Một số biện pháp quản lý để hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng Ngân hàng

Mở Đầu Mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro ,rủi ro kinh doanh là hai mặt đối lập nhau trong thể thống nhất của quá trình kinh doanh chúng luân tồn tại và mâu thuẫn với nhau muốn kinh doanh tồn tại ,phát triển thì doanh nghiệp phải khống chế đươc rủi ro. Đối với ngân hàng hoạt động kinh doanh cũng chịu sự tác động của quy luật khách quan đó. Trong nghiệp vụ ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng là việc mà khách hàng vay v

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp quản lý để hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng Ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn không trả được nợ cho ngân hàng khi đến kỳ hạn. Khi khách hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng làm ảnh hưởng tới quá trình phát triển thậm chí nó còn quyết định tới sự tồn tại hay phá sản của ngân hàng. Như ta biết quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là “đi vay và cho vay”. Với sự tác động của rủi ro tín dụng đã làm cho các nhà quản lý ngân hàng phải chú trọng và đưa ra các phương án quản lý tối ưu để giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng xảy ra. Sau đây em xin đưa ra một số biện pháp quản lý để hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng, trong quá trình viết do nhận thức có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự hoàn thiện của thầy cô. Nội dung A.Tầm quan trọngcủa tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, chúng ta biết muốn phát triển kinh tế thì trước hết phải có vốn qua đó mới có thể đổi mới công nghệ và nâng cao năng xuất lao động và tận dụng được nhiều nguồn nhân lực trong và ngoài nước. Để thấy rõ được vai trò của tín dụng cần phải hiểu rõ “thế nào là tín dụng” và các mối quan hệ thiết lập nên tín dụng. I.Quan điểm tín dụng ngân hàng. Có nhiều quan điểm về tín dụng ngân hàng nhưng được thống nhất chung về quan điểm: tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng các ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Các chủ thể mà hình thành trong quan hệ tín dụng là các doanh nghiệp, các cá nhân... họ đều có nhu cầu “vay” hay “ cho vay “ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng ngân hàng có một đặc điểm riêng đối với các quan hệ tín dụng khác, đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng là tiền chứ không phải là hàng hoá vì thế quy mô tín dụng là rất lớn nó không bị giới hạn về chiều hoạt động. Tuy nhiên việc sử dụng tiền tệ trong quan hệ tín dụng nó có ưu điểm khuyết điểm riêng. Ưu điểm: - Thứ nhất: khả năng thích ứng được nhu cầu vốn là rất cao, với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có vốn “ tiền tệ “ mà để có vốn bằng tiền thì phải có một tổ chức đủ thẩm quyền, chức năng là huy động và tập trung vốn đó trước khi đem sử dụng, điều này được thể hiện ở các tổ chức tín dung. -Thứ 2: góp phần kiểm soát, giám đốc nền kinh tế quốc dân: Qua việc sử dụng vốn các doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của họ và đưa ra các giải pháp quản lý hữu hiệu để đạt được mục tiêu phát triển của doanh nghiệp cũng như toàn xã hội đề ra. Nhược điểm: như trên đối tượng quan hệ tín dụng là tiền tệ, nhu cầu về tiền của con người là lớn được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, việc kiểm soát đồng tiền là khó cho nên tín dụng gặp nhiều rủi ro làm cho nhiều nhà quản lý phải quan tâm, vấn đề này em xin bàn thêm ở mục sau. II.Vai trò của tín dụng ngân hàng. Nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo hướng mở lại nằm trong vòng cung kinh tế Châu á Thái Bình Dương đang phát triển năng động nhất thế giới, song lại có nhiều khó khăn đặt ra cần tháo gỡ: một nền công nghiệp lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, đội ngũ cán bộ khoa nhìn chung còn thiếu và trình độ chưa cao, nền tài chính quốc gia còn eo hẹp chưa đáp ứng được mức cần thiết để phát triển kinh tế xã hội. Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối CNH - HĐH thì một trong những điều kiện tiền đề nhằm phát triển kinh tế là phải có vốn,như vậy có thể nói vốn và sự phát triển kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tâp trung khi nói đến vốn đồng nghĩa với phạm trù tiền vốn, nó đại diện cho hàng hóa nhất định trong nền kinh tế hiện vật là chủ yếu phạm trù hàng hoá bị thu hẹp cùng với cơ chế cấp phát nộp sản phẩm nên có quan niệm như trên là khó tránh khỏi. Một khi phạm trù vốn bị thu hẹp thì tình trạng nguồn lực sẽ bị sử dụng lãng phí. Trong nền kinh tế thị trường những quan điểm về vốn như trên là lạc hậu và sẽ không động viên mọi nguồn vốn sẵn có vào quá trình xây dựng phát triển kinh tế vì vốn là một phạm trù rộng lớn gồm những yếu tố tiền tệ, tài sản, nguồn nhân lực... tại đại hội đại biểu toàn quốc lần 8 đã khẳng định “ để CNH - HĐH cần phải huy động nhiều vốn sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trong”. Như vậy nếu ta có quan niệm đúng về vốn thì sẽ giúp ta phát hiện được những tiềm năng về vốn, từ đó có những biện pháp khai thác và sử dụng đem lại hiệu quả. Như vậy tín dụng ngân hàng với chức năng huy động vốn đóng một vai trò rất quan trọng ngay từ buổi sơ khai tới mô hình ngân hàng hiện đại ngày nay. Một số nhà kinh tế cho rằng “Một mặt ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người cho vay mặt khác nó còn là tập trung các người đi vay”. Với khái niệm, đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng đã là một vấn đề vô cùng quan trong trong sự phát triển kinh tế xã hội, có thể khái quát qua thực tế cho thấy hiệu quả mang lại của tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngần hàng đã góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế, và tác động tích cực tới nhịp độ phát triển kinh tế và góp phần thu hẹp khoảng cách giầu nghèo. Tóm lại vốn và vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm nhận thức đúng khi đó vốn và tín dụng mới thể hiện đúng chức năng, vai trò của mình nhờ đó bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của sự phát triển kinh tế đều đem lại hiệu quả cao nhất góp phần CNH - HĐH đất nước. III.Quan điểm và tính tất yếu khách quan của rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 3.1.Quan điểm rủi ro. Trong hoạt động kinh doanh cần phải ghi nhớ hai chữ “rủi ro” bởi vì mục đích của con người là vơn tới thành công theo mục tiêu đã định. Trong quá trình hoạt động đó luôn có những khó khăn, có thể không đạt được như ý muốn. Tất cả những cái đó có thể gọi là rủi ro. Đứng trên góc độ như vậy, một số nhà kinh tế đưa ra một quan điểm chung nhất về hoạt động kinh doanh: “rủi ro là một quá trình bắt đầu từ việc phát sinh các nguy cơ de doạ tiềm ẩn cho đến khi các mối dde doạ dó thực sự xảy ra làm cản trở sự thành công của hoạt động kinh doanh”. Trong khái niềm trên nói nên: thứ nhất, nếu chỉ coi rủi ra là nguy cơ khiến sụ thành cong không đạt được như ý muốn ta sẽ bỏ qua sự tác động thực tế của rủi ro. Thứ hai, nếu chỉ cho rằng rủi ra là tác động thực tế xảy ra, ta sẽ chỉ hiểu đơn thuần kết cục của nó mà không hiểu được nguyên nhân. 3.2.Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là rất đa dạng vì vậy rủi ro đe doạ có nhiều hình thái khác nhau. Khi nói đến nhiệm vụ đầu tư chứng khoán của Ngân Hàng người ta nói tới rủi ro vỡ nợ và khả năng chứng khoán không được thanh toán. Khi nói đến nhiệm vụ bảo lãnh người ta lại nhắc đến trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết và gây thiệt hại cho phía Ngân Hàng, và khi nói đến Ngân Hàng cho vay, người ta thường nói rủi ro tín dụng và có thể hiểu rủi ro tín dụng là việc khoản cho vay không được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. 3.3.Rủi ro tín dụng là một tất yếu trong kinh doanh Ngân Hàng. Tính tất yếu của rủi ro được thể hiện trên hai mặt: + Thứ nhất, với đặc điểm kinh doanh tín dụng, một sản phẩm độc quyền là “ tiền tệ”, kinh doanh tín dụng Ngân Hàng chỉ bán quyền sử dụng tiền tệ với thời hạn cho vay và giá bán là “lãi suất” thường rất nhỏ so với đồng vốn cho vay. Do vậy khi có sự biến động dẫn đến tổn thất thì Ngân Hàng khó có thể bù đắp số vốn đã bỏ ra. Hơn thế, Ngân Hàng lại hoạt động theo phương châm “đi vay để cho vay” do vậy hậu quả kinh tế của người đi vay quan hệ đến hoạt động kinh tế của Ngân Hàng. Chính vì vậy rủi ro trong hoạt động tín dụng chịu sự tác động từ nhiều phía. + Thứ hai, với chặng đường thời quan qua cho thấy ở nước ta hàng loạt hợp tác xã tín dụng sụp đổ nền tài chính trong trạng thái khủng hoảng ảnh hưởng đến kinh tế- xã hội. Theo IMF từ năm 1980 đến nay đã có 52 nước phát triển đang xảy ra thất thoát gần hết số vốn của hệ số Ngân Hàng trước đó. Như vậy rủi ro trong kinh doanh tín dụng là một tất yếu khách quan. IV. Hậu quả rủi ro tín dụng Ngân Hàng xảy ra trong các năm vừa qua. Thực vậy rủi ro tính dụng Ngân Hàng thường xảy ra theo hình thức nợ quá hạn điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng. Nợ quá hạn còn được biết dưới tên nợ khó đòi hay nợ không thanh toán. Nợ quá hạn là vấn đề của tất cả các Ngân Hàng trên thế giới, bản thân nợ quá hạn là hiện tượng tự nhiên, hợp với quy luật phát triển kinh tế, gắn liền với rủi ro trong hoạt động Ngân Hàng. Vấn đề trở nên nghiêm trọng khi mức độ nợ quá hạn ( tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay) vựt quá ngưỡng cửa cho phép. Theo nhà thống kê thì tình hình nợ khó đòi của Ngân Hàng các nước Đông và Đông Nam á rất căng thẳng đe doạ làm tan rã nền kinh tế toàn cầu. Ví dụ nợ khó đòi ở Thái Lan chiếm 30% tổng dư nợ và cần 15 tỷ USD để tái tào vốn Ngân Hàng, con số tương tự như ở Hàn Quốc 25% và 34 tỷ USD, Ngân Hàng Nhật Bản lên tới 50 tỷ USD,... Hiện nay ở nước ta nợ quá hạn chưa có số liệu chính thức và khó có thể xác định một cách chính xác mức độ nghiêm trọng của vấn đề theo tính toán nợ quá hạn của Việt Nam giai đoạn 1990 – 1996 là: Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Toàn bộ hệ thống Ngân Hàng Tổng số nợ 5710 10051 15093 23181 33340 42278 50751 Tổng số tài sản 14728 28018 34468 38835 - 74343 86203 Tổng số vốn 1003 2069 2355 2689 5292 6237 Tổng nợ quá hạn 2075 2569 1756 3277 4724 Tổng nợ quá hạn/ tài sản 88,1 95,5 61,9 75,7 Tổng nợ quá hạn/ tổng nợ 13,7 11,1 5,3 7,8 9,3 Tổng nợ quá hạn/ tổng tài sản 6,0 6,6 4,4 5,5 Tổng vốn/ tổng tài sản 6,8 7,4 6,8 6,9 7,1 7,2 Riêng ngân hàng thương mại quốc doanh Tổng số nợ 5710 9504 13869 21017 33319 38319 Tổng số tài sản 14728 26562 31631 35150 58041 66005 Tổng số vốn 1003 1754 1747 1934 2836 3279 Tổng nợ quá hạn 489 1872 1905 2430 2991 4209 Tổng nợ quá hạn/ tài sản 48,8 106,2 109,5 125,6 105,5 128,4 Tổng nợ quá hạn/ tổng nợ 8,6 19,7 13,7 14,6 8,9 14,0 Tổng nợ quá hạn/ tổng tài sản 3,3 7,0 6,0 6,9 5,2 6,4 Tổng vốn/ tổng tài sản 6,8 6,6 5,5 5,5 4,9 5,0 Qua số liệu trên tình hình nợ quá hạn nước ta vượt quá ngưỡng cửa cho phép (3% -5%) có sự thay đổi qua các năm như năm 1995 xét toàn bộ hệ thống Ngân Hàng tổng nợ quá hạn trên Tổng nợ là 7,8% còn riêng Ngân Hàng Thương Mại quốc doanh chiếm 8,9% tỷ lệ này gia tăng năm 1996 lên tới 9,3% trong toàn bộ hệ thống Ngân Hàng và 11% riêng đối với Ngân Hàng thương Mại quốc doanh. Con số nợ quá hạn trên là tương đối cao và phải cần được các nhà quản lý Ngân Hàng định ra những phương hướng giải quyết sao cho có hiệu quả cao. Nội dung: phương pháp hạn chế tín dụng Ngân Hàng nó được thể hiện ở mục II và III phần sau. B. Một số nguyên nhân của rủi ro tín dụng ngân hàng Như phần trên ta thấy rõ quan điểm về rủi ro sự xuất hiện của rủi ro tín dụng là tất yếu khách quanvà sau đây em xin đưa ra một vài nguyên nhân chính chủ yếu gây rủi ro tín dụng cho các Ngân Hàng Việt Nam qua sơ đồ sau: Giám đốc xét duyệt Giám đốc thu nợ Yếu tố từ phía Yếu tố từ phía khách Chưa thực sự hợp Xử lý nợ quá môi trường hàng do bản thân tác với người vay hạn không khoa học Ngân Hàng Nợ thu hồi không đầy đủ và đúng hạn. Lợi nhuận từ dự án tác động sụt giảm. Thiếu phương tiện Quản lý rủi ro giám sát hiệu qủa không khoa học Giám đốc giám sát Dựa vào sơ đồ trên ta chia thành các nguyên nhân chính sau: I.Trong quá trình xét duyệt: 1.1.Yếu tố quan trọng đầu tiên ở đây là sự hạn chế về khái niệm phát triển. Có thể hiểu là sự hạn chế về trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân Hàng. Nếu yếu về chuyên môn, cán bộ ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án vay vốn từ đó sẽ làm phát sinh những hợp động tín dụng kém an toàn. Mức rủi ro trong trường hợp nay ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ gắn liền với sự hạn chế khái niệm là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc người cán bộ tín dụng không những có trình độ mà phải có phẩm chất đạo đức tốt. Trược sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã xa ngã. Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức làm trái quy định, gây những tổn thất cho Ngân Hàng. Tư tưởng cá nhân cho rằng làm tốt thì mọi cái hưởng chung, chia chung, còn khi làm dở thì một mình gánh chịu mọi hậu quả đã làm nhiều cán bộ tín dụng không thực sự hành động vì mục đích chung. Chính vì vậy xuất hiện tình trạng “ chia chác âm thầm” giữa cán bộ tín dụng và người vay. Do thực tế thu nhập của cán bộ tín dụng hiện nay ở Ngân Hàng còn thấp càng dẫn tới tình trạng họ không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân Hàng. 1.2.Vấn đề về thế chấp Tài sản cũng là nguyên nhân gây rủi ro quan trọng cho các Ngân hàng việt Nam: ở nước ta hiện nay luôn có tư tưởng cho rằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi vì kho món vay không được hoàn trả Ngân Hàng chỉ việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Thực tế cho thấy việc quá tin vào Tài sản thế chấp đã gây những hạn chế lớn cho hoạt động cho vay của các Ngân Hàng, thể hiện ở một số điểm sau: ã Thứ nhất, hiện nay Tài sản thế chấp để vay vốn Ngân Hàng còn thiều các yếu tố pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân Hàng. Ví dụ tình trạng ở Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đa số bộ phận nhà và đất ở của nông dân không có giấy tờ đủ cơ sở pháp lý để làm thủ tục đăng ký thế chấp tài sản. ã Thứ hai, môi trường pháp lý về thế chấp và cầm cố chưa đầy đủ. Lluật sở hữu chưa rõ ràng, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản nên tất cả các tài sản của doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu . vì vậy rất khó khăn cho các Ngân Hàng khi đem các tài sản thế chấp như vậy ra xử lý. Hơn nữa cũng chính tình trạng lỏng lẻo trong công chứng hồ sơ tài sản mà tình trạng lừa đảo một tài sản được đem ra thế chấp nhiều ngân hàng thời gian vừa qua. ã Thứ ba, ngay cả khi tài sản thế chấp hợp pháp, rủi ro tín dụng đối với dự án được xét duyệt vẫn cứ xảy ra khi giá trị tài sản thế chấp được đánh giá quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa một khi rủi ro xảy ra chính phủ cho việc phát mại tài sản là không nhỏ những tài sản thế chấp của các doanh nghiệp: máy móc thiết bị phần lớn là lạc hậu đem ra phác mại phải mất thời gian dài. ã Thứ tư, trong các hợp đồng tín dụng tài trợ thương mại thế chấp thường chính là các lô hàng hoá mua về của doanh nghiệp. Tuy nhiên hình thức này chưa áp dụng tốt ở nước ta, các ngân hàng còn chưa có kinh nghiệm. Trong vụ EPCO Minh Phụng hàng thế chấp cho ngân hàng được gửi vào kho chính đơn vị vay vốn. Khi kiểm tra hàng không cánh mà bay các ngân hàng không hề biết. Vậy tất cả các hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một nguyên nhân quan trọng dẫn tới rủi ro cho các Ngân Hàng thương mại. II. Nguyên nhân rủi ro chính trong quá trình giám sát tiền vay. Thiếu một phương thức giám sát tín dụng hiệu quả tiền vay: làm sao có phương pháp giám sát tiền vay khoa học? Làm sao có một đội ngũ cán bộ tín dụng thực hiện tốt phương pháp giám sát? đó là câu hỏi cần phải trả lời, quan trọng nhất ở đây là phải có một phương thức giám sát khoa học có hiệu quả. Giám sát là một biện pháp hữu hiệu phòng ngừa rủi ro đạo đức: việc giám sát sẽ giúp Ngân Hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn đảm bảo đồng vốn được sử dụng có hiệu quả đúng mục đích. Nếu việc giám sát không thực hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng tiền không mục đích làm phát sinh rủi ro tín dụng. III.Thu nợ – sử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với người vai. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng mà không chú ý đến điều kiện của người vay, có thể đẩy khách hàng tới một hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn mất khả năng trả nợ. Ví dụ một Công ty thương mại XNK Hoà Hưng trả chậm Ngân Hàng NT so với thời hạn là một tháng do phía bạn hàng của Công ty thanh toán không đúng hạn. Việc Ngân Hàng NT xiết nợ khắt khao làm ảnh hưởng đến uy tín kinh doanh của Công ty nay. Công ty gặp nhiều khó khăn đáng ra có thể trả nợ Ngân Hàng sớm hơn, nếu Ngân Hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng sử lý với các khách hàng. Căn cứ vào điều kiện của họ thì có thế khả năng trả nợ của khách hàng đã sáng sủa hơn. Việc Ngân Hàng sử lý cứng nhắc theo hợp đồng không thực sự hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân Hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu dài. IV.Một số nguyên nhân mang tính khách quan. -Do điều kiện tự nhiên: Việt Nam là một đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa , có nhiều thiên tai như : bão, lũ lụt , hạn hán . Những thiên tai này gây ra thiệt hại cho các ngành sản xuất, dịch vụ. Do vậy ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. -Về cơ chế chính sách : các cơ chế chính sách ở nước ta là chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh và thường xuyên thay đổi do vậy môi trường kinh doanh chưa ổn định, ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó làm đảo lộn cơ sở tín dụng của các Ngân Hàng. - Về mặt pháp lý: môi trường pháp lý Việt Nam chưa đồng bộ, chưa ổn định nhiều khi còn chồng chéo, bất cập ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân Hàng. - Còn vệ phía khách hàng: Một số khách hàng do trình độ qản lý. Kinh doanh kém do vậy sử dụng vốn không hiệu quả, đến hạn không trả được nợ cho Ngân Hàng hoặc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, cố tình dây dưa chiếm đoạt vốn của Ngân Hàng. - Về phía khách hàng: do trình độ quản lý, kinh doanh kém do vậy sử dụng vốn không hiệu quả đến hạn không trả được nợ ngân hàng. C.Một số phương pháp quản lý hạn chế rủi ro tín dụng Ngân Hàng. Thật vậy rủi ro tính dụng là một tất yếu ở trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào muốn phát triển đều phải chấp nhận mộtmức độ rủi ro. Để đạt được mức độ rủi ro mà nhà kinh doanh có thể chấp nhận được kho doanh nghiệp hoạt động phải tuân theo một vài các nguyên tắc riêng và một số phương pháp quản lý sao cho giảm thiểu rủi ro nhưng vẫn đảm bảo sự phát triển kinh doanh của đơn vị mình. Sau đây là một số phương pháp quản lý hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân Hàng. I.Các nguyên tắc quản lý tài sản trong Ngân Hàng Thương Mại. -Thật vậy trước những năm 1960 việc quản lý tài sản nợ là một công việc bình thường, các ngân hàng đã coi tài sản nợ của họ là cố định và họ chú tâm nhiều đến vấn đề quản lý tài sản có thể giành được lợi nhuận tối ưu, việc quảnlý tài sản nợ có 2 lý do: ã Thứ nhất, thực tế đã cho thấy trên 60% nguồn tiền vốn ngân hàng được thu nhận qua các món tiền gửi( không kỳ hạn) có thể phát séc, những món tiền gửi này không mang lại tiền lãi. Như vậy các ngân hàng không thể cạnh tranh ráo riết với nhau về những món tiền gửi này do đó số lượng mỗi món thực tế là một món quà cho Ngân Hàng. ã Thứ hai, do các thị trường để thực hiện các món ch vay ngắn hạn giữa các ngân Hàng đã không phát triển tốt, các Ngân Hàng đã hiếm khi vay từ các Ngân Hàng khác để đáp ứng nhu cầu tiền dự trữ của họ. Với lý do trên tài sản nợ càn phải được quan tâm nhiều hơn và cần phải có những biện pháp quản lý sao huy động được các nguồn vốn “nhàn rỗi” trong nền kinh tế để phát huy khả năng đáp ứng vốn nhanh đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp. Sau đây là một số nguyên tắc quản lý tài sản nợ ở các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây: + Quản lý quy mô tài sản nợ: là hình thức quản lý được giới hạn tài sản nợ với tỷ lệ cho phép theo tài sản tự có của mình. Thông thường tài sản nợ nhỏ hơn 20 lần tài sản tự có của mình và phải đảm bảo hệ số khả năng thanh toán (Hskntt). Hệ số khả Khoản dự trữ + Khoản tín dụng ngắn hạn năng thanh toán = Nguồn vốn – Vốn tự có Trong thực tế thường dùng: HSKNT = Tài sản có lưu hoạt Tài sản nợ lưu hoạt + Quản lý qua cơ cấu thời gian II. Quản lý tài sản có. Quản lý tài sản có là một chiến lược cơ bản trong hoạt động Ngân Hàng để nhằm đạt được lợi nhuận cực đại của mình, một Ngân Hàng phải tình kiếm những lợi tức cao nhất có thể có của những vốn vay và của các chứng khoán động thời cố gắng giảm đến mức tối thiểu rủi ro Như vậy hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng để đạt được lợi nhuận cao thì nhà quản trị có những biện pháp quản lý tài sản có (quản lý khoản tiền cho vay) hữu hiệu nhất. Sau đây em xin đưa ra một vài nguyên tắc quản lý tiền cho vay của Ngân Hàng thương mại nói chung. 2.1. Sàng lọc và giám sát. Thông tin không cân xứng có mặt trong các thị trường cho vay bở vì những người cho vay có ít thông tin về những cơ hội đầu tư và về những hoạt động của những người vay tiền. Tình trạng này đưa đến 2 hoạt động tìm hiểu thông tin do các Ngân Hàng thực hiện: sàng lọc và giám sát. Sàng lọc: trong các thị trường cho vay đòi hỏi các Ngân Hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu nhờ đó mà các món tiền cho vay sẽ có nợi nhuận cho các Ngân Hàng đó. Để thực hiện việc sàng lọc một cách hiệu quả các Ngân Hàng phải tập hợp các thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền cho vay. Như vậy việc sàng lọc đối tượng đi vay dựa trên các thông tin như việc tìm hiểu mục đích sử dụng vốn, việc xem xét thông qua bước làm hồ sơ và xem xét những món tiền vay còn tồn đọng (nếu có). Ngân Hàng cũng được hỏi những câu về cá nhân như tuổi tác , tình trạng hôn nhân của người đi vay. Với những thông tin này Ngân Hàng có thể đánh giá mức độ rủi ro của khoản cho vay đó đến mức độ nào qua đó Ngân Hàng mới ra quyết định cho vay hay là không cho vay. Đối với món vay kinh doanh quá trình sàng lọc và tập hợp thông tin là tương tự. Như tập hợp các thông tin về lợi nhuận và tổn thất (thu nhập ) của công ty. Ngân hàng cũng cần đánh giá kết quả của vụ kinh doanh này trong tương lai. Như vậy dù muốn cho vay cá nhân hay cho vay kinh doanh, các ngân hàng phải sáng suốt khi ra quyết định. 2.2. Việc giám sát và cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành những hoạt động rủi ro để món tiền vay này có thể có khả năng được thanh toán. Để giảm bớt rủi ro đạo đức, các Ngân Hàng phải tuân theo nguyên lý quản lý tiền vay, Ngân Hàng phải viết ra những điều khoản hợp đồng vào trong các hợp đồng vay tiền, đó là những điều khoản hạn chế những người vay tiền không được thực hiện những hoạt động rủi ro. Bằng cách giám sát những hoạt động của người vay để xem liệu họ có tuân theo quy định hạn chế đó hay không, và bằng cách cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế nếu họ không tuân theo. Như vậy việc giám sát các khoản cho vay giúp Ngân Hàng thu thập thêm thông tin giúp cho việc xác định mức rủi ro đạo đức của mỗi khoản cho vay. 2.3. Quan hệ tín dụng lâu dài và quy tắc tín dụng. Các Ngân Hàng thu được thông tin về những người vay tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài- một nguyên lý quan trọng khác của việc quản lý Ngân Hàng. Nếu một người có triển vọng vay tiền đã có tài khoản tiết kiệm hay các món cho vay khác với một Ngân Hàng qua một thời gian dài, người phụ trách cho vay có thể nhìn vào hoạt động quá khứ đối với các tài khoản đó và biết được tương đối nhiều về người vay này việc xem xét lại tài khoản những tấm séc mà người vay tiền này viết, cho biết những người nào đã cung cấp cho người vay này, thì Ngân Hàng có một ghi chép về những việc thanh toán tiền vay. Như thế quan hệ khách hàng lâu dài giảm được rủi ro tín dụng tốt hay xấu. Sự giám sát của Ngân Hàng cũng góp thêm vào tầm quan trọng của quan hệ khách hàng lâu dài. Nếu người vay này trước đây đã vay tiền ở Ngân Hàng này, thì Ngân Hàng đã có sẵn những phương thức giám sát khách hàng đó. Do đó làm giảm chi phí về giám sát Quan hệ khách hàng lâu dài làm lợi cho khách hàng cũng như Ngân Hàng đó. Một khách hàng đã có mối quan hệ cũ thì việc vay món vay mới cũng có thể rễ dàng hơn bởi vì Ngân Hàng cũng đã lắm được thông tin về người đó, qua đó cũng xác định được người vay tiền này có phải là người mạo hiểm có triển vọng tốt hay không. Mối quan hệ khách hàng lâu dài có một lợi ích khác cho Ngân Hàng đó. Hầu hết các Ngân Hàng không thể nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những quy định hạn chế vào hợp đồng cho vay sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một qui định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Tuy nhiên, nếu những người vay tiền muốn giữ gìn quan hệ lau dài với Ngân Hàng vì như vậy họ sẽ dễ có được các món vay trong tương lai với lãi suất thấp hơn lúc đó người vay tiền sẽ có ý muốn tránh những hoạt động có rủi ro để không làm phật lòng cho anh ta vay tiền, ngay cả khi những hạn chế về những hoạt động này không được nêu rõ trong bản hợp đồng. Vậy quan hệ với khách hàng lâu dài giúp cho Ngân Hàng có thể đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cỏ Ngân Hàng cũng không lường trước được ở lúc ban đầu . 2.3. Vật thế chấp và số dư bù. Những bắt buộc về vật thế chấp và số dư bù đối với tiền cho vay là những công cụ quan trọng để quản lý Ngân Hàng, nó biểu hiện ở vai trò và tác dụng sau: + Vai trò, tác dụng của vật thế chấp: vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ, làm giảm bớt hậu quả rủi ro xảy ra nó làm giảm tổn thất cho người cho vay trong trường hợp xảy ra một vụ vỡ nợ. Những người vay vỡ nợ đối với món tiền vay, Ngân Hàng đó có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lại các tổn thất của mình do món cho vay đó gây ra. + Đối với số dư bù: số dư bù đóng vai trò rất quan trọng giúp Ngân Hàng giám sát người vay đó và ngăn ngừa được rủi ro đào đức. Đặc biệt giám sát việc thanh toán của người vay đó việc này mang lại rất nhiều thông tin về điều kiện tài chính của người vay tiền nói trên. 2.4. Hạn chế tín dụng. Việc áp dụng hạn chế tín dụng của Ngân Hàng thường có 2 dạng: dạng thứ nhất diễn ra khi một Ngân Hàng từ chối một món cho vay với số lượng bất kỳ nào đối với người đi vay, ngay cả khi người đi vay chấp nhận thanh toán với một mức lãi suất cao hơn. Dạng thứ 2 diễn ra khi một Ngân Hàng sẵn lòng cho vay nhưng không hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay này muốn. + Dạng thứ nhất: với những cá nhân hay hãng kinh doanh có dự án đầu tư rủi ro nhất họ muốn vay vốn và chấp nhận mức lãi suất cao hơn tuy nhiên một Ngân Hàng sẽ không muốn thực hiện một món cho vay như vậy bở vì một cuộc đầu tư rủi ro cao và kết quả xảy ra là ngưòi vay này sẽ không thành công và Ngân Hàng xẽ không được thanh toán. + Dạng thứ 2: nói nên sự đề phòng rủi ro đạo đức: các Ngân Hàng giao tiền cho người vay nhưng không phải là những món vay như họ muốn. Sự hạn chế tín dụng là cần thiết bởi vì rủi ro đạo đức trở nên nghiêm trọng hơn đối với lợi ích những món tiền cho vay lớn hơn. Vì vậy các Ngân Hàng hạn chế tín dụng bằng cách cho những người vay với món tiền ít hơn là họ muốn vay lúc đầu. 2.5. Cho vay theo sự tương hợp ý muốn. Theo phần trên ta thấy vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc thiếu vốn của một doanh nghiệp sẽ dãn đến việc tiến hành sản xuất kinh doanh diễn ra chậm và để lại hậu quả làm giảm sản lượng hàng hoá cũng có thể làm cho quá trình sản xuất kinh doanh không được tiến hành. Nếu như sự thiếu vốn mà diễn ra trên toàn bộ nền kinh tế nó sẽ đưa đến một kết cục: nền kinh tế bị tê liệt làm ngừng trệ sự phát triển. Do hậu quả của sự thiếu vốn dể lài như vậy các tổ chức tín dụng nói chung, tín dụng Ngân Hàng nói riêng cần phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, tạo đòn bẩy để thúc đẩy nện kinh tế phát triển. III. Phương pháp quản lý rủi ro khác trong hoạt động Ngân Hàng. 1. Chú trọng nâng cao hiệu quả nguồn thông tin thu thập: là cơ sở để doanh nghiệp định hướng kinh doanh trong hoạt động Ngân Hàng thông tin cũng là nguồn dữ liệu cơ bản đầu tiên cho mọi bước phân tích vì vậy cần đặc biệt chú trọng việc nâng cao hiệu qủa của nguồn thông tin thu thập. Để đảm bảo đủ nguồn thông tin cho hoạt động Ngân Hàng, cần có một số biện pháp sau: ã Thứ nhất, về phía Ngân Hàng cần phải nâng cao trình độ kiến thức của các cán bọ tín dụng. Những thông tin do các cán bộ tín dụng thu thập thường đáng tin cậy nhất đối với Ngân Hàng, đồng thời cũng phải nâng cao phẩm chất đạo đức và tạo sự gắn bó thực sự giữa các cán bộ tín dụng với Ngân Hàng. ã Thứ hai, về phía nhà nước với tư cách là người tạo lập môi trường vĩ mô cần hoàn thiện hệ thống pháp lý tạo cơ sở cho hoạt động tài chính, tín dụng Ngân Hàng: + Cần tổ chức lại công tác công chứng và các chứng thư về sở hữu, làm cơ sở cho thế chấp tài sản. + Cần nhanh chóng hoàn thiện pháp lệnh kế toán thống kê và hệ thống kiểm toán vững mạnh để làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. + Cần sớm xây dựng một Ngân Hàng dữ liệu hoàn chỉnh để làm nguồn cung cấp thông tin bổ sung cho các Ngân Hàng. 2. Hoàn thiện hệ thống kiểm toán nội bộ. Hiện nay công tác kiểm soát nội bộ ở các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam nói chung và các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh nói riêng còn mang nhiều hình thức chiếu lệ và mang tính chỉ đạo theo từng đợt công văn cấp trên cho nên không đều đặn thiếu thường xuyên và thiếu năng động. Từ thực tế như trên cho thấy việc nhanh chóng tổ chức kiểm toán nội bộ trong các Ngân Hàng Thương Mại là một vấn đề hết sức cấp bách.Hệ thống kiểm toán nộ bộ nếu hoạt động đúng nghĩa thì nó có thể được xem là một trong những biền pháp hữu hiệu để tự bảo vệ cho hoạt động kinh doanh tín dụng của mỗi Ngân Hàng. Trong hoạt động Ngân Hàng có thể chia kiểm toán nội bộ thành 3 giai đoạn sau: +Kiểm toán giai đoạn 1: Còn gọi là kiểm toán trước. Trong việc kiểm toán giai đoạn này nhờ vào sự thành thạo về các qui định, quy chế mà kiểm toán viên nội bộ có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý của hồ sơ trước khi thực hiện nhiệm vụ. + Kiểm toán giai đoạn 2: gọi là kiểm toán quy tình thực hiện tác dụng của kiểm toán, giai ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0913.doc
Tài liệu liên quan