Một số chính sách & biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu ở Việt Nam

Lời nói đầu Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát triển có thể nắm bắt, vươn tới nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đang đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực.

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số chính sách & biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là từ khi tiến hành đổi mới kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội Đảng VIII đã nhấn mạnh: “...Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực ...” Tuy nhiên, chúng ta tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới nghĩa là chúng ta phải chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh. Đây vừa là thời cơ mà ta có thể tận dụng để phát triển đất nước đồng thời cũng là thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước xung quanh và trên thế giới. Hơn bao giờ hết xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các chính sách và các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Do vậy, xây dựng được các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như thế nào để ta có thể tận dụng được những thuận lợi vượt qua những khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, đưa kinh tế đất nước phát triển bền vững đang là một vấn đề được Nhà nước ta đưa nên hàng đầu. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, sau một thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Thương mại và Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và đầu tư, em xin viết đề tài: “Một số chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung đề tài bao gồm : Chương I : Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Chương II : Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam Chương III : Một số biện pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam. Chương I Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu i. hương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 1- Các lý luận chung về thương mại quốc tế. 1.1 ý nghĩa của thương mại quốc tế . Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của mỗi quốc gia . Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ cách biệt với thế giới xung quanh.Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội.Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất những mặt hàng cụ thể và xuất khẩu những hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được một số việc buôn bán giữa các nước, buôn bán các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ, du lịch... Song như chúng ta được biết phần lớn số lượng thương mại quốc tế thuộc những mặt hàng không xuất phát từ những điều kiện vốn có của sản xuất như: Mỹ đã sản xuất được ô tô sao lại nhập ô tô của Nhật, cộng hoà liên bang Đức, Nam Triều Tiên... Để có thể giải thích những lí do này người ta đã xây dựng nhiều lý thuyết nhằm giải thích tại sao các quốc gia lại trao đổi với nhau. 1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế 1.2.1 Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối. Lý thuyết về thương mại cổ điển xuất hiện vào thế kỷ XVIII cùng với thời kỳ nổ ra ba cuộc cách mạng: Cách mạng công nghiệp, cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thời kỳ này. Năm 1776, trong tác phẩm “ sự giàu có của các dân tộc ” Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải và quan niệm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng nào. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Việc sử dụng chính khái niệm lợi thế tuyệt đối này là cách giải thích đơn giản nhất về cách ứng xử trong buôn bán. Rõ ràng việc tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiệt từ thương mại thì họ từ chối ngay. Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá X và quốc gia thứ hai có lợi trong sản xuất hàng hoá Y so với quốc gia thứ nhất. Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó trao đổi thì cả hai quốc gia đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách hiệu quả nhất, do đó tổng sản phẩm của thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của toàn thế giới là nhờ vào sự chuyên môn hoá và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoại thương. Như vậy, trong khi những người theo chủ nghĩa trọng thương cho rằng trong thương mại quốc tế chỉ có một số quốc gia có lợi còn một số khác bị thiệt, thì Adam Smith tin tưởng rằng tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho chính sách tự do kinh doanh. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa. Tuy nhiên ở đây có một số trường hợp đặc biệt phải loại trừ ra như khi cần bảo vệ một số ngành công nghiệp non trẻ. Thực chất về lợi thế tuyệt đối có thể minh hoạ qua ví dụ sau: Giả sử một giờ công ở Việt Nam sản xuất được 6kg gạo hoặc 4kg thịt bò, trong khi ở Đài Loan được 1kg gạo hoặc 5kg thịt bò. Hàng hoá Việt Nam Đài Loan Gạo (1kg/1giờ công) 6 1 Thịt bò (1kg/1giờ công) 4 5 Như vậy Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất gạo so với Đài Loan còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong việc sản xuất thịt bò. Việt Nam sẽ chuyên môn hoá trong việc trồng lúa còn Đài Loan sẽ chuyên môn hoá trong việc nuôi bò và sau đó hai nước trao đổi một phần các sản phẩm nói trên cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế của Việt Nam đổi 6 kg thịt bò của Đài Loan thì Việt Nam sẽ lãi được 2 kg thịt bò hay tiết kiệm 1/2 giờ công lao động, vì mỗi ngày công lao động ở Việt Nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò và tỷ lệ trao đổi nội địa là 6kg gạo = 4kg thịt bò. Tương tự, 6 kg gạo mà Đài Loan nhận từ Việt Nam tương đương với 6 giờ công ở Đài Loan và có thể tạo được 30kg thịt bò ở Đài Loan. Bằng việc trao đổi 6 kg thịt bò lấy 6 kg gạo thì Đài Loan vẫn lợi được 24 kg thịt bò hoặc tiết kiệm gần 5 giờ công lao động . ở đây ta thấy Đài Loan có lợi nhiều hơn so với Việt Nam và nếu tỷ lệ trao đổi thay đổi thì lợi ích đó sẽ được bình quân hoá. Điều đáng chú ý là cả hai quốc gia đều có lợi. Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ ở khoảng giữa các tỷ lệ trao đổi nội địa. 6/4 > tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/thịt ) > 1/5 Lợi thế tuyệt đối, tuy nhiên chỉ giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế hiện nay, đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Phần lớn thương mại thế giới, đặc biệt là giữa các nước phát triển không thể giải thích được bằng lợi thế tuyệt đối. Trong những cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp của lợi thế so sánh (lợi thế tuyệt đối ). 1.2.2 Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo. Lợi thế so sánh - quy luật cơ bản của thương mại quốc tế. Quy luật về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối ) là một trong những ý tưởng vĩ đại của kinh tế học cổ điển Anh do David Ricardo đề xướng. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất ( đó là các hàng hoá có lợi thế tương đối ) Mô hình đơn giản của D. Ricardo dựa trên 5 giả thuyết sau: - Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng. - Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi quốc gia, nhưng không di chuyển giữa các nước. - Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định. - Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải. - Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước. Ví dụ sau đây biểu thị mô hình giản đơn của D.Ricardo. Lợi thế so sánh (lợi thế tương đối ) Đài Loan Việt nam Giá cả của 1kg thép 1USD 2USD Giá cả của 1kg vải 1.5 USD 1USD Ví dụ trên cho thấy: Đài loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Đài loan chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải, còn Đài loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép.Theo quy luật lợi thế tuyệt đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Đài loan chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau. Những lợi thế do thương mại đem lại : Từ ví dụ trên ta thấy: nếu tiến hành trao đổi 6kg thép láy 4m vải thì sẽ chẳng có gì thay đổi đối với Đài loan, bởi vì ngay trong thị trường nội địa Đài loan đã trao đổi theo tỷ lệ này.Tương tự, nếu trao đổi theo tỷ lệ 1kg thép lấy 2m vải thì Việt Nam sẽ từ chối trao đổi vì ngay trong thị trường nội địa Việt nam cũng đã trao đổi theo tỷ lệ này. Do đó tỷ lệ trao đổi quốc tế phải ở khoảng giữa, tức là : 6/4 > tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/ vải) > 1/2 Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế là 1/1 tức là 6kg thép đổi 6m vải thì Đài loan sẽ có lợi 2m vải, tức là tiết kiệm được 2 giờ công. Còn Việt nam nhận được 6kg thép từ Đài loan mà bình thường đáng lẽ phải bỏ ra 6 giờ công mới sản xuất được. Việt nam sẽ sử dụng 6 giờ công đó để chuyên môn hoá sản xuất vải và tạo ra được 12m vải và chi phí phải dùng là 6m vải để đổi lấy 6kg thép, như vậy còn lợi ra 6m vải hay tiết kiệm được 3 giờ công. Nếu trao đổi theo tỷ lệ của Việt nam thì 6kg thép sẽ đổi lấy 12m vải, còn theo tỷ lệ của Đài loan thì sẽ đổi 6kg thép lấy 4m vải. Nếu tỷ lệ trao đổi gần tỷ lệ trao đổi nội địa Đài loan thì Việt nam càng có lợi và ngược lại, nếu gần tỷ lệ Việt nam thì Đài loan càng có lợi. Tóm lại, khi tiến hành trao đổi theo tỷ lệ ở khoảng giữa thì cả hai quốc gia đều có lợi. Khoảng dao động của tỷ lệ trao đổi quốc tế là: 4m vải < 6kg thép < 12m vải Trong trường hợp 6 kg thép đổi 6m vải thì Đài loan được lợi 2m vải còn Việt nam được lợi 6m vải. Còn nếu trao đổi 6kg thép lấy 8m vải thì Đài loan được lợi 4m vải còn Việt nam cũng được lợi 4m vải. Như vậy khi tỷ lệ trao đổi quốc tế thay đổi sẽ dẫn đến sự phân phối lại nguồn lực từ thương mại giữa các nước tham gia. 1.2.3 cách tiếp cận của Haberler về lợi thế tương đối ( hay lợi thế tương đối xét từ góc độ chi phí cơ hội). D.Ricardo khi nghiên cứu quy luật về lợi thế tương đối đã dựa trên hàng loạt các giả thuyết đơn giản hoá của lý thuyết giá trị lao động để chứng minh quy luật trên. Song trên thực tế lao động không phải là đồng nhất, những ngành sản xuất khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau với mức lương, năng suất lao động và trình độ tay nghề khác nhau. Hơn nữa, hàng hoá làm ra không chỉ bởi lao động mà cả yếu tố sản xuất khác như đất đai, vốn, khoa học- kỹ thuật. Việc so sánh hàm lượng lao động của những mặt hàng khác nhau sẽ đưa ra nhận định sai lệch về giá trị tương đối, bởi vì việc sản xuất những mặt hàng đó đòi hỏi tỷ trọng khác nhau về các yếu tố sản xuất. Do đó lý thuyết trên không nhận được sự tán đồng hoàn toàn của các nhà kinh tế học. Mãi đến năm 1936 Gorttied Haberler mới đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để chứng minh cho quy luật lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ) một cách rõ ràng. Theo lý thuyết Haberler thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản xuất một loại hàng hoá nào đó thì họ có lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ) trong việc sản xuất hàng hoá đó và không có lợi thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá thứ hai. Ví dụ: khi không có thương mại quốc tế thì Đài loan phải bỏ đi 2/3 số đơn vị của cải để dành lại đủ các nguồn tài nguyên cho việc sản xuất thêm một đơn vị thép. Như thế chi phí cơ hội về thép ở Đài loan là 1 thép = 2 vải. Như vậy, Đài loan có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế tương đối Đài loan sẽ chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải. 2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, không chỉ do nó cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia mà nó còn giúp quốc gia đó phát triển. Bên cạnh đó có nhiều lý do khác khiến thương mại quốc tế trở nên vô cùng quan trọng. Thương mại quốc tế cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước khác nhau. Sự khác nhau về sở thích hay mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có thể buôn bán. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do khác nhau về sở thích. Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới phá vỡ tính chất đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước. Chế độ tư bản chủ nghĩa gắn chặt thị trường dân tộc với thị trường thế giới, gắn chặt phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. Ngoại thương trở nên không thể thiếu được với phương thức sản xuất đó, như Lê-Nin đã nhận xét: “ không có thị trường bên ngoài thì một số nước tư bản không thể sống được ”. Thực tế chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển nhanh và có hiệu quả kinh tế cao được. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại đã đạt được. Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: “ chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt thể chế chính trị, xã hội trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình ”. Cho đến nay dù thành tựu đã đạt được xong chưa có thể giúp chúng ta thoát khỏi vị trí là một trong những nước nghèo trên thế giới nhưng cũng có những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng, với những hướng đi đúng dắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới. II. Vị trí, vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia. 1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập khẩu sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau. Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển. Đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao như nước ta thì những nhân tố thuộc về tiềm năng như lao động và tài nguyên thiên nhiên là rất lớn trong khi các nhân tố như vốn, kỹ thuật - công nghệ, và kinh nghiệm quản lý còn thiếu. Vì vậy, chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giải pháp “mở cửa ” nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, Việt nam cũng phải ra sức phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu những công nghệ mới tiên tiến nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế đã đặt ra. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu không những được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại mà nó còn là một phương tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các Chính phủ ở các quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế của mình đều coi hoạt động xuất khẩu là một hoạt động trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế ta thấy, bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào muốn thu hút được kết quả cao đều phải biết khai thác và phát huy triệt để những lợi thế sẵn có ở bên trong cũng như bên ngoài một cách đúng đắn và hợp lý. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam cần phải tận dụng các nguồn tiềm năng để mang lại hiệu quả ngày càng cao. Chúng tá có những điều kiện thuận lợi: nước ta là một nước Đông nam á nằm ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương - khu vực được coi là phát triển “năng động”, có tầm chiến lược ngày càng quan trọng trên bản đồ chính trị và kinh tế thế giới. Vị trí của Việt nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước SNG, Trung Quốc, Nhật bản, Nam Triều Tiên sang các nước Nam á, Trung Đông, và Châu phi. Với một vị trí thuận lợi như vậy tạo điều kiện cho Việt nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trong sự hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong khu vực, và các nước trên thế giới một cách dễ dàng. Mặt khác, nó cũng góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Không những thế, Việt nam còn có biển chạy dọc theo chiều dài đất nước, nhất là từ Phan Thiết trở vào còn có cảng nước sâu, khí hậu tốt, không có sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Điều này rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các nước. Mặt khác, về vận tải hàng không, tuy chúng ta chưa có nhiều sân bay nhưng chúng ta có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng như Băng cốc (Tháilan), Giacacta (Indonexia), Mamila (Philipin). Thông qua đó cho phép chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng là một trong những nguồn tiềm năng góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Có thể kể đến là: + Đất đai : diện tích đất nông nghiệp nước ta tuy không lớn (bình quân đất sử dụng trên đầu người thấp 0.11 ha/người) nhưng mầu mỡ có thể sử dụng nhiều lần trong một năm. Hơn nữa, Việt nam nằm trong vùng khí hậu ẩm nhiệt đới thích hợp nhiều loại cây trồng có hiệu quả cao như cà phê, hạt điều, cao su, đậu, gạo, lạc, và các loại cây ăn quả khác. + Rừng : có khoảng 15-16 triệu ha đất lâm nghiệp nhưng chỉ còn 7,8 triệu ha có rừng che phủ. Trong đó có nhiều loại gỗ quý như lim, sếu, táu... + Biển, thuỷ sản: Việt nam có hơn 300 km bờ biển với trữ lượng thuỷ hải sản thuộc phạm vi hàng hải cho phép đánh bắt mỗi năm khoảng 4,3 - 4,5 triệu tấn cá, 5-6 vạn tấn tôm. Vùng ven biển có khả năng phát triển mạnh sản xuất cá tôm, thuỷ hải sản. + Khoáng sản : Theo các tài liệu cho biết, nước ta có nhiều khoáng sản với trữ lượng không nhỏ, trong đó đáng chú ý là: Than: chủ yếu tập trung ở Quảng Ninh có trữ lượng khoảng 3,59 tỷ tấn, vùng Thái nguyên có trữ lượng thăm dò 80 triệu tấn. Dầu thô: trữ lượng dự đoán khoảng 5 tỷ tấn, trữ lượng khai thác 1,2-1,4 tỷ tấn. Nước ta thuộc loại nước có nhiều dầu thô trên thế giới. Quặng sắt: tập trung chủ yếu ở khu mỏ Thạch Khê (Hà tĩnh) có trữ lượng thăm dò 580 triệu tấn. Quặng sắt Thạch Khê có chất lượng tốt, hàm lượng ôxít sắt cao 60-62%. Ngoài ra, Việt nam còn nhiều khoáng sản quý hiếm khác như boxit apatit, titan, mangan, thiếc, nhôm, chì... đang chờ thu hút vốn và kỹ thuật để khai thác. Với những nguồn tài nguyên này, chúng ta phải sử dụng chúng theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối. Hơn nữa nước ta lại có hệ thống sông ngòi dày đặc giúp cho việc phát triển hệ thống giao thông đường thuỷ tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta với các nước trên thế giới được dễ dàng thuận lợi hơn và chi phí thấp hơn so với các phương tiện khác. Về nguồn nhân lực Việt nam có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Việt nam là thị trường đáng kể và là đối tượng được quan tâm của giới kinh doanh quốc tế. Thêm vào đó, việt nam có tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm qua đạt tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Cụ thể năm 1998 tốc độ tăng trưởng 9,5 %, năm 1999 là 9,3%, năm 2000 là 8,2%, năm 2001 là khoảng 5,8%. Chúng ta có sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế, pháp luật và chính sách thương mại. Đó là những nhân tố tạo niềm tin và sức hấp dẫn cho các đối tượng nước ngoài. Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Vì xuất phát điểm của chúng ta quá thấp. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ “tụt hậu ” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vục và trên thế giới. Mỹ và phương tây tiếp tục mưu toan thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”. Gây áp lực đối với chúng ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa nguyên đa đảng. Nguy cơ đi chệch hướng XHCN. Nền kinh tế trong nước còn nhiều yếu kém. Vẫn hiện trạng tham ô, tham nhũng nhiều. Bộ máy quản lý còn quan liêu, thủ tục hành chính còn dườm dà. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu, đặc biệt đối với cán bộ thuộc lĩnh vực ngoại thương. Nhận thức rõ những điều kiện thuận lợi và khó khăn trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống. Hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt sau: 2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở nước ta, để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ, ngoại tệ thu được từ các nguồn khác. Trong các nguồn trên thì các nguồn như vay nợ và đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng cũng phải trả sau này. Và việc sử dụng chúng một cách thái quá sẽ gây hậu quả cho việc trả nợ về sau. Vì vậy, nguồn từ xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho quá trình nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng nên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng của việc xuất khẩu bởi xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ. 2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta . Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa.Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và thay thế cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điển thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này nên sản xuất thể hiện ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầy đủ cho việc phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, vải sợi... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, chè, cà phê... sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành chế biến có liên quan. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi sản xuất bắt đầu lớn mạnh thị trường trong nước không đủ khả năng làm cho sản xuất phát triển mạnh được, chỉ có thị trường rộng lớn ở bên ngoài mới có thể đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của các ngành nghề trong nước và đảm bảo sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và không ngừng phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống của nhân dân bao gồm rất nhiều mặt: Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi tiêu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không nhỏ. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân hiện nay. 2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan._. hệ kinh trế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đôi ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển theo như quan hệ về chính trị và ngoại giao. Mặt khác các quan hệ chính tri, kinh tế, ngoại giao phát triển mạnh lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. III. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Khác với hoạt động thương mại trong nước, xuất khẩu thuộc phạm vi của thương mại quốc tế, do vậy nó chịu sự chi phối và điều khiển của các quy luật vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia. Chính vì thế mà hoạt động xuất khẩu thường phức tạp hơn nhiều so với các hoạt động thương mại trong nước. Nếu để hoạt động xuất khẩu tự do không có các biện pháp điều chỉnh và thúc đẩy thì hoạt động xuất khẩu sẽ không hiệu quả và gặp nhiều khó khăn bởi các lý do sau đây: 1.1 Những khó khăn của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện khác nhau, đồng thời trong quá trình tiến hành hoạt động xuất khẩu cũng nảy sinh nhiều vấn đề có tính chất đặc thù của loại hình này. Một trong những điều kiện để có được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế là sự tồn tại của một hệ thống các điều kiện khung về chính sách thích hợp cho sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm thích hợp cho xuất khẩu.Các điều kiện khung này bao gồm các điều kiện về pháp lý, thuế và các thủ tục hành chính. Ngoài ra còn phải kể đến các điều kiện để tiến hành hoạt động nhập khẩu cũng như triển khai đầu tư trực tiếp của nước ngoài để tận dụng các khả năng chuyển giao công nghệ. Nhân tố thứ hai gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là vấn đề về thông tin của thị trường xuất khẩu. Các thông tin này thường khó thu nhận hơn là các thông tin ở thị trường trong nước. Các thông tin này bao gồm cả thông tin về thị trường như: khả năng tiêu thụ, yêu cầu chất lượng, tình hình cạnh tranh, các quy định về hạn chế nhập khẩu, những hiểu biết riêng về khách hàng và độ tin cậy của khách hàng. Do tính năng động của thị trường mà ngoài những hiểu biết riêng, cơ bản còn cần phải tiếp tục theo dõi diễn biến của thị trường để có thể phản ứng linh hoạt trước những thay đổi của tình hình. Khi đã có những thông tin cần thiết, cần triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu. Do sự xa cách về mặt địa lý với các thị trường xuất khẩu và sự hiểu biết thường là ít ỏi về các thị trường này nên công việc tiến hành các hoạt động này khó hơn đối với thị trường trong nước. Những công việc xúc tiến ở đây là giới thiệu sản phẩm, lựa chọn và áp dụng các phương pháp tiếp thị thích hợp, hỗ trợ tiêu thụ và trong trường hợp cần thiết xây dựng hệ thống dịch vụ và các hệ thống kho phân phối. Yếu tố thứ tư gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là hoạt động này đòi hỏi những kiến thức và kinh nghiệm. Các thủ tục cần thiết trong xuất khẩu bao gồm cả các quy định cần chú ý và việc sử dụng các loại hồ sơ và giấy tờ khác nhau và điều này thì khác rất nhiều với kinh doanh trong nước. Để duy trì các mối quan hệ với nước ngoài lại cần các chuyến đi ra nước ngoài hết sức tốn kém hoặc phải xây dựng và đảm bảo kinh phí cho các cơ sở đại diện ở nước ngoài. Thứ năm là việc đảm bảo tài chính cho xuất khẩu: một hoạt động mà ở đó thường áp dụng các thời hạn thanh toán dài hơn và các thủ tục đặc biệt đòi hỏi phải có sự phối phợp với các tổ chức tài chính chuyên môn. Cần đặc biệt lưu ý ở đây là các rủi ro trong thanh toán cũng như rủi do tín dụng thông thường là các rủi do đặc thù của mỗi quốc gia hoặc các rủi do kinh tế luôn đi kèm với các hoạt động kinh doanh với nước ngoài. Những điều khác nhau về hệ thống pháp luật, quan niệm về pháp luật cũng như những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình ở nước ngoài cũng rất quan trọng và cần phải được đặc biệt lưu ý. Tất cả những khó khăn trên làm cho hoạt động xuất khẩu cần có sự hỗ trợ và thúc đẩy để nó có thể tiến hành được rễ dàng. 1.2 Những yêu cầu đặt ra cho hoạt động xuất khẩu. Để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần phải xây dựng những chính sách về kinh tế cho phù hợp, đặc biệt chính sách xuất khẩu. Tuy nhiên, để có thể có được những chính sách phát triển xuất khẩu đúng đắn, có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu về những yêu cầu mà xuất khẩu cần phải đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế Việt nam. 1.2.1 Xuất khẩu phải ra sức khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước. Thế mạnh lớn nhất của Việt nam là có lực lượng lao động dồi dào. Lực lượng lao động của Việt nam được đánh giá là có khả năng tiếp thu kỹ thuật cộng nghệ nhanh lại cần cù, siêng năng, có nhiều ngành nghề truyền thống, nhạy cảm với cái mới, hơn nữa giá nhân công lại rẻ. Xuất khẩu phát triển có nghĩa là chúng ta đã giải quyết được việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ngoài ra, Việt nam còn có một quỹ tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đất, rừng, biển, khoáng sản, thuỷ sản.... Yêu cầu đặt ra là phải khai thác được nguồn lực trong nước, thúc đẩy xuất khẩu có hiệu quả. 1.2.2 Xuất khẩu phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. Xuất khẩu phải mạnh và có hiệu quả để tạo thế đứng cho nước ta trên thương trường quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, muốn gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế thì nước ta phải có được các quan hệ kinh tế bền vững với các trung tâm kinh tế chủ yếu của thế giới như Mỹ, Nhật bản và Châu âu. Chính những mối quan hệ này là giá đỡ cho một quốc gia có thể tham gia có hiệu quả váo các khối kinh tế khu vực. Xuất khẩu muốn hiệu quả trước tiên ta phải nghiên cứu nhu cầu trên thị trường đồng thời đánh giá khả năng sản xuất của ta. Từ đó, tìm các đối tác liên doanh, liên kết tạo nguồn hàng xuất khẩu. 1.2.3 Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, xuất khẩu của ta còn manh mún, thường xuất khẩu với khối lượng nhỏ. Trong xu thế khu vực hoá ngày nay đòi hỏi năng lực xuất khẩu của nước ta phải được nâng cao để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời vươn lên chiếm lĩnh ngày càng nhiều thị trường xuất khẩu. 1.2.4 Tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng, với chất lượng cao khối lượng lớn và có khả năng cạnh tranh cao. Nước ta có cơ cấu hàng xuất khẩu tương đối giống với các nước trong khối ASEAN. Do kỹ thuật sản xuất những mặt hàng này của ta hiện còn lạc hậu, chất lượng chưa cao, số lượng chưa lớn nên hàng hoá của ta có sức cạnh tranh kém hơn so với các nước trong khu vực. Để có thể phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao, chế biến sâu, tương đối mới và có nhu cầu lớn trên thị trường như dịch vụ phần mềm máy tính, hàng nông sản tinh chế... Những lý do khác. + Vì lý do bảo hộ cần khuyến khích xuất khẩu để mở rộng cơ hội tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp trong nước, đặc biệt của các doanh nghiệp Việt nam trên trường quốc tế. + Khuyến khích xuất khẩu để lập lại thế cân bằng trong cạnh tranh cho các nhà sản xuất trong nước, tránh việc hộ bị thiệt thòi do chính sách khuyến khích xuất khẩu của các nước khác gây ra. + Cuối cùng do những nguyên nhân về cán cân thanh toán cần thiết phải áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu để thông qua tăng xuất khẩu mà giảm thâm hụt trong cán cân thanh toán. 1.3 Những nhân tố quốc tế và khu vực. Thế giới ngày nay đang có những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt. Một trật tự thế giới mới đang từng bước được hình thành theo hướng tạo nên một sự cân bằng mới về lực lượng giữa các quốc gia. Ngày nay các nước đều dành ưu tiên cao cho phát triển kinh tế, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm chuẩn. Hơn nữa cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ làm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước diễn ra nhanh hơn. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu. Những cơ hội chủ yếu mà Việt nam có được khi gia nhập hiệp hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch sẽ là: Tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng nhập khẩu hàng hoá từ những nước trong liên minh với các nước và khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này, tiềm năng kinh tế của nước ta sẽ được khai thác có hiệu quả hơn. Chính việc tham gia mậu dịch tự do khu vực đã làm tăng lên phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là các ngành công nghiệp mà nước ta sản xuất với chi phí cao bằng những ngành có chi phí thấp hơn. Cũng trong điều kiện này lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước ta luôn nhận được sự ưu đãi. Khi đó, giá bán hàng hoá sẽ hạ tạo điều kiện cho người dân có thể mua hàng với khối lượng lớn hơn, chi phí thấp hơn. Như vậy khả năng tiêu dùng của xã hội sẽ tăng lên. Hội nhập khu vực góp phần chuyển hướng mậu dịch, điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi và hấp dẫn hơn trước. Ngay cả trong trường hợp nước ta tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng được thay thế bằng sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn( do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi thuế quan) chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên. Hội nhập vào khu vực hiện đang tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý...từ các quốc gia khác trong liên minh.Về lâu dài, tự do hoá thương mại góp phần tăng năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại góp phần tăng trưởng kinh tế bằng 2 cách: tăng xuất khẩu và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất là vốn và lao động. Tự do hoá thương mại làm tăng xuất khẩu góp phần tăng hiệu quả sản xuất và tăng tiềm năng về kinh tế của từng quốc gia. Điều này được thể hiện: Thực hiện tự do hoá thương mại gây ra áp lực lớn với mọi quốc gia trong liên minh ở các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành này phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ giá thành ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh chóng thay đổi công nghệ, áp dụng các kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Tự do hoá thương mại góp phần giải phóng năng lực sản xuất của khu vực tư nhân, giải phóng quyền tự chủ sản xuất của các doanh nghiệp của tư nhân và nhà nước. Điều này cho phép sản xuất đạt hiệu quả cao hơn. Tham gia tự do hoá thương mại buộc Chính phủ phải đưa ra những chính sách hợp lý hơn để phát triển kinh tế. Hội nhập khu vực và thế giới góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và tăng đầu tư từ nước ngoài. Trong điều kiện hội nhập các quốc gia thành viên có xu hướng tập trung đầu tư vào phát triển các ngành hàng sản xuất, hàng xuất khẩu hiệu quả nhất, phát huy tối ưu nguồn lực của mình. Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực mà xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đem lại cho chúng ta trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, chúng ta còn có những bước thay đổi lớn, quan trọng trong quan hệ chính trị, ngoại giao. Cụ thể là đầu năm 1997 mối quan hệ giữa Việt nam và Mỹ đã được bình thường hoá. Có thể nói điều này đã mở ra cho Việt nam những bước tiến mới trong hoạt động xuất nhập khẩu. Từ đây, Việt nam đã có cơ hội bắt tay và tiếp xúc được với nhiều nước khác trên thế giới. Hàng hoá xuất khẩu của Việt nam đã xuất hiện ở nhiều thị trường với số lượng ngày càng lớn. Tiếp theo đó là một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt nam đó là việc gia nhập vào hiệp hội các quốc gia Đông nam á ASEAN vào tháng 7/1998. Có thể nói đây thực sự là cái mốc rất lớn đánh dấu sự hội nhập thực sự của nền kinh tế Việt nam vào khu vực và thế giới. Tháng 11/2001 Việt nam chính thức gia nhập APEC. Chúng ta cũng đang chuẩn bị các cuộc đối thoại đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO. Khi chúng ta gia nhập vào các tổ chức này, chúng ta phải tuân thủ theo những quy định của các tổ chức này. Trong đó quan trọng nhất là những quy định về hàng rào thuế quan giữa các nước. Chúng ta phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do hoá thương mại ”, biến động giá cả quốc tế, lãi suất tình hình cung cầu hàng hoá và vốn đầu tư, nhu cầu đa dạng của thị trường. Kể từ đầu tháng 7/2000 khủng khoàng tài chính tiền tệ khu vực với tâm điểm là Thái lan đã lan rộng sang các nước Đông nam á khiến đồng tiền của các nước cũng bị giảm giá theo, ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế chính trị trong khu vực. Khủng khoảng tác động đến Việt nam theo tất cả các kênh. Nguy cơ lớn nhất mà cuộc khủng khoảng đặt ra cho chúng ta là: nếu không nhận thức đầy đủ những thách thức trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, hội nhập và bắt kịp với trình độ khu vực... thì khoảng cách chênh lệch, sự tụt hậu giữa Việt nam và các nước ngày cáng đậm nét. 2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Để thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao và kỹ thuật hiện đại. Theo đó sự chuyển dịch cơ cấu hàng chế tạo và tỷ lệ hàng chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải là mục đích tự thân mà nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, có hiệu quả. Phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21. Thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại. Đích cuối cùng là làm thoả mãn nhu cầu của thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thúc đẩy xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm: + Đảm bảo kim ngạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Gắn sản xuất vì nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ hiệu quả và buôn bán quốc tế. + Tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước kích thích các ngành kinh tế phát triển. + Góp phần tăng tích luỹ và sử dụng vốn trong nước tạo dựng được nguồn vốn của nước ngoài có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước. + Năng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. + Thúc đẩy quan hệ đối ngoại giữa các nước, nâng cao uy tín của Việt nam trên thị trường quốc tế và khu vực. 3. Kinh nghiệm của các nước khi áp dụng một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 3.1 Tạo các điều kiện khung kinh tế thích hợp. Các biện pháp khuyến khích gián tiếp nhằm vào mục tiêu tạo ra các điều kiện khung kinh tế thích hợp bằng một chính sách chọn địa bàn thích hợp Trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá các thị trường hiện nay, chính sách kinh tế của nhà nước về cơ bản là chính sách chọn địa bàn. Mục tiêu của chính sách này là đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế quốc dân. Qua đó cải thiện các điều kiện phát triển sản xuất và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, đảm bảo việc làm và nâng cao mức sống của nhân dân. Việc tác động vào hoạt động xuất khẩu không phải là mục tiêu trực tiếp mà chỉ là một tác động phụ đi kèm. Do vậy, có thể nói xuất khẩu được khuyến khích một cách gián tiếp thông qua chính sách này, có được chính sách chọn địa bàn thành công sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các tầng lớp trong một quốc gia. Những thuận lợi do chính sách chọn địa bàn đem lại bao gồm: - Điều kiện sản xuất thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí và nâng cao khả năng đổi mới, qua đó tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và khả năng xuất khẩu. - Người lao động được lợi ở chỗ có thêm các chỗ làm việc ổn định có điều kiện tốt hơn để tăng lương và cải thiện mức sống. - Người tiêu dùng được cung cấp hàng hoá phong phú hơn và rẻ hơn. - Nhà nước được lợi ở chỗ tăng thu từ thuế và trước mắt giảm chi cho các phúc lợi xã hội ( chẳng hạn cho người thất nghiệp ). Các yếu tố cải thiện điều kiện khung: Cải thiện điều kiện khung kinh tế bao gồm nội dung của một chính sách kinh tế hướng vào các mục tiêu ổn định, mỗi chính sách xã hội thích ứng và một chính sách ngoại thương tự do. Cụ thể gồm các yếu tố: - Các yếu tố về đường lối chính sách chung: + Hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ năng lực, bao gồm một hệ thống luật thành văn phù hợp, một hệ thống tài phán độc lập và thực thi pháp luật bởi các cơ quan thích hợp. + Trên cơ sở có sự tham gia của tất cả các tầng lớp xã hội, xây dựng và hoàn thiện một hệ thống đảm bảo xã hội thích hợp và một chính sách phân phối phù hợp. + Có được một chính sách môi trường thích hợp sẽ góp phần tạo ra sự phát triển lâu bền, ngăn ngừa các nguy cơ phát sinh các chi phí giải quyết hậu quả trong tương lai. + Xây dựng một bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả là tiền đề có thể thực thi các chính sách một cách hữu hiệu và tiết kiệm. - Các yếu tố về chính sách kinh tế chung: + Đề ra một kế hoạch khung kinh tế với các mục tiêu định hướng sẽ cho ta tầm nhìn và phương hướng. + Vận dụng một chính sách cạnh tranh thích hợp với nội dung ngăn ngừa các thoả thuận và hoạt động hạn chế cạnh tranh, đẩy mạnh định hướng vào thị trường. + Không ngừng cải thiện hệ thống thuế theo hướng quan tâm tới khía cạnh công bằng lẫn khía cạnh năng lực sẽ khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh và góp phần nâng cao khả năng xuất khẩu. + Tự do thị trường vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các cơ cấu ngân hàng có năng lực, khuyến khích cạnh tranh về tiền gửi và tín dụng, tăng khối lượng tiền gửi tiết kiệm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của lãi suất hướng theo thị trường. + Một chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mục tiêu khuyến khích tự do thương mại, cụ thể là xoá bỏ các hàng rào thương mại sẽ tạo điều kiện và tiền đề cho việc dễ dàng tiếp cận với các thị trường tiêu thụ và nguyên liệu. + Và cuối cùng một chính sách hoà nhập triệt để, như trong trường hợp của ASEAN cũng khuyến khích thiết lập các điều kiện khung thuận lợi cho cạnh tranh, qua đó góp phần tạo cơ hội xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. - Các yếu tố về chính sách kinh tế trong từng giai đoạn. + Có được cơ sở hạ tầng thích hợp, đủ năng lực sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình điều chỉnh cơ cấu và tăng trưởng. + Việc khuyến khích hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển thông qua một chính sách công nghệ thích hợp, bao gồm cả việc khuyến khích và hỗ trợ có chủ đích các dự án đầu tư của nước ngoài sẽ góp phần nâng cao cơ sở tri thức của xã hội. + Một chính sách quản lý hợp lý của Nhà nước với các nội dung chính như: giảm can thiệp, tư nhân hoá và mềm dẻo sẽ giúp cải thiện các điều kiện sản xuất. + Một chính sách tiền tệ hợp lý, vừa có khả năng hạn chế có hiệu quả các xu hướng tăng giá, vừa có khả năng thiết lập một mức lãi suất thấp, thống nhất hoặc phân biệt theo hướng ưu tiên xuất khẩu sẽ góp phần làm giảm các chi phí đầu tư và sản xuất nói chung và đặc biệt là các chi phí tái cấp vốn. + Chính sách ngoại hối tác động đồng thời các điều kiện xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, cần phải cân nhắc cẩn trọng khi ra các quyết định về nâng hoặc giảm tỷ giá hối đoái. 3.2 Chính sách công nghiệp và chính sách phát triển ngành. Bên cạnh việc tạo môi trường kinh tế thích hợp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua cải thiện các điều kiện khung kinh tế, các doanh nghiệp này cũng có thể được hỗ trợ và khyến khích bởi một chính sách phát triển ngành có chủ đích. Chính sách phát triển ngành không chỉ bao gồm nội dung hẹp là hỗ trợ xuất khẩu mà được hiểu rộng hơn, đó là sự cải thiện điều kện sản xuất ở những ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao, qua đó gián tiếp góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Sau đây là một số công cụ được áp dụng ở nhiều nước: - Bao cấp dưới hình thức hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế vùng ( như chính sách hỗ trợ phát triển các vùng ven ở Đức, hỗ trợ phát triển kinh tế ở đông Đức hoặc hỗ trợ từ quỹ khu vực của liên minh Châu âu). Chính sách bao cấp này có thể nhằm vào các mục tiêu như đảm bảo việc làm hoặc đẩy nhanh phát triển công nghệ. Tuy nhiên, chúng cũng đồng thời giúp mở rộng cơ hội xuất khẩu dưới dạng bù lỗ đóng một vai trò quan trọng. - Thông qua các chính sách thuế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu. - Việc phát triển các đơn hàng của Nhà nước cho các công ty trong nước thực hiện góp phần củng cố khả năng đáp ứng về vốn tự có và bảo đảm việc làm, ngoài ra còn bao hàm cả các yếu tố về chính sách công nghệ ( như Pháp và Mỹ). - Trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh của quốc gia có thể có những quy định ngoại lệ nhằm nâng cao năng lực nền công nghệ trong nước. Có thể cho phép lập ra các hiệp hội xuất khẩu để giảm nhẹ rủi ro xuất khẩu cho từng cá nhân và từng doanh nghiệp ( Pháp, Mỹ, Nhật ). -Trong khuôn khổ chính sách tín dụng và lãi suất áp dụng phân biệt đối với các đối tượng khác nhau, có thể cấp tín dụng, đảm nhận bảo lãnh của nhà nước hoặc giảm chi phí tái cấp vốn để khuyến khích sự phát triển của một số lĩnh vực kinh tế nhất định ( Pháp, Nhật ). - Bằng việc áp dụng một chính sách nhập khẩu phục vụ cho mục đích thực thi chính sách công nghiệp, có thể áp dụng hàng rào thương mại một cách có chủ đích để bảo hộ một số ngành và đồng thời xây dựng một số ngành mới có khả năng cạnh tranh ( EU, Mỹ, Nhật ). 3.3 Khu kinh tế đặc biệt. Những nội dung cơ bản của chính sách công nghiệp trong giai đoạn đầu có thể dựa vào áp dụng thử trong những khu kinh tế đặc biệt ( Khu chế xuất - Export Processing Zone). Các khu kinh tế đặc biệt (KTĐB) được lập ra nhằm mục đích thu hút đầu tư nước ngoài và công nghệ hiện đại, tạo việc làm và cơ sở đào tạo mới, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá nền kinh tế và thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu. Sản phẩm sản xuất ra trong các khu chế xuất thường được dành để xuất khẩu. ở Trung Quốc - một nước có nhiều kinh nghiệm với các khu chế xuất có quy định rằng: chỉ những sản phẩm được sản xuất bằng nguyên liệu thô trong nước hoặc nhập khẩu do có nhu cầu trong nước mới được bán tiêu thụ trên thị trường trong nước. ở các khu KTĐB người ta thường áp dụng các chính sách kinh tế sau: ưu đãi nhập khẩu, ưu đãi thuế đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài, cung cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt, giảm tối đa các thủ tục hành chính có liên quan đến cấp giấy phép. ở Trung Quốc các chính sách ưu đãi thường áp dụng là thuế công ty thấp ( đồng loạt là 15%, trong khi đó mức thuế này đối với các doanh nghiệp nhà nước là 35% - 55% miễn thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến 5 năm, miễn thủ tục hải quan và các khoản thuế gián tiếp đối với hàng nhập khẩu cần cho xuất khẩu hoặc để bán trong các khu kinh tế đặc biệt. ở Trung quốc, các khu kinh tế đặc biệt và các thành phố mới mở lần đầu tiên được xây dựng vào đầu những năm 1980 ở Thẩm Quyến và Quảng Đông, sau này mở rộng thêm một số nơi khác. Từ năm 1984, 18 thành phố ven biển đã được mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài, với các quy chế ưu đãi tương tự. Sau này từ năm 1996 trở đi các khu vực ưu đãi cũng được mở rộng ra ở các vùng sâu trong lục địa. Rõ ràng chính sách này đã thành công. Năm 1990 ba khu kinh tế đặc biệt ở Quảng Đông còn là những làng chài nhỏ bé, mười năm sau chúng đã trở thành những khu đô thị lớn. Thu hút được vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng xuất khẩu. 3.4 Tham gia thiết lập các điều kiện khung quốc tế. ngoài khuôn khổ quốc gia, các nước còn có thể hỗ trợ ngoại thương của mình thông qua việc tham gia thiết lập các điều kiện khung quốc tế. Điều này được thực hiện bởi việc ký kết các hiệp định xong phương hoặc đa phương, gia nhập các hiệp hội khu vực như ASEAN, EU hoặc các tổ chức quốc tế như WTO, OECD hoặc UNCTAD. Các hiệp định quốc tế tác động hết sức cơ bản tới các điều kiện khung của buôn bán quốc tế. + OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. + UNCTAD: Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển. Chương II Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt nam Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động xuất khẩu Việt nam phải có những bước tiến dài và vững chắc. Muốn hoạt động xuất khẩu của Việt nam phát triển không ngừng điều đầu tiên chúng ta phải có một định hướng đúng đắn cho xuất khẩu. Dựa trên định hướng này, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Từ Đại hội Đảng VII, Đảng ta đã xác định chiến lược đưa nền kinh tế hướng về xuất khẩu và nhấn mạnh chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu tại kỳ họp thứ 4 Đại hội Đảng VIII. Sau mấy năm thực hiện, thực tế đã chứng minh đây là một quyết định đúng đắn. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật, nghị định có tác động khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Các biện pháp này đã góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tăng trưởng không ngừng trong những năm vừa qua. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét đánh giá về những mặt làm được cũng như những mặt chưa làm được của những chính sách này. I. Chính sách khuyến khích đầu tư. Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ “ Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng ”. 1. Nội dung của chính sách khuyến khích đầu tư. 1.1 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Nhằm mục đích khuyến khích đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ đã quy định nhiều ưu đãi dành cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thuộc danh mục các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi. - Về thuế: Ngoài các chế độ ưu đãi được quy định trong các pháp lệnh về thuế hiện hành, các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu còn được hưởng thêm các ưu đãi sau: + Cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập được giảm 50% thuế lợi tức thêm từ 1 đến 2 năm. Riêng đầu tư vào các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác được miễn thuế lợi tức từ 1 đến 2 năm và giảm 50% thuế doanh thu thêm từ 1 đến 5 năm. + Cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ thêm vốn đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ được miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tăng thêm của năm tiếp theo do phần đầu tư mới mang lại. + Các dự án cần đặc biệt khuyến khích đầu tư được Chính phủ cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc, phụ tùng mà chủ đầu tư trực tiếp hoặc chủ đầu tư uỷ thác nhập khẩu để xây dựng cơ sở sản xuất. - Về tín dụng: Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển được bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu. “ Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển đã ký kết hợp đồng xuất khẩu hoặc bán hàng ra nước ngoài được ngân hàng thương mại quốc doanh ưu tiên về mức vốn cho vay để sản xuất thu mua hàng xuất khẩu. Trong trường hợp ngân hàng thương mại không đủ vốn để cho vay thì ngân hàng nhà nước có trách nhiệm bổ sung thêm vốn tín dụng cho ngân hàng thương mại quốc doanh trong khuôn khổ quy định hiện hành ”. Ngoài ra, đối với một số mặt hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển, khi giá thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thị trường trong nước đối với các nguyên liệu vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu tăng giá, nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ thông qua quỹ bình ổn giá để giảm một phần lãi suất tín dụng. - Về tiền thuê đất: Các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu nếu được giao đất thì không phải trả tiền thuê đất, nếu thuê đất thì được miễn tiền thuế đất trong 5 năm đầu và giảm 50% tiền thuê đất trong 5 năm tiếp theo kể từ khi ký hợp đồng thuê đất. Nếu doanh nghiệp có dự án đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được giảm 50% tiền thuê mặt bằng theo nguyên giá mà nhà nước cho thuê không bao gồm giá trị các công trình hạ tầng của các công ty phát triển hạ tầng trong nước trong thời hạn 5 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê. 1.2 Luật đầu tư nước ngoài. Cũng như luật khuyến khích đầu tư trong nước nhằm khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước ta cũng đem lại nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. Sản xuất hàng xuất khẩu là lĩnh vực thuộc diện ưu tiên số một. Trong trường hợp các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu thuế lợi tức đánh ở mức thấp: + 20% đối với các dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm, áp dụng trong 10 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. + 15% đối với các dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, áp dụng trong 12 năm kể từ khi dự án bắt đầu sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, bộ luật còn quy định chi tiết việc miễn giảm thuế lợi tức cho sản xuất hàng xuất khẩu như sau: + Với các dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm, được miễn thuế lợi tức trong 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. + Với các dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, được miễn thuế lợi tức trong 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo. + Với các dự án thuộc diện trên nhưng thuộc danh mục đặc biệt cần khuyến khích đầu tư thì được miễn thuế lợi tức 8 năm kể._.hỉ tiêu nhập khẩu trên. + Chế độ thưởng sẽ được áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu đi mọi thị trường, không chỉ riêng thị trường Lào. 2.7.2 Cải tiến chế độ thu và hoàn lại thuế giá trị gia tăng. Thuế giá trị gia tăng ( GTGT ) hiện nay được thu cả vào những mặt hàng nhập khẩu từ trước tới nay vẫn có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0%. Với mức thu tối thiểu là 5%, cơ chế hoàn lại chưa thông thoáng, các doanh nghiệp sẽ không giám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư để mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Vì lý do đó, Chính phủ nên: + Các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu sẽ nộp thuế GTGT tại cửa khẩu theo phương thức ghi thu ( doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để nộp thuế). + Nếu sau 3 tháng số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp vẫn là số âm thì Bộ Tài chính sẽ làm thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp theo phương thức ghi chi để doanh nghiệp quyết toán với hải quan. Nếu làm được theo cách này thì sẽ giảm được gánh nặng lãi suất cho các doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho họ đẩy mạnh đầu tư, giảm giá thành sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. 2.8 Chính sách tỷ giá hối đoái. Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định thì sẽ gây ra một số ảnh hưởng sau. Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng do lạm phát. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi. Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới. 2.9 Chính sách đa lãi suất. Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế ). 2.10 Chính sách bán ngoại tệ. Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán, doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi. Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển nhượng tự do hoá đơn này cho người khác. Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu. Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn. 3. Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh. Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực.. còn các thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau. Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng. Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh. Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền mua để xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác tất cả các mặt hàng trừ gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quota, cà phê nhân và khoáng sản ( những mặt hàng này vẫn chỉ được phép xuất khẩu theo giấy phép đầu tư ). 4. Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại. 4.1 Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng. Các nhà máy không đạt tiêu chuẩn sẽ không được phép xuất khẩu. Các nhà máy đạt tiêu chuẩn có thể chia làm 3 loại : Hạng nhất được phép xuất khẩu mà không bị kiểm tra hàng hoá, chỉ bị thanh tra hệ thống chất lượng 1 năm 1 lần. Hạng hai bị thanh tra 1 năm 2 lần và có thể bị kiểm tra đột xuất 1 lần trong 30 chuyến hàng. Hạng ba bị thanh tra 4-5 lần một năm và cứ 15 chuyến hàng bị kiểm tra 1 lần. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện.. ISO 9000 đã được chấp nhận ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn. ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi, vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế. Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Song trong thời gian qua, ở nước ta mới có 16 doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh.Trong khi đó trên thế giới hiện nay có khoảng 20000 công ty, doanh nghiệp, nhà máy.. áp dụng thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Từ nay đến năm 2005, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao... cùng với dự thiếu vắng của các tổ chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc. Năm 2005 đang đến gần, một thị trường chung khu vực ASEAN sẽ mở ra, sự cạnh trranh lúc đó sẽ phát triển và khắc nghiệt hơn nhiều. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở nước ta chưa có dấu chứng nhận ISO 9000 chắc chắn sẽ chịu thua thiệt và không thể hội nhập được với thương trường và khu vực quốc tế. 4.2 Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam. Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước. Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO, Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với các tổ chức này còn yếu. 4.3 Quỹ khen thưởng xuất khẩu. Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan, ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm, chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm nay. Hình thức thưởng được thực hiện theo hao cách: Thưởng tiền kèm theo bằng khen và huy chương. Thưởng bằng hạn ngạch. Các nguồn để lập quỹ khen thưởng : Một phần lệ phí của việc bán và đấu thầu hạn ngạch. Một phần thu từ lệ phí cấp các loại giấy phép. Các nguồn tài trợ khác được chính phủ cho phép Các đối tượng được xét thưởng là các doanh nghiệp có một trong các tiêu chuẩn sau: Những sản phẩm, nhóm hàng mới lần đầu tiên xâm nhập được thị trường nước ngoài Nhưng sản phẩm hàng hoá được thị trường nước ngoài ưa chuộng, tín nhiệm và công nhận về mặt chất lượng. Những loại mặt hàng cho xuất khẩu và nững mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn ( quy định cho từng loại mặt hàng ). Những loại mặt hàng có tính chất đặc biệt: sử dụng nhiều lao động ở trong nước, tỷ lệ nguyên liệu trong nước cao.. 4.4 Thương mại cân bằng qua thương lượng. Chính phủ phải có các phương án đàm phán với một số nước hiện đang xuất siêu vào Việt nam để đòi mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt nam tương ứng với việc Việt nam nhập hàng của họ. 5. Cải cách thủ tục hành chính. 5.1 Khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, bằng thủ tục và dịch vụ một cửa. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung với lợi thế về công nghiệp và tài nguyên sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, việc đơn giản hoá thủ tục hành chính sẽ giúp cho khu vực này có sức hấp dẫn hơn không chỉ nvowis đầu tư nước ngoài mà cả đối với đầu tư trong nước. Đề nghị Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một khu chế xuất hay một khu công nghiệp tập trung. Nếu thành công sẽ áp dụng cho các KCX, KCN khác. 5.2 Đơn giản hoá thủ tục gia công. Để khuyến khích việc gia công hàng xuất khẩu nên bãi bỏ việc hạn chế chủng loại, số lượng, mặt hàng gia công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt, may mặc, giầy dép, đồ chơi trẻ em.. xoá bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa. Những trường hợp gia công theo phương thức mua đứt bán đoạn thì được coi như đầu tư chế biến sẽ được hưởng các chính sách đối với đầu tư chế biến. 5.3 Công khai hoá các văn bản pháp luật. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Có nhiều trường hợp cả luật sư cũng không có được văn bản mới của nhà nước. Ngay cả các chuyên viên của Bộ Thương mại, nếu không chịu khó sưu tầm thì cũng khó có thể có được các quy định của các ngành khác về quản lý XNK. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc đăng công báo mọi văn bản có liên quan đến quản lý của các cơ quan nhà nước ( trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành). Đề nghị Chính phủ có chỉ thị nhắc nhở việc này và chỉ đạo các cơ quan hữu quan giúp văn phòng Chính phủ ra công báo nhanh hơn, cập nhật hơn. Cụ thể đề nghị Chính phủ nên quy định rõ: mọi văn bản về quản lý nhà nước chỉ có hiệu lực thi hành sau khi đã được đăng trên công báo. Riêng Bộ thương mại, ngoài việc công khai hoá quy trình cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép hàng hoá, còn có trách nhiệm công khai hoá toàn bộ các doanh nghiệp được phân bổ quota hoặc chỉ tiêu nhập khẩu ( trừ những trường hợp không thể công khai hoá vì lý do an ninh, quốc phòng hay các lý do chính đáng khác được Chính phủ cho phép ). 5.4 Rà soát các thủ tục hành chính. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thực hiện cấp giấy phép đầu tư, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hưởng các chính sách ưu đãi.. mà luật đã quy định, thủ tục khai báo và kiểm hàng hoá xuất khẩu tại các cửa khẩu để bảo đảm thông thoáng, kịp thời, nhanh chóng... Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó khăn phiền hà, chậm trễ đối với hoạt động kinh doanh, nghiên cứu áp dụng cơ chế bồi thường, bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp nếu các cơ quan quản lý, kiểm tra, kiểm soát thi hành sai luật gây ra. 5.5 Quyền khiếu kiện. Đề nghị Chính phủ cho ban hành nghị định cho phép mọi công dân và tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định của tất cả các cơ quan tham gia quản lý xuất nhập khẩu trước toà hành chính ( hiện nay họ chỉ mới được quyền khiếu kiện các quyết định về thuế của Hải quan). Họ cũng được quyền khiếu kiện trong trường hợp bị gây phiền hà, chậm trễ, được quyền đòi bồi thường, bù đắp thiệt hại nếu chứng minh thiệt hại đó là do các cơ quan quản lý kiểm tra, kiểm soát sai luật gây ra. 5.6 Mã hàng hoá thuộc diện quản lý Hiện nay có sự bất đồng giữa cơ quan Hải quan và các doanh nghiệp về biểu thuế xuất nhập khẩu vì việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu không thống nhất theo tên gọi và mã số của chúng tại danh mục hàng hoá XNK Việt nam hoặc tên gọi và mã số trong biểu thuế xuất nập khẩu. Việc không đồng nhất về mã số này đã được các cơ quan biết đến. Tuy nhiên, các cơ quan này thi hành việc giải quyết sự không đồng nhất này rất chậm trễ và sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ dẫn tới việc chưa giải quyết được vấn đề trên. Việc này đã dẫn tới các tác hại sau: + Đây là kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế và là kẽ hở nảy sinh các tiêu cực như hối lộ tham nhũng. Điều này dẫn tới thất thu của Ngân sách Nhà nước về thuế nhập khẩu. + Việc không đồng nhất về mã số thuế gây khó khăn cho chúng ta trong quá trình hội nhập vói các nước trong khu vực (khi thực sự hội nhập về thuế quan đòi hỏi nước ta phải có một biểu thuế với mã số thuế thống nhất). + Làm cho công cụ thuế nhập khẩu không bảo hộ được sản xuất trong nước, khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh trạnh được với hàng hoá ngoại nhập. Để giải quyết sự không đồng nhất trên, cần có sự nhất trí của các cơ quan liên quan về mã số của đối tượng nộp thuế, coi đây là một khâu quan trọng trong quá trình cải cách quản lý nhà nước theo hướng chính quy, tạo điều kiện cho việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế và công tác quản lý nhà nước nói chung. Việc cần làm là: + Trước mắt tổng cục Hải quan là người đứng ra quy định mã số thuế cho các doanh nghiệp và các doanh nghiệp phải ghi mã số thuế trên tất cả các hoá đơn, chứng từ của mình. Mã số thuế này được căn cứ theo danh mục hàng hoá XNK Việt nam do tổng cục thống kê ban hành. + Tương lai các Bộ sẽ phối hợp để áp dụng mã số HS cho tất cả các loại hàng hoá xuất nhập khẩu và giải thích cho các doanh nghiệp về công ước “ HS ” Công ước “ HS ” là công ước quan trọng nhất của Hải quan thế giới vì nó là một công ước về “một ngôn ngữ chung toàn cầu về hàng hoá ” liên quan đến nhiều lĩnh vực như tài chính, thương mại, thống kê.. Nhà nước ta phải cố gắng tham gia công ước “ HS ”. Khi đã trở thành thành viên tham gia công ước thì việc chấp hành các quy định của công ước trở thành nghĩa vụ của mỗi nước thành viên. 5.7 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing. Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư.. Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh. Tài liệu tham khảo * Sách 1. Bộ kế hoạch và đầu tư - Viện chiến lược phát triển: “ công nghiệp hoá và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu”. NXB Chính trị Quốc gia 2000. 2.Bùi xuân Lưu: “ Giáo trình kinh tế ngoại thương”. NXB giáo dục - trường đại học ngoại thương 1998. 3. Đinh xuân Trình và Nguyễn duy Bột: “ Thương mại quốc tế”. NXB Thống kê - Hà nội 1996. 4.Đỗ hoàng Toàn và Mai văn Bưu: “ Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế”. khoa khoa học quản lý- Trường đại học KTQD- NXB giáo dục. 5. Hoàng thị thanh Nhàn: “ Công nghiệp hoá hướng ngoại - sự thần kỳ của NIE châu á”. NXB Chính trị Quốc gia - Hà nội 2000. 6. Lê đăng Doanh, Nguyễn thị kim Dung, Trần hữu Huân: “ Nâng cao năng lực cạnh tranhvà bảo hộ sản xuất trong nước - kinh nghiệm của Nhật bản và ý nghĩa áp dụng đối với Việt nam”. NXB Lao động - Hà nội 2001. 7. Lê xuân Trinh: “ Kinh tế xã hội Việt nam năm 2003 phương hướng và giải pháp”. 8. Lê minh Tâm: “ Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu giai đoạn 1999-2003”. Vụ kế hoạch và đầu tư - trung tâm thông tin 7/1999. 9. Mai ngọc Cường và Vũ văn Huân : “ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt nam”. NXB Thống kê- Hà nội 1999. 10. Mohamed Ariff và Hal Hill: “ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - kinh nghiện của ASEAN”. NXB khoa học xã hội - Viện châu á Thái Binh Dương - 1995. 11.Vũ Ngọc Thanh: “ chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1999-2003”. Bộ kế hoạch và đầu tư - trung tâm thông tin - Hà nội 5/1999. 12.Võ thanh Thu: “ Kinh tế đối ngoại”. NXB Thống kê 1997. 13.Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, Nghị quyết TƯ 4 - Khoá VIII. * Báo và Tạp chí: 1.Tạp chí Thương mại: số 5,9,10,22,24/2000; số 7,8,16,23/2001, số 1/2002. 2.Tài Chính số tháng 1/2002. 3.Tạp chí Con số và sự kiện: 12/1999; số 1+2/2002 4.Tạp chí kinh tế và phát triển số 28 ( 1+2/2002) 5.Tạp chí phát triển kinh tế số 98 (12/2001). 6.Thương nghiệp thị trường Việt nam 1+2/2002 7.Báo đầu tư số 18 (ngày 1/3/2002); số 16 (ngày 23/2/2001) 8.Thời báo kinh tế Việt nam số 57 (18/7/2001); số 65( ngày 15/8/2001) 9.Nghiên cứu kinh tế số 239 (tháng 4/2001). 10.Tài liệu hội thảo “ Kinh nghiệm của Đức và quốc tế về khuyến khích xuất khẩu”- Vụ thương mại dịch vụ - Bộ kế hoạch và đầu tư. * Danh mục các văn bản pháp luật đã tham khảo. 1. Nghị định 75/CP - Quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ kế hoạch và đầu tư. 2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam 3. Nghị định 10/ 2001/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam 4. Nghị định 55/CP ngày 3/3/2001 về xuất nhập khẩu 5. Nghị định 54/CP ngày 28/8/1996 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật xuất khẩu, nhập khẩu và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật xuất khẩu, nhập khẩu. 6. Quyết định 178/2001/QĐ - TTg ngày 19/9/2001 về hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu 7. Quyết định 764/2001/QĐ - TTg ngày 24/8/2001 về việc lập quỹ thưởng xuất khẩu. 8. Quyết định 11/2001/QĐ - TTg ngày 30/12/2001 về điều hành XNK hàng hoá năm 2002. 9. Báo cáo đánh giá tình hình XNK năm 2001 của vụ thương mại dịch vụ - Bộ kế hoạch và đầu tư. 10.Tờ trình Thủ tướng Chính phủ về kết quả xuất khẩu năm 2001 và các biện pháp khuyến khích xuất khẩu năm 2002 ngày 13/3/2002 - Bộ thương mại. 11. Quyết định 53/2002/QĐ - TTg ngày 26/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phụ lục tình hình xuất khẩu gạo Năm đ.vị 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Sản lượng Tr. Tấn 19,6 21,59 22,83 24,00 25,00 26,00 Xuất khẩu Tr.tấn 1,033 1,934 1,725 2,040 2,040 3,003 3,1 3,6 Nguồn: Vụ thương mại dịch vụ - Bộ Kế hoạch và đầu tư tình hình xuất khẩu cà phê Đơn vị: 1000 tấn Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Sản lượng 102 119 136 180 218 410 420 Xuất khẩu 93,5 116,2 122,7 176,4 210 283 404 360 Nguồn: Vụ thương mại dịch vụ - Bộ Kế hoạch và đầu tư Tình hình hàng may mặc xuất khẩu Đơn vị Triệu USD Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch 158 220.7 335.0 554.0 850.0 1150.0 1300 1450 tình hình xuất khẩu dầu thô Năm Sản lượng( 1000 tấn) Giá trị xuất khẩu ( Tr USD) 1994 3956 581.0 1995 5501 806.0 1996 6312 843.0 1997 6850 866.3 1998 6949 1033 1999 7652 1159.2 2000 8705 1345.7 2001 12140 1244 Thị trường hàng thuỷ sản của Việt nam Thị trường Đ.vị 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kimngạch xuất khẩu Tr$ 239.1 285.4 306.5 368.6 483.4 630 651.0 Trong đó 37635 41577 45800 55680 60349 66478 68235 Nhậ Bản Tấn 11368 16037 22005 30600 31543 35621 37056 Singapore Tấn 1435 15675 10730 11558 13278 14796 14815 Hongkong Tấn 3688 8804 10272 12177 13652 13957 14182 Australia Tấn 126 226 375 367 524 642 675 Đài Loan Tấn 429 107 162 216 275 303 Pháp Tấn 167 129 446 469 563 476 427 Anh Tấn 181 1782 260 270 450 481 Các nước khác Tấn 20851 99 83 87 103 98 96 Nguồn: Vụ Kế hoạch- thống kê, Bộ Thương mại Kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực Mặt hàng Đ.vị 2003 2005 2010 2020 Gạo Tr tấn 4 Cà phê Tr tấn 420 530 600 730 Dầu thô Tr tấn 20 May mặc Tỷ USD 3 2 5 10 Giầy da Tỷ USD 1.5 2.3 3 5 Thuỷ sản Tỷ USD 1.2 1.5 1.9 2.5 Đồ chơi trẻ em Tỷ USD 2 1 5 Sản phẩm điện tử Tỷ USD 1.8 2.5 4.0 12.0 Dịch vụ phần mềm Tỷ USD 1 2 5 10 Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỷ USD 20 35 70 200 Nguồn: Vụ Kế hoạch- thống kê, Bộ Thương mại Dự báo cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam năm 2003 Mặt hàng Trị giá ( Tỷ USD) Tỷ trọng ( % ) Hàng nông, lâm sản 6 3.0 Hàng thuỷ sản 1.2 6 Hàng CN nhẹ và tiểu thủ CN 4.2 21 Hàng CN nặng và khoáng sản 5.1 25.5 Các ngành dịch vụ 3.5 17.5 Tổng giá trị 20 100 Nguồn: Vụ Kế hoạch- thống kê, Bộ Thương mại Dự báo cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt nam Đơn vị % Thị trường 1994 - 1998 2003 2010 2020 Châu á- Thái Bình Dương 80 50 45 40 Nhật bản 28.5 12 11 10 ASEAN 18.0 10 10 10 Trung Quốc 7.4 8 7 6 Đài Loan 5.4 6 5 4 Hông kông 4.9 5 4 3 Hàn Quốc 2.2 3 3 3 Các nước khác 16.3 6 5 4 Châu Âu 15 25 23 20 EU 12 15 15 15 Liên Bang Nga 2.2 3 4 5 Các nước khác 0.8 7 4 0 Châu Mỹ 2 20 25 30 Mỹ 1 8 12 15 Các nước khác 1 12 13 15 Châu Phi 3 5 7 10 Tổng cộng 100 100 100 100 Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu 3 I/ Thương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 3 1. Các lý luận chung về thương mại quốc tế 3 2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 7 II/ Vị trí vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 8 1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá 8 2. Vai trò của xuất khẩu 13 III/ Chính sách thúc đẩy xuất khẩu 13 1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu 13 2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu 18 3. Kinh nghiệm của các nước khi áp dụng một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu 19 Chương II: Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam 23 I/ Chính sách khuyến khích đầu tư 23 1. Nội dung của chính sách khuyến khích đầu tư 23 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu 25 II/ Chính sách tài chính tín dụng 34 III/ Chính sách tự do hoá thương mại 36 1. Cải cách thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu 36 2. Hạn ngạch xuất nhập khẩu 38 3. Chính sách thuế 39 IV/ Chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 40 1. Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 40 2. Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua 43 V/ Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu 51 1. Một số thị trường chủ yếu của Việt Nam 52 2. Tác động của chính sách thị trường đối với hoạt động xuất khẩu 56 VI/ Tham gia các tổ chức kinh tế thế giới 62 VII/ Đào tạo nhân lực 63 Chương III: Một số biện pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam 64 I/ Kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam trong tươnglai 64 1. Kế hoạch xuất khẩu năm 2002 64 2. Kế hoạch dài hạn 65 II/ Một số biện pháp và kiến nghị nhằm đổi mới chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam 69 1. Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư 69 2. Các biện pháp về tài chính tín dụng 73 3. Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh 78 4. Các vấn đề chất lượng thị trường và xúc tiến thương mại 79 5. Cải cách thủ tục hành chính 82 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 86 Phụ lục 87 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0504.doc
Tài liệu liên quan