Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO

Mục lục Trang lời mở đầu Ngành công nghiệp Dệt May là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam và là một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thực tế các năm qua đã chứng minh điều này. Sản xuất của Ngành tăng trưởng nhanh ; kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao ; thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu theo hướng có tích luỹ ; thu hút ngày càng nhiều lao động, gi

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải quyết công ăn việc làm, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị xã hội đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập với thế giới và khu vực, để phát triển ngành Dệt May Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Theo Hiệp định ATC/WTO, từ 1/1/2005 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu cho các nước xuất khẩu hàng Dệt May là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi đó các cường quốc xuất khẩu hàng Dệt May như ấn Độ, Indonesia, HongKong, Đài Loan, Hàn Quốc... và đặc biệt là Trung Quốc sẽ có lợi thế xuất khẩu thế giới. Theo Hiệp định AFTA, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ giảm xuống từ 40 – 50% như hiện nay xuống còn tối đa là 5%, khi đó thị trường nội địa hàng Dệt May Việt Nam không còn được bảo hộ trước hàng nhập từ các nước trong khu vực. Như vậy, hàng Dệt May Việt Nam sẽ phải cạnh tranh rất khốc liệt so với các nước xuất khẩu hàng Dệt May. Có thể thấy rằng ngành Dệt May Việt Nam đang thiếu chiều sâu cho sự phát triển của Ngành. Trong khi ở các nước phát triển lợi thế cạnh tranh trong ngành Dệt May mà họ có được thông qua vốn và công nghệ thì ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chỉ là ngành sử dụng lao động rẻ. Do vậy, trước những thách thức trong tình hình mới, việc đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm làm cho ngành Dệt May phát triển đúng hướng, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng như thị trường nội địa là một yêu cầu thực sự cấp bách. Đó là lý do để tôi chọn đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO” làm chuyên đề tốt nghiệp. Bố cục chuyên đề được chia làm 3 phần : Phần I : Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá. Phần II : Thực trạng của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam từ 1996 – 2001. Phần III : Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam từ nay đến 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo GVC. Nguyễn Thị Kim Dung, cô Trần Mai Hồng cùng tập thể các cô chú trong Vụ công nghiệp – Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình. Do thời gian nghiên cứu ngắn, cộng với sự phức tạp của đề tài nên tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp của các thầy cô cùng toàn các bạn. Sinh viên Ngô Thị Thuỷ Phần I vai trò của ngành công nghiệp dệt - may việt nam đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Xu thế chuyển dịch sản xuất hàng Dệt May trên thế giới Ngành công nghiệp Dệt May gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người. Vì vậy từ rất lâu trên thế giới, ngành công nghiệp này được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp Dệt May là ngành thu hút nhiều lao động với yêu cầu kỹ năng không cao, vốn đầu tư không lớn và có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Do đó, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá tư bản, từ các nước phát triển như Nhật, Mỹ, Anh, Pháp… cho đến các nước công nghiệp mới (Nics) như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singarpo,…, ngành công nghiệp Dệt May thường phát triển mạnh và có hiệu quả cao trong quá trình công nghiệp hoá của họ. Khi một nước đã có công nghiệp phát triển, có trình độ công nghiệp cao, giá lao động cao thì sức cạnh tranh trong sản xuất hàng Dệt May giảm, lúc đó sẽ chuyển sang những ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, sử dụng lao động ít mà mang lại lợi nhuận cao. Lịch sử phát triển của ngành công nghiệp Dệt May thế giới cũng là sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Dệt May từ khu vực phát triển sang khu vực khác kém phát triển hơn do tác động của lợi thế so sánh. Sự dịch chuyển này được gọi là “hiệu ứng chảy tràn” hay “làn sóng cơ cấu”. Có thể nói ngành công nghiệp Dệt May đã tạo nên một làn sóng, sóng lan tới đâu thì nước đó phát triển kinh tế vượt bậc.Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sản xuất Dệt May không còn tồn tại ở các nước phát triển mà thực tế ngành này đã tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Sự dịch chuyển thứ nhất vào những năm 1840 từ nước Anh, cha đẻ của ngành công nghiệp Dệt sang các nước ở châu Âu, khi ngành công nghiệp Dệt May đã trở thành động lực chính cho sự phát triển thị trường sang các khu vực mới khai phá ở Bắc và Nam Mỹ. Sự chuyển dịch lần thứ hai là từ châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950, trong thời kỳ hậu chiến thứ hai. Từ những năm 1950, khi chi phí sản xuất ở Nhật tăng cao và thiếu nguồn lao động thì công nghiệp Dệt May lại được chuyển dịch sang các nước mới công nghiệp hoá (NICs) như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc. Quá trình chuyển dịch được thúc đẩy mạnh bởi nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác lợi thế về nguyên liệu tại chỗ là giá nhân công thấp. Cho đến nay công nghiệp Dệt May không còn giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế nhưng vẫn còn đóng góp rất lớn về nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu của các nước này. Vào nhứng năm 1980, khi các nước Đông á dần chuyển sang sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có công nghệ và kỹ thuật cao hơn như hàng điện tử, ô tô,... thì lợi thế so sánh của ngành Dệt May đã bị mất đi ở các nước này. Các nước NICs buộc phải chuyển những ngành này sang các nước ASEAN, Trung Quốc và tiếp tục sự chuyển đổi này từ các nước này sang các nước Nam á. Vào cuối những năm 1990, tất cả các nước ASEAN đều đạt mức cao về xuất khẩu sản phẩm Dệt May, vị trí của các nước này trong mậu dịch thế giới tăng đáng kể so với trước đây. Cùng trong xu hướng dịch chuyển này, Dệt May Việt Nam đang hoà nhập với lộ trình của ngành Dệt May thế giới. Là nước đi sau, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc kế thừa thành tựu của các nước công nghiệp phát triển. Tận dụng được xu thế dịch chuyển như vậy đã tạo cho ngành Dệt May Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển. Việt Nam cần thực hiện các chính sách “đi tắt, đón đầu”, một mặt tiếp nhận nhanh chóng quá trình dịch chuyển ngành từ các nước, mặt khác phải tiếp tục đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đầu tư khoa học công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, sản phẩm có giá trị gia tăng đóng góp vào GDP lớn bắt kịp công nghiệp Dệt May của các nước phát triển. Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đối với quá trình CNH – HĐH 2.1) Đặc điểm của ngành công nghiệp Dệt May : Thứ nhất, ngành Dệt May là ngành thu hút nhiều lao động : Do tính chất đặc thù của mình, ngành công nghiệp Dệt May đòi hỏi số lượng lao động lớn, từ lao động thủ công giản đơn như thợ may ráp nối không cần phải đào tạo công phu đến lao động yêu cầu kỹ thuật cao như vẽ kiểu, giác sơ đồ, cắt bằng máy tính. Trên phạm vi ngành công nghiệp Dệt May thế giới, các nước phát triển thường nắm những khâu kỹ thuật cao, thu nhiều lợi nhuận nhất là khoán lại cho các nước đang phát triển những khâu kỹ thuật thấp mà phổ biến nhất là ráp nối hàng may mặc với mẫu mã và nguyên phụ liệu được cung cấp sẵn. Tuy nhiên với các nước đang phát triển, trong điều kiện rất thiếu vốn để tiến hành đầu tư thì may gia công cũng góp phần thu ngoại tệ, tạo vốn cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đồng thời giải quyết nhiều việc làm cho người lao động (đặc biệt là lao động ở nông thôn). Hiện nay, lao động trong ngành Dệt May chủ yếu tập trung ở châu á (chiếm tới 57%) vì đây là khu vực có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp, phù hợp cho việc phát triển của ngành Dệt May Đối với Việt Nam, một quốc gia có dân số đông và trẻ so với trong khu vực và trên thế giới. Tính đến ngày 31/12/2000, dân số cả nước là 77.685.000 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động khoảng 43,8 triệu người. Hàng năm có khoảng từ 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung liên tục vào lực lượng lao động vốn đã đông đảo. Với một lực lượng lao động dồi dào như vậy, nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả ngành Dệt May Việt Nam rất có điều kiện để phát triển. Đồng thời đó cũng là một thị trường tiêu thụ hàng Dệt May tiềm năng. Tuy nhiên, là một ngành thu hút nhiều lao động cũng có nghĩa là Ngành phải chịu gánh nặng xã hội và nhiều áp lực từ phía Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Nếu một doanh nghiệp phá sản kéo theo hàng trăm người thất nghiệp và những hậu quả sau đó cần giải quyết. Thứ hai, sản phẩm của ngành Dệt May mang tính chất thời trang : Sản phẩm của ngành Dệt May là sản phẩm tiêu dùng, phục vụ cho nhu cầu của tất cả mọi người. Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... nên sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Do đó đòi hỏi sản phẩm ngành Dệt May phải phong phú và đa dạng. Sản phẩm Dệt May là sản phẩm tiêu dùng nhưng mang tính thời trang cao, thường xuyên phải thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng cho người tiêu dùng. Do vậy vòng đời sản phẩm Dệt May thường ngắn. Trong sản phẩm Dệt May, nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để phán xét chất lượng sản phẩm. Với sản phẩm Dệt May, yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ đến thời cơ bán hàng. Với các nhà xuất khẩu điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong vấn đề giao hàng đúng thời hạn. Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng và phong phú, người Việt Nam rất nhạy cảm và tinh tế trong việc ăn mặc. Khi sản phẩm Dệt May chuyển sang sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao và có chứa đựng yếu tố văn hóa thì đây chính là lợi thế không kém phần quan trọng cho các doanh nghiệp Dệt May khai thác thị trường trong nước, nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu mang nhãn mác Việt Nam. Thứ ba, ngành Dệt May là ngành được bảo hộ cao : Trước khi có Hiệp định về hàng Dệt May - kết quả quan trọng trong vòng đàm phán Uruguay, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm Dệt May được điều chỉnh theo những thể chế thương mại đặc biệt mà theo đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế về số lượng hàng Dệt May nhập khẩu và mức thuế đánh vào hàng Dệt May còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nước nhập khẩu còn đề ra những điều kiện riêng đối với hàng Dệt May nhập khẩu. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất hàng Dệt May trên thế giới. Với Hiệp định về hàng Dệt May, Việt Nam vừa có nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phải chịu những quy định chặt chẽ, những yêu cầu cao hơn khi xuất khẩu hàng Dệt May. Do đó, muốn thành công trong việc xuất khẩu hàng Dệt May ra thị trường nước ngoài, cần phải có sự hiểu biết rất rõ về những chính sách bảo hộ, ưu đãi của từng quốc gia và của thế giới với ngành Dệt May. Có như vậy thì kết quả thu được mới đạt hiệu quả cao, tránh được những lãng phí và sai lầm không đáng có. 2.2) Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH Từ sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với đường lối phát triển kinh tê mở (đa dạng hoá các thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc sản xuất hai bên cùng có lợi, chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, quan tâm đến phát triển nông nghiệp và nông thôn), ngành công nghiệp Dệt May đã thể hiện được là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút được nhiều lao động. Đến nay lực lượng lao động trong Ngành có khoảng 1.600.000 người, chiếm 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội. Theo dự đoán, đến năm 2005 và 2010, lao động trong ngành Dệt May sẽ tăng lên tương ứng là 3.000.000 và 4.000.000 người. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp Dệt May đã bắt đầu tạo ra các mối liên kết kinh tế, có ý nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá. Ngành công nghiệp Dệt May tăng trưởng nhanh tạo ra nhu cầu lớn về nguyên liệu như bông, tơ tằm, do đó đã khuyến khích nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sản xuất độc canh cây lương thực sang trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Đồng thời, với việc mở rộng sản xuất, nhu cầu về máy móc thiết bị và phụ tùng thay thế của Ngành cũng tăng lên, do đó có tác động khuyến khích ngành cơ khí mở rộng sản xuất cung cấp phụ tùng thay cho ngành Dệt May (do trình độ công nghệ còn hạn chế, ngành cơ khí Việt Nam chưa đủ sức cung cấp dây chuyền đồng bộ hiện đại cho ngành Dệt May). Tất cả đều đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, cải thiện đời sống nhân dân. Trong các năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May liên tục tăng từ năm 1992 đến nay với tốc độ cao và luôn là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đặc biệt từ năm 1994, kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May luôn đứng thứ hai về giá trị, chỉ sau dầu thô. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May tăng nhanh qua các năm cả về giá trị tuyệt đối (năm 1991 đạt 189 triệu USD ; đến năm 1995 đã đạt 850 triệu USD và đến năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đạt 1.975 triệu USD) lẫn tốc độ tăng trưởng (trong giai đoạn 1995 – 2000 tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May là 17,4%). Hiện nay Ngành tạo ra khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, 41% kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp chế tác, mang lại nguồn ngoại tệ rất quý giá cho đất nước trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời thông qua xuất khẩu, nền kinh tế Việt Nam mới có thể hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Với xu hướng hội nhập kinh tế, ngành Dệt May Việt Nam đang đứng trước một cơ hội phát triển thị trường xuất khẩu hết sức to lớn : thị trường Châu Âu (chủ yếu là EU), Nhật Bản, Trung Đông, Châu á, Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ mà chúng ta mới đạt được Hiệp định Thương mại với họ. Đối với thị trường Hoa Kỳ, trong thời gian đầu chưa có hạn ngạch, ngành Dệt May Việt Nam cần tranh thủ xuất khẩu tối đa để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi vì đây là thị trường có sức mua hàng Dệt May lớn lại dễ tính. Đối với thị trường Châu á (các nước ASEAN), ngành Dệt May Việt Nam cần nâng cao sức cạnh tranh để đối phó với sản phẩm của các nước trong khối này có điều kiện xâm nhập vào thị trường Việt Nam với thuế suất thấp sau năm 2000, vì Dệt May cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các nước này. Đối với thị trường EU, ngành Dệt May Việt Nam cần nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng Dệt May khác và đáp ứng được đòi hỏi cao về sản phẩm của thị trường này. Trên con đường phát triển trong thời gian tới, ngành Dệt May Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, xuất phát từ cạnh tranh ngày một gay gắt hơn trong xu thế hội nhập khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, ngành Dệt May Việt Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của nó và so với ngành Dệt May của một số nước trong khu vực (năng lực của ngành Dệt May Việt Nam hiện chỉ bằng 1/10 so với Thái Lan, 1/15 so với Indonesia, 1/30 so với ấn Độ và 1/50 so với Trung Quốc). Việc thực hiện Hiệp định ATC/WTO ở giai đoạn cuối cùng từ nay đến năm 2004 sẽ càng làm cho vị trí cạnh tranh của hàng Dệt May Việt Nam trên các thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ thêm khó khăn do nước ta chưa phải là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc thực hiện AFTA/CEFT từ nay đến cuối năm 2005 sẽ làm giảm dần và đến loại bỏ hoàn toàn vào năm 2006 việc bảo hộ hàng Dệt May Việt Nam tại thị trường nội địa trước hàng nhập khẩu của các nước Đông Nam á. Yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong bối cảnh đó đặt ra cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam nhiều bài toán hết sức khó khăn. Đó là làm sao để vừa phát triển mở rộng được sản xuất, vừa nâng cấp và khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Làm sao trong thời gian ngắn (từ 3 đến 5 năm), các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải đưa ra được năng lực quản lý sản xuất và tiếp thị lên ngang tầm với các nước xuất khẩu trong khu vực để có thể cạnh tranh được về năng suất lao động, giá thành và chất lượng sản phẩm, uy tín nhãn hiệu, thiết kế sản phẩm, giao hàng nhanh đúng tiến độ và khả năng sản xuất được các lô hàng nhỏ. Vì vậy, ngay từ bây giờ ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam cần phải có những giải pháp cụ thể để đưa Ngành có đủ năng lực cạnh tranh với các nước khác trên thế giới vào thời điểm 2006 và những năm sau đó. Hiện nay, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã trở thành thành viến chính thức của Hiệp hội Dệt May Đông Nam á (aftex), tham gia vào Hiệp hội bông Liperpool và quan hệ Thương mại Việt – Mỹ đã và đang diễn ra theo hướng tích cực. Cùng với đường lối đối ngoại mở rộng, chúng ta có thể tin tưởng rằng ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa và trở thành một ngành kinh tế chủ lực của đất nước. II. sự cần thiết phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam Ngành công nghiệp Dệt May cần được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta trong những năm tiếp theo. Trong 4 năm qua (1996 – 2000), kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May đều tăng và đã vươn lên hàng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Mặt khác, ngành công nghiệp Dệt May là ngành thu hút nhiều lao động, vốn đầu tư không lớn và đang trong xu hướng tiếp nhận sự chuyển dịch từ các nước Đông á và các nước Đông Nam á. Nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào và lành nghề nên có thể coi đây là một trong các lĩnh vực lớn có khả năng phát triển nhất. Dự báo tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Dệt May là trên 10% trong giai đoạn 2000 – 2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá ngành công nghiệp Dệt May phải được ưu tiên phát triển. Phát triển ngành công nghiệp Dệt May theo phương châm "hướng ra xuất khẩu với thay thế nhập khẩu". Hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã được xác nhận. Đó là một trong những chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới hiện nay. ở nước ta, phải tận dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế tăng trưởng càng nhanh, có hiệu quả bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả, không mẫu thuẫn với hướng về xuất khẩu. Ngành công nghiệp Dệt May là một trong những ngành có khả năng làm được điều đó. Thực tế trong những năm qua cho thấy, chiến lược hướng ra xuất khẩu đã thu được nhiều kết quả khích kệ, tốc độ tăng bình quân của kim ngạch xuất khẩu của hàng Dệt May giai đoạn 1995 - 2000 là 17,4%/năm. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện tái đầu tư để hiện đại hoá thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất. Song song với xu thế đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với dân số đông và sức mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt May nói riêng phải đáp ứng cho được các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm Dệt May bình thường, phù hợp với đa số người dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những nhóm người có thu nhập cao. Để làm được điều này, vấn đề quyết định là phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Dệt May ở thị trường trong nước, thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm công tác nghiên cứu, lựa chọn những mặt hàng thích hợp đang được nhập khẩu nhiều mà năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp trong nước phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt hàng này. Hiện tại, các sản phẩm Dệt May của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dầu chất lượng có kém hơn, song do thắng áp đảo về giá nên họ vẫn chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở nông thôn. Đây là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất phải bằng nhiều cách để tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được. Phát triển ngành công nghiệp Dệt May theo hướng hiện đại và đa dạng hoá về sản phẩm. Công nghệ hiện đại ngày nay đã trở thành một yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của một quốc gia, hay sức cạnh tranh của một sản phẩm trên thị trường quốc tế. Chúng ta chỉ có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển và tham gia vào phân công lao động quốc tế thông qua việc tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới. Từ nhận đinh đó, ngành công nghiệp Dệt May được phát triển theo hướng hiện đại hoá và đa dạng về sản phẩm. Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, nhu cầu hàng tiêu dùng sẽ tăng lên không chỉ thuần tuý về mặt số lượng mà nhu cầu tăng cả về chất lượng, mẫu mã, chủng loại. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu nhập tăng lên, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối còn tỷ lệ tiêu dùng hàng hoá sẽ tăng lên rất nhanh. Như vậy, cùng với việc tăng dân số và tăng thu nhập, trong những năm tới, thị trường trong nước sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt May nói riêng. Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhận thành công sự dịch chuyển kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ thâm nhập vào các thị trường quốc tế mới, ngành Dệt May càng cần phải trang bị lại theo hướng hiện đại. Có như vậy mới có thể đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao, càng đa dạng của cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tất cả những yếu tố đó đòi hỏi Ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu. Phát triển công nghiệp Dệt May gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2010, Đảng ta đã chỉ rõ : cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hoá nông thôn. Như vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp Dệt May (là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp như bông, tơ tằm,...), trong chiến lược phát triển của mình cần phải xác định được hướng phát triển là gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp. Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết các loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu : kể cả xơ bông là loại nguyên liệu mà ta có khả năng cung cấp một phần, tơ tằm tuy không phải nhập khẩu nhưng nguồn tơ sản xuất bị hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng nên giá xuất khẩu thấp. Do vậy, muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định và bền vững, ngành Dệt May phải tạo được cho mình một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định. Phát triển công nghiệp Dệt May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt các ngành công nghiệp khác như : Công nghiệp hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên liệu tổng hợp, nhân tạo, các loại hoá chất, thuốc nhuộm... ; Công nghiệp cơ khí chế tạo để sản xuất ra các phụ tùng thay thế, tiến tới sản xuất ra các loại máy móc từ đơn giản đến phức tạp cho Ngành ; ngoài ra còn kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì. Để làm được những điều trên, điều quan trọng là phải xây dựng được hệ thống các quy hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra sự liên kết ngang chặt chẽ giữa các ngành công nghiệp Dệt May với nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác. Các quy hoạch này cần được phối hợp bảo đảm tính cân đối, ăn khớp giữa chúng với nhau. Đặc biệt, nông nghiệp thì phải có quy hoạch từ khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến tiêu thụ sản phẩm. Làm được như vậy thì ta sẽ đáp ứng được những yêu cầu phát triển của bản thân ngành công nghiệp Dệt May, đồng thời kéo theo quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhiều ngành khác. Phát triển ngành công nghiệp Dệt May theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta. Thực tế cho thấy, ở bất cứ một ngành kinh tế kỹ thuật nào, nếu không có nhiều thành phần kinh tế tham gia thì sẽ không tạo ra được môi trường cạnh tranh, mà cạnh tranh chính là động lực của sự phát triển. Trong tổ chức sản xuất của ngành công nghiệp Dệt May đã có những mô hình có quy mô lớn nhưng hiệu quả kém. Qua nhiều lần tiến hành đổi mới tổ chức quản lý và qua hoạt động thực tiễn cho thấy : các doanh nghiệp Dệt May có quy mô vừa và nhỏ là những mô hình hoạt động tốt. Về cơ cấu sở hữu, trong ngành Dệt May trước kia, đặc biệt là ngành Dệt chỉ tồn tại hai loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã. Những năm gần đây, với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đã xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNNH tham gia sản xuất cả ở những lĩnh vực mà trước đây không có do đòi hỏi kỹ thuật cao như kéo sợi. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp May, đã có tới hàng trăm công ty TNNH, công ty cổ phần và các tổ hợp. Như vậy, phát triển ngành công nghiệp Dệt May ở Việt Nam theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là cần thiết. Phần II Thực trạng của ngành công nghiệp Dệt - may việt nam từ năm 1995 đến năm 2000 Thực trạng về tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của ngành Dệt - May Tình hình sản xuất giai đoạn 1995-2001 Theo thống kê kết quả sản xuất của Ngành qua các năm như sau: Bảng 1: Kết quả sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 – 2001 Chỉ tiêu Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tăng BQ(%) Doanh thu Tỷ đồng 4567 4954 5462 5882 6579 8083 9566 13,2 Nộp ngân sách Tỷ đồng 162,4 163,5 134,3 140,6 209,0 259 298,6 10,6 KNXK Triệu USD 850 1150 1503 1450 1747 1900 1975,4 9,25 Sản phẩm chính Sợi 1000 tấn 59,2 65 67,5 69 74 80 86 6,41 Vải Triệu met 263 285 298 315 317 376 402 7,32 Hàng may mặc Triệu SP 172 206,9 302 275 305 334 367 13,48 Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Qua bảng số liệu ta thấy nhìn chung các chỉ tiêu toàn Ngành đều có mức tăng trưởng khá từ 6% đến 14%/năm, đặc biệt là trong mấy năm gần đây tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và số lượng sản phẩm may mặc có sự tăng lên đột biến. Điều này cho thấy làn sóng Dệt May đã thực sự xâm nhập vào nước ta và đang phát triển với tốc độ cao. Từ năm 1993 đến năm 1997 : Giai đoạn này thị trường xuất khẩu của ngành Dệt May gặp nhiều thuận lợi như Hiệp định Thương mại hàng Dệt May Việt Nam – EU được mở, các thị trường phi hạn ngạch như Nhật Bản, Canada cũng phát triển nhanh và bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Từ năm 1997 đến năm 1999 : Giai đoạn mà cơn khủng hoảng tài chính khu vực, đặc biệt là khủng hoảng tài chính từ Hàn Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng đến sản xuất và kinh doanh hàng Dệt May của Việt Nam. Giá gia công giảm sút, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và vào khu vực cũng giảm nhanh. Mức độ cạnh tranh găy gắt hơn. Nhiều công ty Dệt May trong khu vực lâm vào tình trạng phá sản, khó khăn về tài chính kéo dài... Tuy nhiên, trong giai đoạn này, thị trường EU có thuận lợi hơn, tiếp cận được với thị trường Mỹ nhiều hơn, chuẩn bị điều kiện để nối lại thị trường Nga và các nước SNG. Từ năm 2000 đến 2001 : Chuyển sang năm 2001, năm mở đầu cho thời kỳ kế hoạch 2001 – 2005, các doanh nghiệp Dệt May có một số thuận lợi cơ bản như kinh tế nước ta đang có đà hồi phục, Nhà nước tăng cường các hoạt động đối ngoại mở rộng thị trường, ngành Dệt May được Chính phủ quan tâm phê duyệt chiến lược phát triển kèm theo các chính sách ưu đãi tạo điều kiện vươn lên hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên Ngành cũng gặp phải những khó khăn lớn và những biến động phức tạp như : - Kinh tế thế giới tiếp tục trì trệ và suy giảm sau sự kiện ngày 11/9. Thị trường các nước nhập khẩu hàng Dệt May lớn như Nhật, Mỹ bị thu hẹp. Cạnh tranh gay gắt dẫn đến giá xuất khẩu giảm mạnh. Một số thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Một số thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam (Mỹ, Đông Âu, SNG) chưa đủ điều kiện để khai thác có hiệu quả. - Thiên tai năm 2000 và 2001 liên tiếp xảy ra để lại hậu quả nặng nề, các mặt hàng nông sản rớt giá làm thị trường trong nước kém sôi động. Thêm vào đó, hàng Dệt May nhập lậu trốn thuế với số lượng lớn gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp - Các chính sách ưu đãi tại Quyết định số 55 của Chính phủ chưa được các cơ quan quản lý Nhà nước hướng dẫn kịp thời. - Vốn lưu động thiếu, vốn vay đầu tư lớn, chi phí đầu vào tăng đã làm tăng giá thành, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cũng theo bảng số liệu ta thấy : Sản lượng hàng may mặc có tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn hẳn so với tốc độ tăng trưởng của sản lượng sợi và sản lượng vải (tốc độ tăng bình quân của hàng may mặc là 13,4%, trong khi đó tốc độ tăng bình quân của sợi và vải chỉ có 6,41 và 7,32%). Điều này phản ánh được phần nào có sự tăng trưởng không cân đối giữa ngành Dệt và ngành May, Dệt không theo kịp May, May tăng trưởng nhanh lại không kéo theo được sự tăng trưởng nhanh cho Dệt. Tức là sự liê._.n hệ giữa May và Dệt còn rất lỏng lẻo, hiệu quả của toàn ngành còn thấp do ngành May phải nhập nguyên liệu cho sự tăng trưởng nhanh của mình. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của ngành Dệt - May Tình hình tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng để tạo lập được thị trường tiêu thụ thì cần phải nghiên cứu và dự báo được nhu cầu thị trường, từ đó lựa chọn và tìm ra các biện pháp thích hợp để điều khiển các dòng hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ngày nay, các nhà sản xuất phải tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, sản xuất ra những gì mà thị trường đòi hỏi. Với ý nghĩa đó, thị trường có vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh của ngành Dệt - May. Tình hình tiêu thụ sản phẩm trong nước Việt Nam là một nước đông dân, hiện nay khoảng gần 80 triệu người, dự tính đến năm 2010 dân số nước ta vào khoảng 100 triệu người. Đây là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam vì hiện nay mức tiêu dùng hàng Dệt - May trên đầu người còn rất thấp: 0,8 kg/người, so với mức trung bình trên thế giới là 7,2 kg/người. Hơn nữa, với hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, hàng năm khu vực kinh tế - nông nghiệp đã tiêu thụ một khố lượng lớn hàng công nghiệp trong đó có hàng Dệt May. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam đã có một số hoạt động tích cực trong việc tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội địa như tổ chức các hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ thời trang, tổ chức các buổi biểu diễn thời trang, mở đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm cho người tiêu dùng trong nước. Những hoạt động này thực sự đã gây được sự chú ý đối với khách hàng. Hơn nữa, chất lượng hàng May Việt Nam giờ đây cũng đã được nâng lên rõ rệt, một số mặt hàng được nhiều người trong nước chấp nhận như áo sơ mi của Công ty May 10, Công ty May Việt Tiến, áo thu đông của Công ty May Thăng Long, áo jacket của Công ty May Đức Giang, hàng dệt kim của Dệt kim Hà Nội, Dệt 8/3, Việt Thắng… Những kết quả đó thể hiện sự cố gắng lớn của các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam và sự quan tâm đúng mức đối với thị trường trong nước. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam từ trung ương đến địa phương chỉ chú trọng vào việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu, những sản phẩm dành để tiêu thụ trong nước chủ yếu là những sản phẩm không xuất được (sản phẩm tồn kho, sản phẩm kém chất lượng…). Điều này thể hiện qua các gian hàng "giới thiệu sản phẩm" của một số doanh nghiệp, đưa ra những sản phẩm bị loại, không xuất khẩu được ra bán. Do vậy, việc tiêu thụ sản phẩm may mặc nội địa đã có sự sắp xếp một cách tự phát: ở khu vực thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, các cơ sở sản xuất hàng may mặc tư nhân ra đời rất nhanh với nhiều quy mô khác nhau dần thay thế cho may quốc doanh. Sự chuyển đổi này làm cho nhu cầu của người thành thị có vẻ là được đáp ứng đầy đủ, thuận tiện, hợp túi tiền của mọi đối tượng. ở khu vực nông thôn, miền núi thì ngược lại, thị trường gần như bị bỏ trống bởi khả năng thanh toán của thị trường quá thấp, không đủ sức hấp dẫn các tư thương đầu tư. Xét một cách tổng thể, có thể thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm Dệt May trong nước diễn ra rất chậm chạp là do thị trường hàng Dệt May trong nước đã bị coi thường. Tính tới thời điểm hiện nay, hệ thống tổ chức bán buôn, bán lẻ hàng Dệt May đều do tư thương thao túng, trong khi đó các nhà sản xuất và hệ thống thương nghiệp quốc doanh vẫn chưa tìm ra được phương thức hoạt động phù hợp. Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài Trong những năm vừa qua, kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May liên tục tăng, với mức tăng trưởng bình quân 17,4%. Hiện nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu trên 1,5 tỷ USD hàng Dệt May, trong đó thị trường EU chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam, sau đó đến Nhật chiếm 23%, ASEAN với 18%, Mỹ chiếm 2% và các khu vực khác chiếm 17%. Bảng 2: Thị trường xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam (1995-2000) Danh mục Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tăng BQ 1. Tổng KNXK Tr.USD 850 1150 1503 1450 1747 1892 17,4 2. Thị trường XK chủ yếu +) EU Tr.USD 350 420 450 620 700 726 +) Nhật Tr.USD 290 315 325 32 417 430 +) ASEAN Tr.USD 21 70 42 68 70 +) Mỹ Tr.USD 15 20 23 27 70 91 Nguồn: Tổng cục hải quan Thị trường Châu Âu (EU): Châu Âu từng được mệnh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường rộng lớn, là nơi cung cấp các trang thiết bị, công nghệ hiện đại, là một trung tâm tài chính - kinh tế lớn, với dân số trên 360 triệu người và có GDP hơn 9.000 tỷ USD, EU thực sự là một thị trường có đầy tiềm năng, có mức tiêu dùng hàng Dệt May khá cao so với thế giới (chỉ sau Mỹ và Nhật Bản) 17 kg/người/năm. Giá cả, chất lượng hàng Dệt May Việt Nam xuất khẩu sang EU được đánh giá là khá tốt. Do vậy, giá trị xuất khẩu tăng đáng kể trong những năm gần đây: năm 1998 đạt 546 triệu USD, năm 1999 đạt 605 triệu USD và năm 2000 đạt 650 triệu USD. Hiện EU là thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng Dệt May Việt Nam. Hàng năm, hàng Dệt May xuất khẩu sang EU chiếm trên dưới 40% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Sau hơn 7 năm xâm nhập vào thị trường EU, hàng Dệt May Việt Nam đã có một chỗ đứng khá vững chắc. Nếu như năm 1993, muốn xuất khẩu sang EU, Việt Nam phải xin hạn ngạch cho 151 mặt hàng nhưng đến nay số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch chỉ còn 29 mặt hàng. Đây là một thuận lớn cho các doanh nghiệp Dệt May trong việc từng bước thâm nhập thị trường này, mặc dù biết rằng thị trường EU là một thị trường khó tính, luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã đổi mới liên tục, số lượng đơn hàng chia nhỏ. Hơn nữa, hàng Dệt May Việt Nam còn phải chịu sự cạnh tranh từ các nước Châu á khác và Châu Mỹ. Hàng năm, EU nhập khẩu 63 tỷ USD hàng Dệt May các loại, trong đó Đức là thị trường lớn nhất chiếm 36,1%, tiếp theo là Pháp 12,15%, Hà Lan 9,41%, Thụy Sỹ 7,46%, Anh 7,06%, còn lại là các nước khác. Điều này cho thấy tỷ trọng hàng Dệt May của Việt Nam xuất khẩu sang EU luôn còn quá ít, mặc dù phải thừa nhận rằng Hiệp định buôn bán hàng Dệt May giai đoạn thứ hai 1998 - 2000 giữa Việt Nam và EU (ký kết vào ngày 17.11.1997) đã tạo ra một bước tiến trong xuất khẩu hàng Dệt May của nước ta. Do vậy, điều quan trọng để thâm nhập và tăng cường xuất khẩu vào thị trường này là phải không ngừng cải tiến chất lượng hàng hoá, mẫu mã hấp dẫn thì mới có thể cạnh tranh được với các nước khác. Hiện EU dành cho hàng Dệt May Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) nhưng phải chịu hạn ngạch. Đây là một thuận lợi lớn cho hàng Dệt May Việt Nam khi vào thị trường vì chỉ bị đánh thuế thấp, nâng cao được khả năng cạnh tranh về giá. Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là một cường quốc về công nghiệp Dệt May. Song do giá nhân công tại Nhật ngày càng cao và lại thiếu nhân công, đồng Yên lại tăng giá nên Nhật Bản đã chuyển đổi chiến lược là giảm sản xuất hàng Dệt May trong nước và tăng nhập khẩu hàng Dệt May từ nước ngoài mà chủ yếu là từ các nước đang phát triển. Với dân số 120 triệu người và khí hậu 4 mùa rõ rệt nên nhu cầu hàng Dệt May của Nhật Bản là rất lớn (20,3 kg/người/năm) và thay đổi liên tục. Kim ngạch nhập khẩu hàng Dệt May của Nhật Bản rất lớn, phần lớn là nhập từ Trung Quốc (hơn 50%). Mặc dù vậy, Nhật Bản vẫn được xem là thị trường nhập khẩu hàng Dệt May lớn nhất của Việt Nam. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản là 417 triệu USD (chiếm 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật và 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn Ngành). Ưu thế của thị trường Nhật là không có hạn ngạch, thuế nhập khẩu lại thấp, địa lý lại gần nên hàng Dệt May nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác. Đây là thị trường đầy hứa hẹn đối với các mặt hàng Dệt May Việt Nam trong cả trước mắt và lâu dài mà chúng ta cần đầu tư để duy trì và phát triển lên một mức cao hơn. Tuy nhiên, Nhật Bản lại là thị trường rất "khó tính", đòi hỏi cao về chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng cũng như dịch vụ sau khi bán hàng. Hơn nữa lại bị cạnh tranh quyết liệt của hàng Dệt May Trung Quốc. Do đó, việc mở rộng thị trường này phụ thuộc rất lớn vào uy tín của sản phẩm. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm và giữ uy tín đối với khách hàng. Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ: Với dân số khoảng 350 triệu người, trong đó Mỹ là 272 triệu người, ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu thụ hàng Dệt May lại gấp rưỡi EU (27 kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng hàng Dệt May ở thị trường này là rất lớn, lại mang tính đa dạng và phong phú. Năm 2000, Mỹ nhập khẩu trên 70 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng nhập khẩu hàng Dệt May của thế giới. Nhu cầu lớn lại được đáp ứng chủ yếu bằng hàng nhập khẩu nên đây được xem là một thị trường tiềm năng rất lớn không những đối với Việt Nam mà cả các nước sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May trên thế giới. Sau quyết định bỏ cấm vận với Việt Nam của Chính phủ Mỹ (tháng 2/1994) và trong những năm qua, mặc dù chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và quy chế tối huệ quốc (MFN) của Mỹ nhưng các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ tuy còn thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao Năm 1998, trong khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định và đạt kim ngạch xuất khẩu 27,343 triệu USD, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng kim ngạch hàng Dệt May của Mỹ là 53,769 tỷ USD. Mỹ là thị trường có sức mua các loại hàng Dệt May lớn nhất thế giới bao gồm nhiều chủng loại khác nhau, kể cả các sản phẩm trung bình. Ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết nhưng hàng may mặc của Việt Nam chưa được hưởng thuế suất MFN khi xuất khẩu sang Mỹ. Hiện hàng Dệt May của Việt Nam vẫn thuộc đối tượng chịu thuế suất cao (50%). Tuy nhiên, theo dự báo thì kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May vào thị trường Mỹ năm nay có thể lên tới 400 triệu USD. Ngay sau Tết, nhiều doanh nghiệp của ngành đã liên tiếp xuất được nhiều lô hàng sang thị trường mới này. Kim ngạch xuất khẩu của hàng Dệt May sang Mỹ hiện còn rất thấp so với tiềm năng, đặc biệt là khi hàng của Việt Nam được hưởng các ưu đãi thuế quan của Mỹ như các nước ASEAN đã được hưởng. Nhưng đó là bước khởi đầu hết sức quan trọng để làm quen với thị trường Mỹ. Các chuyên gia thương mại quốc tế dự đoán tốc độ tăng trưởng hàng Dệt May của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh ngay năm đầu tiên khi được hưởng quy chế MFN, trước khi Mỹ ấn định hạn ngạch. Cũng theo tính toán của Bộ thương mại Mỹ và Ngân hàng thế giới, ngay năm đầu tiên sau khi được hưởng quy chế MFN, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May của Việt Nam sang Mỹ gia tăng khoảng 8% tổng kim ngạch xuất khẩu, tương đương 800 triệu USD. Điều đáng lưu ý đối với thị trường Mỹ đó là khách hàng Mỹ chỉ mua hàng thành phẩm không qua gia công. Vì vậy, hàng Dệt May của Việt Nam muốn được hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải sản xuất bằng các loại vải và nguyên liệu tại Việt Nam. Thực trạng về thị trường Mỹ cho thấy trong thời gian tới, đầu ra là có triển vọng rất lớn. Do vậy, ngành Dệt May Việt Nam ngay từ bây giờ phải nhanh chóng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất nguyên phụ liệu cho may mặc xuất khẩu để chuẩn bị cho thị trường Mỹ sắp tới. Thị trường ASEAN: Sau khi là thành viên chính thức của ASEAN vào năm 1995, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác tăng lên không ngừng. Hiện kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May của Việt Nam sang ASEAN đến nay còn rất nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành (chỉ chiếm khoảng 4-5% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành). Các nước thuộc ASEAN nhập khẩu hàng Dệt May của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, do đó giá trị thu được thực tế là không cao. Điều này cho thấy hàng Dệt May Việt Nam xuất khẩu sang thị trường ASEAN vừa ít lại vừa không ổn định. Đây là một vấn đề bất cập trong quá trình hội nhập AFTA để tiến tới hội nhập WTO của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam. Các thị trường khác: +) Thị trường SNG và Đông Âu : Trong những năm gần đây, xuất khẩu sang thị trường truyền thống SNG và Đông Âu đã bắt đầu được khôi phục. CHLB Nga đã trở thành 1 trong 10 nước nhập khẩu hàng Dệt May lớn của Việt Nam. Các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đã bắt đầu khôi phục lại thị trường Đông Âu với phương thức chủ yếu là hàng đổi hàng với giá trị kim ngạch hàng Dệt May dự kiến lên đến 100 triệu USD. +) Thị trường Bắc Âu : Hàng Dệt May Việt Nam mới xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu khoảng 10 triệu USD trong năm 1999, một con số quá nhỏ so với dung lượng hàng Dệt May khối Bắc Âu nhập vào hàng năm là 10 tỷ USD, trong đó Trung Quốc là nguồn cung cấp lớn nhất chiếm 80% thị phần. Các nước Bắc Âu tuy dân số ít (khoảng 24 triệu người) nhưng sức mua lại rất cao, bình quân mỗi người Bắc Âu hàng năm chi ra đến 400 - 500 USD cho hàng may mặc. Đây là những xứ có mùa đông rất dài nên chủng loại hàng hoá tiêu thụ chủ yếu là hàng mùa đông, có màu đen và xám. Do vậy, nếu được đầu tư tốt, chú ý cơ cấu sản phẩm chào bán cho phù hợp thì còn nhiều khả năng hàng Dệt May Việt Nam chiếm lĩnh được 5% thị trường Bắc Âu - tức là khoảng 550 triệu USD. +) Thị trường Trung Đông : Xuất khẩu sang thị trường Trung Đông có nhiều điểm thuận lợi như khả năng thanh toán cao, nhu cầu nhập khẩu cao do công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của các nước này chưa phát triển, vận chuyển hàng biển hơi xa nhưng tuyến đường khá thuận lợi. Mặc dù kim ngạch còn thấp nhưng một số mặt hàng Dệt May của Việt Nam đã tỏ ra là có khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này. Thực trạng về các nguồn lực sản xuất của ngành công nghiệp Dệt May Về năng lực sản xuất các sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ đến năm 2000, năng lực sản xuất toàn ngành Dệt May tính theo 4 nhóm sản phẩm chính như sau: Bảng 3 : Năng lực sản xuất toàn ngành Dệt May năm 2000 Sản phẩm Đơn vị Toàn ngành Trong đó Trong nước FDI 1. Kéo sợi Nghìn tấn 300 90 210 2. Vải dệt thoi Triệu mét 800 380 420 3. Vải dệt kim Nghìn tấn 32,5 20 12,5 4. Sản phẩm may Triệu sản phẩm 540 340 200 Nguồn: Bộ KH & ĐT Năng lực sản xuất toàn ngành được tính theo công suất thiết kế. Đối với 2 sản phẩm kéo sợi và vải dệt thoi, phần đầu tư nước ngoài được tính theo giấy phép đã cấp, thực tế mới đạt được 40% tổng vốn đầu tư và triển khai không đều các sản phẩm. Năng lực sản xuất trong nước thực tế chỉ huy động được 60 - 70% công suất do tỷ lệ thiết bị cũ chiếm 60% và do sản xuất còn phụ thuộc thị trường. Về lao động và công tác đào tạo lao động của ngành công nghiệp Dệt May Mặc dù lao động ngành công nghiệp Dệt May không đòi hỏi phải có trình độ quá cao nhưng nếu người công nhân không được đào tạo các kiến thức cơ bản về ngành Dệt May và người quản lý, điều hành của các nhà máy sản xuất Dệt May không được đào tạo chuyên sâu các kỹ năng về nghề nghiệp thì sẽ có nguy cơ không bắt kịp trình độ công nghệ ngày càng hiện đại, cường độ làm việc ngày càng căng thẳng của ngành Dệt May Việt Nam. a) Lao động của ngành Dệt May Việt Nam a1) Lao động trong ngành Dệt: Lao động ngành Dệt trong cả nước chiếm tỷ trọng rất lớn so với lao động công nghiệp . Tuy nhiên, số lượng lao động trong ngành Dệt trong những năm gần đây đang có xu hướng giảm. Đây là một hiện tượng thực tế khách quan, bởi vì nhiều xí nghiệp có thiết bị thủ công, lạc hậu, sản xuất không còn hiệu quả đã bị giải thể, nhiều nhà máy đầu tư phát triển ngành Dệt đang được tăng dần làm cho lao động thủ công nửa cơ khí giảm dần. Đối với khu vực quốc doanh trung ương, lao động có tăng nhưng không nhiều. Chính vì vậy, năng suất lao động tính bằng tiền công cũng không tăng bao nhiêu, từ năm 1995 đến nay cũng chỉ biến động trong khoảng 10 – 14 triệu đồng/người/năm. Song đây chỉ là con số thông kê được ở khu vực Trung ương, còn khu vực địa phương không thể phản ánh được chỉ tiêu năng suất lao động tính bằng tiền. a2) Lao động trong ngành May: Theo điều tra lao động toàn ngành May hiện nay có khoảng 130 nghìn người, trong đó khu vực trung ương có khoảng 34 nghìn người và khu vực công nghiệp địa phương hiện có khoảng 96 nghìn người. Khác với ngành Dệt một công nhân phải quản lý nhiều máy, công nhân trong ngành May sử dụng mỗi người một máy. Lao động của công nhân trong ngành May chủ yếu là nữ (chiếm tới 80%), công việc của họ chủ yếu là ngồi một chỗ và thao tác nhanh một phần công việc trong dây chuyền sản xuất một sản phẩm. Điều này dẫn đến có rất nhiều công nhân bị mắc bệnh nghề nghiệp, ảnh hưởng đến sinh hoạt và đời sống của họ. Tóm lại, trong cơ chế thị trường hiện nay, do yêu cầu của công việc nên lao động trong ngành Dệt May phải làm việc với cường độ cao, thời gian làm việc căng thẳng, số lượng lớn với tỷ lệ nữ cao (chiếm 72 – 77%). Do tính đặc thù của công việc (công nhân Dệt phải đứng một lúc nhiều giờ liên tục) đã ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động, số công nhân mắc bệnh nghề nghiệp ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp không có việc làm, không tiêu thụ được sản phẩm, do đó dẫn đến nghỉ việc tràn lan. Cơ sở vật chất, vốn tự có của doanh nghiệp Dệt May thấp, việc giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội như nhà ở, bảo hiểm... chưa tốt. Điều này ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động đời sống của công nhân. Lao động trong ngành Dệt May ít được qua đào tạo và đào tạo lại. Thông thường các khoá đào tạo tiến hành ngắn trong khoảng hai đến ba tháng. Tay nghề công nhân không cao, do đó kéo theo năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Trong điều kiện làm việc như vậy nhưng nhìn chung tiền lương không cao nên người lao động không gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Đó là nguy cơ trầm trọng dẫn đến sự khan hiếm lao động có tay nghề giỏi trong tương lai. Nhiều doanh nghiệp đang gặp tình trạng ngày càng giảm số lượng công nhân có đủ khả năng làm việc. Để đổi lại cho việc tìm kiếm thu nhập tốt hơn, nhiều công nhân đã chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp sản xuất có lãi, thu nhập cao và ổn định hơn. Do đó, tình trạng thừa lao động thủ công, thiếu lao động tay nghề giỏi đang diễn ra ở hầu hết các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay. b)Công tác đào tạo lao động quản lý ngành Dệt May b.1) Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý: Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý là lực lượng rất quan trọng cho sự phát triển của ngành Dệt May. Hiện nay, ngành Dệt May đang ở trong tình trạng thiếu cán bộ quản lý giỏi, cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao. Hầu hết cán bộ chủ chốt trong ngành đều có trình độ đại học với chuyên môn nghiệp vụ khá nhưng trình độ tổ chức sản xuất theo phong cách công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Đó là một trở ngại lớn cho việc tổ chức sản xuất, sắp xếp dây chuyền tại các doanh nghiệp. Cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp phần lớn đều trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi và thành thạo về công nghệ của những sản phẩm cụ thể. Đây là một sự cảnh báo cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp Dệt May. b.2) Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật: So sánh công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật và đội ngũ chuyên gia của ngành Dệt May hiện nay so với yêu cầu đặt ra cho sự phát triển của Ngành trước mắt cũng như lâu dài ta thấy có một sự chênh lệch quá lớn giữa một bên có khả năng đào tạo quá nhỏ bé và một bên là nhu cầu về cán bộ kỹ thuật, chuyên gia giỏi rất lớn. Nguyên nhân của sự chênh lệch quá lớn này là do: - Mục tiêu đào tạo chưa chuyển biến kịp, thực chất vẫn theo mục tiêu đào tạo đã tiếp thu từ một số nước XHCN cũ. Hai trung tâm lớn nhất cả nước đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật Dệt May là trường Đại học Bách khoa Hà Nội và trường Đại học Bách khoa TP.HCM đều có rất ít sinh viên theo học ngành Dệt May, một số trường có đào tạo chuyên ngành thời trang như trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp, Viện mở Hà nội nhưng số lượng sinh viên theo học cũng không nhiều. Trong khi đó, kiến thức chuyên ngành cung cấp cho sinh viên còn thiếu và không theo kịp sự phát triển của trình độ sản xuất. Do đó, các kỹ sư và cán bộ kỹ thuật ra trường chậm phát huy năng lực do trình độ thực hành kém, trình độ ngoại ngữ lại chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Việc đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật còn chưa được quan tâm. - Quy mô đào tạo còn nhỏ bé, mỗi năm có khoảng 50 kỹ sư, bậc trên đại học chỉ có ở hai trường đại học là Đại học Bách khoa Hà Nội và trường Đại học Bách khoa TP.HCM được phép đào tạo do số lượng Thạc sỹ, Tiến sỹ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chưa có sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị nghiên cứu, đơn vị đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh. Thực trạng về đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật cho thấy số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật hiện có rất ít, trong khi đó chất lượng đào tạo lại thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành Dệt May. Các doanh nghiệp Dệt May, trong cơ chế hiện nay, yêu cầu đối với người làm công tác quản lý, đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật phải là những người nắm bắt được công nghệ hiện đại, cập nhật thông tin hàng ngày. Về thiết bị công nghệ của ngành Dệt May Việt Nam Thiết bị, công nghệ kéo sợi a.1) Thiết bị: Thiết bị kéo sợi toàn ngành được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4 : Hiện trạng thiết bị sợi toàn ngành Dệt May Việt Nam Tên Công ty Tổng số cọc và Roto hiện có Máy mới Second-hand cả dây chuyền Second-hand không đồng bộ Bổ sung và nâng cấp 1. Dệt Huế 47.000 2. Dệt Nam Định 105.256 24.000 (Nhật) 16.400 (Italia) 3. Dệt 8-3 70.280 27.716 10.200 4. Dệt Hà Nội 136.548 +320 Roto 5. Dệt Vĩnh Phú 28.968 6. Dệt Thành Công 41.000 15.000(TQ) 26.000(Nhật) 7. Dệt Đông Nam 44.864 8. Dệt Thắng Lợi 104.992 9. Dệt Nha Trang 108.496 +4600 Roto 10.000 (Riester) 10. Dệt lụa Nam Định 17.136 11. Dệt Việt Thắng 47.200 9.600 (Nhật) 12. Dệt Phong Phú 29.456 +1600 Roto 1.600 Roto (TQ) 9.456 (Italia) 13. Dệt Hoà Thọ 18.928 8.928 Cộng 677.124 +3520 Roto 84.600 +1600 Roto 25.856 10.200 Nguồn : Tổng Công ty Dệt May Việt Nam Bảng trên cho ta thấy, hiện nay toàn ngành có 677.124 cọc sợi và 3520 roto. Trong đó: Thiết bị mới hoàn toàn là 84600 cọc sợi và 1600 roto. Thiết bị được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu là 56500 cọc sợi. Thiết bị bổ sung nâng cấp là 10200 cọc sợi. Nhìn chung, thiết bị của Ngành còn rất lạc hậu, tỷ lệ số cọc sợi mới hoàn toàn thấp chỉ chiếm 12,5% tổng số cọc sợi của toàn ngành, số cọc sợi được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu cũng chỉ chiếm hơn 8,3%, thiết bị nâng cấp không đáng kể chỉ có 1,5%, tức là số thiết bị được coi là hiện đại chỉ có khoảng 22,3% tổng số cọc sợi. Hiện đã có một số doanh nghiệp như Dệt Thành Công, Dệt Nha Trang, Dệt Phong Phú đã mua sắm thiết bị kéo sợi tiên tiến là các roto nhưng con số này còn ít ỏi so với quy mô thiết bị toàn ngành chỉ có 3520 roto, mà chủ yếu là của Trung Quốc (chiếm 91%). a.2) Công nghệ: Tính đến cuối thập kỷ 80, công nghệ kéo sợi của Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu, máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, một số thuộc thế hệ I, một số thuộc thế hệ II. Trình độ tự động thấp, sản phẩm đạt chất lượng thấp so với chất lượng trung bình của thế giới, hầu hết đạt mức đường75% của hệ thống Uster thế giới. Công nghệ kéo sợi chải thô chiếm phần lớn, sản xuất ra các loại vải có chi số thấp, sợi chải kỹ sản xuất đáp ứng được 3% nhu cầu trong nước. Khi bước vào nền kinh tế thị trường, một số dy mới đã được nhập như dy công nghệ chải bông liên hợp tự động cao sử dụng máy ghép tự động khống chế chất lượng. Nhờ đó mà đã có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, đạt mức đường 25% của hệ thống Uster thế giới. Nhưng nhìn chung số công nghệ cao còn quá ít, đa số công nghệ kéo sợi của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn còn đang trong tình trạng rất lạc hậu. Thiết bị, công nghệ dệt thoi Về thiết bị, trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp đã bỏ vốn đầu tư mua sắm thiết bị góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm; hàng ngàn máy dệt không thoi có thoi khổ rộng được nhập về, nhiều bộ mắc hồ mới hiện đại thay cho các thiết bị cũ, đến nay trong toàn ngành, máy dệt mới chiếm 25%, số lượng máy có khả năng nâng cấp chiếm 45%. Về công nghệ, đã chuyển biến mạnh dưới tác động của cơ chế thị trường, một số công nghệ hiện đại đã được nhập như : Công nghệ dệt sợi bông 100% : Có tiến độ trong dệt vải bảo hộ lao động, vải cào bông, xuất khẩu (Tiệp, Tây Âu) và phục vụ nội địa. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt khăn bông có tăng trưởng mạnh mẽ hàng chục nghìn tấn cho Nhật, Đài Loan. Công nghệ dệt vải tổng hợp : Nhờ thiết bị se, hấp giảm trọng lượng nên đã sản xuất ra được nhiều sản phẩm giả tơ, giả len cao cấp được khách hàng ưa chuộng. Công nghệ dệt vải pha : Được phát triển mạnh mẽ, sử dụng tới 50% công suất kéo sợi của toàn ngành. Công nghệ sản xuất đã tương đối đồng bộ giữa kéo sợi, dệt vải, hoàn tất tạo được nhiều sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Công nghệ tơ tằm và len : Đã mở ra khả năng mở rộng qua sản xuất thăm dò ở một số doanh nghiệp. Công nghệ kéo sợi tại công ty len Hải Phòng và dệt len tại Dệt lụa Nam Định có nhiều triển vọng phát triển qua mặt hàng xuất khẩu phục vụ sĩ quan quân đội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tơ tằm còn gặp nhiều khó khăn do sức cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài. Do vậy, khả năng phát triển công nghệ tơ tằm còn nhiều nghi vấn trong tương lai. Công nghệ dệt vải Denim : Đã có ở công ty liên doanh IUMBO-Sài Gòn, Phong Phú. Thiết bị, công nghệ dệt kim Từ sau năm 1986, thiết bị dệt kim được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đều thuộc thế hệ mới, trong đó có nhiều loại được trang bị máy vi tính nên đã đạt được năng suất cao, chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng. Tuy được đầu tư thiết bị mới, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng do : kiến thức về thị trường xuất khẩu, kiến thức về đầu tư, về mặt hàng còn rất hạn chế ở những năm đầu của thời kỳ mở cửa ; thiếu chuyên gia và công nhân lành nghề, thiếu các nhà kinh doanh và quản trị giỏi ; khả năng vốn đầu tư không có, hầu hết là đều phải đi vay nên hạn chế trong việc phát triển. Hơn nữa, chất lượng sợi sản xuất trong nội địa thấp, không đủ tiêu chuẩn để làm ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Nhiều chuyên gia nước ngoài đã khẳng định chất lượng nguyên liệu chiếm tới 70% yếu tố tạo ra sản phẩm có giá trị cao, còn thiết bị chiếm 30%. Chính hạn chế về nguồn cung cấp nguyên liệu, đặc biệt là sợi Cotton chải kỹ chất lượng cao nên phần lớn các doanh nghiệp đầu tư mới trong giai đoạn này đều lựa chọn phương án sản phẩm dệt kim từ sợi PE/Co - do ổn định được kích thước vải trên máy văng định hình. Còn vải dệt kim từ sợi Cotton hiện phần lớn phải nhập sợi để làm hàng xuất khẩu hoặc chỉ sản xuất từ sợi Cotton nội địa với số lượng hạn chế và xuất với giá trị thấp. Thiết bị, công nghệ in nhuộm: Trong những năm vừa qua, ngành đã nhập được một số thiết bị hiện đại của thế giới như máy nhuộm sợi Bobin Hisaki, máy Jet, máy làm bóng dệt kim tròn Dornier, máy in hoa cấy bông, máy in nhuộm hoa lưới quay, máy hồ văng định hình, máy Sanfort, comfit, cào bông, chải tuyết… làm các mặt hàng từ PE/Co, Petex, có khả năng sản xuất các áo Jacket, áo sơ mi. Song theo đánh giá của Bộ Công nghiệp và Tổng công ty Dệt May Việt Nam, thiết bị công nghệ in nhuộm đã rất lạc hậu. Hiện nay, thiết bị in nhuộm có khoảng 35% còn mới, 30% có thể cải tạo nâng cấp được, 35% phải loại bỏ dần từ nay đến năm 2010. In nhuộm được coi là khâu yếu nhất trong hệ thống dệt của ngành Dệt May làm cho sản phẩm dệt không đáp ứng được nhu cầu vải cho may xuất khẩu (hiện chỉ đáp ứng được 10 - 15%) nhu cầu của ngành may. Do đó, hiệu quả của toàn ngành Dệt May giảm, không tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa ngành Dệt và ngành May trong quá trình phát triển. Thiết bị, công nghệ may: Thiết bị, công nghệ may được đánh giá là hiện đại nhất trong ngành công nghiệp Dệt May. e.1) Về thiết bị: Từ đầu thập kỷ 90, ngành May không ngừng đầu tư đổi mới thiết bị, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hiện tại thiết bị, công nghệ ngành May ở từng khâu sản xuất như sau: Công đoạn cắt: Vẫn trải vải thủ công, chưa có máy trải vải; sử dụng máy cắt đầu bàn, thiết bị cắt vòng, các máy cắt đẩy tay tiên tiến có lực cắt khoẻ, tốc độ cao; các máy ép dính liên tục của Đức, Nhật có năng suất cao cũng đã được sử dụng. Công đoạn may: Các máy may phần lớn là máy hiện đại có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Máy may chủ yếu là máy JUKI của Nhật. Các máy chuyên dùng (máy may 2 kim, máy vắt, cuốn ống, thùa bằng…) cũng đã được trang bị. Xu hướng chung ngày càng nhiều máy chuyên dùng được sử dụng để nâng cao năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất mọi mặt hàng: đ Dây chuyền may sơ mi của công ty may 10: Có tự động may cổ, may secmăng, máy tự động là thân áo. đDây chuyền may quần: Dây chuyền đứng thao tác, nhiều bộ phận may theo chương trình tự động. Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng hệ thống là hơi, tối thiểu cũng dùng bàn là treo phun nước để đảm bảo chất lượng sản phẩm. e.2) Về công nghệ: Công nghệ may cũng có sự chuyển biến kịp thời đồng bộ với thiết bị để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công nghệ may ở các xí nghiệp gồm 4 giai đoạn: Kho nguyên phụ liệu: Nguyên phụ liệu của từng mã hàng kèm theo bảng màu và số lượng được các xí nghiệp phát về từng phân xưởng. Khâu cắt: Cắt trên giác đồ mẫu giấy, có nhiều ghim kẹm, có giấy lót dưới bàn vỉ đảm bảo chính xác, đánh số bằng giấy theo từng cây vải hoặc giác mẫu bằng hệ thống máy vi tính. Khâu may: Công nhân tay nghề cao, các đường mí đều sử dụng cữ, gá. Các dây chuyền may bố trí vừa và nhỏ khoảng 25 - 26 máy may, sử dụng 34 - 38 lao động, có khả năng cơ động nhanh mỗi khi có thay đổi mã hàng chỉ cần tối đa 2 ngày là có thể ổn định sản xuất. Nhân viên kiểm tra được bố trí vào các dây chuyền may chấn chỉnh sai hỏng ngay từ đầu, tránh được sai hỏng hàng loạt. Khâu hoàn tất: Rất được coi trọng vì đây là khâu tốn thêm chất lượng sản phẩm, phần lớn dùng hệ thống là hơi, đóng túi nilon cho vào thùng caton. Công nghệ mới ứn._.a…) sang Việt Nam ngày càng rõ nét. Những thách thức của ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO: Thứ nhất, sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, kể cả chất lượng, hiệu quả và giá cả. Thứ hai, việc bãi bỏ hạn ngạch cho các nước WTO và việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm Việt Nam (hiện chưa phải là thành viên của WTO) mất lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu. Thứ ba, việc thực hiện lộ trình giảm thuế AFTA/CEFT sẽ làm hàng Dệt May Việt Nam mất lợi thế bảo hộ tại thị trường nội địa. Những yêu cầu đặt ra đối với ngành công nghiệp Dệt May Từ những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành công nghiệp Dệt May nói riêng, trong tiến trình hội nhập vào WTO, để đảm bảo cho ngành Dệt May Việt Nam đứng vững và phát triển, toàn ngành Dệt May nói chung và bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng cần phải thực hiện các yêu cầu chủ yếu sau: Xác định chiến lược thị trường với sản phẩm mũi nhọn và thị phần cụ thể để từ đó tập trung mọi nguồn lực hướng vào thị phần tiêu thụ. Tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm từ 20 - 30% so với hiện nay. Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, đồng thời đầu tư cho công tác quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000. Đầu tư mạnh vào công tác sáng tác mẫu mốt, thiết kế sản phẩm, từng bước xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu cho doanh nghiệp. Tổ chức tiếp thị một cách mạnh mẽ, sử dụng tối đa các hình thức tiếp thị và công cụ điện tử trong kinh doanh. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài và Việt kiều có tiềm lực, có kinh nghiệm trong việc sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, liên kết sử dụng nhãn mác đã có uy tín trên thị trường và hợp tác đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Hợp tác và phân công hợp lý trong đầu tư và sản xuất, hạn chế tình trạng trùng lắp, dư thừa và cạnh tranh trong nội bộ; đồng thời hợp tác chặt chẽ trong các hoạt động quảng bá chung để xây dựng hình ảnh một "Ngành Dệt May Việt Nam có đẳng cấp chất lượng, uy tín và cạnh tranh". Tổ chức tốt việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chuyên ngành Dệt May. C/ một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 I. Giải pháp đối với ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010 Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra với ngành công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO nhằm phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn của Ngành, ngành công nghiệp Dệt May cần triển khai một số các giải pháp chủ yếu sau: Giải pháp về tài chính và vốn Để triển khai kế hoạch theo mục tiêu đã nêu ở trên, ngành công nghiệp Dệt May cần thiết phải huy động một lượng vốn khoảng 35.000 tỷ đồng từ năm 2000 cho đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2006 - 2010. Đây là số vốn lớn, các doanh nghiệp Dệt May cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây: Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,… Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. Xin phép được sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình quy hoạch như quy hoạch vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc quy hoạch các cụm công nghiệp Dệt. Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, Viện nghiên cứu chuyên ngành được bình đẳng như đối với các loại hình trường, Viện do Chính phủ hoặc các Bộ quản lý. Xin phép sử dụng vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,.. Đối với các hình thức này, doanh nghiệp Dệt May rất cần được bảo lãnh của Chính phủ. Giải pháp về đầu tư Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, chủ các doanh nghiệp Dệt May cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thầm quyền phê duyệt. Các dự án đã được phê cần được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng cần các dự án đã được phê duyệt. Do đó, ngành Dệt May cần đầu tư vào các lĩnh vực sau: Đầu tư phát triển nguyên phụ liệu cho Ngành, đặc biệt là cây bông vải, các hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ cho ngành Dệt, phụ liệu cho ngành May, các sản phẩm Dệt sử dụng cho các ngành công nghiệp, các sản phẩm Dệt hiện chưa sản xuất được như xơ sợi tổng hợp, vải không dệt, vải địa kỹ thuật… Hiện nay, phần lớn nguyên phụ liệu của ngành Dệt May như bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm, vải chất lượng cao may hàng xuất khẩu, phụ liệu cho ngành May vẫn phải nhập khẩu. Nếu các nguyên phụ liệu này được trong nước cung cấp thì ngành Dệt May có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, giá hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao hơn, thời gian giao hàng sớm hơn và nhờ vậy ngành Dệt May sẽ thu được lợi nhuận cao hơn, tăng trưởng nhanh hơn. Mặt khác, Việt Nam hoàn toàn có điều kiện để xây dựng và phát triển vùng trồng bông vì hiện hầu hết các vùng có khả năng trồng bông lại đang trồng trọt các loại cây khác, do đó lượng bông cung cấp quá ít ỏi (khoảng 10% nhu cầu nhập khẩu) không đủ để hỗ trợ cho ngành Dệt, khiến ngành Dệt Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu. Để giải quyết được khó khăn này, cần mở rộng diện tích trồng bông và tăng năng suất cây bông hạt. Mở rộng diện tích trồng bông bằng cách: trồng xen canh với các loại cây khác; khuyến khích nông dân chuyển sang trồng bông vì đầu tư vào việc này thấp, nhanh được thu hoạch, được ngành Dệt May lo đầu ra, hơn nữa lại có sự trợ giúp của Chính phủ để ổn định sản xuất, ổn định lợi nhuận cho nông dân; hình thành các khu trồng bông lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, áp dụng mô hình trang trại trồng bông; quy hoạch một số vùng trồng bông mới như Sơn La - Thanh Hoá, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung. Tăng năng suất cây bông hạt bằng cách: lai tạo các giống bông cho năng suất cao; áp dụng các phương pháp phòng trừ sâu bệnh mới, hiệu quả cao hơn; đầu tư vào hệ thống bảo quản để tránh bông bị hư hỏng do thời tiết. Đầu tư phát triển ngành Dệt tập trung theo cụm, nằm trong khu công nghiệp nhằm giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết xử lý môi trường tập trung. Ngành Dệt là ngành cần có vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp; yêu cầu lao động có trình độ cao; nhu cầu đầu vào và hạ tầng cơ sở lớn; quản lý lại khó khăn; giải quyết xử lý môi trường tập trung. Hiện nay, ngành Dệt đang có chủ trương đầu tư tập trung vào 10 cụm công nghiệp Dệt (phía Bắc 5 cụm, miền Trung 1 cụm và phía Nam 4 cụm) với nhu cầu vốn đầu tư cho mỗi cụm là 2.018 tỷ đồng và đầu tư toàn cụm ước tính: 1.684 tỷ đồng, thời gian thu hồi vốn là 10 năm. Bao gồm : Cụm công nghiệp Dệt May Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên. Cụm công nghiệp Dệt May Thái Bình. Cụm công nghiệp Dệt May Hải Phòng. Cụm công nghiệp Dệt May tại KCN Lễ Môn, Thanh Hoá. Cụm công nghiệp Dệt May Đà Nẵng. Cụm công nghiệp Dệt May Nhơn Trạch, Đồng Nai. Cụm công nghiệp Dệt May Bình An, Bình Dương. Cụm công nghiệp Dệt May Bến Lức, Long An. Cụm công nghiệp Dệt May Cần Thơ. Cụm công nghiệp Dệt May Tiên Sơn, Bắc Ninh. Đầu tư phát triển ngành May rộng khắp đến tận các vùng thị trấn, những khu dân cư nhằm kết hợp phát triển ngành với công nghiệp hoá ở nông thôn. Khác với ngành Dệt, ngành May chỉ cần vốn đầu tư ít với công nghệ đơn giản; lao động giản đơn; sử dụng lao động nhiều (có thể từ nông thôn và miền núi). Hiện các sản phẩm May có chất lượng cao, xuất khẩu FOB được tập trung may tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Các sản phẩm may trung bình và cấp thấp , là các đơn vị vệ tinh, may da công tập trung may chủ yếu ở các tỉnh, huyện và xã. Để có thể xây dựng và triển khai nhanh các dự án đầu tư, cần khuyến khích và mở rộng việc sử dụng các công ty tư vấn chuyên ngành hoặc thành lập các trung tâm tư vấn Dệt May có đủ chuyên gia Dệt May, chuyên gia thiết bị động lực, chuyên gia xây dựng và chuyên gia tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng nhanh các dự án đầu tư. Giải pháp về thị trường. a) Đối với thị trường xuất khẩu Thị trường xuất khẩu là thị trường chủ yếu thu hút sự phát triển của ngành Dệt May Việt Nam vì nhu cầu về hàng Dệt May trên thế giới là rất lớn. Thông qua thị trường xuất khẩu, ngành công nghiệp Dệt May mới phát huy được hết lợi thế so sánh của mình so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. Hơn nữa, xu thế hội nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy ngành Dệt May nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường các nước trên thế giới. Thiết bị hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ…vì đây là thị trường xuất khẩu hàng Dệt May chủ yếu của Việt Nam. Để làm được việc này, Hiệp hội Dệt May, Tổng công ty Dệt May Việt Nam và các doanh nghiệp Dệt May cần tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường trọng yếu đó. Hệ thống thương mại cần thiết phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình, đặc biệt là sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn cho hoạt động xuất khẩu. Mỗi doanh nghiệp sản xuất Dệt May hoặc thương mại dịch vụ Dệt May cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp, đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu lâu dài và các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hàng Dệt May lớn trên thế giới. Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu truyền thông của công ty không những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm đựợc điều này, các đơn vị Dệt May cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại hiện nay, đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng. b)Đối với thị trường trong nước Hiện nay, các sản phẩm May ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập ngoại, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất ra không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn so với Trung Quốc. Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành Dệt May Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất, từ đó giảm giá sản phẩm. 4. Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp Dệt May. Đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, cần có biện pháp để phát huy hiệu quả của chế độ " một thủ trưởng" theo tiêu chuẩn quản lý ISO 9000. Về việc này, cần có sự thống nhất thực hiện về phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến cơ quan và các tổ chức quần chúng khác. Giám đốc phải là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong công ty, do vậy giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định. Các doanh nghiệp Dệt May cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mang thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp. Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả. Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đầu tư ngắn hạn về quản lý và kỹ thuật. Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết khó khăn cho một số công ty hoặc điều hành các dự án mới. Xây dựng cơ chế ứng xử mới cả về tinh thần và vật chất nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành Dệt May. Củng cố Viện nghiên cứu chuyên ngành nhằm mục đích thay mặt cho ngành Dệt May phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các thủ tục hải quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm Dệt May Việt Nam. Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Việc thực hiện CEFT/AFTA đang là vấn đề thách thức đối với ngành Dệt May Việt Nam. Hơn nữa, nguy cơ hàng Dệt May của các nước ASEAN xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ xảy ra khi Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và thế giới (WTO). Theo lộ trình CEFT/AFTA, hàng Dệt May đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vải 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần tới mức 5% từ năm 2006. Còn theo Hiệp định ATC/WTO, đến cuối năm 2001 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước thành viên. Như vậy hầu hết đối thủ cạnh tranh xuất khẩu Dệt May lớn sẽ có lợi thế hơn. Trong khi đó ngành Dệt May Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Sản phẩm May chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15-20%. Khả năng thương mại và thương hiệu còn nhiều hạn chế, do vậy tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế vẫn thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành Dệt May Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng cường khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn Ngành. Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả đến thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu, cần chú ý tiếp cận nhanh đến thị trường Mỹ vì đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường trong nước, cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng Dệt May như học sinh, công nhân. Kết hợp việc nghiên cứu mẫu, mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng. Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm Dệt May, xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm Dệt May để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng Dệt May. Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với Dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Dệt và May, May xuất khẩu. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm Dệt, May, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng Dệt May Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị trường người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành Dệt May trong giai đoạn 2001-2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sản xuất các loại xơ sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành Dệt May phát triển. Ưu tiên cho ngành Dệt May vay vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước với lãi suất 3%/năm và thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành Dệt May, đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn như nhà máy Dệt 8-3, Dệt Nam Định có hệ thống thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu. Giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May mà trong nước hiện chưa sản xuất được để giảm chi phí về nguyên phụ liệu. Ngành Dệt May là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm là chủ yếu. Vì vậy, cần giảm hoặc miễn hẳn thuế VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm Dệt May. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành Dệt May để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật và quản lý. Cần có sự sửa đổi mức lương và hệ số độc hại quy định cho ngành Dệt May để khuyến khích người lao động yên tâm làm việc trong ngành Dệt May. Củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty Dệt May Việt Nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp ngành Dệt May. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam trên thị trường quốc tế và trong nước. Tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp Dệt May cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nâng cao chất lượng của hàng Dệt May Việt Nam. Khuyến khích các doanh nghiệp Dệt May mở văn phòng đại diện, đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu hang Dệt May. Phát huy vai trò tích cực của các cơ quan thường trực, tham tán thương mại ở các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành Dệt May của ta trong thời gian tới. II. một số cơ chế, chính sách hỗ trợ để phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 Bản thân các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phải là chủ thể chính trong việc thực hiện một cách chủ động những biện pháp để phát triển ngành Dệt May nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. Tuy nhiên, trong bối cảnh và thời cơ hiện nay, sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nước lại có tính quyết định để có thể đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn này. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt Yếu kém nhất của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay là ngành Dệt phát triển chậm, không cung ứng được vải cho ngành May xuất khẩu đã và đang phát triển khá nhanh. Ngành May vì vậy phải làm gia công là chủ yếu. Hiệu quả xuất khẩu của ngành Dệt May còn hạn chế do hầu hết vải còn phải nhập từ nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là đa số các doanh nghiệp Dệt không tập trung đủ vốn để đáp ứng cho nhu cầu vốn đầu tư khá lớn với thời gian thu hồi vốn lâu. Do đó, Nhà nước đã đưa ra chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt, cụ thể như sau: Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó 50% là vay với lãi suất 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, tức là được vay với mức lãi suất 3%/năm, thời gian vay là 12 năm và có 3 năm ân hạn, còn lại là vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển. Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Cho sử dụng nguồn vốn ODA vào các dự án xử lý môi trường cho các cụm công nghiệp Dệt tập trung mới và các cơ sở Dệt hiện có. Chính sách ưu đãi đầu tư mới vào các cụm công nghiệp Dệt May tập trung Khuyến khích các dự án đầu tư mới ngành Dệt May vào các cụm công nghiệp tập trung để thuận tiện cho việc xử lý môi trường và liên kết kinh doanh bằng các chính sách ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ một phần vốn ngân sách, vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng một số cụm công nghiệp Dệt May mới và đầu tư các công trình xử lý nước thải. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu Dệt May Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch Dệt May cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức Dệt May quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đầu tư nguồn nguyên liệu cho ngành Dệt May. Hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt May đẩy mạnh xuất khẩu hàng Dệt May vào thị trường Mỹ với mức hỗ trợ là 7% trên kim ngạch xuất khẩu (tính theo giá FOB) vào thị trường Mỹ. Đồng thời khuyến khích việc thành lập các liên doanh với nước sản xuất hàng Dệt May xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian còn được hưởng quy chế phi hạn ngạch vào thị trường Mỹ. Chính sách hỗ trợ cây bông vải Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành Dệt với giá cả cạnh tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải cần được Chính phủ quan tâm, hỗ trợ. Hiện nay, sản lượng bông xơ mới đạt 8.500 tấn tức là chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu ngành Dệt. Mục tiêu đến năm 2010, sản lượng bông xơ là 95.000 tấn, đáp ứng được 70% nhu cầu của ngành Dệt. Chính sách hỗ trợ cây bông vải được thực hiện như sau: Hỗ trợ vốn ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, lai tạo hạt giống, kiểm tra chất lượng bông xơ và công tác khuyến nông. Cho phép ngành bông vải được hưởng các Quỹ sau: +) Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp. +) Quỹ bảo hiểm tín dụng để hỗ trợ nông dân. +) Quỹ bảo hiểm ngân hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. kết luận Trên cơ sở nghiên cứu tình hình phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong những năm vừa qua và những cơ hội, thách thức đặt ra cho ngành Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO, ta thấy có những đặc điểm nổi bật sau : Qua hơn 10 năm đổi mới, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những thành công nhất định. Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bắt đầu tạo được uy tín đối với khách hàng trong nước. Tuy nhiên, so với các nước các nước xuất khẩu Dệt May trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam còn yếu, đặc biệt là trình độ về thiết bị, công nghệ của ngành Dệt. Sự yếu kém trong ngành Dệt đã làm cho ngành May phải nhập khẩu cao những nguyên liệu đầu vào, đồng thời không tạo ra được những mối liên kết kinh tế mạnh thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Để tiến tới hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đòi hỏi ngành Dệt May Việt Nam phải có chiều sâu cho sự phát triển, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ chính nội lực của Ngành. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay, cùng với những đặc điểm riêng của Ngành và những lợi thế so sánh mà việc hội nhập mang lại có thể thấy ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, là ngành có nhiều khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu, cùng với các ngành công nghiệp mũi nhọn khác như Dầu khí, Thuỷ sản, Điện tử... đóng vai trò là “đầu tầu kinh tế” kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác. lời mở đầu Ngành công nghiệp Dệt May là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam và là một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thực tế các năm qua đã chứng minh điều này. Sản xuất của Ngành tăng trưởng nhanh ; kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao ; thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu theo hướng có tích luỹ ; thu hút ngày càng nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị xã hội đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập với thế giới và khu vực, để phát triển ngành Dệt May Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Theo Hiệp định ATC/WTO, từ 1/1/2005 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu cho các nước xuất khẩu hàng Dệt May là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi đó các cường quốc xuất khẩu hàng Dệt May như ấn Độ, Indonesia, HongKong, Đài Loan, Hàn Quốc... và đặc biệt là Trung Quốc sẽ có lợi thế xuất khẩu thế giới. Theo Hiệp định AFTA, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ giảm xuống từ 40 – 50% như hiện nay xuống còn tối đa là 5%, khi đó thị trường nội địa hàng Dệt May Việt Nam không còn được bảo hộ trước hàng nhập từ các nước trong khu vực. Như vậy, hàng Dệt May Việt Nam sẽ phải cạnh tranh rất khốc liệt so với các nước xuất khẩu hàng Dệt May. Có thể thấy rằng ngành Dệt May Việt Nam đang thiếu chiều sâu cho sự phát triển của Ngành. Trong khi ở các nước phát triển lợi thế cạnh tranh trong ngành Dệt May mà họ có được thông qua vốn và công nghệ thì ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chỉ là ngành sử dụng lao động rẻ. Do vậy, trước những thách thức trong tình hình mới, việc đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm làm cho ngành Dệt May phát triển đúng hướng, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng như thị trường nội địa là một yêu cầu thực sự cấp bách. Đó là lý do để tôi chọn đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May từ nay đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO” làm chuyên đề tốt nghiệp. Bố cục chuyên đề được chia làm 3 phần : Phần I : Vai trò của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá. Phần II : Thực trạng của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam từ 1996 – 2001. Phần III : Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam từ nay đến 2010 để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO. Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo GVC. Nguyễn Thị Kim Dung, cô Trần Mai Hồng cùng tập thể các cô chú trong Vụ công nghiệp – Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình. Do thời gian nghiên cứu ngắn, cộng với sự phức tạp của đề tài nên tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp của các thầy cô cùng toàn các bạn. Sinh viên Ngô Thị Thuỷ tài liệu tham khảo Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 – Bộ Công nghiệp & Tổng Công ty Dệt May Việt Nam. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Chiến lược tăng tốc ngành Dệt May đến năm 2010 – Tổng Công ty Dệt May Việt Nam. Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư - Bộ Thương mại. Tạp chí Dệt May Việt Nam. Các tạp chí khác : Kinh tế và phát triển, Phát triển kinh tế, Thương mại, Con số và sự kiện, Nghiên cứu kinh tế, Nghiên cứu Đông Nam á, Công nghiệp, Kinh tế và dự báo, Việt Nam - Đông Nam á. Các báo : Thời báo kinh tế, Đầu tư, Công nghiệp, Kinh tế quốc tê, Thời báo ngân hàng, Thời báo tài chính Việt Nam. Các nguồn số liệu : Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tổng cục hải quan, Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Một số tài liệu khác. Bảng 9 : Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành May (1990 – 2001) Đơn vị tính : Triệu USD Chỉ tiêu Tổng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Vốn đầu tư đăng ký 372 7,37 42,48 54,49 33,12 29,27 50,97 45,22 34,76 8,33 8,95 40,51 16,11 2. Vốn rút phép 60,69 0 0,5 0 2,99 6,17 9,48 26,27 6,02 6,39 0,8 1,34 1 3. Vốn còn hiệu lực 311 7,37 42,43 54,49 30,12 23,1 41,49 18,59 28,74 1,49 8,87 39,17 15,11 4. Vốn thực hiện 233,89 0 6,52 7,41 23,79 23,88 31,19 38,06 48,51 15,17 17,43 21,93 0 5. Vốn 100% NN 273 3,49 6,48 36,51 22,19 24,05 43,62 42,06 32,26 5 7,91 37,11 12,56 6. Vốn liên doanh 91 3,88 34,15 17,98 10,93 5,22 5,67 3,16 2,5 0 1,04 3,4 3,55 7. Vốn hợp doanh 7 0 1,85 0 0 0 1,68 0 0 3,33 0 0 0 Qui mô vốn BQ 1 dự án 2,17 1,23 4,72 4,19 1,84 1,54 2,68 2,38 2,48 1,67 0,99 1,56 1,15 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư 5. Vốn 100% NN 1458 5,34 0 5,18 522,3 53,39 380,56 148,4 213 41,71 8,5 35,16 4,8 6. Vốn liên doanh 179 10,01 9,41 25,21 71,02 9,32 9,3 35,6 7,27 1,5 0 0,02 0 7. Vốn hợp doanh 1 0 0 0 0 0 0,7 0 0 0,2 0 0 0 Qui mô vốn BQ 1 dự án 16,75 7,84 5,45 7,72 49,44 10,34 29,99 12,27 18,36 6,20 1,70 3,91 1,60 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bảng 6: Dự án đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt (1990 - 2001) Chỉ tiêu Tổng 88-90 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Dự án cấp phép 101 4 3 8 12 10 13 15 12 7 5 9 3 2. Dự án rút phép 18 1 0 2 1 1 2 0 5 3 1 2 0 3. Dự án hiệu lực 83 3 3 6 11 9 11 15 7 5 4 7 3 4. Dự án 100% NN 73 1 0 4 10 7 11 10 10 4 5 8 3 5. Dự án liên doanh 26 3 3 4 2 2 2 5 2 2 0 1 0 6. Dự án hợp doanh 2 0 0 0 0 1 0 0 0 1 0 0 0 Nguồn : Bộ Kế hoạch & Đầu tư Bảng 7: Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt (1990 - 2001) Đơn vị tính : Triệu USD Chỉ tiêu Tổng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Vốn đầu tư đăng ký 1692 31,36 16,36 61,78 593,32 103,41 389,96 184 220,27 43,41 8,5 35,16 4,8 2. Vốn rút phép 159,37 5,53 0 18,64 0,47 1,78 10,78 0 34,84 68,53 7,57 11,23 0 3. Vốn còn hiệu lực 1533 15,35 9,41 27,39 543,9 108,3 337 184 213,6 44,18 8,51 35,58 4 4. Vốn thực hiện 597 0 4,87 4,19 74,45 46,43 75,38 139,33 111,58 40,64 46,3 54,3 0 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34437.doc