Một số biện pháp thu hút & sử dụng ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam

mục lục Trang mục lục 1 lời nói đầu 4 Chương I Tổng quan về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 6 I. Vai trò của ODA 6 1. Các hình thức của ODA 6 2. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu 7 3. Vai trò của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội 11 II. Các đặc điểm của ODA 15 1. Tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi 15 2. Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA 15 3. Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của t

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp thu hút & sử dụng ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế giới không đồng đều 16 4. Triển vọng gia tăng nguồn ODA ít lạc quan 19 III. Quy trình thực hiện dự án ODA 20 1. Quy hoạch ODA 20 2. Vận động ODA 21 3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA 21 4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA 21 5. Đàm phán kí kết 22 6. Quản lý thực hiện 23 7. Đánh giá 24 Chương II Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao thông vận tải Việt Nam, giai đoạn 1993-1999 25 I. Vai trò của sự phát triển giao thông vận tải trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội 25 1. Hiện trạng hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam 25 2. Vai trò của hế thống giao thông vận tải trong qua trình phát triển kinh tế-xã hội 29 II. Quá trình thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam trong giai đoạn (1993-1999) 31 1. Tình hình cam kết (thu hút) ODA 31 2. Tình hình giải ngân (sử dụng) ODA 35 3. Cơ cấu thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn (1993-1999) 38 III. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA tại trong ngành giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn (1993-1999) 46 1. Quá trình thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao thông vận tải 46 2. Nguồn vốn ODA cho ngành giao thông vận tải 50 IV. Đánh giá chung về quá trình thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao thông vận tải Việt Nam 58 1. Những thành tựu đạt được 58 2. Những mặt hạn chế 62 Chương III Phương hướng và biện pháp thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả trong ngành giao thông vận tải Việt Nam 65 I. Phương hướng thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao thông vận tải, giai đoạn 2000-2010 65 1. Phương hướng thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam 65 2. Phương hướng phát triển ngành giao thông vận tải Việt Nam bằng nguồn vốn ODA 68 II. Một số biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA có hiệu quả trong ngành giao thông vận tải Việt Nam 75 1. Xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút và sử dụng ODA 75 2. Phối hợp hài hòa chính sách và thủ tục giữa phía Việt Nam và nhà tài trợ 76 3. Điều chỉnh một số quy định, thể chế sao cho phù hợp với tình hình thực tế 78 4. Tăng cường vai trò làm chủ của phía Việt Nam trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA 83 5. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực để tiếp nhận và sử dụng vốn ODA trong qúa trình phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải 85 6. Tăng cường vốn đối ứng 86 7. Hoàn thiện công tác quản lý dự án 88 Kết luận 93 Tài liệu tham khảo 95 Phụ lục Lời nói đầu Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường hơn 10 năm. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó, nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng. Trong những năm qua, kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa với việc mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói chung, chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài nói riêng đã góp phần đáng kể vào việc đạt được những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước. Trong đó phải kể đến việc nước ta nhận được ODA từ rất nhiều nguồn với quy mô ngày càng lớn phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế xã hội. Thực tế đã chứng minh rằng, ODA có vai trò quan trọng trong quá trình nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt là cơ sở hạ tầng của ngành giao thông vận tải. Để có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát triển giao thông vận tải cần có những biện pháp cụ thể và toàn diện. Với những lý do trên, dưới sự hướng dẫn tận tình của , Bộ Kế hoạch- Đầu tư, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. Trong khuôn khổ bản luận văn này chỉ đề cập đến tình hình thu hút và sử dụng ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Những nhận định đó dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả cho ngành giao thông vận tải trong thời gian tới. Luận văn được chia làm 3 chương: Chương I : Tổng quan về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) Chương II : Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong Ngành Giao thông vận tải Việt Nam, giai đoạn (1993-1999) Chương III : Phương hướng và biện pháp thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn cô ; các cán bộ Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch-Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và bạn đọc đối với bài viết. Chương I Tổng quan về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) I. Vai trò của ODA Hỗ trợ phát triển chính thức-ODA (official development assistance), đã xuất hiện từ rất lâu, sau chiến tranh thế giới thư hai, nó tồn tại cùng với cách hiểu, đặc điểm, vai trò riêng như sau: 1. Các hình thức của ODA 1.1. Khái niệm Theo cách hiểu chung nhất, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance), là hình thức hợp tác phát triển giữa Chính phủ nước nhận tài trợ và các đối tác tài trợ nước ngoài, bao gồm các Chính phủ, các tổ chức quốc tế (UNDP, WB, IMF...), các tổ chức phi Chính phủ (NGO) (sau đây gọi là nhà tài trợ). ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài. Hỗ trợ phát triển chính thức được hình thành và phát triển xuất phát từ sự thoả thuận của các nước công nghiệp phát triển sau đại chiến thế giới lần thứ hai về sự hỗ trợ dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển bằng kế hoạch Marshall của Mỹ cung cấp viện trợ cho Tây Âu. Tiếp đó là các hội nghị CôlômBô (năm 1955) hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển (OECD) (năm 1961) và Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), các nhà tài trợ đã tập hợp lại thành cộng đồng nhằm phối hợp các hoạt động chung về hỗ trợ phát triển theo Nghị quyết của Liên Hợp Quốc, các nước giàu cần trích 0,7% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với các nước nghèo. 1.2. Các hình thức của ODA Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ). Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách. Tín dụng thương mại: Với các điều khoản “mềm” (lãi suất thấp, hạn trả dài...) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc. Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một Hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định một cách chnh xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống, đê đập, trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông...) Thông thường, các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ. Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội, ... 2. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu Quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phân công lao động giữa các nước. Bản thân các nước cung cấp ODA (các nước phát triển) nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hợp tác, giúp đỡ các nước chậm phát triển. Bên cạnh đó còn nổi lên các vấn đề về bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống trong sạch và an ninh, phòng chống bệnh AIDS,.. Vì vậy, nguồn vốn này ngày càng tăng thêm với nhiều đối tác tham gia. Trong thời kì chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây, trên thế giới tồn tại ba nguồn ODA chủ yếu: - Thứ nhất là Liên Xô cũ, Đông Âu; - Thứ hai là các nước thuộc Tổ chức OECD; - Thứ ba là các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ; Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và các tổ chức viện trợ song phương * Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau: + Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc bao gồm: - Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) - Quỹ trẻ em Liên Hợp Quốc (UNICE ) - Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) - Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) - Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) - Tổ chức y tế Thế giới (WHO) - Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) - Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFDA),... Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc đều được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu đãi cho các nước đang phát triển, có thu nhập thấp và không bị ràng buộc các điều kiện chính trị. Viện trợ này thường tập trung cho các nhu cầu có tính chất xã hội (văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, dân số, xoá đói giảm nghèo,...). Mặc dù còn có một phần viện trợ phát triển song chỉ là thực nghiệm, thí điểm, phần tư vấn, đào tạo thường chiếm tỷ lệ cao so với phần thiết bị. Liên Hợp Quốc cấp vốn cho các tổ chức này hoạt động. Ngoài ra, các tổ chức này cũng vận động các nước công nghiệp phát triển tài trợ thêm vốn cho các chương trình hoạt động cụ thể của mình - Các tổ chức tài chính quốc tế: là các cơ quan hợp tác phát triển thông qua phương thức tài trợ tín dụng ưu đãi. Các tổ chức tài chính quốc tế chính thức có quan hệ tài trợ cho Việt Nam gồm: + Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) + Nhóm ngân hàng thế giới (WB) + Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) - Liên minh Châu Âu (EU): Là tổ chức có tính chất kinh tế-xã hội của 15 nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu (chủ yếu là Tây-Bắc Âu). EU có quỹ lớn, song chủ yếu dành ưu tiên cho các thuộc địa cũ ở Châu Phi, Caribê, Nam Thái Bình Dương, nay bắt đầu tập trung cho Đông Âu và mở rộng quan hệ với một số nước Đông Nam á (với Việt Nam từ tháng 11/1990). - Các tổ chức phi Chính phủ (NGO). Trên thế giới có hàng trăm tổ chức phi Chính phủ hoạt động theo các mục đích, tôn chỉ khác nhau (từ thiện nhân đạo, y tế, thể thao, tôn giáo...) Quỹ của các NGO thường nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc sự tài trợ của các Chính phủ. Hiện nay có khoảng gần 150 NGO đã thiết lập quan hệ đối tác ở Việt Nam, 20 NGO đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam. - Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) - Quỹ Cô oét * Các nước viện trợ song phương: - Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) là những nước công nghiệp phát triển, xuất khẩu tư bản: áo, Bỉ, Canađa, Đan mạch, Pháp, Đức, Ai len, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, Thuỵ Điển, Vương Quốc Anh, Mỹ, úc, Niu-di-lân, Nhật Bản, Phần Lan, Lucxămbua. Trong đó, ODA từ các nước thành viên DAC chiếm phần lớn nguồn viện trợ của thế giới và tăng liên tục trong suốt 30 năm qua. Từ những năm 1970 đến nay Nhật Bản đã thực sự đứng vào hàng ngũ các nước tài trợ chủ yếu, và từ năm 1993 Nhật Bản trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới. Tính chung cho DAC, từ năm 1970 đến nay ODA về cơ bản tăng theo nhịp độ tăng trưởng ổn định ở mức 0,32-0,33%. Tuy nhiên đã có sự thay đổi đáng kể tỉ lệ này ở các nước thành viên trong những năm 80. Về khối lượng tuyệt đối, những khoản đóng góp chủ yếu trong thời kỳ này thuộc về Nhật Bản và Pháp, hai nước thành viên của DAC này tăng mức viện trợ của họ 3,5% mỗi năm. Bên cạnh đó, thì một số thành viên khác có mức đóng góp cao hơn như: Phần Lan, ý, Na Uy, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Pháp, Thụy Điển, và Canađa. Những nước còn lại tăng dưới 2% mỗi năm. - Các nước đang phát triển, bao gồm: Một số nước đang phát triển cũng có nguồn ODA cung cấp cho các nước chậm phát triển. Năm 1990 (trước khi xảy ra chiến tranh Vùng Vịnh), ả rập Xê út đã cung cấp 3,7 tỷ đôla, các Tiểu vương quốc ả rập thống nhất 0,9 tỷ đôla chủ yếu cho các nước thuộc thế giới ả rập. ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cũng cung cấp trên dưới 100 triệu đôla ODA mỗi năm. Các nước ASEAN vẫn là những nước nhận viện trợ, nhưng thời gian gần đây Singapore, Thái Lan cũng bắt đầu cung cấp ODA cho các nước chậm phát triển. 3. Vai trò của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Với đặc điểm của các nước phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, dưới 1000 USD/năm. Nhìn nhận về mức thu nhập này thay đổi tuỳ theo quan điểm của từng nước, từng tổ chức đa phương. Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) dành tín dụng từ quỹ phát triển Châu á (ADF) cho các nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 650 USD với thời hạn 40 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%. Với đặc điểm của nền kinh tế các nước nghèo có biểu hiện như nền tảng hạ tầng xã hội lạc hậu không thúc đẩy được hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển dẫn đến năng suất lao động thấp. Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập bình quân đầu người (TNBQĐN) thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp. Tiết kiệm và đầu tư thấp dẫn đến làm giảm tốc độ tích luỹ vốn. Vốn tích luỹ thấp sẽ không đầu tư vào đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất lao động nên thu nhập đầu người thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp dẫn đến tốc độ tích luỹ vốn thấp...Đó là “cái vòng luẩn quẩn “, nếu Chính phủ các nước này không có một chính sách đúng đắn sẽ không thoát khỏi. Năng suất lao động thấp Thu nhập bình quân đầu người thấp Tiết kiệm và đầu tư thấp Tốc độ tích luỹ vốn thấp Điều quan trọng, trong chính sách của Chính phủ là cần có vốn để tăng vốn đầu tư, với khối lượng lớn thì nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ đóng vai trò rất quan trọng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có đặc điểm là nguồn vốn phần lớn là của tư nhân, chỉ đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao, thời hạn thu hồi vốn ngắn nên không thể phù hợp để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong khi đó, ODA lại phù hợp do đặc điểm là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế cho các nước đang phát triển là nguồn vốn cho phép sử dụng trong thời gian dài, với lãi suất ưu đãi và chủ yếu dùng để đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Tính ưu việt của ODA với hình thức thu hút vốn từ nước ngoài khác (dưới dạng đầu tư trực tiếp, các khoản tín dụng nhập khẩu, đầu tư cổ phiếu của người nước ngoài) là ở chỗ sự chuyển nhượng ODA mang tính chất trợ giúp. ODA là hình thức tài trợ Chính thức của Chính phủ và các cơ quan chính thức của nước viện trợ. Để phân biệt giữa viện trợ và cho vay, các nước quy định với nhau là chỉ khi nào yếu tố cho không, nghĩa là bộ phận không phải hoàn lại chiếm từ 25% tổng viện trợ trở lên, thì khoản viện trợ đó gọi là ODA. Thời gian sử dụng vốn dài, từ 20 đến 50 năm và gồm hai phần: thời kỳ ân hạn (miễn trả lãi) từ 5 đến 10 năm: thời gian chịu lãi suất với lịch trả đa dạng: gồm nhiều giai đoạn và những tỉ lệ trả nợ khác nhau ở từng giai đoạn. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc kêu gọi các nước phát triển dành GNP để cung cấp ODA cho các nước đang phát triển và chậm phát triển, bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước đang phát triển, chậm phát triển thiếu vốn để phát triển hay thiếu vốn tạo nên “chất xúc tác”, từ đó tạo điều kiện khai thác các nguồn vốn đầu tư khác trong và ngoài nước. Vì vậy, ODA đã ra đời, góp phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, khi mà hiện trạng phát triển của chúng còn quá thấp kém so với các nước tiên tiến có hàng chục năm phát triển. Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA cũng định hướng vào các dự án, chương trình cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: Năng lượng, Giao thông vận tải, Thuỷ lợi, Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thông tin liên lạc, Y tế, Giáo dục, Kế hoạch hoá gia đình, Giáo dục và đào tạo, Các vấn đề xã hội (xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, miền núi, cấp nước sinh hoạt...), Bảo vệ môi trường, Hỗ trợ nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và công nghệ, Viện trợ giúp điều chỉnh cơ cấu, Chuyển đổi hệ thống kinh tế, Bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, Cải cách các hệ thống tài chính và quản lý ngân sách. Đây là các vấn đề cần phải giải quyết của các nước chậm phát triển để tiến đến với các nước phát triển. Nguồn ODA cung cấp cho các nước nhận viện trợ được hiểu là sự trợ giúp bằng vật tư, thiết bị, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức (cung cấp chuyên gia; đào tạo cán bộ;...) dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, được thực hiện theo những thoả thuận kí kết bằng văn bản giữa Chính phủ các nước nên nguồn ODA là một trong những nguồn quan trọng của Ngân sách nhà nước, được sử dụng cho các mục tiêu ưu tiên của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội là tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nguồn vốn khác. Gần đây, chỉ riêng việc Nhật Bản tăng vốn ODA cho Việt Nam đã thúc đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản tăng nhanh vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nguồn vốn ODA của Mỹ, Nhật và một số nước khác chủ yếu được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của nước Đông á. Tác động của nguồn vốn này có thể nhận thấy ở chỗ, cơ sở hạ tầng của các nước Đông á được cải thiện. Singapore, Malaixia, Thailan...nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. ở một số nước, điển hình như Philippin là nơi cơ sở hạ tầng kém phát triển hơn họ đã đầu tư ít hơn vào nước này. Bên cạnh những mặt góp phần quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đối với các nước đang phát triển thì ODA cũng có những hạn chế nhất định. Do ODA là sự chuyển giao một tỷ lệ nhất định GNP từ quốc gia phát triển sang các nước đang phát triển với những điều kiện tài chính mang tính ưu đãi cao nên nó chứa đựng nội dung chính trị, xã hội. Nói cách khác, các quốc gia viện trợ đều có mục đích riêng và có những ràng buộc nhất định áp đặt cho nước nhận viện trợ. Như kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ sau chiến tranh thế giới II, cung cấp viện trợ cho các nước Tây Âu bại trận sau chiến tranh thế giới II này. Để nhận được viện trợ, các nước Tây Âu đã trở thành công cụ đắc lực trong chính sách chống cộng của nhà cầm quyền Mỹ, gây nên cục diện đối đầu Đông - Tây hàng thập kỷ. Cụ thể là để được nhận viện trợ, các nước Tây-Âu phải thực hiện chính sách thù địch với Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa nói chung. Họ cũng phải chấp nhận việc Mỹ xây dựng hàng trăm căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Các nước viện trợ ngoài mong muốn ảnh hưởng về chính trị, các nước nói chung đều cân nhắc đến lợi ích kinh tế của mình thu được khi bắt bên nhận viện trợ của mình phải dùng hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ và tư vấn trong nước của nước cung cấp. Bỉ, Đan Mạch, và Đức yêu cầu 50% số tiền viện trợ phải dùng để mua hàng hoá, dịch vụ của nước mình. Tỷ lệ này của Canađa cao nhất với 65%. Tính trung bình toàn nhóm DAC, 22% viện trợ phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Các nước nhận viện trợ, ngoài những thiệt thòi kể trên còn bị buộc phải thực hiện những cải cách kinh tế theo khuôn mẫu do phía nhà tài trợ đưa ra. Điển hình là WB và IMF chỉ viện trợ cho một số nước đang phát triển khi nước này thực hiện những điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiêu chuẩn và tiến trình của các tổ chức này yêu cầu. Nước tiếp nhận viện trợ phải chịu rủi ro của đồng tiền viện trợ. Sự lên giá của đồng tiền viện trợ trong thời gian vay sẽ là gánh nặng nợ cho các nước tiếp nhận. Thông thường nước tiếp nhận không có quyền lựa chọn đồng tiền để vay ODA, càng không có quyền sử dụng tiền địa phương làm viện trợ mà buộc phải vay bằng đồng tiền của nước cung cấp ODA. Chẳng hạn, Hiến pháp Nhật Bản quy định rõ chỉ cho vay, viện trợ bằng Yên Nhật. ODA là nguồn vốn cần thiết trong quá trình phát triển của các quốc gia đang phát triển .Nó có những ưu việt và những hạn chế nhất định. Các nước đang phát triển cần phải nắm bắt được xu hướng vận động ODA của thế giới để phát huy tính ưu việt và hạn chế bớt những vấn đề tồn tại đối với mình. II. đặc điểm của ODA Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau: 1. Tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị,... giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự dịch chuyển, tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Một trong các minh chứng cho điều đó là trong các năm 1980-1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỷ trọng ODA song phương từ 67% tăng lên 69% trong khi đó tỷ trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%. Tại một số tổ chức quốc tế, nơi một số nước có nhiều ảnh hưởng (có đóng góp lớn) thường chi phối các tổ chức này, hướng việc cung cấp ODA vào việc thực hiện các mục tiêu chính trị và kinh tế của họ. Trước tháng 10/1993, Mỹ đã không cho phép các tổ chức tài chính quốc tế IMF và WB nối lại quan hệ với Việt Nam. ADB tích cực triển khai hợp tác tiểu vùng, tiểu vùng sông Mê Kông mở, trên thực tế là hợp tác phát triển toàn diện Đông Dương nằm trong chiến lược củng cố tư thế chính trị và vị trí kinh tế của Nhật Bản ở Châu á nói chung và ở khu vực Đông Nam Châu á nói riêng. Cùng với xu thế đó thì kết cấu ODA phần cho không giảm, phần cho vay tăng lên (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư) 2. Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước cộng hoà thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar,... cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự canh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế -xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược viện trợ... khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam á (đặc biệt là ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại Dương từ 20,3% lên 22,9% ; Châu Mĩ La- Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14% ( nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư ). 3. Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của những nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong qúa trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai.... Có thể xét sự mất cân đối đó dưới các góc độ sau đây: Xét theo góc độ các nước tài trợ thì nhìn chung họ thường sử dụng ODA như một công cụ nhằm thực hiện các nục tiêu chính trị hoặc kinh tế đối ngoại của họ, tạo vùng ảnh hưởng, mở rộng uy tín, khai thác thị trường đầu tư, tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp nước họ,... các nước lớn thường có chiến lược cung cấp ODA. Nhìn vào cơ cấu cung cấp ODA cho các khu vực trên thế giới có thể thấy sự quan tâm về chính trị đối ngoại của các cường quốc. Năm 1992, ODA chủ yếu của Mỹ chiếm 40% ở Trung Đông (chủ yếu là cung cấp cho Israen). ở Châu á, ODA Nhật Bản chiếm 52,3%; ở Châu Phi cộng đồng Châu Âu, các nước Bắc Âu và Canađa tập trung viện trợ vào Tiểu vùng Sahara; Mỹ tập trung viện trợ vào Trung Đông (Ixraen và Ai Cập); Tiểu vùng Sahara và Trung Mỹ, Nhật Bản tập trung vào Châu á (nhưng cũng tăng viện trợ vào Sahara); úc; Niu-di-lân tập trung chủ yếu vào Châu Đại Dương và Viễn Dương. Sử dụng ODA như là một điều kiện để áp đặt “dân chủ”, “nhân quyền” theo quan niệm của Phương Tây cũng thường hay gặp trong quan hệ hợp tác phát triển với một số nước. Một số tổ chức phi Chính phủ, nhất là những tổ chức có tính tôn giáo, có trường hợp lợi dụng viện trợ để thực hiện các hoạt động không hợp pháp. Về phân phối theo nhóm nước, quá nửa số viện trợ từ các nước DAC được rót vào các nước có thu nhập thấp. Các nước chậm phát triển nhất được viện trợ ngày càng tăng kể từ những năm 70. Trong đó, Nhật Bản, Anh, Thuỵ Sĩ và các nước Bắc Âu tập trung viện trợ chủ yếu cho các nước có thu nhập thấp, trong đó các nước Bắc Âu tập trung vào các nước chậm phát triển nhất. Khoảng 15% ODA của các thành viên DAC được đưa vào các nước có thu nhập trên trung bình. Điều đó thể hiện ở chỗ phần lớn viện trợ của Mỹ dành cho Ixra-en, của Pháp dành cho các lãnh thổ hải ngoại (Guy-an-na, Qua-đơ-lúp, Mác-ti-níc, Rê-u-nuy-ông),... Các nước nhận được ODA nhiều nhất từ năm 1988 đến năm 1991: ở Châu âu, Thổ Nhĩ Kỳ được nhận tới 1 tỷ USD trong năm 1991, năm 1994 vẫn còn nhận 200 triệu USD. Được nhận ODA tăng vọt trong năm 1991 là An-ba-ni (303 triệu USD), và các nước thuộc Nam Tư cũ trong ba năm (1992-1994) được cung cấp 5,5 tỷ USD. Châu Phi: Ai Cập là nước nhận được ODA với khối lượng lớn từ nhiều năm nay: Năm 1991 nước này nhận được 5.025 triệu, sau đó giảm dần và năm 1994 vẫn nhận được 2.695 triệu USD. Tiếp theo là Tam-đa-ni-a, Mô-dăm-bích, ... tiếp sau nữa là Ma rốc, Cơ-ma-run, ... Châu Mỹ: Ni-ca-ra-goa và Bô-li-via là những nước nhận được ODA nhiều nhất, 500-800 triệu USD mỗi năm, tiếp theo là Mê-hi-cô, Pê-ru, ác-hen-ti-na,... bình quân 300-500 triệu USD mỗi năm. Trung Đông: Ixra-en mỗi năm nhận được trên 1 tỷ USD viện trợ, năm 1992 lên đến 2066 triệu USD, Năm 1994 Xyri nhận được 745 triệu. Châu á: Có 5 nước nhận được nhiều viện trợ là Trung Quốc, Băng-la-đét, Inđônêsia, Phi-lip-pin, và ấn Độ. (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư). Như vậy, thực tế là không có viện trợ “vô tư”. Viện trợ là cùng có lợi, xuất pháp từ lợ ích của mỗi bên. Để vẫn có thể tranh thủ được nguồn vốnODA mà không bị các nhà tài trợ “lái”, cần có một chiến lược hành động và sử dụng ODA. 4. Triển vọng gia tăng nguồn ODA ít lạc quan Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA lớn nhất như Nhật Bản, Mỹ ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan-Mạch...đã có tỷ lệ ODA chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước. Ví dụ gần đây nhất là Chính phủ mới của úc đã cắt giảm gần 2 tỷ AUD viện trợ. Gần đây ODA từ các nước không phải thành viên của DAC giảm đáng kể do nguồn từ Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu không còn nữa. Một số nước Cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước Đông Âu hiện nay trở thành nước nhận viện trợ ODA của các nước tài trợ ả-Rập, giảm nhiều trong thập kỷ 80 (từ 9.539 triệu USD năm 1980 xuống còn 1.590 triệu USD năm 1989) tăng trong năm 1990 lên 5,9 tỷ USD và lại giảm xuống còn 2,7 tỷ USD năm 1991, 1,2 tỷ USD năm 1992 và 1993 và 1 tỷ USD năm 1994. Các nước đang phát triển (Trung Quốc, ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Vê-nê-zu-ê-la,...) cũng giảm cung cấp ODA của họ từ 708 triệu USD năm 1980 xuống còn khoảng 440 triệu USD năm 1991, 484 triệu USD năm 1992, 8 triệu USD năm 1993 và 413 tr._.iệu USD năm 1994. Tính chung, nguồn ODA từ các nước không phải thành viên DAC đã giảm liên tục từ 6038 triệu USD năm 1990 xuống còn 1387 triệu USD năm 1994 (nguồn: Bộ Kế hoạch- Đầu tư). Cùng với sự suy giảm của các nước không phải thành viên của DAC thì ODA từ các nước là thành viên của DAC cũng có những chiều hướng suy giảm. Mặc dù, Nhật và Pháp trong những năm 80 đóng góp chiếm nửa số viện trợ tăng lên. Đồng thời một nửa số nước thành viên khác của DAC cũng tăng mức viện trợ của họ 3,5% mỗi năm (Phần Lan, ý, Na uy, Canađa,...), nhưng thì một số nước khác trong thời gian gần đây gặp rất nhiều khó khăn trong nền kinh tế ,họ đã thực hiện chính sách thắt chặt tài chính nên việc cung cấp ODA của các nước này có phần suy giảm. Ngoài ra, ở các nớc phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/ năm trong các năm 1991-1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc vào chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vôns nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác. III. Quy trình thực hiện dự án ODA Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành nguồn vốn này .Dưới đây là một số nội dung về quy định của phát luật Việt Nam liên quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. 1. Quy hoạch ODA Bộ Kế hoạch-Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế- xã hội; quy hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA và lập các danh mục chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODA trình Chính phủ phê duyệt. 2. Vận động ODA Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch-Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông qua: - Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm - Các hội nghị điều phối viện trợ ngành - Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của các nhà tài trợ liên quan. 3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương trình, dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch- Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề án, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi,... 4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau: - Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh vực này). - Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế,...Bộ Kế Hoạch-Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong quá trình thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA. - Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số 80/CT ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). 5. Đàm phán ký kết Sau khi nội dung đàm phán với Bên nước ngoài được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch- Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng Chính Phủ, Bộ Tài Chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan tiến hành đàm phán với Bên nước ngoài. Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ trì đàm phán với các Bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế hoạch-Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài Chính về hạn mức và điều kiện vay trả (nếu là ODA hoàn lại). Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với Bên nước ngoài thì cơ quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính Phủ về nội dung làm việc, kết quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan. Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng Chính phủ chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự định kí kết và đề xuất người thay mặt Chính phủ kí các văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trường hợp cơ quan khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính. Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác về ODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Kế hoạch-Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ định đàm phán) phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định kí kết, đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tại điều 6 khoản 3, điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ. 6. Quản lý thực hiện Bộ Kế hoạch-Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách Nhà nước và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và các quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định các biện pháp xử lý, baó cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA. Bộ Tài Chính được xác định là đại diện chính thức cho “người vay” hoặc là Nhà nước hoặc Chính phủ nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các Điều ước Quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay lại, thu hồi vốn,...) đối với các chương trình, dự án ODA. Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài Chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền thực hiện việc cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm d/ khoản 3 điều 14 của Quy chế về quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị dịnh 87/CP ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài Chính và cơ quan liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán...thông qua hệ thống tài khoản được mở tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA. Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA,... tuỳ theo quy định và thoả thuận với Bên nước ngoài, các chủ chương trình, dự án chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc kiểm điểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại các cuộc kiểm điểm này. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các chủ chương trình, dự án lập báo các 6 tháng và hàng năm về tình hình thực hiện các chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng Chính Phủ. 7. Đánh giá Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về tình hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ. chương Ii thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn 1993 - 1999 I. Vai trò của sự phát triển giao thông vận tải trong quá trình phát triển kinh tế xã hội 1. Hiện trạng hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam Cùng với sự ưu tiên phát triển ngành giao thông vận tải của Chính phủ bằng nguồn Ngân sách trong nước, vừa qua các tổ chức tài chính quốc tế, các Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ với nhiều hình thức đã tài trợ cho việc đầu tư khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nước ta. Nhiều tuyến đường bộ, đường sông, đường sắt, nhiều bến cảng đã đang và sẽ được cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới. Hỗ trợ phát triển chính thức đóng vai trò rất quan trọng trong chương trình đầu tư cho giao thông vận tải, làm nền tảng cho sự phát triển các hoạt động kinh tế trong những năm gần đây của Việt Nam. Trong thời kỳ 1986-1990, tỷ trọng ODA dành cho lĩnh vực này không lớn chủ yếu tập trung cho một số chương trình trọng điểm như Cầu Thăng Long, cải tạo cảng Hải Phòng, trạm Vệ tinh mặt đất Hoa Sen, hệ thống Cáp đồng trục ở một số địa phương. Bước vào thời kỳ (1991-1995), nhất là từ năm 1993 nước ta có điều kiện thuận lợi mới để tập trung ODA cho phát triển ngành giao thông vận tải. Đây là lĩnh vực được sự quan tâm của các nhà tài trợ và phù hợp với phương hướng ưu tiên phát triển của nước ta. Chính phủ Việt Nam đã ký Hiêp định ODA để nâng cấp cải tạo quốc lộ 1 (đoạn Hà Nội-Vinh, Nha Trang-Cần Thơ); quốc lộ 5, quốc lộ 18, xây dựng cầu Sông Giành, khôi phục 38 cầu trên quốc lộ 1, phục hồi 9 cầu trên tuyến đường sắt Thống Nhất, nâng cấp cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng,...Các dự án này đã và đang trong quá trình thực hiện. Trong thời kỳ (1996-2000) các nhà tài trợ đã cam kết, triển khai các dự án như tiếp tục quốc lộ 1 (đoạn Hà Nội-Lạng Sơn, Vinh-Đông Hà, Nha Trang-Đông Hà, Cần Thơ-Năm Căn), xây dựng cầu Mĩ Thuận, Cầu Bính, đường giao thông nông thôn, 29 cầu trên một số tỉnh lộ, cải tạo cảng Cần Thơ, cải tạo các tuyến đường thuỷ Đồng Bằng sông Cửu Long, Sông Hồng, Cải tạo giao thông đô thị thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,... Có thể nói, chỉ sau một thời gian ngắn từ năm 1995 đến nay, cơ sở hạ tầng giao thông đã được cải thiện rõ rệt. Đã khôi phục và nâng cấp khoảng 2000 km quốc lộ, giao thông đô thị được mở rộng hàng chục ngàn km đường. Giao thông nông thôn được nâng cấp, nhiều bến cảng quan trọng được cải tạo, nâng cấp và làm mới... Điều đó khẳng định rằng sự hỗ trợ giúp đỡ của các bạn bè quốc tế đã đem lại một số kết quả đáng kể. Trong những năm qua, số lượng các công trình được thực hiện bằng nguồn vốn ODA tăng lên, trợ giúp cho phát triển ngành giao thông với các công trình được thực hiện, nhưng giao thông vận tải vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, và sau này hoà bình lập lại vốn đầu tư, mức độ bảo dưỡng đối với hệ thống giao thông vận tải thấp nên hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vẫn còn rất lạc hậu, thậm chí một số công trình còn bị xuống cấp nghiêm trọng. Vì vậy, cần có sự đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng giao thông. Với kết cấu của mạng lưới giao thông Việt Nam đầy đủ cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không. Nhu cầu đầu tư rất lớn, từ đường nhựa đến đường xe lửa, sân bay, đường biển để nâng cấp lên khi chúng đang trong tình trạng rất xấu, cần đầu tư hợp lý và cân đối trong kết cấu mạng lưới giao thông. - Đường bộ: Việt Nam có chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối lớn, trên 200.000 km năm 1997, đến nay có 210.006 km, kết cấu của đường bộ gồm: Quốc lộ, tỉnh lộ, đường giao thông nông thôn, đường đô thị. Trong hệ thống đường quốc lộ chỉ có 60,6% đường được trải mặt bằng bê tông nhựa. Còn lại là các đường loại xấu. ở các vùng sâu, vùng nông thôn khi nhu cầu vận tải vẫn còn thấp thì rất nhiều đường quốc lộ chưa được trải nhựa, chỉ có 26,6% đường tỉnh lộ và 9,9% đường huyện lộ được trải mặt. Mạng lưới đường quốc lộ được trải mặt nhưng chiều rộng nhỏ (7 m) vẫn chưa đủ rộng trong trường hợp các xe tải và xe khách cùng các loại xe thô sơ khác đi cùng. Hầu hết các đường quốc lộ đều có hai làn xe, một số ít đường quốc lộ ở khu đô thị và được phân cấp thành đường đô thị, hoặc quốc lộ quan trọng có 4 làn xe như quốc lộ I, 5 và 51. Các quốc lộ ở trong tình trạng tốt chỉ có chủ yếu ở tuyến đường quốc lộ khu vực vành đai thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tình trạng đường bộ các vùng đồi núi phần lớn còn rất xấu. - Đường sắt: được phát triển cũng rất lâu, nó có khả năng đáp ứng nhu cầu vận chuyển rất cao, nhưng trong thời gian vừa qua thiếu sự quan tâm đúng mức của Chính phủ nên hệ thống giao thông đường sắt xuống cấp nghiêm trọng. Với điều kiện vận chuyển còn rất thấp kém: gồm 7 tuyến chính, khoảng 2600 km đường ray. Tất cả là đường đơn, không có đường đôi. Trong mạng lưới đường sắt, riêng tuyến Hà Nội-Sài Gòn đã chiếm 2/3 tổng số. Mạng lưới đường sắt bao phủ 31 tỉnh thành phố trên tổng số 61 tỉnh thành. Mật độ mạng lưới đường sắt hầu như rất hiếm ở miền Nam, đặc biệt là đồng bằng sông Mê Kông. Hiện nay, các công trình đường sắt rất lạc hậu, không được duy tu bảo dưỡng và khôi phục cơ sở hạ tầng, nhiều công trình bị hư hỏng. Do đó, mất khả năng cạnh tranh với các hệ thống vận tải khác, nhưng nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. - Hệ thống cảng hiện tại: Việt Nam có bờ biển dài 3200 km, được chia thành 3 miền: Bắc-Trung-Nam, trong hệ thống cảng hiện nay số cảng còn ít. Mỗi miền có một cảng tổng hợp và một số cảng nhỏ trực thuộc, các cảng lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cái Lân, Sài Gòn, ....đều được xây dựng đã lâu từ sau khi đất nước được giải phóng hoặc trước đó, nên đã xuống cấp, không đáp ứng được việc cập cảng của các tàu có trọng tải lớn nên thường xuyên xảy ra sự tắc nghẽn. Để có thể đáp ứng cho nhu cầu vận tải hiện tại và tương lai thì sự phát triển hệ thống cảng phải được tăng cường. - Sân bay: Trong thời gian nền kinh tế đóng thì ngành vận tải hàng không giữ vai trò thấp trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nhưng trong cơ chế mở, với việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, vai trò ngành vận tải hàng không đóng góp lớn trong nền kinh tế. Hiện tại cơ sở vật chất của nền hàng không còn rất thấp, nhất là so với các nước trong khu vực, không có khả năng cạnh tranh. Chỉ có 3 sân bay quốc tế ở Việt Nam trong tổng số 185 sân bay lớn nhỏ, nhưng thực tế chỉ có 2 sân bay chính có dịch vụ bay quốc tế thường xuyên, 15 sân bay dân dụng, cục hàng không dân dụng dự tính trong tương lai tăng lên thành 24 sân bay. - Giao thông nông thôn: Giao thông nông thôn phát triển góp phần rất lớn vào công cuộc CNH-HĐH đất nước trong sự phát triển chung của xã hội. Trong thời gian vừa qua đã được sự quan tâm của Chính phủ, nhưng chất lượng đường nông thôn vẫn còn thấp, chưa đến 10% đường huyện được trải nhựa hoặc nhựa cấp phối. Giao thông nông thôn còn thiếu nhiều về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 1998 có tới 606 trong tổng số 9816 xã, xe cơ giới không thể tiếp cận được trung tâm xã, trong số xã mà có khả năng tiếp cận được trung tâm xã thì vẫn có nhiều nơi khó tiếp cận vào mùa mưa. Các huyện miền núi khả năng tiếp cận đường quốc lộ và tỉnh lộ kém hơn. - Giao thông đô thị: Cùng với sự phát triển đất nước, thì đô thị hoá là một tất yếu khách quan. Đất nước càng phát triển thì tốc đô thị hoá càng cao, ở Việt Nam, giao thông đô thị nhất là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội đang bị ách tắc, tốc độ chạy xe bình quân đạt tới 20 km/h. Nếu không có ngay các giải pháp đối với hệ thống đường xá cũng như phương tiện vận tải hợp lý sẽ trở thành thách thức lớn trong một tương lai gần. Trong công cuộc CNH-HĐH đất nước, giao thông vận tải phát triển là điều kiện đầu tiên thúc đẩy công cuộc này đạt hiệu quả tốt. Với hiện trạng như vậy, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải xuống cấp nghiêm trọng, không những không đáp ứng nhu cầu mà thực sự trở thành vật cản, cản trở quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, Chính phủ đã xác định được vị thế của giao thông vận tải trong qúa trình phát triển, Chính phủ đã có nhiều biện pháp ngày càng nâng cao chất lượng và số lượng của hệ thống giao thông vận tải tại Việt Nam. 2. Vai trò của hệ thống giao thông vận tải trong quá trình phát triển kinh tế xã hội Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng, hạ tầng làm nền tảng cho kiến trúc thượng tầng xã hội. Vì vậy, giao thông vận tải cần phải phát triển đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế xã hội, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước, cho tiến trình hội nhập với khu vực và quốc tế. 2.1 Việt Nam là một nước nông nghiệp, 80% dân số sinh sống ở nông thôn, 73% lực lượng lao động xã hội đang làm việc và sinh sống nhờ vào các hoạt động sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp. Việc phát triển toàn diện nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và trở thành mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay. Theo chủ trương của Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam, CNH-HĐH đất nước, trong đó nêu rõ đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Để thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH, một trong các nội dung là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn như mạng lưới điện, giao thông, bưu điện, viễn thông, ... với các vị thế của giao thông nông thôn đảm bảo tiếp cận thị trường, tăng sản lượng nông nghiệp và kích thích các hoạt động phi nông nghiệp và góp phần giảm nghèo cho người dân, tăng khả năng quan hệ giao lưu buôn bán. 2.2 Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, khi Việt Nam tham gia ASEAN, AFTA, APEC và trong tương lai tham gia WTO thì các mối quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực, và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại các nước Đông Nam á ảnh hưởng lớn đến quan hệ xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam là một dẫn chứng cho mối dây liên kết này. Các thành viên tham gia các thể chế trên không chỉ dành cho nhau những ưu đãi trong trao đổi mậu dịch, mà còn hợp tác với nhau cả ở các lĩnh vực đầu tư, cung cấp nhiên liệu, năng lượng, dịch vụ,...Để có đủ khả năng, sức mạnh có thể tham gia vào quá trình hợp tác mà chúng ta thu được nhiều lợi ích cho quốc gia, thì trong thời gian này là lúc để chuẩn bị cho quá trình hội nhập. Một công việc cần làm đó là tạo ra hệ thống vận tải ngoại thương hiệu quả cũng như mắt xích hậu cần trong nước, khi đó chúng ta mới hội nhập vào trường toàn cầu. Đồng thời, vị trí địa lý của Việt Nam là gần đường hàng hải quốc tế, có khả năng thu hút hàng quá cảnh của một số nước... Tất cả các yếu tố đó thúc đẩy hệ thống cảng biển Việt Nam phát triển. Ngoài ra, các hoạt động xuất khẩu chủ yếu của ta hiện nay là hàng nông hải sản (gạo, càfê, tôm đông lạnh, than, dầu thô và một vài sản phẩm công nghiệp như giầy và hàng may mặc,..) giá trị thấp. Để bảo đảm cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đáp ứng yêu cầu vận chuyển cần có đội tàu lớn và cảng biển nước sâu. Để có khả năng đáp ứng nhu cầu vận chuyển đường biển phục vụ phát triển kinh tế-xã hội thì chúng ta phải đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng đường biển. 2.3 Nền kinh tế thị trường với sự chuyên môn hoá sản xuất, cùng tốc độ tăng dân số ngày càng nhanh, nhu cầu vận tải đi lại, giao lưu trao đổi mua bán ngày càng tăng. Chúng ta cần phải phát triển hệ thống giao thông vận tải cả đường bộ, đường sông, đường hàng không, đường biển, để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. 2.4 Đi cùng với sự phát triển của đất nước, thì tốc độ đô thị hoá ngày càng lớn, Chính phủ đưa ra chính sách phi tập trung nhằm đảm bảo sự cân đối trong quá trình phát triển. Với chiến lược phát triển của Việt Nam thì việc hình thành hành lang vận tải Bắc Nam bao gồm các phương thức đa dạng (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không) có ý nghiã quan trọng trong việc tạo ra sự cân bằng trong phát triển các vùng, địa phương. Xu hướng đô thị hoá dự kiến đến năm 2020 sẽ có thêm 3 đến 5 thành phố là Hải Dương, Đà Nẵng, Huế, Biên Hoà và Vinh có hệ thống giao thông đô thị. Cùng tiến trình xây dựng đất nước, phát triển giao thông vận tải là nhu cầu không thể thiếu được. Xác định những nhu cầu đó, kể từ những năm cuối của thập kỷ 80, thực hiện sự nghiệp đổi mới, Chính phủ Việt Nam đã coi trọng phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, coi đây là khâu trung tâm trong hệ thống kết cấu hạ tầng cần phải đi trước một bước, tạo điều kiện để khuyến khích kinh tế phát triển. II. Qúa trình thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam trong giai đoạn ( 1993-1999) 1. Tình hình cam kết ( thu hút ) ODA Về việc sử dụng ODA, kinh nghiệm của một số nước như Thái Lan, Singapore, Inđônêxia, Phillippine,... cho thấy nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế quan trọng tầm cỡ quốc gia (sân bay, bến cảng, đường cao tốc, cầu, bệnh viện, trường học, trung tâm nghiên cứu khoa học...) đã được xây dựng dựa vào nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Mĩ, WB, ADB và một số nhà tài trợ khác. Một số nước đạt trình độ phát triển kinh tế cao hiện nay (Nhật Bản, Hàn Quốc,...) trước đây cũng phải dựa vào nguồn vốn ODA của Mỹ, ADB và WB để phát triển. Nước ta đang có nhu cầu vốn lớn cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn trong nước chỉ đáp ứng được theo quy hoạch khoảng hơn 40% nhu cầu, phần còn lại dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu quan tâm đến các dự án sản xuất, kinh doanh hoàn vốn nhanh. Do vậy, để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội mà phần lớn là các dự án chậm thu hồi vốn, hay không có khả năng thu hồi nên chúng ta phải có nguồn vốn thích hợp cho mục tiêu này, trước hết là khai thác nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA (không hoàn lại và cho vay với các điều kiện ưu đãi của các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế) 1.1 Giai đoạn trước tháng 10/1993 Trước đây, nước ta nhận được hai nguồn ODA song phương chủ yếu. Một từ các nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) trong đó chủ yếu là Liên Xô (cũ). Đây là nguồn viện trợ không nhỏ, khoảng 12,6 tỷ rúp chuyển nhượng và có ý nghĩa quan trọng nhất cả về nội dung, quy mô, chất lượng, cũng như giá cả, điều kiện tín dụng,... khoản viện trợ ODA này giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của nước ta. Nguồn viện trợ ODA thứ hai là từ các nước thuộc tổ chức (DAC) và một số nước khác, trong đó chủ yếu là Thuỵ Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na uy, Pháp, ấn Độ, và một số nước khác với tổng số vốn khoảng 5 tỷ USD. Các khoản ODA của các nước này không lớn, chủ yếu là viện trợ kĩ thuật và một số dự án thuộc cơ sở hạ tầng xã hội như y tế, giáo dục và đào tạo và cấp nước sinh hoạt. Cùng các nguồn vốn đó, các tổ chức quốc tế như UNDP, UNICEF, UNFPA, WHO,... cũng cung cấp ODA cho nước ta chủ yếu đầu tư vào những chương trình, dự án quy mô vừa và nhỏ trên các lĩnh vực giáo dục, và đào tạo, quản lý môi trường và môi sinh, dân số, kế hoạch hoá gia đình... Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1991-1995), một số dự án trước đây thuộc trong kế hoạch này không thực hiện được do khủng hoảng chính trị ở Liên Xô cũ và Đông Âu, giải thể SEV. Nguồn viện trợ từ các nước này chấm dứt, sự hụt hẫng về nguồn vốn nước ngoài từ khu vực này đặt nền kinh tế nước ta trước rất nhiều khó khăn, làm cho những kế hoạch không có vốn để hoàn thành. Trước tình hình đầy thách thức trên, ngày 3/2/1994 Hoa Kỳ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Trong điều kiện đó, chúng ta đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, với những thành tựu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cộng với các chính sách đối ngoại mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực tạo điều kiện cho Việt Nam nhận được một số lượng viện trợ lớn từ các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. 1.2 Giai đoạn phát triển hợp tác mới từ tháng 10/1993 Báo hiệu đáng mừng cho giai đoạn này được bắt đầu bằng sự kiện rất quan trọng vào tháng 10/1993, quan hệ của ta với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Châu á (ADB) được khai thông. Tháng 11/1993 Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam họp tại Pari mở ra giai đoạn hợp tác phát triển mới giữa nước ta và cộng đồng các nhà tài trợ, tạo ra các cơ hội quan trọng để hỗ trợ Việt Nam tiến hành công cuộc phát triển nhanh và bền vững. Thành công của hội nghị thể hiện ở chỗ Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế vào công cuộc đổi mới phát triển của Việt Nam thông qua đối thoại, bằng cách cam kết dành ODA cho Việt Nam. Cho tới nay, đã có 6 cuộc Hội nghị Nhóm tư vấn do Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức. Thông qua các hội nghị này các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam với tổng mức cam kết 15,14 tỷ USD, cam kết bình quân hàng năm vào khoảng 2,2 tỷ USD, với xu hướng cam kết năm sau cao hơn năm trước, kể cả những năm tình hình tài chính của một số nhà tài trợ gặp khó khăn. Thể hiện sự tin tưởng đồng tình của họ đối với sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam Bảng 1. Cam kết ODA qua các năm 1993 -1999. (đơn vị tính tỷ USD) Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Tổng mức cam kết ODA 1,18 1,94 2,26 2,43 2,4 2,2 2,7 15,14 Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư. Những con số trên là tương đối khả quan. Tuy nhiên, trong những năm tới, nguồn vốn ODA của các nước cung cấp cho Việt Nam có thể sẽ giảm xuống. Sở dĩ có nhận định như vậy là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu á, vừa qua làm cho nền kinh tế của một số nước cung cấp viện trợ gặp khó khăn dẫn đến việc các nước có thể cắt giảm lượng viện trợ ODA hàng năm. Đồng thời, do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút ODA. Việc hình thức hoá các chương trình, dự án ODA bao gồm nhiều tác nghiệp khác nhau như thẩm định và phê duyệt dự án, Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ kí kết các điều ước quốc tế (Bản ghi nhớ (MOU), Hiệp định, chương trình, Nghị định thư,..) các chương trình, dự án đã được ký kết đạt hơn 10 tỷ USD, chiếm gần 70% tổng số vốn ODA đã cam kết. Việt Nam dành được sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không quan tâm tới Việt Nam nếu như họ không tin tưởng vào triển vọng phát triển tốt đẹp ở đất nước ta. Điều quan trọng chính là sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về những gì mà Việt Nam đã làm trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (đây là kế hoạch hoàn thành quá trình cải tổ và đầu tư vào những ngành trọng điểm của nền kinh tế nhằm xây dựng một nền kinh tế có hiệu quả để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, thì cần phải có nhiều sự trợ giúp hơn nữa). Tiếp theo đó là những kết quả đáng mừng trong giai đoạn này. 2. Tình hình giải ngân (sử dụng) ODA Thành công của quá trình thu hút nguồn vốn ODA ở trên, liên quan rất nhiều đến qúa trình sử dụng nguồn vốn này. Nếu sử dụng tốt đóng góp nhiều cho sự phát triển của đất nước thì các nhà tài trợ tin tưởng vào qúa trình phát triển của đất nước. Đó là động lực thúc đẩy họ tăng thêm vốn ODA.Tình hình giải ngân là biểu hiện bước đầu hiệu quả của nguồn vốn ODA. Tổng mức giải ngân đã tăng đều đặn từ mức 0,413 tỷ USD vào năm 1993 lên 0,725 tỷUSD vào năm 1994; hơn 0,73 tỷ USD, năm 1995; 0,9 tỷ USD năm 1996; 1 tỷ USD năm 1997; hơn 1,24 tỷ USD năm 1998 và 1,452 tỷ USD năm 1999. Mức giải ngân ODA bình quân một năm trong giai đoạn (1996- 2000) ước đạt 1,1 tỷ USD, như vậy mới đạt khoảng hơn 70% kế hoạch đề ra cho thời kỳ này (theo kế hoạch giai đoạn 1996-2000, cần thực hiện 7-8 tỷ USD vốn ODA). Bảng 2. Giải ngân nguồn vốn ODA thời kỳ 1993 -1999 (đơn vị tỷ USD) Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Giải ngân nguồn vốn ODA 0,413 0,725 0,737 0,900 1,000 1,242 1,452 6,47 Nguồn: Bộ Kế hoạch- Đầu tư - Kết quả phân tích các số liệu gần đây và các cuộc trao đổi với các nhà tài trợ hàng đầu trên thế giới (với 80% tổng số vốn giải ngân trong năm 1999), cho thấy giải ngân ODA trong năm 1999 đạt được mức cao hơn một chút so với năm 1998. Điều đó cho thấy có dấu hiệu chứng tỏ mức giải ngân ODA đã chững lại từ năm 1998, xu hướng giảm sút tốc độ giải ngân ODA so với các năm trước. Có thể đó là do khả năng tiếp nhận ODA đã gần tới hạn. Cơ cấu đầu tư trong những năm qua đã chuyển dịch theo hướng tăng nhanh các dự án đầu tư, mà chủ yếu là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Các dự án đầu tư chiếm 50% tổng số vốn giải ngân trong giai đoạn (1993-1998), nhưng riêng năm 1998, chỉ số đó đạt là 60%. Tỷ trọng của các hỗ trợ kĩ thuật trong tổng số giải ngân đã giảm đi, từ mức 37% năm 1993 xuống 30% năm 1998. Sự dịch chuyển này một mặt do Nhà nước ta có những ưu tiên đặc biệt cho phát triển lĩnh vực cơ sở hạ tầng, và các nhà tài trợ ngày càng tăng những kiểm soát đối với quá trình sử dụng nguồn vốn của họ như sử dụng như thế nào, đầu tư vào đâu, liệu có đảm bảo mang lại những lợi ích lớn cả về mặt kinh tế xã hội và kinh tế tài chính. Các nhà tài trợ xác định những lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn của họ mà lĩnh vực cơ sở hạ tầng là lĩnh vực được các nhà tài trợ lớn chú trọng đến. Tỷ trọng bình quân ODA không hoàn lại trong thời gian qua chiếm khoảng 15% tổng nguồn vốn ODA cam kết, trước đây phần này chiếm gần 25%. ở Việt Nam tỷ trọng này tương đối thấp so với một số nước đang tiếp nhận ODA khác. Phần lớn các nhà tài trợ đang hoạt động ở Việt Nam hiện nay cung cấp đồng thời cả ODA không hoàn lại và ODA vay vốn. Có nhận xét rằng, trong ODA vốn vay nhiều nhà tài trợ áp dụng các điều kiện có ràng buộc (phải mua thiết bị, vật tư và dịch vụ tư vấn của nước cung cấp ODA vốn vay). Trong quá trình giải ngân, tỷ trọng vốn vay trong tổng số ODA tiếp tục tăng, từ mức 10% tổng số giải ngân năm 1993 lên 65% năm 1998. Tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam dưới dạng ngoại tệ mạnh đã ở mức đáng kể đạt 50% GDP (nguồn: Bộ Kế hoạch-Đầu tư). Trong năm 1999, tăng các khoản vay nợ được giải ngân nhanh, Nhật Bản và Việt Nam đã kí kết ._.c nhận viện trợ trong các khâu chuẩn bị và thực hiện dự án. Mục tiêu dài hạn là Chính phủ Việt Nam sẽ thực hiện toàn bộ các hoạt động ví dụ như việc tiêu chuẩn hoá giữa các nhà tài trợ về các hiệp định tín dụng, các hướng dẫn và các văn kiện pháp lý liên quan khác trên nền tảng hoàn thiện hài hoà chính sách và thủ tục. 3. Điều chỉnh một số qui định, thể chế sao cho phù hợp với tình hình thực tế Quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA về khuôn khổ pháp lý, Chính phủ đã ban hành, bổ sung những văn bản pháp quy. Những Nghị định này đã được nghiên cứu công phu, chỉnh sửa và thay đổi nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra hiện nay.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, ngoài những ưu điểm của các nghị định này, còn có những tồn tại, bất cập mới xuất hiện cần được điều chỉnh, bổ sung. - Trong nghị định 87/CP có quy định 8 Bộ và cơ quan ngang Bộ tham gia quản lý Nhà nước nguồn vốn ODA (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Bộ Ngoại Giao, Bộ Thương Mại, Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường). Có ý kiến cho rằng, cần mở rộng hơn nữa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan nói trên. Tránh tình trạng nhiều đơn vị quản lý mà vẫn lỏng lẻo, chậm chạp. Cần có quy định rõ về nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan này. Để có thể quản lý và giám sát được các hoạt động của chúng. Tăng thêm nhiệm vụ và quyền hạn đối với các cơ quan tham gia quá trình quản lý thực hiện dự án. - Sự phân cấp phê duyệt dự án như hiện nay có còn phù hợp nữa hay không? Chính phủ phê duyệt dự án từ mức 500.000 USD trở lên đối với viện trợ không hoàn lại có nhỏ quá không? Nên nâng cao mức trên, và có thể phân cấp đối với mức trên cho các Bộ ngành dưới quyền được phê duyệt ở mức đó. - Trong Nghị định chỉ chú trọng nhiều về khâu đầu như kêu gọi, chuẩn bị dự án, thẩm định, trình duyệt...và coi nhẹ khâu kiểm tra theo dõi, đánh giá dự án. Cần phải tăng thêm những quy định mới để khâu kiểm tra theo dõi dự án, đánh giá dự án được coi trọng ngang bằng với các khâu đầu. - Để kiểm tra chặt chẽ hơn nữa chế độ báo cáo hiện nay của các chủ dự án, của cơ quan chủ quản thì cần quy định những cái gì? Có công cụ gì để chế tài? Xây dựng thời hạn năm tài chính, đề nghị cho kéo dài thời hạn đến tháng 5- 6 năm sau vì các công trình xây dựng cơ bản được thi công vào thời gian trong quý 4 năm trước và đến quý 2 năm sau. Thời gian này là mùa khô, thuận lợi nhất cho thi công. Từ xây dựng năm tài chính như vậy để xây dựng khoảng thời gian cần báo cáo thực hiện gần nhất, sát với tiến độ thực hiện. Quy định việc báo cáo đầy đủ và chính xác những nội dung cần thiết là nhiệm vụ và trách nhiệm cuả ban quản lý dự án. - Một số đơn vị sử dụng vốn ODA cho rằng các quy định của Viêt Nam và phía nước ngoài về trình tự, thủ tục xét duyệt dự án vẫn còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường tốn nhiều thời gian (1,5 năm đến 3 năm). Bên cạnh đó, việc cải cách thủ tục hành chính ở các cơ quan nhà nước chậm được đổi mới, thiếu triệt để nên ở mỗi bước đều bị chậm trễ, đặc biệt là bước thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. - Tiếp tục cải tiến về thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay, trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, tốn nhiều thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán chậm, điều này sẽ gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với một số dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khối lượng đã hoàn thành không giải ngân được, gây khó khăn cho các nhà thầu. Để đơn giản thủ tục thanh toán, cần giảm bớt các bước kiểm soát trung gian, tăng cường trách nhiệm của các ban quản lý dự án, thực hiện cơ chế kiểm soát trước tránh tính toán sai tỷ lệ, để quản lý thuận tiện trong khâu giải ngân. Hoàn thiện cơ chế cấp phát đầy đủ và rõ ràng. - Xem xét thêm về cơ chế cho vay lại (Quyết định số 02/2000/QĐ- BTC của Bộ Tài chính). Nếu lãi suất ưu đãi cho vay bằng ngoại tệ được tính bằng 2/3 lãi suất thương mại tham chiếu tại thời điểm ký hiệp định cộng với phí nước ngoài (nếu có) và phí dịch vụ cho vay lại thì sẽ rất khó khăn đối với các chủ dự án trong tình hình hiện nay. - Nguồn vốn để lập đề cương, xây dựng báo cáo tiền khả thi, khả thi cho các dự án ODA hiện nay hầu như không dược cấp. Nguồn kinh phí này có hay không tuỳ thuộc vào mức độ “linh hoạt” của các cơ quan chủ quản, các chủ dự án. - Quản lý dự án là một nghề có tính chuyên nghiệp cao, đòi hỏi cán bộ phải có phẩm chất và chuyên môn nhất định. Nhưng thực tế hiện nay không ít dự án, cán bộ làm công tác này có sự điều động thay đổi rất nhiều, thậm chí rất tuỳ tiện, điều này làm cho phía nước ngoài khó hiểu và bất bình. Về chính sách thuế đối với các dự án ODA, Nhà nước nên miễn thuế với các dự án ODA. Nhất là đối với các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được Ngân sách cấp phát thì việc đánh thuế chỉ làm phiền hà thêm, gây tốn kém thêm các chi phí liên quan đến việc thu, nộp thuế và kết quả là số tiền ban đầu từ túi Nhà nước đi một vòng trở lại túi Nhà nước bị giảm ddi một phần mà không hề mang lại hiệu quả gì. Trong Nghị định 22/1998/NĐ-CP, về công tác giải phóng mặt bằng đền bù còn có những tồn tại nhất định cả về chính sách và công tác tổ chức thực hiện, cần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện Nghị định này: Một là, làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998 phải quy định rõ tại thời điểm sử dụng đất đảm bảo không vi phạm quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ công trình, không lấn chiếm đất trái pháp luật; đồng thời quy định rõ thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất diễn ra qua các giai đoạn khác nhau: Cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp,... Hai là, quy định mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là một vấn đề hệ trọng và còn nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp, trong đó đáng lưu ý là có một số người cho rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, việc đền bù thế nào do nhà nước quy định. Nhà nước cần có các chính sách thống nhất về công tác đo đạc, tính diện tích đất đền bù tránh những thiệt hại cho cả hai bên Nhà nước và người dân. Nhà nước không nên lạm dụng quyền của mình mà làm bừa không hợp với lòng dân gây những bất bình phản kháng không đáng có. Ba là, về giá đất tính đền bù thiệt hại: Đề nghị bỏ hệ số K khi xác định giá đất tính đền bù thiệt hại phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương. Giá tính đền bù thiệt hại do UBND cấp tỉnh quyết định để đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên cần cho phép trường hợp giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ đã phù hợp với khả năng sinh lời hoặc giá chuyển nhượng thực tế, thì được lấy giá đất đó làm giá đất để tính đền bù thiệt hại để giảm thiểu công việc cho địa phương. Bốn là, đền bù thiệt hại về tài sản: Cần thống nhất với quy định của Nghị định 22/1998/NĐ-CP đền bù mặt bằng 100% giá xây dựng mới đối với nhà cấp IV vì nhà loại này chủ yếu là của các đối tượng nghèo cần được ưu tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đồng thời, phải quy định rõ việc đền bù theo mức đền bù thực tế cho nhà từ cấp III trở nên để đảm bảo phù hợp với những thiệt hại của ngươì có đất bị thu hồi. Năm là, đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm: - Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới. - Điều kiện bắt buộc về cơ sở hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống nhân dân. - Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại nơi tái định cư nhằm phát huy tính dân chủ ở cơ sở và ngăn chặt hiện tượng áp đặt từ phía nhà nước. - Nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện. Sáu là, về công tác thực hiện cần bổ sung một số nội dung cụ thể về Hội đồng thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong công tác thực hiện, cụ thể như sau: - Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh, thì lãnh đạo Sở chủ quản của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án trong việc lập và thực hiện phương án đền bù giải phóng mặt bằng. - Bổ sung quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của Hội đồng cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng như Chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện những người bị thu hồi đất. - Quy định cụ thể về nội dung thẩm định, cũng như trách nhiệm của Hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng. Với những nội dung cơ bản trên đây, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 22/1998/NĐ-CP sẽ có nhiều khả năng tháo gỡ được những vướng mắc mà thực tế đang đặt ra, đồng thời có thời gian kiểm nghiệm làm cơ sở để nghiên cứu xây dựng Pháp lệnh đền bù và tái định cư. 4. Tăng cường vai trò làm chủ của phía Việt Nam trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA Các nhà tài trợ thường nhấn mạnh vai trò làm chủ của các nước tiếp nhận viện trợ “so sánh như người cầm lái con thuyền phát triển”. Vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ được phát huy cũng chính là xác định một cách rõ rệt trách nhiệm chủ yếu của nước tiếp nhận viện trợ đối với quá trình phát triển và vai trò hỗ trợ của nhà tài trợ. Vai trò làm chủ của bên thụ hưởng viện trợ cần được đề cao ngay từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, tổ chức thực hiện, theo dõi và đánh giá kết quả thu được như: - Lập báo cáo tiền khả thi (Pre F/S), khả thi (F/S) cho các dự án ưu tiên phù hợp với chất lượng, quy hoạch, kế hoạch phát triển chung của ngành cơ sở báo cáo Chính phủ và làm việc với các nhà tài trợ. - Chủ động làm việc với các nhà tài trợ để điều phối nhằm có được chính sách dài hạn, chính sách ngắn hạn các dự án được nhà tài trợ quan tâm, từ đó xây dựng kế hoạch tổng thể sử dụng ODA cho giai đoạn ngắn hạn, trung hạn trình Chính phủ và các nhà tài trợ xem xét đầu tư. - Phải có báo cáo tiền khả thi được duyệt trước khi kí kết hiệp định. - Xin phép triển khai sớm một số thủ tục liên quan đến việc tuyển chọn tư vấn và sơ tuyển nhà thầu trong thời gian thực hiện thiết kế kỹ thuật (TKKT) để sau khi TKKT được duyệt có thể phát hành hồ sơ thầu mua sắm. - Trong việc triển khai chuẩn bị và thực hiện dự án đặc biệt quan tâm tới các vấn đề sau: + Tăng cường năng lực về quản lý và kỹ thuật cho các ban quản lý dự án và cơ quan tham mưu. + Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc về kỹ thuật, tiến độ, kế hoạch vốn. Tổ chức kiểm tra tình hình thi công ở hiện trường, làm việc trực tiếp với các ban quản lý dự án, tổ chức giao ban ODA hàng tháng, sơ kết quý, 6 tháng hàng năm và từng giai đoạn. + Thực hiện chế độ thưởng phạt, quy định trách nhiệm đối với từng cá nhân đơn vị. Cải thiện và chia sẻ thông tin là cơ sở quan trọng làm cho quan hệ đối tác trở nên hiện thực. Việc tăng cường thông tin hai chiều đầy đủ, kịp thời bằng nhiều hình thức để làm cơ sở cho việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình hành động của các dự án phù hợp và thiết thực, có sự linh hoạt và các giải pháp tình thế của cả hai phía để dự án đạt hiệu quả tối đa. Trong năm 1999 đã có một loạt các hoạt động nhằm tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt nam và các nhà tài trợ, cũng như giữa các nhà tài trợ đã được thực hiện. Một trong những hoạt đó là cùng phân tích và đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể, như Chính phủ và một số nhà tài trợ cùng phân tích và đánh giá tình hình đói nghèo ở Việt Nam. Trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác, trao đổi với nhau thông qua các cuộc hội thảo, hay qua mạng Internet, hoặc qua các văn bản, nên trực tiếp gặp gỡ nhau thường xuyên. 5. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực để tiếp nhận và sử dụng vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng trong giao thông vận tải Nguồn lực ODA chỉ có thể phát huy được hiệu quả xúc tác trong quá trình phát triển nếu có được sự kết hợp chặt chẽ với nguồn lực trong nước. Vì vậy, cần bố trí vốn đối ứng, cán bộ quản lý thực hiện dự án ngay từ giai đoạn chuẩn bị chương trình ODA. Để nâng cao chất lượng hiệu quả sử dụng ODA, vai trò cán bộ có ý nghĩa quan trọng, vì vậy cần phải có chiến lược đào tạo cán bộ Ngành giao thông vận tải quản lý việc thực hiện dự án ODA có hiệu quả. Đặc biệt, tập trung vào kỹ năng xây dựng, đánh giá dự án, nâng cấp hệ thống thông tin quản lý dự án ODA, nâng cao trình độ ngoại ngữ trong giao tiếp... Theo nhận định của Chính phủ thì trở ngại mới của việc sử vốn ODA kém hiệu quả là đội ngũ cán bộ tham gia quản lý, điều phối ODA ở các cấp thiếu về số lượng và chất lượng. Đào tạo cán bộ quản lý đủ năng lực tiếp nhận và quản lý vốn ODA cũng là phát huy tính chủ động trong tiếp nhận và sử dụng vốn ODA. Chính vì vậy, việc tổ chức công tác đào tạo phát triển nguồn cán bộ quản lý trong Ngành giao thông vận tải là công việc quan trọng và cấp thiết. Để đáp ứng được yêu cầu sử dụng có hiệu quả vốn ODA, công tác đào tạo cán bộ quản lý có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì vậy, trong đào tạo thường xuyên nên có thêm môn học về cách thức thu hút, quản lý, sử dụng vốn ODA. Mặt khác, phải đẩy mạnh công tác đào tạo lại, nhằm trang bị bổ xung kiến thức mới về quản lý, sử dụng vốn ODA mà trước đây họ chưa được học . Mở các lớp bồi dưỡng luật pháp, chế độ vay mượn, thanh toán quốc tế, ngoại ngữ, tin học...có thi cử kiểm tra chặt chẽ. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tiêu chuẩn chức danh. Tiến hành thi tuyển chọn, bố trí, sàng lọc, thay thế chặt chẽ thường xuyên. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi, chuyên gia đầu đàn trong ngành. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo bằng cách cử cán bộ đi đào tạo, tham quan ở nước ngoài. Mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, hướng dẫn, chuyển giao kỹ thuật công nghệ, tổ chức hội thảo báo cáo chuyên đề. Mở nhiều lớp về quản lý dự án ODA, khuyến khích các hình thức đào tạo tự túc giữa cá nhân và nhà nước về kinh phí để đào tạo ngắn hạn, dài hạn, tạo điều kiện cho các cá nhân và tập thể có nguyện vọng, khả năng đi học càng nhiều càng tốt. Tham mưu xây dựng các dự án ODA cho công tác đào tạo cán bộ ngành giao thông vận tải cũng là việc rất thiết thực. 6.Tăng cường vốn đối ứng Nhà nước cần tăng cường công tác kế hoạch hoá nguồn vốn đối ứng trong nước. Phối hợp chặt chẽ kế hoạch giữa nguồn vốn trong nước với nguồn vốn ODA, đặc biệt là chuẩn bị vốn đối ứng cũng như quy chế tín dụng cho các dự án ODA, vì điều này làm trở ngại cho việc tiếp nhận ODA nói chung và cũng là khó khăn để xem xét tính khả thi của dự án trong khâu thẩm định dự án. Chính phủ nên dần chuyển hầu hết các dự án ODA vốn vay sang hình thức cho vay lại với điều kiện đáp ứng yêu cầu của bên tài trợ cũng như đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Việc sử dụng ODA phải có cơ chế tài chính trong nước rõ ràng và được công bố trước để các đơn vị hưởng vốn ODA có điều kiện thanh toán, cân nhắc thực hiện dự án ODA. Việt Nam cần nhanh chóng ban hành quy chế quản lý về vay và trả nợ nước ngoài. Đây là một cam kết của Chính phủ đối với việc sử dụng có hiệu quả vốn vay nước ngoài và cam kết trả nợ đúng hạn. Trước mắt, để cung cấp kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA đang được triển khai và dự án được cam kết, Chính phủ cần tập trung vào những công trình trọng điểm quốc gia để những công trình này được nhanh chóng đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Chính quyền địa phương cần làm công tác tư tưởng cho dân, để người ta hiểu được vai trò, vị thế quan trọng của hệ thống giao thông vận tải để từ đó người dân có thể giúp công, giúp của phát triển hệ thống giao thông vận tải đó. Để giải quyết nguồn vốn đối ứng, xin kiến nghị Chính phủ quan tâm cung cấp đủ vốn đối ứng với các dự án nhóm A. Về phía địa phương cần triển khai các biện pháp sản xuất tăng thu Ngân sách, đẩy mạnh xã hội hoá, thành lập quỹ phát triển và có kế hoạch chi tiết hàng năm về cấp và quản lý tốt nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA đã được phân cấp quản lý trực tiếp. Một số dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải (nhất là giao thông nông thôn) được phân cấp quản lý tài chính cấp tỉnh, tạo ra những hạn chế trong việc giải ngân vốn vay vì nhân lực quản lý còn hạn chế, Bộ Tài chính thiếu các văn bản rõ ràng về công tác tài chính đối với các dự án có vốn ODA. Do đó gây ra hiện tượng làm bừa, hay chậm trễ trong xử lý vì còn phải chờ xin ý kiến. Bộ Tài chính cần xem xét các qui định về hướng dẫn giải ngân hiện hành, thành lập định mức chi tiêu hành chính và các bộ ngành nên thiết lập các định mức kỹ thuật phản ánh giá thực tế áp dụng cho các dự án ODA. Các giám đốc dự án phải nắm được các quy định đó, tiếp nhận để thực hiện. Với việc phân cấp quản lý tài chính cấp tỉnh, thì việc tăng vốn đúng từ ngân sách tỉnh là việc cần phải làm, tránh trông chờ ỷ lại vào Trung ương. 7. Hoàn thiện công tác quản lý dự án Trước đây chúng ta chỉ chú trọng đến việc tìm kiếm, ký kết các hiệp định về vốn ODA. Còn vấn đề quản lý quá trình sử dụng nguồn vốn này thì ít được chú ý đến, do đó chất lượng của công trình bị hạn chế. Để khắc phục tình trạng đó cần phải tăng cường quản lý dự án bằng cách: - Tổ chức hệ thống thông tin phục vụ theo dõi và đánh giá dự án. Các dự án về giao thông vận tải là các dự án lớn cả về quy mô thực hiện lẫn vốn đầu tư, nó được chia ra làm nhiều tiểu dự án được thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau. Dự án Ngành cơ sở hệ thống giao thông nông thôn là một trong những dự án vốn vay đầu tiên thực hiện chủ chương của Nhà nước về phân cấp quản lý. Chủ dự án là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chủ dự án nhỏ là UBND các tỉnh tham gia. - Để khai thác thực hiện có hiệu quả các dự án trong ngành giao thông vận tải thì một trong những vấn đề quan trọng là tổ chức quản lý thông tin về các dự án. - Đối với Ngành giao thông vận tải, cần xây dựng một hệ thống quản lý thông tin báo cáo thống nhất cho các dự án, vi tính hoá và nối mạng hệ thống thông tin này. Kết quả đầu ra của hệ thống này phải đảm bảo được yêu cầu của các cơ quan Chính phủ và yêu cầu quản lý ngành. - Các chỉ tiêu báo cáo cần nghiên cứu để phản ánh đầy đủ hơn toàn bộ tình hình thực hiện dự án, các chỉ tiêu, thuật ngữ đưa ra cần phải đơn giản và dễ hiểu, tăng thời hạn lập báo cáo để cơ quan cấp trên có thể nắm vững toàn bộ các thông tin từ đó có những quy định, hay hướng dẫn thực hiện một cách chính xác, kịp thời. - Các cán bộ theo dõi, làm báo cáo phải được tập huấn về mẫu báo cáo và phương pháp lập, và làm chuyên trách tránh trường hợp kiêm nhiệm dẫn đến tình trạng báo cáo không thể hiện được tính chất liên tục, báo cáo của các dự án khác nhau, khó khăn trong quá trình tổng hợp chung cho toàn ngành. - Cụ thể hơn tránh nhiệm của các đơn vị quản lý nhận báo cáo của các đơn vị thực hiện. Phân cấp quản lý để giảm bớt đầu mối nhận báo cáo. Và cần có các biện pháp xử lý kỷ luật chặt chẽ hơn để các chủ dự án có trách nhiệm hình thành báo cáo như chế tài... - Quản lý hợp đồng và chất lượng chương trình. - Do thiếu việc làm, các nhà thầu Việt Nam cạnh tranh cực kỳ gay gắt để trúng thầu, giành công trình. Có những nhà thầu bỏ giá thầu rất thấp, thậm chí chỉ đạt 70% giá ước tính dẫn đến nguy cơ nhà thầu giảm tiến độ và chất lượng của công trình. - Để có thể giải quyết dứt điểm vấn đề này, cần phải tổ chức các diễn đàn qua đó các bên có liên quan cùng tham gia thảo luận, phân tích, đưa ra những ý kiến tham mưu xác đáng tới các nhà lãnh đạo, các cơ quan quản lý cao nhất. Để từ đó, Nhà nước phải đưa ra những chủ chương, chính sách cụ thể cho vấn đề này, để tăng cường khâu thiết kế tính toán trước giá trị chính xác của công trình, quản lý chặt tránh tình trạng không minh bạch trong việc đấu thầu. Chỉ có như vậy mới ngăn chặt được nhà thầu “liều mạng”, giảm tham nhũng, không minh bạch trong việc xét thầu của nhà thầu. Từ đó giúp ban quản lý dự án mới có cơ sở đánh giá, lựa chọn được nhà thầu xứng đáng trúng thầu. - Nâng cao chất lượng khảo sát thiết kế bằng cách bổ sung kinh phí để làm kiểm soát thiết kế chi tiết khi triển khai thi công. Làm như vậy mới giảm bớt các sai sót của bước thiết kế sơ bộ, lập nghiên cứu khả thi, mặt khác sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công của nhà thầu do khi nhà thầu vào thi công không mất nhiều công sức kiểm soát thiết kế chi tiết lại. - Trong quá trình thiết kế, xây dựng và lắp đặt phải kết hợp chặt chẽ với tư vấn tăng cường giám sát, kiên quyết yêu cầu nhà thầu phải thực hiện nghiêm túc các quy định trong hồ sơ mời thầu. -Trong quá trình thực hiện các hợp đồng, khi có khối lượng thì thủ tục trình duyệt các “lệnh thay đổi” về phía nhà nước Việt Nam trong quá trình thực hiện rườm rà, quá nhiều khâu, nhiều cấp tốn rất nhiều thời gian. Đối với các dự án thuộc ngành giao thông vận tải, công tác khảo sát thiết kế không được chi tiết như các dự án khác, mặt khác các dự án khôi phục, cải tạo đường khó xác định được đầy đủ khối lượng khi khảo sát thiết kế (thời gian từ khi khảo sát thiết kế đến khi triển khai thi công kéo dài trong khi các đường này vẫn tiếp tục được khai thác sử dụng). Do vậy, việc phát sinh các khối lượng bổ sung trong thi công là không thể tránh khỏi mà chỉ có thể hạn chế những phát sinh bất hợp lý. Để có thể giải quyết được vấn đề này, Nhà nước cần xem xét để có cơ chế phân cấp quản lý cho hợp lý hơn, giảm bớt các thủ tục, các khâu xét duyệt không cần thiết. - Công tác quản lý chất lượng phải đặc biệt chú trọng và xác định rõ “nguồn gốc thiết bị” ngay từ khi thương thảo hợp đồng, nêu rõ chi tiết các thông số kỹ thuật, các yêu cầu về các thử nghiệm khi xuất xưởng. khi thiết bị về công trình phải kiểm tra ngay xem nguồn gốc thiết bị có phù hợp với hợp đồng, tránh tình trạng thiết bị gửi về không đúng với yêu cầu. Yếu tố chính đảm bảo chất lượng công trình là đội ngũ tư vấn giám sát thi công. Đối với các dự án có yêu cầu phức tạp, thì khi đấu thầu chọn tư vấn phải đặc biệt chú ý đến kinh nghiệm của đội ngũ tư vấn, không nên quá thiên về giá, phải tận dụng tối đa “chất xám” của tư vấn trong quá trình đấu thầu, thương thảo và thực hiện hợp đồng về quan hệ giữa chủ đầu tư (Ban quản lý dự án là đại diện) với tư vấn cần quyết định rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của tư vấn để tránh tình trạng có việc tư vấn không làm hết trách nhiệm, có việc tư vấn lại làm việc quá trách nhiệm, quyền hạn của mình. Công tác giải phóng mặt bằng là khó khăn nhất đối với quy trình thực hiện dự án bởi vì nó đụng trạm đến nhiều quyền lợi trực tiếp của người dân. Nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả giữa chủ dự án với các chính quyền từ cấp tỉnh, huyện, xã và với nhiều ngành từ Trung ương đến các địa phương, trong khi đó việc phối hợp này thường khó khăn, dẫn đến thời gian thực hiện giải phóng mặt bằng bị kéo dài, thậm chí có trường hợp kéo dài từ khi thi công đến kết thúc dự án thí dụ: dự án quốc lộ 18, vốn Hàn Quốc; quốc lộ 5, vốn OECF; cầu Tân Thuận, dự án quốc lộ I giai đoạn 2, dự án WB 2, quốc lộ I ... Cần nghiên cứu thành lập ban quản lý dự án và cơ quan đàm phán trong việc thành lập và quản lý kế hoach thực hiện công tác giải phóng mạt bằng, và tái đầu tư tăng cường hiệu quả, đảm bảo tiến độ thi công. Nhưng hiện nay, để giảm bớt chi phí tư vấn giám sát các dự án thường phải giảm bớt số tư vấn nước ngoài, tăng cường sử dụng tư vấn trong nước. Nhưng nhân lực hiện tại của đội ngũ tư vấn giám sát trong nước còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các dự án lớn và khó khăn trong giao tiếp với tư vấn nước ngoài cũng là một cản trở lớn. Vì vậy, cần tăng cường tổ chức đào tạo nâng cao giám sát viên trong nước cả về nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ. Một trong những cách nâng cao trình độ quản lý là tổ chức quản lý thông tin về các dự án tốt là: - Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng và đưa vào phần mềm quản lý dự án, tiến hành nối mạng giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Bộ Ngành liên quan và các Địa phương nhằm nâng cao chất lượng thông tin và giảm thời gian thu thập xử lý thông tin. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp cho địa phương có được thông tin về các dự án ODA mà các bộ ngành tiếp nhận và thực hiện trên phạm vi địa phương - Cần định ra quy chế phối hợp giữa các địa phương và các Bộ, Ngành nhằm khai thác tối đa lợi ích của các nguồn tài trợ. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên tập hợp và hệ thống hoá các chính sách, quy định và thủ tục cụ thể của từng nhà tài trợ để cung cấp cho các Bộ, Ngành, các Địa phương, các Ban quản lý dự án. Tài liệu này như là sách cẩm nang giúp cho các cơ quan thực hiện thuận lợi trong quá trình tiếp nhận và thực thi dự án. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên tổ chức định kỳ các cuộc hợp giữa các nhà tài trợ với các bộ, ngành và các ban quản lý dự án nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ tháo gỡ các vướng mắc và thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về thể chế, về quản lý dự án để nâng cao nhân lực, đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ thực hiện dự án. Việt Nam đã nhận được viện trợ của rất nhiều nước và các tổ chức quốc tế trên thế giới từ năm 1993 cho đến nay. Đó là một khoảng thời gian kéo đủ dài để chúng ta có thể tích luỹ những kinh nghiệm cho mình. Trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA sao cho hiệu quả trong tất cả các ngành, đặc biệt là Ngành giao thông vận tải. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều khó khăn, cản trở làm giảm hiệu quả trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn này, đặc biệt là trong Ngành giao thông vận tải ngành có số vốn ODA tập trung cao, với một số giải pháp trên mong rằng có thể giảm bớt phần nào những khó khăn, cản trở mà chúng ta gặp phải. Kết luận Đảng và Nhà Nước ta luôn có chủ chương huy động mọi nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là trong những nguồn lực bên ngoài, nếu được kết phối với các nguồn lực khác một cách hợp lý sẽ mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội. ODA được xem như là một động lực tạo điều kiện cất cánh cho nền kinh tế phát triển. Nhận thức rằng, ODA là một trong những nguồn lực có ý nghĩa quan trọng, Chính phủ luôn quan tâm đến công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Ngay từ Hội nghị đầu tiên các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (tháng 11/1993) Chính phủ đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng vốn ODA: “Điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu quả”. Chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài, với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này sử dụng không có hiệu quả. Đó là tư tưởng chỉ đạo cho hoạt động ODA của nước ta trong những năm tới đây. Nó thực sự sẽ là một bước quan trọng trong công cuộc cải cách của qúa trình thu hút và sử dụng ODA nói chung và trong ngành giao thông vận tải nói riêng. Trong luận văn, tôi đã trình bày một cách khái quát chung về ODA như cách hiểu về ODA, các nhà tài trợ trên thế giới, các hình thức tài trợ, đặc điểm của ODA, vai trò của vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế xã hội, các quy định pháp lý chung nhất của Nhà nước Việt Nam trong quá trình quản lý và sử dụng ODA. Từ những vấn đề lý luận chung đó đi sâu nghiên cứu quá trình thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam, đặc biệt là trong Ngành giao thông vận tải để từ đó làm rõ vai trò của ODA đối với sự phát triển kinh tế xã hội, phát triển cơ sở giao thông vận tải tại Việt Nam, đưa ra những nhận định bước đầu về những thành tựu đã đạt được, những tồn tại mà chúng ta vẫn gặp phải cần tháo gỡ. Qua đó đưa ra phương hướng và một số biện pháp chủ yếu nhằm phát huy những cái làm được, hạn chế bớt những khó khăn vướng mắc để sử dụng vốn ODA phát triển cơ sở hạ tầng ngành giao thông vận tải ngày càng mang lại hiệu quả. Trong luận văn này, tôi đã sử dụng những kiến thức đã được nghiên cứu văn bản pháp quy của Nhà nước về ODA làm cơ sở lý luận, cùng với các tài liệu, báo cáo tổng kết hoạt động ODA cho Ngành giao thông vận tải của Chính phủ thông qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với các cơ quan chức năng khác để phân tích đánh giá tình hình thực hiện thực tiễn. Mong rằng, những vấn đề đặt ra trong luận văn sẽ góp được phần nào vào sự thúc đẩy hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành giao thông vận tải ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1. Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế-xã hội đến năm 2000 bằng nguồn vốn ODA-Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Hà nội 11-1996. 2. Nghị định của Chính Phủ ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, Hà Nội 8- 1997. 3. Báo cáo của Chính Phủ tại hội nghị nhóm tư vấn tháng 11- 1999. Tạp chí giao thông vận tải số 7-1996, số 9-1998. Tạp chí kinh tế và dự báo Hà Nội số 2-2000, số 11-2000. 6. Tạp chí kinh tế đầu tư số 7-1997, số 01-1998, số 12-1999, số 1-2000, số 3-2000. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3-1996 và số 1-1997. Tạp chí thời báo kinh tế số chuyên san năm 1999, 2000. 9. Thông tin kinh tế xã hội-Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 4-1998, số 1+2-2000. 10. Tiếp nhận và quản lý sử dụng viện trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam-Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 1998. 11. Báo cáo tình hình triển khai các dự án ODA trong ngành giao thông vận tải năm 1999 và kế hoạch 2000, Bộ giao thông vận tải. 12. Tài liệu hội thảo về chương trình đầu tư công cộng-Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 3/1998. 13. Tài liệu tập huấn cho cán cán bộ về ODA, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0007.doc
Tài liệu liên quan