Một số biện pháp thu hút & sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào du lịch

Phần mở đầu Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, đời sống của nhân dân dần được cải thiện, thu nhập quốc dân tính trên đầu người ngày càng tăng...,trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng có tiềm năng lớn ở Việt Nam. Sau 40 năm hình thành và phát triển (hình thành tháng 7/1960), du lịch Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây, nó góp phần tích cực vào sự nghiệp phát tr

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thu hút & sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và Chính phủ đã xác định: “Phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.” Mặt khác những năm gần đây nhu cầu về hưởng thụ ngày càng tăng, càng có nhiều người muốn đi tham quan, nghỉ mát... Và chúng ta cũng đón tiếp nhiều du khách quốc tế đến tham quan, ngày 8 tháng 12 năm 2000 là ngày ngành du lịch đón người khách quốc tế thứ 2 triệu, đánh giá một bước phát triển mới của ngành. Việt Nam có tiềm năng dồi dào để phát triển du lịch, do đó ta cần phát huy thế mạnh này. Du lịch còn là ngành thúc đẩy các ngành khác phát triển sản xuất, đặc biệt là các ngành sản xuất hàng lưu niệm, lĩnh vực phục vụ ăn uống, đi lại của khách... và nó cũng góp phần làm sôi động kinh tế của vùng. Xét thấy tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế và xã hội và vai trò của đầu tư đối với ngành du lịch em chọn đề tài thực trạng đầu tư vào ngành du lịch Việt Nam. Hoàn thành bài viết này em được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Từ Quang Phương. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Phần nội dung Chương I Một số nội dung về kinh tế đầu tư I. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển: 1. Khái niệm đầu tư: Theo các gốc độ khác nhau có các khái niệm đầu tư khác nhau: -Theo các gốc độ tài chính: Đầu tư là chuỗi những hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng nhằm hoàn vốn và sinh lời. -Theo gốc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu đuợc mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. -Khái niệm chung nhất: Đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác nhau trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sư dụng một tài sản ) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Như vậy, đầu tư chính là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sài mới cho nền kinh tế. 2. Khái niệm đầu tư phát triển: -Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản suất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác,là điều kiện để tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi ngưòi dân trong xã hội. -Hoạt động đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và của các cơ sở sản xuất dịch vụ nói riêng. II. Đặc điểm của đầu tư du lịch: 1. Vốn đầu tư cho một dự án tương đối lớn: Đối với du lịch, thường những dự án đầu tư xây dựng các khách sạn đạt tiêu chuẩn cao hoặc các khu thể thao, khu vui chơi giải trí quy mô lớn sẽ sử dụng một lượng vốn, vật tư lớn. Do đó để tránh và giảm rủi ro thì phải chuẩn bị tốt công tác nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Trong quá trình thực hiện phải phân bổ và huy động vốn phù hợp tiến độ. Đặc biệt cần xem xét khả năng của đơn vị để ra quyết định đầu tư phù hợp. Còn đối với những dự án khác như xây dựng nhà hàng, khách sạn vừa và nhỏ hay tôn tạo, sửa chữa các khu di tích... thường lượng vốn không lớn nên công tác quản lí và sử dụng đơn giản hơn. 2. Thời gian thực hiện đầu tư không dài: Các dự án đầu tư vào ngành du lịch có thời gian thực hiện thường từ 2-3 năm. Và các công trình, thành quả đầu tư phát huy tác dụng khi đã hoàn thành toàn bộ. Vì thế phải có kế hoạch phân tách hoặc kết hợp các công việc sao cho đảm bảo đúng tiến độ thi công, xây lắp, đảm bảo tiết kiệm và công trình có chất lượng. 3. Thời gian sản xuất kinh doanh dài: Tuổi đời của các dự án trong du lịch thường dài, do đó phải có biện pháp khấu hao hợp lí nhanh thu hồi vốn đầu tư. Đồng thời phải có kế hoạch xúc tiến đầu tư, nâng cấp, mở rộng đối với các dự án khách sạn và nhà hàng và kế hoạch đầu tư sang các khu di tích, danh lam thắng cảnh khác kết hợp cải tạo tu bổ công trình trước. Đầu tư vào lĩnh vực này khả năng thu hồi vốn nhanh, thường 2-4 năm sau khi đi vào hoạt động là thu hồi đủ vốn. Vì thế đây là ngành được sự chú ý lớn của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. 4. Sản phẩm của đầu tư hoạt động ngay nơi mà nó được tạo nên: Do đặc điểm này nên nó chịu ảnh hưởng của địa lý, địa hình, dân cư của vùng đó. Đặc biệt các di tích văn hoá lịch sử cần phải có sự bảo vệ lớn của dân cư. 5. Thường là ít rủi ro hơn đầu tư vào các lĩnh vực khác: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư nhanh, vì thế mức độ rủi ro cũng giảm. III. Nguồn vốn đầu tư vào du lịch: Đầu tư vào du lịch bao gồm hai nguồn: nguồn trong nước và nguồn ngoài nước 1. Nguồn trong nước: 1.1. Nguồn vốn từ ngân sách: Đây là nguồn vốn do nhà nước cấp cho cơ sở thực hiện đầu tư (thành quả đầu tư thuộc sở hữu nhà nước) hoặc nhà nước hỗ trợ một phần cùng với vốn của nhân dân (sở hữu hỗn hợp). Trong du lịch thường nhà nước cấp vốn để sửa chữa, nâng cấp các khu di tích đã được xếp hạng, các cảnh quan, nơi lưu trú của khách du lịch..., nơi mà đầu tư vốn để thu hút nhiều du khách, tạo nhiều việc làm cho người lao động và bảo vệ cảnh quan. 1.2. Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp: Đó là nguồn từ lợi nhuận để lại, vốn vay từ các tổ chức hoặc cá nhân, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết, vốn từ việc phát hành trái phiếu... 1.3. Nguồn tiết kiệm của dân: Nguồn này còn khá lớn ở trong dân. Người dân thường để tiền ở dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt, cho vay lấy lãi hoặc gửi ngân hàng hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch đã cổ phần hoá, nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán đã được khai trương ở nước ta thì đây là một nguồn thu hút mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển du lịch. 2. Nguồn vốn nước ngoài: 2.1. Vốn đầu tư trực tiếp: Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. 2.2. Vốn đầu tư gián tiếp: Vốn đầu tư gián tiếp là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA- viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. 2.3. Nguồn kiều hối: Số người Việt Nam ở nước ngoài khá nhiều, và có một số lớn có vốn và kiến thức khoa học công nghệ. Hiện nay, nguồn vốn này đang được khuyến khích đầu tư về nước. IV. Nội dung của vốn đầu tư: Số vốn được sử dụng để đầu tư sẽ tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế, hoặc làm tăng tài sản cố định và tài sản lưu động, đảm bảo chu kỳ sản xuất. Chương II Thực trạng đầu tư vào ngành du lịch Việt Nam I. Vài nét về du lịch: 1. Khái niệm: Xét từ các gốc độ tiếp cận khác nhau ta có các du lịch khác nhau: - Xét từ gốc độ khách du lịch: Khách du lịch là loại khách đi xa nhà một thời gian nhất định, tiêu những khoản tiền tiết kiệm. - Xét về phạm vi và thời gian lưu trú: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không phải cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kỹ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến các cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau, loại trừ mục đích hành nghề, kiếm lời hoặc đến thăm có tính chất thường xuyên. - Khái niệm tổng thể: Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền. 2. Phân loại du lịch: Căn cứ vào nhu cầu của khách du lịch, tiềm năng du lịch và khả năng thực tế để hình thành các thể loại du lịch. Thể loại du lịch phát triển không ngừng do nhu cầu ngày càng đa dạng và nâng cao của du lịch. Nhìn chung xu thế du lịch thế giới hiện nay diễn ra theo hai thể loại lớn: du lịch xanh và du lịch văn hoá. 2.1. Du lịch xanh: Du lịch xanh là du lịch hoà mình vào thiên nhiên xanh với rất nhiều mục tiêu khác nhau như ngoạn cảnh, tắm biển, săn bắn, leo núi, nghỉ dưỡng, chữa bệnh. Trong du lịch xanh, xu hướng du lịch điền dã - đến các làng quê, bản làng đang thu hút ngày càng nhiều khách du lịch. Các công ty du lịch thuộc các tỉnh phía nam nước ta cũng đang đẩy mạnh du lịch điền dã như: du lịch kênh rạch, du lịch miệt vườn. Phía Bắc,điểm du lịch bản làng Hoà Bình, du lịch sông Cầu, du lịch rừng Cúc Phương, làng Vải Thanh Hà cũng đang chú trọng phát triển. Chúng ta phải hết sức coi trọng du lịch điền dã, bởi đây là thế mạnh của ta, vì Việt Nam là quê hương của làng lúa nước và mỗi làng vẫn còn giữ được nét nguyên bản của nó, phản ánh nền văn minh nông nghiệp, rất thú vị và hấp dẫn cho mọi loại khách. 2.2. Du lịch văn hoá: Du lịch văn hoá là loại hình mà du khách muốn được thẩm nhận bề dày lịch sử, bề dày văn hoá của một nước, thông qua các di tích lịch sử, các di tích văn hoá, những phong tục tập quán còn hiện diện bao gồm hệ thống đình, đền, chùa, nhà thờ, lễ hội, các phong tục tập quán về ăn, mặc, ở, giao tiếp. Nước ta rất có điều kiện để phát triển loại hình du lịch này đặc biệt các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có thủ đô Hà Nội và vùng phụ cận có mật độ về di tích lớn. Do đó cần chú trọng đầu tư tôn tạo, sửa chữa các di tích để thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. 3. Nguồn lực để phát triển du lịch: 3.1. Nguồn lực nhân văn: Nước ta có dày truền thống văn hoá lâu đời. Hiện nay có nhiều di tích văn hoá, di tích lịch sử đã xếp hạng như : Văn Miếu (Hà Nội), cố đô Huế, phố cổ Hội An (Đà Nẵng),Yên Tử (Quảng Ninh), thánh địa Mỹ Sơn (Đà Nẵng), chùa hương (Hà Tây)... Dựa vào các yếu tố này để tổ chức các lể hội truyền thống hàng năm nhằm thu hút thập phương về tham gia và tham quan. 3.2. Nguồn lực thiên nhiên đa dạng: Tiềm năng ở dạng tự nhiên bao gồm: Cảnh quan, hệ sinh thái thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, hang đọng, triền núi... nhiềuvà rãi khắp đất nước như: du lịch Sa Pa (Lai Châu); du lịch động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh (Lạng Sơn); Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); Du lịch Bạch Long Vĩ, Đồ Sơn, Cát Bà (Hải Phòng); vườn quốc gia Ba Vì (Hà Tây); rừng cấm quốc gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Bích Động, động Địch Lộng (Ninh Bình); du lịch biển Sầm Sơn (Thanh Hoá); du lịch Cửa Lò (Nghệ An); du lịch động Phong Nha (Quảng Bình); du lịch sông Hương, núi Ngự (Huế); du lịch biển Nha Trang; thắng cảnh ở Đà Lạt; du lịch đảo Phú Quốc;... Nếu có chiến lược đầu tư và khai thác hợp lí những tiềm năng này, chúng ta sẽ tạo đà cho kinh tế vùng đó phát triển, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. 3.3. Dân cư và lao động: Lao động của con người là yếu tố quan trọng đảm bảo cho nền sản xuất tồn tại và phát triển. Trong các tổ chức kinh doanh du lịch cũng vậy, lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng, họ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, tạo ra thu nhậpquốc dân, làm cho ngành du lịch vận động vá phát triển. Hơn thế nữa, những người lao động trong lĩnh vực du lịch còn thực hiện chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng văn hoá, giao tiếp, là đại diện cho một đất nước,một nền văn hoá trước du khách nước nước ngoài. Khách du lịch nước ngoài tiếp xúc vứi một đất nước mới lạ với một nền văn hoá mới mẽ, trước hết là thông qua hướng dẫn viên, lái xe, đến phục vụ buồng, bếp, bả, những nhân viên này là cầu nối tình hữu nghị, mang những thông điệp đặc trưng về đất nước mình và nền văn hoá của đất nước mình, thuyết phục khách du lịch bằng những việc làm cụ thể và bằng những việc cụ thể và bằng văn hoá du lịch của mình. Như vậy, cố lượng,chất lượng,và cơ cấu lao động trong ngành du lịch nói chung, trong tổ chức kinh doanh du lịch nói riêng, sẽ quyết định chất lượng công tác kinh doanh của ngành và của tổ chức du lịch đó. 3.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị hạ tầng. Cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị hạ tầng có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh du lịch. Trong hoạt động du lịch, nếu mạng lưới và các phương tiện giao thôngvận tải phục vụ cho việc đi lại của con người mà tốt sẽ thu hút được nhiều người đi du lịch bởi vì những người đi du lịch có ít thời gian vẫn có thể tham gia du lịch dưới hình thức “du lịch ngắn ngày”. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũnh như quyết định mức độ khác các tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch. Do đó để phát triển du lịch thì chúng ta phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật châts kỹ thuật như:các khách sạn, nhà hàng, camping, cửa hiệu, trạm cung cấp xăng dầu, trạm y tế, nơi vui chơi thể thao... 3.5. Đường lối chính sách: Đường lối chính sáh là điều kiện quan trọng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển du lịch. Có một cơ chế thông thoáng, rõ ràng, thống nhất về đầu tư phát triển du lịch, về vấn đề đón khách quốc tế (thủ tục vào tham quan Việt Nam)... sẽ tạo điều kiện cho khách du lịch phát triểnvà khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài vào du lịch thu hút ngày càng đong khách đến tham quan các điểm du lịch. 3.6. Nguồn lực bên ngoài: Việc đặt các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp cho sự quảng bá ngày càng rộng rãi về các di tích, lễ hội, danh lam thắng cảnh... của Việt Nam với bạn bè quốc tếđể thu hút mọi người đến tham quan và đầu tư ở Việt Nam. Đòng thời cũng tạo điều kiện cho các nước hợp tác với Việt Nam để hình thành tuyến du lịch xuyên quốc gia, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. 4. Đặc điểm của tiêu dùng du lịch: Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước và của một vùng thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do đó hiểu rõ những đặc điểm tiêu dùng du lịch sẽ giúp các nhà đầ tư định hướng và đưa ra những chiến lược đầu tư đúng nhằm khai thác triệt để những lợi thế của mình. 4.1. Nhu cầu trong tiêu dùng du lịch là những nhu cầu đặc biệt: nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh văn hoá, bơi và tắm biển, hồ, sông... của con người. Từ đó ta có thể lựa chọn địa điểm đầu tư phù hợp.Chẳng hạn để phù hợp với nhu cầu trên,ta sẽ xây dựng những nhà nghỉ ở gần các bãi tắm mua sắm phương tiện để đưa đón khách đi tham quan...Đồng thời đào tạo nhân viên để tiếp, đón, hướng dẫn khách du lịch chu đáo tận tình giúp du khách hiểu rõ văn hoá,lịch sử và con người Việt Nam. 4.2. Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu về hàng hoá (thức ăn,hàng hoá mua sẵn,hàng lưu niệm...)và đặc biệt chủ yếu là các nhu cầu về dịch vụ (lưu trú,vận chuyển hành khách,dịch vụ y tế,thông tin...). Mặt hàng lưu niệm ở nước ta chưa phát triển và chưa chú trọng đầu tư khai thác,nhiều điểm du lịch du khách đến không biết mua gì để làm lưu niệm,hoặc các điểm du lịch có hàng lưu niệm tương tự nhau và ít chủng loại,kiểu dáng,mẫu mã chưa thật độc đáo,chưa thoả mãn tính hiếu kỳ của du khách. Nắm được điểm yếu này nếu ta biết tận dụng những điêu kiện sẵn có của Việt Nam cộng với việc học hỏi bên ngoài để làm ra các mặt hàng lưu niệm phù hợp với từng nơi,từng vùng và có ý nghĩa đối với những danh thắng cảnh của vùng đó thì sẽ tạo ra một nguồn thu không nhỏ. Cũng tương tự như vậy các nhà đầu tư có thể đầu tư vào lĩnh vực ăn uống, nơi ở của du khách. Tưởng thức ẩm thực cũng là một trong những mục tiêu quan trọng trong chuyến du lịch của du khách. 4.3 Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá (thức ăn) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điển sản xuất ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển du lịch và hàng hoá đến cho khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đến nơi có hàng hoá. Diều nqỳ là một lợi thế đối với nhà kinh doanh họ đồng thời sẽ giãm được chi phí vậ chuển hàng hoá, chi phí bảo quản, đồng tời sản phẩm của họ sẽ được quảng cáo bởi du khách đến tham quan. 4.4. Tiêu dùng du lịch xảy ra đồng thời theo thời vụ: Nhờ thế ta biết được nên sản xuất mặt hàng gì theo từng mùa để chủ động thong việc kinh doanh vàthay thế sản phẩm để tận dụng được lợi thế. Chính khoảng cách các thời vụ là thời gian nhằm tôn tạo, đầu tư, chuẩn bị tốt cho thời vụ sắp tới, để có thể chủ động và phục vụ tốt trong thời vụ này. 5. Vai trò của du lịch. 5.1. Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông, do vậy gây ảnh hưởng lớn lên các lỉnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. 5.2. Kinh tế du lịch gây biến đổi lớn trong cơ cấu của cán cân thu chi của đất nước của vùng du lịch. Đối với du lịch quốc tế, việc khách mang ngoại tệ đến đổi và tiêu ở khu du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Như vậy hoạt động của du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc tế làm sống động cán cân thanh toán của đất nước du lịchvà thường được sử dụng để mua sắm máy móc, thiết bị cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chát kỹ thuật cho đất nước. Còn dối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân ở vùng du lịch chỉ gây biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng, chứ không làm thay đổi tổng sốnhư tác động của du lịch quốc tế. Trong quá trình hoạt động du lịch đòi hỏi số lượng lớn vật tư và hàng hoá đa dạng. Ngoài việc khách hàng mang tiền kiếm được từ nơi khác đến tiêu ở vùng du lịch góp phần làm sống động kinh tế của vùng du lịch và đất nước du lịch. 5.3 Du lịch góp làm tăng thu nhập quốc dân (đối với du lịch quốc tế, hoạt động ăn uống trong du lịch nội địa, sản xuất hàng lưu niệm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật... )trên hai mặt sámg tạo và sử dụng. 5.4. Thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp như : công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi... Du lịch luôn đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do vậy, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển các ngành ấy trên các mặt : số lượng, chaats lượng, chủng loại sản phẩm và việc chyên môn hoá của các xí nghiệp trong sản xuất. ảnh hưởng của du lịch lên sự phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân như: thông tin, xây dựng, y tế, văn hoá... cũng rất lớn. Sự sản sàng đón tiếp khách du lịch của một vùng không chỉ thể hiện ở chỗ những nơi đó có tài nguyên du lịch, mà bên cạnh chúng phải có cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bưu điẹn, ngân hàng, mạng lưới thương nghiệp.... Việc tận dụng đưa những nơi có tài nguyên du lịch vào sử dụng, kinh doanh đòi hỏi phải xây dựng ở đó hệ thống đường sá, mạng lưới thương nghiệp, bưu điện... qua đó cũng kích thích sự phát triển tương ứng của các ngành liên quan. Ngoài ra, du lịch phát triển còn đánh thức một số ngành sản xuất thủ công truyền thống phát triển. 5.5 Du lịch góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào trong chu chuyển, vì chi phí cho hành trình du lịch là từ tiền tiết kiệm của dân. 5.6. Việc xuất khẩu bằng du lịch quốc tế luôn đảm bảo doanh thu lớn hơn nhiều nếu cùng những hàng hoá đó đem xuất theo đường ngoại thương. Hàng hoá trong du lịch được xuất với giá bán lẽ, luôn đảm bảo cao hơn giá xuất theo đường ngoại thương là bán buôn. Trong nhiều thường hợp qua giá hàng trong du lịch quốc tế còn đảm bảo thu được “địa tô du lịch”. Đièu đó thể hiện ở giá của những cơ sở du lịch mằm trong trung tâm du lịch. Ví dụ: giá các khách sạn trung tâm thành phố, các khách sạn gần biển, quay ra biển... luôn cao hơn giá các khách sạn xa trung tâm thành phố, xa biển và không nhìn được ra biển. Đó làg chưa kể đén những trường hợp ở ngoại thương do nhu cầu ngoại tệ, phải xuất khẩu với giá hàng thấp hơn giá thành sản xuất ra chúng và do vậy số lỗ càng tăng khi xuất khẩu đi càng nhiều. 5.7. Du lịch là phương tiện giáo dục lòng yêu đất nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn cảnh... người dân có điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử văn hoá dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước mình. Sự phát triển du lịch còn góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội. II. Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong những thời gian qua: 1. Thành quả đạt được: 1.1. Về vốn đầu tư: Trong những năm qua, ngành du lịch đã huy động được một lượng lớn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau (ngân sách nhà nước, tư nhân, nguồn hợp tác và đầu tư nước ngoài...). Trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1999 đã có 237 dự án đầu tư vào du lịch với số vốn đăng kí là 7585 triệu USD, chủ yếu đầu tư xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, phát triển đô thị..., trong đó vốn đã thực hiện 2553 triệu USD (chiếm 33,66%). Số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành du lịch những năm gần đây thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 1996-1998 phân theo ngành kinh tế, tính theo giá hiện hành (Đơn vị tính: tỷ đồng) 1996 1997 1998 Tổng số 79.367,4 96.870,4 97.336,1 Khách sạn và nhà hàng 4.619,5 5.390,5 4.305,7 (Nguồn: Niên giám thống kê 1998, 1999) Vốn xây dựng cơ bản của khách sạn và nhà hàng chỉ chiếm hơn 4% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội (năm 1996 chiếm 5,82%; năm 1997 chiếm 5,56%; năm 1998 chiếm 4,42%) và tỉ lệ này giảm dần qua các năm, mặc dù năm 1997 xét về lượng tuyệt đối thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành khách sạn và nhà hàng có tăng hơn so với năm 1996 là 771 tỷ đồng. Và lượng vốn năm 1998 so với năm 1997 giảm 1084,8 tỉ đồng. Như vậy lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành khách sạn và du lịch giảm dần qua các năm. Một phần nguyên nhân là do hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực này giảm dần. Các kết quả đầu tư hoạt động không hết công suất. Chẳng hạn năm 1998 vốn đầu tư vào du lịch cả nước là 168,2 tỉ đồng (theo giá hiện hành) trong đó đầu tư cho xây lắp: 35,3 tỉ đồng; đầu tư cho thiết bị là 131,7 tỉ đồng ; đầu tư cho xây dựng cơ bản khác là 1,2 tỉ đồng. Như thế lượng vốn đầu tư chủ yếu giành cho mua sắm, sửa chữa thiết bị chiếm 78,3%. Xét về lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch trong những năm qua thể hiện ở bảng sau ; Bảng 2: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1988-1999) phân theo ngành kinh tế: Số dự án Tổng vốn đăngký ( tỉ USD) Vốn pháp định (tỉ USD) Tổng số 2.800 27,0884 17,0481 Khách sạn và nhà hàng 200 4,812 2,0698 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 1999) Ta thấy trong khoảng thời gian 1988-1999 số dự án đầu tư vào khách sạn và nhà hàng chiếm 7,145 tổng số dự án đầu tư với số đăng kí chiếm 17,76% và vốn pháp định chiếm 12,14%. Như vậy số dự án và lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành khách sạn và nhà hàng có đóng góp đáng kể vào đầu tư của đất nước. Xét riêng hai năm 1998 và 1999 ta thấy lượng vốn đăng kí đầu tư vào khách sạn nhà hàng giảm mạnh (635,6 triệu USD). Bảng 3: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1998-1999) phân theo ngành kinh tế : Năm Số dự án Số vốn đăng kí (triệu USD) Số vốn pháp định (triệu USD) 1998 5 783,6 31,8 1999 6 148 14,9 (Nguồn : Niên giám thống kê 1998-1999) Và số đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng đa dạng: ở Tây Âu, châu á, châu úc, Bắc Mỹ... đặc biệt là các nước ở châu á (Đài Loan, Hồng Công,Singapo, Hàn Quốc, Nhật Bản).Họ chủ yếu đầu tư vốn vào lĩnh vực khách sạn dưới hình thức liên doanhvà đầu tư vào những thành phố kớn như: đầu tư xây dựng khách sạn Metrpole 48 triệu USD (Hà Nội), khách sạn cột cờ Thủ Ngữ 76 triệu USD (Thành phố Hồ Chí Minh),khách sạn DAEWoo (Hà Nội),khách sạn Hilton (Hà Nội), khách sạn New World (Thành phố Hồ Chí Minh).... Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước hơn 10 năm qua (1988-1999) ta đã thu hút được 2773 triệu USD. Như vậy lượng vốn trong nước đầu tư vào du lịch ít hơn nước ngoài, chiếm 36,56% tổnh số vốn đăng kí đầu tư vào du lịch. Những năm trở lại đây chúng ta đã có sự khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và người dân tham gia đầu tư vào du lịch. Số khách sạn và nhà hàng của tư nhân và nhà nước đã được đầu tư và đưa vào phuc vụ khá nhiều, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.2. Đóng góp vào sản phẩm quốc nội: Những năm qua ngành du lịch đã có những đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm quốc nội. Thể hiện ở bảng sau: Bảng 4: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính:tỉ đồng ) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 228.892 272.036 313.623 361.016 399.942 Khách sạn và nhà hàng 8.625 9.776 11.307 12.404 13.341 (Nguồn: NGTK 1999) Bảng 5 : Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính:%) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 100 100 100 100 100 Khách sạn và nhà hàng 3,77 3,59 3,61 3,44 3,34 (Nguồn: NGTK 1999) Qua bảng 4 ta thấy ngành du lịch (khách sạn và nhà hàng )đã đóng góp vào sản phẫm quốc nội ngày càng tăng về tuyệt đối. Năm 1996 đóng góp vào GDP tăng 1135 tỉ đồng (=9776-8625) so với năm 1995 và cứ tiếp tục như thế năm 1997 tăng 1097 tỉ đồng, năm 1999 so với năm 1998 tăng 937 tỉ đòng. Như vậy chỉ năm 1997 so với năm 1996 tăng cao hơn năm 1996 so với năm 1995. Còn từ năm 1997 trở đi, phần gia tăng các năm sau so với năm trước giảm dần. Xét về so tương đối ta thấy rất rõ : năm 1995 lĩnh vực khách sạn và nhà hàng chiếm tỉ trọng trong sản phẩm quốc nội là cao nhất 8,77% so với năm tiếp theo, năm 1996 nó giảm đi 0,18% chỉ còn chiếm 3,59%. Đến năm 19977 tỉ trọng đó lại tăng lên 0.02% (không đáng kể), chiếm 3,61% và các năm sau tỉ trọng tiếp tục giảm xuống. Đây là hiện tượng không tốt bởi vì chúng ta đang phấn đấu nâng dần tỉ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội.Nếu xét về số tuyệt đối qua các năm lượng đóng góp của ngành khách sạn nhà hàng vào GDP có tăng, nhưng tăng không đáng kể, tức là tốc độ tăng không bằng tốc độ tăng của các ngành khác nên dẩn đến tỉ trọng của chúng giảm. Để đánh giá rõ hơn nguyên nhân trên ta xét doanh thu của ngành du lịch để xem xét kết quả kinh doanh trong những năm qua: Bảng 6 : Kết quả kinh doanh của ngành du lịch 1996-1999. 1996 1997 1998 1999 Số lượt khách ngành du lịch phục vụ (lượt khách) 9.970.234 9.380.521 9.449.600 8.317.557 Tổng số doanh thu của các đơn vị kinh doanh du lịch (tỉ đồng) Trong đó: -phục vụ khách quốc tế -phục vụ khách trong nước -phục vụ người VN đi du lịch nước ngoài 5.969,480 3.206,608 2.747,547 15,325 6.430,175 3.575,707 2.811,558 62,910 6.631,049 3.387,624 3.196,613 46,812 6.519,861 3.792,377 2.673,080 54,405 (Nguồn: NGTK 1999) Doanh thu du lịch năm 1990 chỉ có 650 tỉ đồng, nhưng năm 1996 đã tăng lên đến 5969,48 tỉ đồng; gấp hơn 9 lần năm 1990, và liên tục tăng trong những năm sau: Năm 1997 tăng 460,695 tỉ đồng so với năm 1996; năm 1998 tăng 200,874 tỉ đồng so với năm 1997; năm 1999 giảm 111,188 tỉ đồng so với năm 1998. Trong đó nếu xét về doanh thu của các bộ phận cấu thành tổng doanh thu của toàn ngành du lịch thì ta thấy doanh thu từ sự phục vụ khách quốc tế là cao nhất trong các năm: Năm 1996 chiếm đến 53,72% tổng doanh thu toàn ngành; năm 1997 chiếm 55,61%; năm 1998 chiếm 51,09%; năm 1999 chiếm 58,17%. Như vậy liên tục qua các năm doanh thu từ việc phục vụ khách quốc tế quyết định doanh thu toàn ngành du lịch (chiếm trên 50%); thứ đến là doanh thu từ việc phục vụ khách trong nước cũng khá cao (năm 1996 chiếm 46,02%; năm 1997 chiếm 43,72%; năm 1998 chiếm 48,21%; năm 1999 chiếm 41%), còn doanh thu từ việc phục vụ những người Việt Nam đi du lịch nước ngoài không đáng kể (dưới 5% tổng doanh thu toàn ngành). Như vậy, qua số liệu trên (1996-1999) ta thấy tốc độ tăng doanh thu trong ngành du lịch giảm dần và thậm chí doanh thuuu năm 1999 còn thấp hơn năm 1998 đến 111,188 tỉ đồng. Có thể nói doanh thu ngành du lịch tăng không đáng kể và giảm là nguyên nhân đưa đến sự đóng góp của ngành vào tổng sản phẩm quốc nội tăng chậm và tỉ trọng giảm dần từ năm 1997 đến nay. Xét về hiệu quả sử dụng vốn thì trong ngành du lịch cao hơn các ngành khác. Đến năm 1998, ngành du lịch chỉ được cấp có 1,89% so với tổng vốn đầu tư nhưng hiệu quả là 2,03 đồng ; trong khi đó công nghiệp là 0,57 đồng, bưu điện là 0,53 đồng....Như vậy đầu tư vào du lịch hiệu quả một đồng vốn cao hơn các ngành khác rất nhiều, so với ngành công nghiệp nó gấp gần 4 lần (3,56 lần), còn so với ngành bưu điện thì nó gấp 5,8 lần. Chính vì hiệu quả cao hơn này, trong giai đoạn đầu của quá trình mở cửa,lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này chiếm tỷ trọng lớn. Nếu dựa theo bản qui hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kì 1995-2010 thì mục tiêu tổng quát của ngành du lịch Việt Nam đến năm 2000 đón 3,5-3,8 triệu khách quốc tế. Doanh thu từ du lịch quốc tế (không kể vận chuyển) đạt khoảng 2,6 tỉ USD vào năm 2000 và khoảng 11,8 tỉ USD vào năm 2010. Dự kiến đến năm 2000 ngành du lịch sẽ đóng góp 9,6% và đến năm 2010 khoảng 12% tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Nếu tính cả GDP của ngành du lịch và các ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động du lịch thì dự kiến chỉ số nói trên sẽ đạt 18,6% vào năm 2000 và 27% vào năm 2010. Như vậy ngành công nghiệp không khói này đã và đang có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế. 1.3. Tạo ra công ăn việc làm: Trong 10 năm (1990-1999) trở lại đây lượng khách quốc tế vào nước ta tăng lên 7 lần, khách nội địa tăng 10,5 lần, hoạt động du lịch đã tạo việc làn cho 15 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Sau đây sẽ xem xét số lao động làm việc trong ngành du lịch của khu vực nhà nước ở bảng sau: Bảng 7: Lao động bình quân trong khu vực nhà nước phân theo ngành kinh tế (Đơn vị tính: Nghìn người) 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 3.053,1 3.137,7 3.266,9 3.3833,0 3.370,4 Khách sạn và nhà hàng 34,6 37,7 37,3 38,4 35,6 (Nguồn: NGTK 1999) Qua bảng trên ta thấy lĩnh vực du lịch đã giải quyết được việc làm cho một số lao động trong khu vực nhà nước, tuy rằng tỉ lệ đó chưa nhiều và biến động ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0264.doc