%. Trong ba ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản nhìn chung giá trị của chúng đều tăng, đặc biệt là tốc độ tăng nhanh của ngành thuỷ sản 12,3%/năm 1997, 12%/năm 1998. Cơ cấu ngành nông lâm thuỷ sản thì nông nghiệp vẫn giữ tỷ trọng cao khoảng 84,8% qua các năm, ngành thuỷ sản ngày càng khẳng định thế đứng của mình bằng cách tăng về tỷ trọng trong cơ cấu ngành 8,2% (1994); 8,9 (1995) lên 10,8% (1998). Tuy rằng nông nghiệp giữ vẫn giữ vị trí quan trọng nhưng tỷ trọng ngành có xu hướng đi xuống 85,3% (1994), 84,3% (1995) giảm xuống 83,4% (1998), đây là xu hướng phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH - HĐH. Biểu 6 - Giá trị sản xuất ngành nông lâm thuỷ sản trong GDP với giá so sánh năm 1997 Đơn vị: Tỷ đồng 1994 1995 1996 1997 1998 Nông lâm thuỷ sản 48.968 51.319 53.577 55.893 57.422 Nông nghiệp 41.770 43.262 45.433 47.287 47.890 Lâm nghiệp 3.183 3489,6 3.215 3.074 3.330 Thuỷ sản 4.015 4.567 4.929 5.534 6.201 Nguồn: Tổng cục Thống kê Biểu 7 - Tốc độ tăng của ngành nông lâm thuỷ sản (%) 1995 1996 1997 1998 Nông lâm thuỷ sản 104,8 104,4 104,3 102,7 Nông nghiệp 103,6 105,0 104,1 101,3 Lâm nghiệp 109,6 92,1 95,6 108,3 Thuỷ sản 113,8 107,9 112,3 112 Nguồn: Tổng cục Thống kê Biểu 8 - Cơ cấu ngành nông lâm thuỷ sản (%) 1994 1995 1996 1997 1998 Nông lâm thuỷ sản 100 100 100 100 100 Nông nghiệp 85,3 84,3 84,8 84,6 83,4 Lâm nghiệp 6,5 6,8 6,0 5,5 5,8 Thuỷ sản 8,2 8,9 9,2 9,9 10,8 Nguồn: Tổng cục Thống kê Do khởi điểm của ngành nông lâm thuỷ sản ở mức thấp, trang thiết bị công nghệ sản xuất lại thô sơ, hậu quả nhiều năm chiến tranh nên lương giá trị tăng chưa cao, cả về trồng trọt, chăn nuôi hay các ngành nghề khác, trong khi vấn đề bức xúc tăng dân số hàng năm 1,76% dẫn đến lượng tích luỹ tái sản xuất thấp, năng suất lao động lẫn năng suất đất đai ở nông thôn đạt giá trị thấp. Một ha đất canh tác một năm góp khoảng 10 triệu đồng GDP, một lao động nông thôn mới làm ra khoảng 2,5 triệu đồng/năm. Theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, để đánh giá đúng thực trạng kinh tế nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng cần phải đánh giá kết quả sản xuất nông nghiệp qua một giai đoạn nhất định. Bảng 9 - Kết quả sản xuất nông nghiệp 4 năm 1996 - 1999 so với thời kỳ 1991 - 1995 Đơn vị tính Bình quân 1 năm thời kỳ 1991 - 1995 1996 - 1999 1. Sản xuất lúa Diện tích 1000 ha 6.500 7.130 Năng suất Tạ/ha 34,5 38,5 Sản lượng 1000 tán 22.480 27.460 2. Sản lượng lương thực quy thóc Triệu tấn 25 30,5 3. Lương thực bình quân đầu người Kg 354 390 4. Gạo xuất khẩu Triệu tấn 1,75 3,43 5. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng Triệu tấn 1,34 1,5 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thời kỳ 96 - 99 so với 91 - 95 càng khẳng định thêm vị trí quan trọng của cây lúa trong nông nghiệp về diện tích tăng 630 nghìn ha, mỗi ha tăng thêm 4 tạ chứng tỏ chất lượng đất được chú trọng, sản lượng tăng 6.980 nghìn tấn, sản lượng lương thực quy thóc tăng 5,5 triệu tấn. Dù dân số tăng nhanh nhưng do lương thực được chú ý đúng mức nên lương thực bình quân đầu người tăng 36 kg/người, gạo cho xuất khẩu tăng 1,68 triệu tấn vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới. Tổng lương thực quy thóc năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn tăng gần 2 triện tấn (tăng 6,3%) so với năm 1998, đạt 105,3% kế hoạch đề ra. Riêng sản lượng lúa đạt 31 triệu tấn, tăng 1,9 triệu tấn (65%). Diện tích, năng suất sản lượng màu giao thóc tăng hơn 1998, thực hiện đạt khoảng 2,8 triệu tấn. Sản xuất màu vụ đông đạt 452.000 ha, tăng 4% so với vụ đông 1997. 2. Cơ cấu nội tại của kinh tế nông nghiệp và nông thôn, trồng trọt vẫn giữ tỷ lệ cao nhưng chăn nuôi lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn: năm 1992 trồng trọt 7,1%, chăn nuôi 12,8%, năm 1994 tỷ lệ tương ứng 4,7% và 5,4%, năm 1997 là 3,6% và 5,2%. Trồng trọt giữ tỷ trọng cao 72,2% giá trị nông nghiệp, lương thực chiếm 63,9% giá trị trồng trọt. Giá trị sản phẩm cây trồng phi lương thực từ 33,7% (1993) lên 36,22% (1995) và trên 38% (1997) mặc dù sản lượng lương thực vẫn tăng hàng năm bình quân 5%, nhưng chỉ ciếm 27,1% giá trị trồng trọt. Chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính độc lập, mới chỉ đạt 27,6% giá trị nông nghiệp. Giá trị sản phẩm chế biến so với giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 33,6% (1990), 40% năm 1995 và trên 42% năm 1997. Giá trị sản lượng mỗi ha gieo trồng bình quân tăng 2%/năm. Trong giai đoạn 94 - 98, cơ cấu nội bộ nông nghiệp đã có bước chuyển dịch tích cực: trồng trọt chiếm tỷ trọng 73,2% năm 1994 đã giảm xuống 71,6 năm 1998, còn chăn nuôi từ 26,8% năm 1994 xuống 28,4% năm 1998. Tuy rằng chuyển dịch chậm nhưng giá trị sản phẩm các ngành đều tăng, chăn nuôi từ 11195 tỷ đồng tăng lên 13601 tỷ (1998), trồng trọ từ 30575 năm 1994 lên 34289 năm 1998. Bảng 10 - Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp (%) 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 100 100 100 100 100 Trồng trọt 73,2 73,1 72,4 72,1 71,6 Chăn nuôi 26,8 26,9 27,6 27,9 28,4 Nguồn: Tổng cục thống kê. Bảng 11 - Giá trị các ngành cấu nên nông nghiệp (tỷ đồng) 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 41.770 43.262 45.433 47.287 47.890 Trồng trọt 30.575 31.625 32.894 34.094 34.289 Chăn nuôi 11.195 11.637 12.539 13.193 13.601 Nguồn: Tổng cục thống kê. Chăn nuôi năm 1999 tăng khá cả về gia súc, gia cầm, chất lượng đàn gia súc được cải thiện một bước. Đàn bò đạt 4,1 triệu con, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 1998, đàn trâu vẫn duy trì 2,9 triệu con. Đàn lợn đạt 18,8 triệu con tăng 3,9%. Đàn gia cầm đạt 173 triệu con, tăng 3,9%. Tổng sản lượng thịt đạt 1,75 triệu tấn tăng 7,7% so với 1998 trong đó thịt lợn đạt 1,32 triệu tấn, tăng 7,5%, sản lượng trứng đạt 3,3 tỷ quả, tăng 2,9%, sản lượng sữa đạt 40.000 tấn, tăng 22%. 3. Phát triển ngành nghề công nghiệp và dịch vụ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, ngành nghề dịch vụ chuyển biến chậm, giá trị nông nghiệp cao 71,4% trong khi công nghiệp chiếm 13,8%, dịch vụ 14,7% nhưng giá trị làm ra của công nghiệp, dịch vụ nông thôn còn rất nhỏ bé. Quan trọng hơn, nền nông nghiệp nước ta còn mang tính cổ truyền, kém hiệu qủa. Do cơ cấu nền nông nghiệp chậm thay đổi nên công nghiệp chế biến sản phẩm khó có điều kiện phát triển. Dịch vụ nông nghiệp có xu hướng giảm sẽ có tác động giảm đến sản xuất hàng hoá trong cơ chế kinh tế mở rộng hiện nay. Mặt khác, hàng nông sản nước ta không đa dạng về chủng loại, chất lượng lại chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên khó chiếm lĩnh thị trường, thậm chí có những loại nông sản thị trường còn bị thu hẹp do chất lượng phẩm chất quá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất, ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp. 4. Kinh tế nông thôn có phát triển nhưng đã lạm dụng khai thác tài nguyên (đất đai, rừng, sông ngòi) và khai thác cường độ lao động cơ bắp. Tác động khoa học công nghệ tuy có cố gắng nhưng chưa tương xứng với yêu cầu tăng tốc độ phát triển, do vậy môi trường sinh thái đã bộ giảm sút trông thấy. Một phần do nguyên nhân hệ thống nghiên cứu khoa học tổ chức phân tán, phần lớn trang thiết bị nghiên cứu lạc hậu, lực lượng cán bộ KHKT đông nhưng không đủ mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên cứu thiếu chuyên gia đầu ngành và công tác thông tin khoa học còn yếu kém. 5. Đất đai canh tác có hạn, dân số đông và đang tăng lên nhanh dẫn đến diện tích đất bình quân đầu người ngày càng giảm, bình quân một hộ nông nghiệp đạt 5.162 m2 đất nông nghiệp, mỗi lao động có mức 3369 m2, đây là mức bình quân quá thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến mức thu nhập của nông dân. Thời gian nhàn rỗi và lao động dư thừa nông thôn đang gây một sức ép lớn cho thành thị và công nghiệp nông thôn, khoảng 7 triệu lao động chưa có việc làm, mỗi năm lại thêm 900.000 người đến độ tuổi lao động, điều này dẫn đến năng suất lao động ở nông thôn vẫn tiếp tục thấp. Lao động nông thôn có độ tuổi trong tuổi lao động lẫn cả ngoài tuổi lao động nhưng thời gian lao động thực tế lại thấp do tính chất lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch Đầu tư, lao động nông thôn tăng trung bình hàng năm 3,32% nhưng tốc độ này có xu hướng giảm dần, 23351,5 nghìn người (1991) tăng 3,9%, nhưng lại sang năm 1992 thêm 903,5 nghìn người tăng 1,041%. Đến năm 1999 thì lao động nông thôn đã là 30769,5 nghìn người nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm còn 3,1% nhưng tỷ lệ này vẫn cao so với khu vực và thế giới. Bảng 12 - Lao động nông thôn Việt Nam. 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Số lao động NT 22461,9 23351,5 24235 25167,1 26086 27014,4 27952 28891 29832,9 30769,5 Tốc độ tăng 3,97 3,96 3,87 3,76 3,65 3,56 3,47 3,36 3,26 3,1 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hiện nay nông thôn Việt Nam đang đứng trong một vòng luẩn quẩn. Thu nhập thấp Sản xuất không phát triển Thị trường sức mua thấp Đầu tư thấp Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Người ta đề ra hai cách, cách một là đầu tư phát triển sản xuất song cách này ít mang lại hiệu quả mong muốn và thực tế đã chứng minh điều đó, cách hai là đầu tư để tạo ra thị trường tiêu thụ nguồn lực tại chỗ làm sức hút sản xuất phát triển, nó được tiến hành dựa trên sự phát triển công nghiệp nông thôn. II-/ thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam. 1-/ Đánh giá chung thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam. Công nghiệp nông thôn nước ta đã xuất hiện rất sớm các làng nghề truyền thống lâu đời, song sự phát triển qua các thời kỳ quá chậm chạp và có thời kỳ bị mai một. Về cơ bản, công nghiệp lẫn dịch vụ nông thôn chỉ được xem là những ngành phụ để giải quyết thời gian nhàn rỗi và lao động dư thừa ở nông thôn. Tuy vậy những năm gần đây công nghiệp dịch vụ nông thôn đã bắt đầu phát triển, đóng góp phần lớn thu nhập cũng như lao động thực tế của gia đình, đặc biệt là công nghiệp nông thôn. Riêng công nghiệp nông thôn hàng năm có mức tăng trưởng khoảng 10 - 12%, trong đó chế biến nông lâm thuỷ sản có tốc độ tăng 12 - 15%/năm, tiểu thủ công nghiệp tăng 7,8%, công nghiệp vật liệu xây dựng chủ yếu là xi măng tăng 11,54%/năm. Trong các mức tăng trưởng các năm thì công nghiệp nông thôn có tỷ lệ tăng trưởng ngày càng cao, bắt đầu từ 9% (1991), 13,1% (1993), 13,9% (1995) 10,8% (1997) nhưng năm 1998 chỉ là 4,6% do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã kéo tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta nói chung, công nghiệp nông thôn nói riêng đi xuống. Bảng 13 - Tốc độ tăng công nghiệp nông thôn. 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 CNNT 9% 14% 13,1% 14% 13,9% 15,6% 10,8% 4,6% 4,61% Nguồn: Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp vẫn giữ tỷ trọng cao trong 3 ngành công nông dịch vụ nhưng tỷ trọng này có xu hường giảm tuy rằng sự chuyển dịch này chậm, công nghiệp và dịch vụ ngoài tốc độ tăng nhanh hàng năm còn có xu hướng dịch chuyển tỷ trọng công nghiệp dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao nhưng cũng rất chậm. Tuy nhiên hàng năm giá trị tạo ra của công nghiệp nông thôn đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội chưa cao, 11750 tỷ đồng (1996), 13805,6 tỷ đồng (1997), 14838,8 tỷ đồng (1998) trong khi tỷ lệ này của nông nghiệp là 53577 tỷ đồng, 55895 tỷ đồng, 57422 tỷ đồng. Công nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn từ 14,7% 91996) lên 15,5% (1997) và 15,9% (1998) và dự báo năm 2010 tỷ trọng này là 25%. Theo thống kê qua các năm cho thấy giá của ba ngành công nông dịch vụ đều tăng, ngành công nghiệp nông thôn tăng cả giá trị lẫn tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế hàng năm, xu hướng này phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhưng nông nghiệp vẫn giữ vị trí cao trong kinh tế nông thôn. Biểu 14 - Giá trị nông công dịch vụ trong GDP với giá so sánh năm 1994 (tỷ đồng) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Nông nghiệp 41.770 43.262 45.433 47.287 47.890 48.422 Công nghiệp 7.094 8.080 9.341 10.352 10.831 11.331 Dịch vụ 6.811 7.689 8.769 9.150 9.401 9.712 Nguồn: Tổng cục thống kê Biểu 15 - Cơ cấu nông công nghiệp trong kinh tế nông thôn (%) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Nông nghiệp 75 73,3 71,5 70,8 70,3 69,6 Công nghiệp 12,8 13,7 14,7 15,5 15,9 16,4 Dịch vụ 12,2 13,0 13,8 13,7 13,8 14,0 Nguồn: Tổng cục thống kê 1.1 Thành tựu đạt được. - Cơ cấu công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong những điều kiện mới. Tỷ trọng công nghiệp nông thôn năm 1996 chiếm 14,7%, 15,5% năm 1997, 15,9% năm 1998. Nhiều sản phẩm được sản xuất phục vụ đời sống tại chỗ, khai thác nguồn lực tại chỗ hoặc cùng với khâu chế biến tạo nên hàng hoá xuất khẩu cạnh tranh thị trường quốc tế. - Nhiều ngành nghề ._.m chuyển dịch cơ cấu một cách tích cực, hợp lý, tiến bộ từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội. 3-/ Định hướng theo vùng lãnh thổ Việc phát triển công nghiệp nông thôn của mỗi địa phương phải đặt trong chiến lược của cả nướ đồng thời nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn. Mỗi địa phương theo đặc điểm của mình, trong từng thời kỳ nhất định cần có mục tiêu phương hướng giải phóng cụ thể. Phương hướng chung là tập trung phát triển ngành nghề nông thôn ở một số cụm, trung tâm, từ đó lan toả sang các khu vực khác, chú trọng trước những địa phương có nhu cầu bức xúc về việc làm và có lợi thế so sánh Công nghiệp nông thôn ở từng địa phương cần đưa sản phẩm của mình ra thị trường cả nước và hướng ra thị trường nước ngoài. Trên thị trường các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, coi cạnh tranh là yếu tố, quan điểm của sản xuất hàng hoá. Vì vậy các doanh nghiệp này phải luôn luôn đổi mới trang thiết bị và công nghệ đổi mới sản phẩm dịch vụ theo yêu cầu và tiêu chuẩn thị trường, phải chấp nhận quy luật phát triển và đào thải của thị trường cạnh tranh. Việc phát triển công nghiệp nông thôn ở từng địa phương không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất về kinh tế xã hội mà còn lưu ý đến khía cạnh môi trường, hệ sinh thái, lưu ý tới việc bảo tồn, duy trì những di sản văn hoá truyền thống của địa phương mình coi đó là những nguồn lực và điều kiện để phát triển bền vững sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. + Vùng đồng bằng Sông Hồng là vùng đất chật người đông cần phát triển nhanh ngành công nghiệp nông thôn, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, các làng nghề mới tạo ra các sản phẩm thiết yếu cung cấp cho thị trường trong vùng và cho cả nước, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho thị trường du lịch và xuất khẩu. Đồng thời khuyến khích đầu tư công nghiệp ở một số ngành để sản phẩm có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của công nghiệp thành phố và hàng nhập khẩu. Cần nhanh chóng tạo ra sự phân công lao động trong nông thôn, phá vỡ nhanh chóng tính khép kín cố hữu của làng xã thuần nông cổ truyền và những ràng buộc nặng nề khác, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Cần có biện pháp thúc đẩy quá trình chuyển nhượng đất nông thôn trong luật đất đai theo hướng hình thành những vùng chuyên canh rộng lớn, tập trung ruộng đất vào tay nông dân làm ăn và quản lý giỏi để họ trở thành chủ trang trại những người nông dân không còn ruộng đất sẽ thu hút vào các hoạt động phi nông nghiệp thíchhợp như phát triển các ngành nghề thủ công, truyền thống lẫn nghề mới, thậm chí di dẫn đến vùng khác. + Vùng đồng bằng sông Cửu Long: nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Công nghiệp nông thôn ở vùng này cần tập trung vào công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản với quy mô và công nghiệp thích hợp nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu. Các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản như làm đất, tưới tiêu nước, thu hoạch, sơ chế, chế biến, vận tải nông sản, hàng hoá cần được phát triển nhanh. Nhà nước nên bằng mọi cách huy động vốn đầu tư cho phát triển hệ thống hạ tầng nhất là hạ tầng giao thông, đường xá, xây dựng kho tàng phát triển các dạng năng lượng khác cung cấp đủ cho các hoạt động chế biến bảo quản nông lâm thuỷ sản với các công nghệ thích hợp nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu. Vấn đề sản xuất cái gì, như thế nào và tiêu thụ sản phẩm ở đâu các chủ thể phải năng động nhạy bén tự lo liệu ở một vùng sản xuất hàng hoá có truyền thống. Vốn xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nên được trích rút ra từ thu nhập do xuất khẩu lúa gạo, xuất khẩu thuỷ sản hàng năm mà vùng có được. Ngoài ra cần sửa sử dụng một phần thích đáng vốn vay của các tổ chức quốc tế, của các Chính phủ, các tổ chức tài chính ngân hàng quốc tế. + Đối với vùng cao: đồng bào ít người còn nghèo, sống phân tán, trình độ dân trí thấp, giao lưu khó khăn, hướng phát triển ngành nghề nông thôn ở những nơi đồng bào di cư, có nông, lâm sản hàng hoá, khôi phục và phát triển các nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, nghề đan lát, mỹ nghệ dân tộc, chế biến nông lâm sản, sản xuất dụng cụ cầm tay. Vùng núi cao, đồng bào dân tộc còn nghèo sống phân tán, trình độ dân trí thấp, hạ tầng thiếu thốn, giao lưu khó khăn, sản xuất nặng về tự cung, tự cấp, chưa có sản phẩm hàng hoá, công nghiệp nông thôn chỉ có thể phát triển khi sản xuất nông lâm nghiệp có sự chuyển đổi, lợi thế vùng cao được sử dụng đúng mức và đồng bào dân tộc thực sự an tâm định canh định cư để phát triển sản xuất nông lâm sản hàng hoá. Để mở mang công nghiệp nông thôn của vùng cần tập trung nguồn vốn cho định canh định cư, xoá đói giảm nghèo, xây dựng hạ tầng cơ sở như đường, thuỷ điện, lập các trung tâm hỗ trợ chuyển giao trình diễn công nghệ thích hợp với đặc thù vùng cao để đồng bào các dân tộc có cơ hội làm theo. Hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào dân tộc tìm ra thị trường để khôi phục lại nghề dệt thổ cẩm truyền, đan lát, sản xuất hàng mỹ nghệ dân tộc, mở rộng giao lưu vói vùng đồng bằng đô thị. + Đối với vùng Trung du, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ: là nơi nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là vùng có nông sản hàng hoá các cây công nghiệp như cà phê, cao su, mía đường, chè điều... cần khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực sản xuất và chế biến với quy mô vừa và nhỏ, công nghệ và thiết bị hiện đại phục vụ cho xuất khẩu và nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước. Cùng với sự phát triển công nghiệp chế biến, các hoạt động công nghiệp, dịch vụ khác cần phát triển thu hút nhiều lao động tại chỗ và lao động từ các vùng khác trong nước. + Đối với vùng ven biển: Công nghiệp nông thôn tập trung vào khai thác, nuôi trồng chế biến thuỷ sản và nghề mới xây dựng. III-/ Một số giải phát phát triển công nghiệp nông thôn đến năm 2010. 1. Công tác quy hoạch: Xây dựng quy hoạch các nghàng địa phương là công việc rất quan trọng nhằm thể hiện định hướng ,mục tiêu và phối hợp các nghanh trên địa bàn cụ thể.Các quy hoạch cần xây dựng: - Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu của nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên ở vùng nông thôn như chế biến nông lâm sản, vật liệu xây dựng cần khảo sát điều tra về hiện trường, tiềm năng làm cơ sở cho việc hoạch định hướng phát triển, quy mô, công suất, địa điểm các nhà máy gắn với vùng nguyên liệu. Các tỉnh cần căn cứ vào định hướng của Nhà nước, các tiêu chuẩn, điều kiện xây dựng khu công nghiệp, chế biến để xây dựng quy hoạch. Các huyện cũng cần có quy hoạch các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề. Đi đôi với việc quy hoạch trên là các biện pháp về xử lý đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, xử lý các vấn đề về môi trường, các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. - Quy hoạch xây dựng nông thôn mới: quy hoạch về giao thông, khu dân cư, khu trung tâm thương mại, văn hoá xã. Trên cơ sở quy hoạch có kế hoạch cụ thể về phát triển giao thông, củng cố xây dựng đường điện, nguồn nước sạch và vệ sinh môi trường. Đặc biệt các làng nghề xã nghề cần có dự án cụ thể về phát triển sản xuất đi đôi với giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn. Các địa phương miền núi cần có biện pháp để định canh định cư. Mỗi tỉnh tập trung xây dựng một số làng kiểu mẫu về nông thôn mới để rút ra kinh nghiệm. 2. Phát triển mạnh mẽ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho công nghiệp nông thôn và cho các ngành sản xuất vật chất, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ở nông thôn. Các dịch vụ chuyển giao công nghiệp và đổi mới kỹ thuật cũng như các dịch vụ tư vấn kinh doanh cần được ưu tiên trong thời gian tới. Việc phát triển dịch vụ này đòi hỏi sự tham gia của các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan đến dịch vụ cần tư vấn. Mô hình tư vấn, dịch vụ kiểu một cửa cho các khu chế xuất, khu công nghiệp có thể xem xét và vận dụng một cách hợp lý. Để hoàn thành nhiệm vụ cần có hoạt động sau: Tuyên truyền chủ trương chính sách của Nhà nước đối với phát triển công nghiệp nông thôn và những vấn đề kinh tế có liên quan. Thông tin thị trường và giá cả cho các cơ sở công nghiệp nông thôn, đồng thời thu thập thông tin về tình hình hoạt động và việc tiếp nhận thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước ở các cơ sở công nghiệp nông thôn, kịp thời phản ánh cho các cấp các ngành để kịp thời có biện pháp giải quyết phù hợp. Hướng dẫn người sản xuất lựa chọn các trang thiết bị và công nghệ cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, đồng thời làm môi giới trong việc mua bán, lắp đặt máy móc thiết bị và tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức đào tạo nghề cho người lao động, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ những nhà doanh nghiệp, đồng thời phổ biến những kinh nghiệm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để các chủ doanh nghiệp rút kinh nghiệm nâng cao trình độ quản lý của mình. Giúp đỡ trong việc lập hồ sơ, thủ tục đăng ký sản xuất kinh doanh. Mạng lưới dịch vụ cần được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú theo từng chức năng dịch vụ riêng biệt hoặc dịch vụ theo nhóm chuyên đề với sự tham gia của cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu, đào tạo giáo dục các đoàn thể chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp, các cơ sở dịch vụ tư nhân. Nhà nước cung cấp thông tin chính trị, giá cả, kiến thức, đường lối... cùng với sự giúp đỡ ưu đãi về thuế, cơ sở vật chất đối với tổ chức dịch vụ, các tổ chức nghiên cứu khoa học. 3. Tăng cường đầu tư của Nhà nước cho các chương trình nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới và phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hoá. Đẩy mạnh nghiên cứu tìm ra thiết bị, công nghệ phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của các cơ sở công nghiệp nông thôn trên cơ sở cải thiện công nghệ thiết bị cũ hoặc chế tạo ra công nghệ thiết bị mới là rất cần thiết. Cần tập trung vào công nghệ chế biến nông lâm hải sản thành hàng tiêu dùng, xuất khẩu có giá trị cao. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa hoạc, công nghệ mới vào sản xuất, các địa phương cần bổ sung thêm nguồn ngân sách đầu tư cho hoạt động này và để tài trợ vốn ban đầu cho những cá nhân hay tập thể cho đề tài nghiên cứu phát triển công nghiệp nông thôn ở địa phương. Ngoài ra còn có cơ chế chính sách ưu đãi để thu hút các nhà khoa học, nhà sáng chế trong cả nước đi vào nghiên cứu sáng tạo phục vụ nhu cầu phát triển công nghiệp nông thôn. 4. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc giáo dục y tế phù hợp với điều kiện sinh thái địa phương. Cần đẩy mạnh hơn nữa những cuộc vận động các tổ chức kinh tế, các cấp chính quyền, cá6c đoàn thể xã hội, toàn dân góp công góp của để xây dựng các công trình nói trên, cần huy động lao động công ích hàng năm cùng đóng góp của dân cư đô thị xây dựng nông thôn. Đầu tư xây dựng các công trình một cách có trọng tâm, trọng điểm đồng thời chú trọng đất chất lượng thi công các công trình đó, trước hết là công trình xây dựng đường giao thông. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Ngoài hạ tầng kỹ thuật cần hết sức chú trọng và yếu tố hạ tầng xã hội như văn hoá, giáo dục, đào tạo, dạy nghề. Tăng cường các cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển các trung tâm đào tạo và dạy nghề, trung tâm ứng dụng công nghệ kỹ thuật mới ở các khu vực nông thôn. Mở rộng các hoạt động hướng nghiệp cho các thanh niên sắp bước vào tuổi lao động, tạo một động lực mạnh mẽ để thu hút thanh niên nông thôn và nhân tài các nơi khác định cư lâu dài tại các vùng nông thôn, tránh tập trung quá mức vào các trung tâm đô thị dẫn đến chỗ nông thôn bị bỏ rơi, lâm vào tình trạng rỗng phát triển bộp xốp của kinh tế nông thôn. 5. Xây dựng các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vao công nghiệp nông thôn. * Chính sách tài chính và tín dụng: có ưu đãi đặc biệt với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả ở đô thị về nông thôn mở chi nhánh giá công sản xuất hay thử nghiệm sản phẩm; dành một phần vốn ngân sách đầu tư hỗ trợ dài hạn lãi thấp cho xây dựng cơ bản đối với các cơ sở công nghiệp nông thôn hoạt động trong những ngành, nghề cần khuyến khích phát triển mạnh. Nhưng vốn bao giờ cũng là yếu tố quan trọng với cơ sở sản xuất, Nhà nước cần căn cứ vào mức bình quân vốn từng loại hình doanh nghiệp nông thôn để hỗ trợ hiệu quả. Khuyến khiách vốn vay với cơ sở có điều kiện phát triển sản xuất, có khả năng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường cả trong lẫn ngoài nước. Tăng mức tiền và thời gian vay phù hợp với quy mô và chu kỳ sản xuất, đơn giản các thủ tục cho vay. Đối với những vùng khó khăn, một số sản phẩm cần khuyến khích sản xuất, sản phẩm xuất khẩu được vay với lãi xuất ưu đãi. Tăng cường nguồn vốn ODA, các nguồn tài trợ của các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ... cho các ngành nghề nông thôn. Phát triển các quỹ tín dụng trong nông thôn để huy động vốn trong dân phát triển sản xuất. Thành lập quỹ hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn. Đây là công cụ chính sách quan trọng để phát triển ngành nghề nông thôn. Nhìn chung các hộ và cơ sở ngành nghề nông thôn gặp khó khăn khi thế chấp để vay vốn. Cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho họ vay vốn phát triển sản xuất. Nhà nước dành ngân sách đầu tư cho chương trình khuyến nông hỗ trợ các hộ, cơ sở tiểu thủ công nghiệp nông thôn trong các vấn đề ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý cho chủ hộ và nhà doanh nghiệp, đào tạo tay nghề cho người lao động, hỗ trợ cho việc cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ phát triển làng nghề. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn: Thuỷ lợi, giao thông, cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc... * Chính sách về thị trường: đối với các cơ sở công nghiệp nông thôn có đầu mối tiêu thụ sản phẩm thị trường trong nước, đặc biệt thị trường xuất khẩu thì Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất này sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách thuận tiện. Nghiên cứu, hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm cho các cơ sở công nghiệp nông thôn bằng các chương trình giới thiệu sản phẩm của họ. Tạo điều kiện cho các nhà quản lý doanh nghiệp được tìm hiểu tiếp cận với thị trường, với các bạn hàng trong và ngoài nước, đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức về luật pháp để thuận tiện khi làm ăn với đối tác, nhà sản xuất kinh doanh. Khuyến khích các cơ sở chủ động tìm kiếm thị trường để ổn định và phát triển. Tạo điều kiện cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được thuận lợi trong việc thu mua nguyên liệu tiêu thụ sản phẩm, nghiêm cấm tình trạng cát cứ địa phương dưới mọi hình thức. Giúp cho tiểu thủ công nghiệp nông thôn tiếp cận với thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, ưu tiên về quảng cáo, triển lãm v.v... được quyền đăng ký để kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp nếu có nhu cầu hoặc có những biện pháp hạn chế sự lũng đoạn của các đơn vị trung gian xuất nhập khẩu. Xây dựng và thực hiện chương trình xuất khẩu cho sản phẩm công nghiệp nông thôn trước hết hàng thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm chế biến nông sản. Tăng cường hiệu quả của các cơ quan thường vụ ở nước ngoài giúp đỡ ngành tiểu thủ công nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm thông qua các chương trình khuyến công, khuyến nghề, các trung tâm tư vấn, chuyển giao công nghệ... để sản phẩm được thị trường chấp nhận. Phát động chiến dịch “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” với sự tham gia của các ngành, các đoàn thể, tổ chức với nhiều hình thức phong phú, liên tục trong nhiều năm. * Chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ cần đánh giá lại công nghệ sử dụng để có hướng đưa ra công nghệ mới phục vụ sản xuất. Mặt khác cung cấp đủ thông tin về tình hình phát triển công nghệ kỹ thuật mới cho các cơ sở công nghiệp nông thôn phù hợp với điều kiện của mình. Hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ bằng các chính sách thúc đẩy phát triển. Tổ chức và hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật, công nghệ nông thôn cũng như đào tạo bồi dưỡng kiến thức kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, người lao động nông thôn. Cần có sự kết hợp đan xen giữa cổ truyền và hiện đại, giữa thủ công và cơ khí nhưng phải đảm bảo tiêu chuẩn về kỹ thuật công nghệ, vệ sinh môi trường. Có chính sách và biện pháp tổng hợp để bảo vệ môi trường sinh thái khi đẩy mạnh phát triển ngành nghề nông thôn. Có chính sách khuyến khích các chuyên gia giỏi về làm việc tại các cơ sở ngành nghề nông thôn, khuyến khích nhập khẩu công nghệ thích hợp hoặc tiên tiến tuỳ theo ngành hàng trong ngành nghề nông thôn. Thành lập các trung tâm phát triển công nghiệp nông thôn để hỗ trợ việc đào tạo, dạy nghề, chuyển giao công nghệ, giới thiệu sản phẩm, cung cấp thông tin thị trường, môi giới... * Chính sách tổ chức sản xuất: Cần có các hình thức biện pháp thích hợp để thúc đẩy sự hình thành các mối liên kết kinh tế giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài địa phương. Đẩy mạnh phát triển các làng nghề ở nông thôn cùng các cơ sở công nghiệp có mối liên hệ đầu ra đầu vào với địa phương thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển. * Chính sách thuế: miễn thuế 2 - 5 năm đầu cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập tuỳ thuộc loại nghề, loại sản phẩm. Đối với chủ đầu tư thành phố hoặc nước ngoài vào ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn sau thời gian đầu miễn thuế sẽ được tiếp tục giảm 50% thuế 2 - 3 năm tiếp theo. áp dụng chính sách thuế khoán hàng năm với thời gian 3 - 5 năm điều chỉnh để khuyến khích chủ cơ sở tiểu thủ công nghiệp mở rộng sản xuất trong thời hạn được khoán thuế. Để khuyến khích đổi mới công nghệ thiết bị, giá trị gia tăng do đổi mới công nghệ, thiệt bị không phải chịu thuế 2 - 3 năm đầu. Chi phí nghiên cứu, triển khai, sản xuất thử sản phẩm mới, chi phí đào tạo nghiệp vụ, dạy nghề được tính vào chi phí trước khi tính thuế. * Chính sách đất đại: Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi để thuê đất xây dựng cơ sở. Miễn tiền thuê đất 2 - 3 năm đầu cho cơ sở tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn mới thành lập. 6. Tổ chức hệ thống quản lý công nghiệp nông thôn để công nghiệp nông thôn phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH nông thôn: Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các cơ quan chức năng ở địa phương để có được sự thống nhất chung về các mặt phát triển công nghiệp nông thôn. Tăng cường lực lượng cán bộ có trình độ quản lý, có chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực công nghiệp. Tổ chức lại hệ thống tổ chức kiểm tra giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở công nghiệp nông thôn. Lựa chọn những hình thức thích hợp để tập hợp các nhà sản xuất, kinh doanh nông thôn lại thành một tổ chức nhất định qua đó điều hành, kiểm soát, giúp đỡ họ hoạt động. ở Trung ương có Cục Chế biến Nông lâm sản và ngành nghề nông thôn thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. ở cấp tỉnh có Chi cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. ở cấp Huyện có phòng chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện. ở cấp xã có cán bộ khuyến nông. Tăng cường chỉ đạo các cấp đặc biệt là các cấp lãnh đạo địa phương đối với việc phát triển ngành nghề nông thôn. Phân rõ ranh giới quản lý Nhà nước về ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với các Bộ, ngành khác. Mỗi tỉnh thành lập trung tâm hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn làm nhiệm vụ đào tạo, dạy nghề, tư vấn thị trường, chuyển giao công nghệ... Khuyến khích và hỗ trợ các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức đoàn thể tham gia phát triển ngành nghề nông thôn dưới hình thức hỗ trợ các loại dịch vụ. 7. Phát triển mạnh các làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống và mở rộng nghề đó và các nghề có liên quan với nó cũng như các hoạt động phi nông nghiệp. Đồng thời xây dựng các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung sẽ làm mức độ ô nhiễm giảm, không ảnh hưởng tới đời sống dân cư trong vùng. Nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển làng nghề. Khôi phục và phát triển làng nghề cũ, giải quyết các vấn đề môi trường, đổi mới công nghệ thiết bị, bồi dưỡng nghệ nhân, đào tạo thợ trẻ... Xây dựng phát triển làng nghề mới theo quy hoạch: Đầu tư công nghệ, thiết bị phù hợp, hỗ trợ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với các làng, xã chưa phát triển ngành nghề nông thôn cần lựa chọn bồi dưỡng, hỗ trợ một số doanh nghiệp trẻ, năng động, biết cách làm ăn để làm nòng cốt, thu hút các hộ, các cá nhân khác tham gia phát triển ngành nghề nông thôn, dần dần hình thành các cụm, trung tâm công nghiệp và dịch vụ trong xã. Vận động phong trào tiến tới mỗi xã có một cụm công nghiệp và dịch vụ trong xã. Vận động phong trào tiến tới mỗi xã có một cụm công nghiệp và dịch vụ, mỗi xã có một sản phẩm tiêu biểu. Xác định sản phẩm truyền thống sản phẩm chính của làng nghề, kết hợp với các ngành công nghiệp hình thành sự phân công theo chuyên môn hoá và hợp tác hoá. 8. Hiện nay nhu cầu về vốn để phát triển công nghiệp nông thôn đang là một vấn đề nghiêm trọng do doanh nghiệp nông thôn có doanh thu thấp, lợi nhuận thấp, vốn tự có ít, vốn vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn về thủ tục hành chính, môi trường huy động vốn không an toàn. Muốn huy động vốn tốt cần phải: Tạo môi trường huy động vốn an toàn. Đa dạng hoá các hình thức huy động và cho vay như quỹ tín dụng nhân dân nhằm đưa lãi suất tới mức hợp lý và giảm các thủ tục phiền hà khi vay vốn. Ưu đãi tín dụng và hỗ trợ vốn đối với ngành nghề có công nghệ tiên tiến hiện đại, sản phẩm mới. Xúc tiến hình thành vốn trung và dài hạn cho công nghiệp nông thôn. Hình thành các quỹ bảo lãnh tín dụng và tiến hành bảo lãnh tín dụng. Có chính sách thuế ưu đãi đối với công nghiệp nông thôn có lợi nhuận và tích luỹ vốn phát triển kinh doanh. 9. Phát triển công nghiệp đô thị hỗ trợ công nghiệp nông thôn. Xác định vị trí các doanh nghiệp ở đô thị có liên quan mật thiết tới kinh tế nông thôn: sản xuất các loại thiết bị vật tư chuyên dùng cho nông thôn như phân bón, nông cụ, chế biến nông lâm sản. Cần hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất đầu vào này bằng hưởng ưu đãi tín dụng và lãi suất, cung cấp các thông tin về giá cả thị trường, các thiết bị công nghệ kỹ thuật mới, cũng như phát triển các khu chợ phát triển hàng hoá nông thôn, kích thích nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, thông tin nối từ thành thị đến nông thôn làm cho khoảng cáhc giữa nông thôn thành thị ngắn lại thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn đi lên. Thúc đẩy sự đan kết tinh tế giữa thành thị và các trung tâm công nghiệp với kinh tế nông thôn, đưa ra các phương pháp sản xuất công nghiệp vào nông thôn, phát triển các cực tăng tương lan toả hỗ trợ nông thôn lân cận. Xây dựng các chương trình đồng bộ từ nghiên cứu, đầu tư, phân phối, tiêu thụ sản phẩm, chống hàng ngoại tràn lan. Xây dựng các cụm công nghiệp có ảnh hưởng phát triển công nghiệp ở nông thôn. Tạo điều kiện cho chợ ở nông thôn phát triển kích htích hàng hoá công nghiệp nông thôn giao lưu mạnh mẽ với sản phẩm công nghiệp thành thị. 10 . Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, nâng cao tính cạnh trạnh để thúc đẩy công nghiệp nông thôn. Đây là biện pháp có hiệu quả lớn để đẩy mạnh công nghiệp hoá, không cần nhiều vốn đầu tư mà lại giải quyết được nhiều lao động, đồng thời có thể tranh thủ nhanh được công nghiệp hiện đại, thích hợp của các nước. Ngay ở các nước công nghiệp phát triển, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng chiếm tới hơn 50% giá trị tổng sản lượng. Trong nông thôn nước ta tiềm năng để phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất lớn. Để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn cần phải: Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ tiểu thủ công nghiệp nông thôn đăng ký sản xuất, hỗ trợ các hộ phát triển và chuyển đổi thành các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH hoặc tham gia các HTX ... nhằm tạo khả năng đầu tư, sức cạnh tranh ở nông nghiệp nông thôn. Có biện pháp mạnh mẽ tạo môi trường bình đẳng thực sự giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong mọi lĩnh vực: thuê hoặc cấp đất phục vụ cho sản xuất kinh doanh; vay vốn tín dụng và bảo lãnh tín dụng; xuất khẩu trực tiếp; hỗ trợ trong việc đào tạo, bồi dưỡng chuyển giao công nghệ, dịch vụ kỹ thuật... Đây là giải pháp vĩ mô hàng đầu làm cho nền kinh tế năng động, phát huy nội lực xây dựng và phát triển công nghiệp nông thôn. 11. Về đào tạo Nghị quyết 2 của Trung ương nêu rõ “Cần tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22 - 25% đội ngũ lao động qua đào tạo vào năm 2000, năm 2010 sẽ là 50%”. Để đạt yêu cầu này cần: Bổ sung, sửa đổi lại giáo trình, giáo án ở các trường phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp. Biên soạn các giáo trình bồi dưỡng đào tạo lao động kỹ thuật chuyên ngành. Thay đổi phương thức đào tạo, thời gian đào tạo cho phù hợp với từng loại đối tượng. Phát huy hình thức đào tạo theo hợp đồng. Từ nay đến năm 2005 các cơ sở ngành nghề nông thôn được hỗ trợ 50% học phí để gửi công nhân đi đào tạo tại các trường đào tạo công nhân kỹ thuật của Nhà nước. Có biện pháp khuyến khích các nghệ nhân kèm cặp, bồi dưỡng truyền nghề cho lực lượng lao động trẻ thông qua các lớp đào tạo, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm... 12. Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thủ công nghiệp nông thôn. Xây dựng quy hoạch tổng quan phát triển tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010, năm 2020 cả nước và cho từng tỉnh. Đề xuất bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống chính sách phát triển ngành nghề nông thôn để trình Nhà nước. Xây dựng các mô hình phát triển ngành nghề nông thôn. + Khôi phục một số làng nghề truyền thống. + Xây dựng mô hình một số làng nghề mới. + Tập huấn, dạy nghề cho lao động thiếu việc làm ở nông thôn. + Hỗ trợ trong việc chuyển giao công nghệ, thông tin thị trường. Củng cố và tăng cường tổ chức quản lý ngành nghề nông thôn. 13. Thúc đẩy sự hình thành và củng cố các quan hệ liên kết với công nghiệp nông thôn. Liên kết kinh tế có tác động nhiều mặt tới phát triển công nghiệp nông thôn giúp tạo vốn, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, giúp mở rộng và củng cố thị trường. Quan hệ liên kết của công nghiệp nông thôn có thể được tổ chức theo nhiều hình thức giữa nhiều loại đối tượng khác nhau thuộc các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. - Quan hệ liên kết giữa công nghiệp nông thôn với công nghiệp đô thị, tỏng đó quan hệ gia công đóng vai trò đặc biệt quan trọng. - Quan hệ liên kết giữa công nghiệp nông thôn với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên nghiệp đặc biệt là quan hệ công nghiệp gia công thương nghiệp, quan hệ bao tiêu. - Quan hệ liên kết giữa công nghiệp nông thôn với các cơ quan nghiên cứu - triển khai tiến bộ kỹ thuật và công nghệ dưới dạng các dự án nghiên cứu, triển khai hoặc quan hệ ổn định có tính chất truyền thống với các vùng, địa phương. 14. Tăng cường lực lượng cán bộ có trình độ phù hợp cho các cơ quan quản lý công nghiệp ở các địa phương nông thôn. Lực lượng cán bộ hiện đang hoạt động, cần được bồi dưỡng các kiến thức về kinh tế thị trường một cách đầy đủ và toàn diện. Yêu cầu cần đạt là họ phải có không những chỉ kiến thức, kỹ năng chung mà còn phải hiểu biết sâu một vài lĩnh vực, có khả năng nghiên cứu ở một mức độ nhất định để không chỉ theo dõi mà còn hướng dẫn, phổ biến những kiến thức nhất định cho các nhà kinh doanh ở nông thôn. Riêng trong lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật, họ phải có một kiến thức đánh giá dự án về mặt kinh tế, nắm được địa chỉ của các đầu mối đáng tin cậy trong lĩnh vực đánh giá, kiểm định công nghệ và thiết bị có thể giới tiệu cho các doanh nghiệp. 15. Tạo lập một nền văn hoá công nghệ ở nông thôn, cần tăng cường công tác phổ biến kiến thức, kỹ thuật về các ngành nghề mới, hỗ trợ việc dạy nghề, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật cho nông thôn. Trong các chương trình giáo dục phổ thông phải chú ý đến việc truyền bá những nội dung này cho học sinh. Đồng thời các phương tiện nghe nhìn, sách báo cũng cần thực hiện các yêu cầu này nhiều hơn, các trung tâm thông tin, tư vấn và hỗ trợ chuyển giao công nghệ ở nông thôn cũng cần tập trung vào nhiệm vụ này chứ không chỉ kinh doanh hạch toán như doanh nghiệp thông thường. kết luận Phát triển công nghiệp nông thôn đóng vai trò “chìa khoá” cho công cuộc phát triển toàn diện nông thôn, nó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, làm tăng năng suất lao động, tạo việc làm tăng thu nhập mở rộng các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam không thể diễn ra một cách suôn sẻ tốt đẹp mà nó gặp phải vô số vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ. Công nghiệp nông thôn Việt Nam còn trong tình trạng manh nha non kém với những thành tựu đã đạt được cùng với việc lộ rõ những khó khăn của quá trình phát triển công nghiệp nông thôn hay chưa có sự phối hợp đồng bộ các bộ phận cơ sở hạ tầng, dịch vụ hỗ trợ cho phát triển công nghiệp nông thôn. Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của công nghiệp nông thôn, nắm bắt học hỏi kinh nghiệm các nước khu vực và nhận biết những khó khăn thách thức bộc lộ trong quá trình, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những mục tiêu định hướng cho sự phát triển công nghiệp nông thôn hướng tới 2010. Qua đó, với vốn kiến thức hạn hẹp cùng với sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo và các cô bác Vụ Công nghiệp em xin mạn phép đề đạt “Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu năm 2010” Tài liệu tham khảo 1-/ Giáo trình kinh tế phát triển. 2-/ Giáo trình công nghiệp. 3-/ Giáo trình nông nghiệp. 4-/ CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn các nước Châu á và Việt Nam - Nguyễn Điền. 5-/ Định hướng CNH-HĐH VN đến năm 2020 6-/ Đề án thực hiện CNH - HĐH phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn đến 2020. 7-/ Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta. 8-/ Ngành nghề nông thôn Việt Nam - NXB Nông nghiệp. 9-/ Nghiên cứu lý luận số 12/97. 10-/ Công nghiệp số 17/99, số 15/98, số 3/97. 11-/ Kinh tế dự báo số 10/97. 12-/ Thương mại số 11/98 13-/ Nghiên cứu kinh tế số 244/98 14-/ Tạp chí cộng sản số 1/97, số 15/97 15-/ Con số sự kiện số 4/99 16-/ Phát triển kinh tế số 95/98. 17-/ Khoa học công nghệ môi trường số 12/98. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0013.doc
Tài liệu liên quan