Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ta hiện nay

Mở Đầu Cùng với sự phát triển của lịch sử tự nhiên, xã hội loài người đã lần lượt trải qua 5 chế độ xã hội khác nhau, tri thức và sự hiểu biết của con người ngày càng được mở rộng. Trong thời nguyên thuỷ, con người mới chỉ biết sử dụng công cụ lao động bằng đá,săn bắt các động vật thì đến xã hội chiếm hữu nô lệ họ đã biết dùng các công cụ bằng kim loại, sáng chế ra các vật gia dụng. Cho đến thời kì phong kiến và đặc biệt là đến CNTB , tri thức của con người đã đạt đến đỉnh cao với những phát m

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh sáng chế vĩ đại đã đưa con người đến đỉnh cao của sự phát triển. Và đến ngày nay thì con người đã thực sự làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của thế giới.Tương ứng với sự phát triển này, nền kinh tế của các nước cũng chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá mà hiện nay nó đang ở cấp bậc cao hơn là kinh tế thị trường. Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay,khi các nước trên thế giới đang cùng nhau hợp tác phát triển bền vững, thì để không lạc hậu về mọi mặt nước ta đã chủ động mở cửa hội nhập với thế giới , tham gia vào quá trình trao đổi hàng hoá với nước bạn,vì vậy việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan với nước ta. Đặc điểm của nước ta là một nước XHCN, mục tiêu do Đảng đề ra là “dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ văn minh” nên nền kinh tế nước ta không phải vận hành theo cơ chế thị trường thuần tuý mà vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Để đảm bảo cho nền kinh tế vận hành đúng hướng thì cần có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước không chỉ tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế mà Nhà nước còn phải định hướng cho hoạt động kinh tế thông qua thành phần kinh tế Nhà nước, thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Để giúp cho chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cơ chế thị trường định hướng XHCN và vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong bài viết này tôi xin đề cập đến một số vấn đề sau: .Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. . Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta . .Các mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. .Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ta hiện nay. Nội dung 1. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. 1.1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta. 1.1.1.Sau kháng chiến thắng lợi, nước ta xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này là: .Bộ máy quản lý cồng kềnh, mọi quyết định quan trọng đều xuất phát từ Nhà nước Trung ương, bộ máy nhà nước ở địa phưong có rất ít thực quyền.Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế với hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể,thực hiện phân phối bình quân. .Trong cơ chế này , quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi thường.Các chức năng vốn có của đồng tiền bị hạn chế tới mức tối đa,thậm chí đồng tiền còn bị khoác thêm nhiều tiếng xấu như :nguồn gốc của sự bóc lột, bất công xã hội ..Các công cụ như lãi suất, giá cả, thuế, tiền công và tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh các cân đối vĩ mô. .Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, Nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế và bắt các chủ thể kinh tế thực hiện thông qua các văn bản pháp lệnh, các nghị định.. .Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế, việc phân phối các nguồn tài nguyên đều do Đảng và các cơ quan chức năng quyết định, sau đó chỉ đạo cấp dưới thi hành. 1.1.2. Trong thời kì đầu, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta tỏ ra khá phù hợp , nó thích hợp với nền kinh tế thời chiến,cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người , sức của cho tiền tuyến. Sau ngày giải phóng miền Nam, ta tiếp tục chủ chương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như miền Bắc. Do quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ đã làm nảy sinh rất nhiều tiêu cực , do chủ quan cứng chắc mà chúng ta quản lý không có hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước, tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường ô nhiễm,sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan dẫn đến khủng hoảng, lạm phát cao,nhân dân ở một số địa phương bị đói rét hoành hành. 1.1.3. Đứng trước tình hình này, Đại hội Đảng VI đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Và đến ĐH Đảng VII, Đảng ta xác định rõ việc chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan, nó phù hợp với các quy luật kinh tế và xu thế của thời đại và còn giúp ta khắc phục tình trạng hiện thời: . Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế thì không thể đủ sản phẩm để tiêu dùng .Thực tế những năm cuối thập kỉ 80 đã chỉ rõ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý nhưng hiệu quả sản xuất vẫn rất thấp, không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội , tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm vào cả vốn vay của nước ngoài. .Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ thúc đẩy tăng trưởng trong một thời gian ngắn và chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển theo chiều rộng, cơ chế kinh tế này tồn tại quá lâu ở nước ta nên nó không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, hiệu quả sản xuất. .Trong thời kì này, kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở các mức khác nhau ở hầu hết các đô thị, vùng ven biển, nhưng thị trường nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do. . Xét về kinh tế đối ngoại thì kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thế giới , đã có sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới . . Xu thế phát triển chung của thế giới là xu thế toàn cầu hoá, các nước cùng nhau bước lên vũ đài quốc tế, cùng giúp nhau phát triển bền vững. 1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. . Như chúng ta đã biết,kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra”của sản xuất đều thông qua thị trường. . ở VN , phân công lao động ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nó diễn ra trong từng khu vực, từng địa phương. Sự phát triển của phân công lao động thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. .Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu,đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể,sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện thông qua quan hệ hàng hoá- tiền tệ. . Mặt khác, dù thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dựa trên trên sở hữu công cộng(dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể)về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ khoa học kĩ thuật , trình độ tổ chức quản ký nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất có sự khác nhau vì vậy sự trao đổi giữa chúng cũng phải mang hình thái trao đổi hàng hoá tiền tệ. . Quan hệ hàng hoá tiền tệ còn cần thiết trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc .Một nguyên nhân khác nữa là nền kinh tế nước ta đang bước vào thời kì quá độ lên CNXH, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. Khi chúng ta phát triển kinh tế hàng hoá, nó sẽ tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất để giảm chi phí do đó mới có thể cạnh tranh, đứng vững trên thị trường được. Và trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng để quyết định xem nên sản xuất loại hàng hoá nào, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào .Do đó kinh tế hàng hoá sẽ kích thích tính năng động , sáng tạo của các chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã… Mặt khác nữa, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những nhà sản xuất kinh doanh giỏi, những lao động lành nghề,hình thành đội ngũ quản lý có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Như vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan đối với nước ta, đây là con đường đúng đắn để phát triển lực luợng sản xuất,khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp CNH-HĐH. 1.3. Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHNC ở VN. 1.3.1. Ưu điểm của cơ chế thị trường. . Kích thích các hoạt động của chủ thể kinh tế làm cho nền kinh tế năng động . . Thoả mãn nhu cầu đa dạng và phong phú của người tiêu dùng do sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn tốt nhu cầu cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. .Cơ chế thị truờng kích thích sự đổi mới kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất vì cơ chế thị trường tạo ra sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải tối thiểu hoá chi phí, nâng cao năng suất lao động bằng cách áp dụng phương pháp hiện đại nhất, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh. .Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Các yếu tố sản xuất, vốn đều phân phối tuân theo nguyên tắc của thị trường, chúng sẽ được chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất do đó các nguồn lực được phân bố một cách hiệu quả. .Hơn thế nữa, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và nó còn có khả năng thích nghi cao hơn với những biến đổi kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường chỉ có hiệu quả trong các điều kiện nhất định như: các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt, thông tin thị trường nhanh nhạy tức là thị trường phải thực sự là thị trường tự do cạnh tranh. 1.3.2 Khuyết tật của cơ chế thị trường. Bên cạnh những ưu điểm của mình thì cơ chế thị trường cũng như có những khuyết tật mà nó không thể tự điều chỉnh được .Biểu hiện: Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ hiệu quả của nó khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm sút Thứ hai, mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, hiệu quả kinh tế không được đảm bảo. Thứ ba, cơ chế thị trưòng sẽ dẫn tới phân phối thu nhập không công bằng, dẫn đến phân hoá giàu nghèo, vấn đề công cộng không được quan tâm đúng mức. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết sẽ khó tránh khỏi tình trạng thất nghiệp và khủng hoảng có tính chu kì. Do những thất bại của cơ chế thị trường nên để nền kinh tế vận hành có hiệu quả, đạt được những mục tiêu vĩ mô thì cần có sự can thiệp của Nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường. 2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN một mặt vừa có những tính chất chung của kinh tế thị trường như : các chủ thể kinh tế có tính độc , tự chủ trong kinh doanh, giá cả do thị trường quyết định , nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhưng một mặt khác kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN còn dựa trên cơ sở và được dẫn dắt , chi phối bởi nguyên tắc và bản chất XHCN .Do đó kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng bản chất dưới đây: 2.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường. Trong các đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt kinh tế thị trường ở nước ta so với kinh tế thị trường thuần tuý khác thì một đặc tính phải nói đến là mục tiêu chính trị , mục tiêu kinh tế – xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã đặt ra để làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển nền kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước vào nhiệm vụ thực hiện CNH-HĐH, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội. 2.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu là :sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản), từ đó hình thành nên nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đố kinh tế nhà nước được xác định kà giữ vai trò chủ đạo. Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách quan vì chỉ có như thế thì ta mới có thể khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiền năng của các thành phần kinh tế vào việc phát triển chung nền kinh tế đất nước. Và việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc , nó là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường định hướng TBCN. 2.3 Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo thu nhập là chủ yếu. Mỗi một chế độ xã hội có một hình thức phân phối tương ứng với nó , để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta đã tồn tại nhiều chế độ sở hữu : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu do sự xâm nhập giữa chúng .Mỗi chế độ sở hữu có một nguyên tắc phân phối tương ứng với nó , do vậy mà trong thời kì quá độ ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối đó là : phân phối theo lao động , phân phối theo vốn hay theo tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Một sự khác biệt cơ bản nữa giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường định hướng TBCN là ở chỗ chúng ta đã xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động(Phân phối theo lao động là phân phối thu nhập cá nhân dựa trên số lượng và chất lượng lao động mà người nào đó đã đóng góp cho nền sản xuất xã hội, việc phân phối theo hình thức này chính là việc thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu). Vì mục tiêu của Đảng ta đề ra là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người đều được sống cuộc sống tự do, hạnh phúc nên phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được sử dụng như một phương tiện để đạt được mục tiêu đó và việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa rất quan trọng . 2.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trưòng định hướng XHCN cũng vận hành theo những quy luật vốn có khách quan của nó như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh…; giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các tài nguyên , nguồn lực kinh tế vào các ngành. Nhưng do thị trường có những khuyết tật mà tự nó không thể tự chỉnh nên ngày nay hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để khắc phục , sửa chữa một phần các khuyết tật ấy.Tuy nhiên sự khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ : Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản , mà là Nhà nước XHCN-nhà nước của dân , do dân , vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.Nhà nước ta khắc phục những “thất bại của cơ chế thị trường” để nhằm thực hiện các mục tiêu nhân đạo, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng và phát triển bền vững. Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường,sự kết hợp này sẽ đem lại những hiệu quả đáng kể cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế –xã hội của ta. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được nguồn lực cho các mục tiêu phát triển , đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển phát kinh tế với các mục tiêu phát triển xã hội ngay từ đầu.Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường thì kế hoạch khó có thể bao quát được các nhu cầu hết sức đa dạng và luôn biến động của đời sống kinh tế.Trong khi đó sự điều tiêt của cơ chế thị trường lại nhanh nhạy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế nên có thể đáp ứng được các nhu cầu hết sức đa dạng của thị trường. 2.5. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở hội nhập. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín mà chúng ta đã xây dựng trước đổi mới. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, quá trính quốc tế hoá đang diễn ra nhanh chóng, sự phát triển của quốc gia này phụ thuộc vào sự phát triển của quốc gia khác , vì vậy mở cửa hội nhập thế giới là vấn đề tất yếu đối với nước ta.Chỉ có như vậy ta mới thu hút được vốn đầu tư, công nghệ hiện đại , kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước đi trước để phát triển kinh tế đất nước, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới. Quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta được thực hiện dưới hình thức đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền , bảo vệ được lợi ích quốc gia và dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. 3. Các mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước . 3.1. Các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. 3.1.1. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của CNXH, phát triển lực lượng sản xuất. Mục tiêu của Đảng ta đề ra là xây dựng một xã hội trong đó mọi người dân đều có quyền làm chủ, có quyền bình đẳng như nhau, lao động được coi là một nhu cầu tự nhiên của con người , mọi người làm việc theo năng lực , hưởng theo nhu cầu, con người có điều kiện tốt nhất để phát triển mình. Tại ĐH Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định : “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất –kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng ,văn minh.” 3.1.2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Tuy nhiên việc xây dựng quan hệ sản xuất mới cũng phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong thời kì quá độ lên CNXH , nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp;nên tất yếu phải có nhiều hình thức phân phối thu nhập và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý. 3.1.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học –công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín mà ngược lại ta phải chủ động mở cửa hội nhập, tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường liên doanh , liên kết , hợp tác với các nước trên thế giới. Tuy nhiên việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 3.2. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Muốn quản lý tốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trước hết phải dựa trên các quy luật khách quan của kinh tế thị trường ;do đó về nhiều phương diện ,phương pháp quản lý của Nhà nước ta cũng giống như phương pháp quản lý của Nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi , xây dựng thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định,xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn , giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường. Nhà nước ta , dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý nền kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc. 3.2.1 Nhà nước phải đảm bảo sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật. . Để kinh tế phát triển thì phải có một hệ thống pháp luật quy định các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp, chức năng này không có một cá nhân, tổ chức nào có thể đảm nhận được ngoại trừ Nhà nước.Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.Khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh té, điều chỉnh hành vi của họ. 3.2.2 Nhà nước định hướng cho sự phát triển của kinh tế đất nước và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc.Vai trò định hướng nền kinh tế của Nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là người hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định , các hoạt động kinh tế diễn ra suôn sẻ thì Nhà nước ta áp dụng các chính sách tài chính và tiền tệ.Trên cơ sở kiểm tra giám sát lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế Nhà nước sẽ phát hiện ra các vấn đề cần được can thiệp, điều tiết . Bằng các chính sách phân phối ,nhà nước điều tiết nền kinh tế theo các chính sách đã định : Nhà nước có thể đầu tư thêm vốn, bổ xung thêm vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn và hỗ trợ để hạn chế các ngành, các khâu chưa cần thiết. 3.2.3. Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người , ngoài ra sự xuất hiện của độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. .Với ảnh hưởng của độc quyền . Độc quyền là trường hợp thị trường cạnh tranh không hoàn hảo , trong đó người mua hoặc người bán có thể thao túng giá cả trên thị trường của một loại hàng hoá nào đó. Các nhà độc quyền có thể thu được lợi nhuân cao bằng cách hạn chế số lượng đem bán và đồng thời tăng giá bán sản phẩm vì thế người muaphải trả giá cao hơn mà lượng sản phẩm cung ứng không đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, gây ra thiệt hại làm giảm phúc lợi xã hội. Nhà nước có thể hạn chế độc quyền bằng cách đưa ra các điều luật chống độc quyền, xây dựng nhiều sở hữu tư nhân để có nhiều nhà cung cấp, tạo ra sự cạnh tranh . .Với ảnh hưởng ngoại biên tiêu cực. Thị trường hoạt động hiệu quả khi giá của một hàng hoá ngang bằng với chi phí xã hội để sản xuất ra hàng hoá đó và khi giá trị của hàng hoá đó đối với người mua ngang bằng với lợi ích của hàng hoá đó đối với xã hội.Tuy nhiên trên thực tế, các chi phí và lợi ích thu được của sản xuất đôi khi không được phản ánh đúng trong giá cả thị trường.Việc sản xuất hoặc tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không tham dự vào việc mua , bán mặt hàng đó và khi những ảnh hưởng đó không dược phản ánh đầy đủ trong giá thị trường thì người ta gọi là một ngoại ứng. Ví dụ như: Một doanh nghiệp kinh doanh điện , nước thải của nhà máy đổ xuống sông ảnh hưởng đến người đánh cá, du lịch và những người sử dụng nước khác , còn khí thải của nhà máy thải vào không khí làm cho người dân xung quanh vùng hít phải khí CO2, gây ra bệnh phổi , bụi trong khí thải làm hư hại nhà cửa , công trình ….Tuy nhiên các ảnh hưởng này lại không được nhà máy chi một khoản nào để xử lý, tức là nó không được phản ánh trong giá cả của hàng hoá và đây là một ngoại ứng tiêu cực.Nhà nước có thể hạn chế ảnh hưởng của ngoại biên tiêu cực bằng cách đánh thuế vào các hoạt động đó hoặc đưa ra các chỉ tiêu về mặt kinh tế, kĩ thuật cho phép và bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. .Với việc không cung ứng đủ hàng hoá công cộng. Hàng hoá công cộng là một loại hàng hoá mà thậm chí có một người dùng rồi, thì những người khác vẫn có thể dùng được. Do việc tiêu dùng hàng hoá công cộng không phải thanh toán trực tiếp nên mọi người thường có động cơ trở thành “kẻ ăn không” (là một người được tiêu dùng một hàng hoá phải tốn kém mới sản xuất ra được mà không phải trả tiền cho hàng hoá đó) , thị trường tư nhân gặp khó khăn trong việc đảm bảo sản xuất một lượng thích đáng hàng công cộng.Ví dụ: một thị trường được thiết lập dành cho quốc phòng.Thậm chí nếu mỗi chúng ta cảm thấy rằng mình cần quốc phòng thì chúng ta cũng sẽ không có động cơ nào để mua phần đóng góp của mình vào quốc phòng cả, vì nếu ta có mua thì lượng quốc phòng mà ta được hưởng cũng bằng lượng quốc phòng của bất kì ai khác, cho nên người ta thường có động cơ là đợi cho bất kì ai khác mua để mình được hưởng mà không mất tiền. Để giải quyết vấn đề này thì Nhà nước phải đảm bảo việc cung ứng hàng hoá công cộng bằng các biện pháp như : .Trợ cấp về tài chính, tín dụng để cho tư nhân cung cấp. . Lực lượng kinh tế Nhà nước đảm bảo việc cung cấp. . Thông qua bỏ phiếu xác định mức chi tiêu chung cho hàng hoá công cộng rồi phân bổ cho các cá nhân đóng góp. 3.2.4 Nhà nước phải thực hiện công bằng xã hội . Trong nền kinh tế thị trường , thị trường mở rộng sự hoạt động của quy luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội , mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn đến sự đe doạ ổn định về mặt chính trị, tạo ra môi trường không lành mạnh .Vì vậy nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thảo mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải , về năng lực sở trường, trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập.Nhà nước phải biết lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào đó cho hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép. Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập, nhà nước cần thiết phải xây dựng hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của người giàu có.Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giàu có, nhà nước giúp đỡ họ bằng cách tạo ra công ăn việc làm, bồi dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng…Đồng thời cần phải hình thành các quỹ trợ cấp bảo hiểm từ nguồn vốn ngân sách và từ nguồn vốn huy động của dân để giúp đỡ cho những người tạm thời thất nghiệp, người già cô dơn… 4. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước hiện nay. 4.1. Chúng ta phải tiếp tục phát huy vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước . Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.Nó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước , các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Vì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế nên để nền kinh tế nước ta phát triển theo đúng định hướng mà nhà nước CHXHCN Việt Nam đã chọn thì chúng ta phải tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế nhà nước , tạo chỗ đứng vững chắc cho thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng ,hiện nay trong thành phần kinh tế nhà nước vẫn tồn tại những doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả, không những không nuôi nổi người lao động của mình, mà còn luôn đòi được nhà nước cứu trợ cho sự tồn tại của mình, một số khác thì liên tục thua lỗ .Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển thì điều cần làm hiện nay là phải tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, ngoài việc giải thể không chậm trễ các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc giữ cổ phần tri phối của nhà nước. Đối với những doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100 % vốn thì vấn đề số một là phải có những cơ chế đảm bảo để các doanh nghiệp này đủ sức vươn lên đóng vai trò “ chủ lực quân “ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước , nhà nước cần phải đào tạo , tuyển chọn cho được đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và có tinh thần trách nhiệm. Mặt khác , chúng ta cần tập trung nguồn lực để phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những ngành và vị trí trọng yếu , đẩy mạnh việc đổi mới kĩ thuật công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước.Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của nhà nước , doanh gnhiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. 4.2. Tiếp tục giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35694.doc
Tài liệu liên quan