Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển tại Công ty Bưu chính - Phát hành báo chí Hà Nội đến năm 2010

Lời nói đầu Công ty Bưu Chính và Phát Hành Báo Chí Hà Nội là công ty trực thuộc Bưu Điện thành phố Hà nội có nhiệm vụ phục vụ các dịch vụ Bưu chính - Viễn thông -PHBC nhằm đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin liên lạc của các tổ chức Đảng, chính quyền và nhân dân từ trung ương đến địa phương. Trong những năm qua cùng với sự phát triển mạnh mẽ của viễn thông, lĩnh vực bưu chính đã có những bước tiến đáng kể : mạng lưới được mở rộng, nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời và phát triển để đáp ứng yêu c

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển tại Công ty Bưu chính - Phát hành báo chí Hà Nội đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Theo văn kiện đại hội Đảng IX, mục tiêu tổng quát của đất nước ta từ năm 2001- 2010 là :" đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao ".Và bước đầu tiên quan trọng thực hiện mục tiêu này là xây dựng nền công nghiệp thông tin ngày càng hiện đại và phát triển. Thực hiện chủ trương đó, tổng công ty Bưu Chính Viễn Thông nói chung và công ty Bưu chính - phát hành báo chí Hà nội nói riêng phải đưa ra những chiến lược, hướng đi cụ thể để vừa giữ vững sản xuất kinh doanh, vừa phát triển sản xuất trong những năm tiếp theo, tăng mức độ đóng góp của công ty vào GDP của nền kinh tế, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đang là sinh viên thực tập tại công ty Bưu chính và phát hành báo chí Hà nội, em nhận thấy Bưu chính hiện là một lĩnh vực hết sức sôi động, có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đứng trước không ít thách thức. Đặc biệt là những chuyển biến, những thuận lợi, khó khăn của công ty khi vị trí độc quyền về bưu chính không còn tồn tại, sự phát triển ngày càng hiện đại của các dịch vụ viễn thông, tin học dẫn đến tỷ lệ khách hàng sử dụng các dịch vụ bưu chính ngày càng giảm sút. Việc phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh nhằm tìm ra giảI pháp , phương hướng phát triển kinh doanh dịch vụ BC- PHBC của công ty là thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Và đây cũng là lý do chính tại sao em chọn đề tài này. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3 chương: Chương I : Lý luận chung về chiến lược phát triển. Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Bưu chính và PHBC Hà nội từ năm 1998-2000 và chiến lược phát triển của công ty đến năm 2010. Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển của công ty Bưu chính và PHBC Hà nội. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo, của phòng kế hoạch kinh doanh để em có thể hoàn thành bài viết này. Em xin trân trọng cảm ơn! Chương I : Lý luận chung về chiến lược phát triển. I. Những khái niệm cơ bản về chiến lược phát triển 1. Chiến lược phát triển 1.1. Khái niệm chiến lược phát triển Khái niệm chiến lược lần đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực quân sự sau đó trong lĩnh vực chính trị. Từ những năm 1950-1960 của thế kỷ XX khái niệm chiến lược được sử dụng sang lĩnh vực kinh tế xã hội. "Chiến lược thường được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục tổng thể và trong thời gian dài."; đi cùng với khái niệm chiến lược là chiến thuật, được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ mang tính từng mặt, từng thời điểm, từng khu vực nhằm thực hiện chiến lược đã đề ra. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội ( dưới đây gọi tắt là chiến lược) được xem như là một công cụ nhằm tác động đến bản chất của quá trình phát triển của một hệ thống kinh tế xã hội. Chiến lược phải có tác dụng làm thay đổi cơ bản hệ thống kinh tế xã hội, từ những thay đổi về lượng đến những thay đổi quan trọng về chất của cả hệ thống. Đó là sự thay đổi về mục tiêu, cơ cấu gắn liền với cơ chế hoạt động của hệ thống kinh tế xã hội. Những thay đổi này tạo cho hệ thống kinh tế xã hội có được những tính chất mới. Sự thay đổi của hệ thống này không thể diễn ra trong một thời gian ngắn mà đòi hỏi phải có một thời gian tương đối dài, trong 10 năm hoặc hơn tuỳ theo những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.Một hệ thống kinh tế nhỏ hơn như một ngành, một vùng lãnh thổ cũng có những biến đổi tương tự, nhưng ở một phạm vi hẹp hơn, thời gian có thể ngắn hơn. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của thế giới ngày nay, rất khó dự báo đầy đủ và chính xác những biến động phức tạp về bối cảnh quốc tế và trong nước, nên căn cứ cho nghiên cứu chiến lược khó có thể hoàn hảo như mong muốn. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc( UNIDO) cho rằng:" thông thường một chiến lược phát triển có thể được mô tả như bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu đã định cho một thời kỳ từ 10- 20 năm ; nó hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực. Như vậy có thể nói chiến lược cung cấp một tầm nhìn của một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán trong các biện pháp tiến hành. Chiến lược có thể là cơ sở cho các kế hoạch phát triển toàn diện ngắn hạn và trung hạn hoặc là một nhận thức tổng quát không bị ràng buộc bởi những người trong cuộc trong thời kỳ đó về những triển vọng, những thách thức và đáp ứng mong muốn". 1.2.Phân loại chiến lược 1.2.1.Phân loại chiến lược theo thời gian Theo cách hiểu của Trung tâm kinh tế quốc tế của Australia( CIE) thì chiến lược bao gồm chiến lược trung hạn, chiến lược dài hạn. Nội dung chiến lược phải xác định được điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai đoạn phát triển, phải xây dựng các thể chế và tận dụng yếu tố thị trường để đạt được mục tiêu phát triển trong đó nhấn mạnh chiến lược phải tính đến các khía cạnh vi mô và vĩ mô cũng như các khía cạnh chính trị xã hội của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì để đạt được các mục tiêu đề ra. Thông thường một chiến lược phát triển dài hạn có thể được mô tả như bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu đã định cho một thời kỳ từ 10- 20 năm, nó hướng dẫn xã hội trong việc huy động và phân bổ nguồn lực. Như vậy có thể nói chiến lược dài hạn cung cấp một tầm nhìn của một quá trình phát triển và sự nhất quán trong các phương pháp tiến hành. Chiến lược dài hạn có thể là cơ sở cho các kế hoạch phát triển ngắn hạn và trung hạn. Còn chiến lược trung hạn đặt ra những mục tiêu, hướng đi của xã hội trong thời gian ngắn hơn, khoảng 5 năm. Chiến lược phát triển có thể được tiến hành ở nhiều cấp nhau nhưng thông thường có hai cấp cơ bản nhất là cấp công ty và cấp cơ sở kinh doanh. - Chiến lược cấp công ty xác định ngành kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ phải tiến hành. Công ty cần phải quyết định tiếp tục hay không các ngành hiện đanh kinh doanh, đánh giá khả năng mới và đưa ra quyết định cần thiết. - Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh cần được đưa ra đối với các đơn vị kinh doanh nhỏ nhất. Chiến lược phải làm rõ là đơn vị tham gia cạnh tranh như thế nào,mở rộng các loại hình dịch vụ ra sao,và các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu một cách hiệu quả nhất. 1.2.2. Phân loại chiến lược theo nội dung Nếu dựa vào nội dung của từng chiến lược, có thể chia thành: chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển xã hội. - Trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Như trên đã nói, khái niệm chiến lược bắt nguồn từ thuật ngữ quân sự, thường hay đi liền với những từ như sách lược chung, mưu tính chung, bố trí hành động chung và đối lập với chiến thuật. Trên thực tế, nhìn từ góc độ quản lý, chiến lược là quyết sách toàn cục của một phạm vi không gian rộng lớn hơn, trong một thời gian dài hơn. Chiến lược phát triển chính là sự trù tính chủ thể đối với toàn cục phát triển của sự vật. Vậy: chiến lược phát triển kinh tế xã hội được nhà nước căn cứ vào việc nhận thức các qui luật phát triển kinh tế xã hội khách quan, nhận thức các mối quan hệ nội tại trong quá trình phát triển, trên cơ sở điều kiện nhữg kế sách chung, có tính toàn cục về sự phát triển kinh tế xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là căn cứ cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm, nhằm mục đích đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội do nhà kinh tế học Trung Quốc Vu Quang Viễn nêu ra năm 1981. Ông là người khởi xướng và dẫn đầu trong việc nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Tác phẩm " Chiến lược phát triển kinh tế xã hội" của ông được xuất bản năm 1982 và tái bản bổ sung năm 1983. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội có nguồn gốc từ chiến lược phát triển kinh tế. Kinh tế không thể phát triển cô lập được mà nó phải cùng phát triển với khoa học kỹ thuật, giáo dục, bảo vệ môi trường, định hướng dân số, văn hoá...Hiện nay ở Trung Quốc còn có những quan điểm khác nhau về tên gọi của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Những ý kiến nghi vấn cho rằng đời sống kinh tế là một bộ phận của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Vu Quang Viễn cho rằng ý kiến đó có lý, song ông lập luận:"Nếu vì thế mà sửa chiến lược phát triển kinh tế xã hội thành chiến lược phát triển xã hội thì không nêu bật được vai trò phát triển kinh tế. Còn nếu thành chiến lược phát triển kinh tế thì vấn đề xã hội không được coi trọng đúng mức" Mặt khác, mức độ thoả mãn nhu cầu căn bản của nhân dân có thể được phản ánh qua chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất quốc dân bình quân đầu người, thu nhập quốc dân đầu người...Tuy nhiên, đời sống nhân dân không chỉ do trình độ kinh tế và văn hóa quyết định mà còn do chế độ xã hội, tức là phương thức sản xuất và phân phối của xã hội qui định. Vì vậy vấn đề cải cách thể chế phải thuộc vào nội dung của chiến lược, phải là một bộ phận, mục tiêu của chiến lược trong một thời kỳ nhất định. Hơn nữa, việc nghiên cứu chiến lược không chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà còn phải bao gồm cả giáo dục, khoa học, văn hóa, bảo trợ xã hội... - Chiến lược phát triển kinh tế : Chiến lược phát triển kinh tế là khái niệm do nhà kinh tế học người Mỹ A.Hechman đưa ra. Tác phẩm " Chiến lược phát triển kinh tế " của ông được chính thức xuất bản 1958. Đây là tác phẩm đầu tiên trên thế giới mang tên là " Chiến lược phát triển kinh tế " Chiến lược phát triển kinh tế được hiểu là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển của đất nước trong một thời kỳ nhất định trong tương lai(10-15 năm hoặc 20 năm). Chiến lược phát triển kinh tế tập trung vào các mặt như tăng qui mô, tăng tốc độ, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế. Đối với của cải vật chất, trung tâm của phát triển kinh tế là tổng số lượng giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập quốc dân, hoặc tổng lượng bình quân đầu người như: thu nhập quốc dân bình quân hàng năm theo đầu người. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng là nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần, thoả mãn nhu cầu cho con người, nhưng mục đích này được ẩn chứa trong chiến lược phát triển kinh tế mà không biều hiện rõ rệt. Chiến lược phát triển kinh tế cũng phản ánh mục tiêu biến đổi chất lượng nền kinh tế, tức là sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất, kết cấu kỹ thuật. - Chiến lược phát triển xã hội: Chiến lược phát triển xã hội thoát thai từ chiến lược phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển xã hội lấy việc phát triển con người làm chủ đề của nó, đưa vấn đề phát triển theo chiều sâu vào vị trí trung tâm của chiến lược. Việc phát triển con người không còn là mục tiêu ẩn chứa trong chiến lược phát triển kinh tế mà được thể hiện trực tiếp qua câu chữ, định hướng, chỉ tiêu và các bước tiến hành, hành động cụ thể. Bằng chiến lược phát triển xã hội " Sự phát triển của con người được thể hiện cụ thể và sinh động". Chiến lược phát triển xã hội lấy trình độ phát triển kinh tế làm điều kiện, tiền đề, bố trí sắp xếp những thành quả kinh tế được dùng vào nhu cầu phát triển của xã hội. Trong tái phân phối thu nhập quốc dân, qui định mục tiêu mức tiêu dùng phần thu nhập bình quân đầu người, qui định tỷ suất đầu vào về con người và của cải dành cho sự phát triển hoạt động sự nghiệp xã hội. Đồng thời đưa ra những quyết sách chiến lược to lớn về y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh, các phúc lợi xã hội khác; Chiến lược phát triển trực tiếp đề xuất các quy hoạch cho vấn đề làm thế nào để thoả mãn được nhu cầu về các mặt vật chất, văn hoá tinh thần của toàn thể nhân dân. - Như vậy chiến lược phát triển xã hội có những đặc trưng khác với chiến lược phát triển kinh tế : Chiến lược phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm chủ đề thì chiến lược phát triển kinh tế lấy quá trình tái sản xuất làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Chiến lược phát triển xã hội hướng quyết sách vào phát triển sự nghiệp xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá... thì chiến lược phát triển kinh tế hướng vào qui mô sản lượng, thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế... Trong chiến lược phát triển xã hội, mối quan hệ giữa các ngành các lĩnh vực với nhau tương đối lỏng lẻo ( y tế, thể dục thể thao với văn hoá...) nhưng trong chiến lược phát triển kinh tế thì mối quan hệ giữa các ngành rất chặt chẽ và rõ ràng( giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ trao đổi giữa các sản phẩm trung gian...) Tính định hướng của chiến lược phát triển xã hội yếu hơn trong chiến lược phát triển kinh tế, điều đó gây nên những khó khăn trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược. 1.2.3. Phân loại chiến lược theo phạm vi bao quát Chiến lược cấp quốc gia : là hệ thống các phân tích đánh giá và lựa chọn về các căn cứ của chiến lược, về các quan điểm cơ bản, các mục tiêu tổng quát, các định hướng phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực của đời sống đất nước, các giải pháp cơ bản là các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội, các chính sách về bồi dưỡng, khai thác, huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực phát triển, các biện pháp về tổ chức thực hiện. Chiến lược cấp tỉnh( vùng): là một bộ phận của chiến lược cấp quốc gia, phải phù hợp và phục tùng chiến lược cấp quốc gia. Trong chiến lược cấp tỉnh chứa đựng hai yếu tố: một là chiến lược phát triển của chính sách địa phương. Trong trường hợp đó, một số mặt nào đó của tỉnh là nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược của tỉnh, thúc đẩy tỉnh hay vùng phát triển. Hai là, thực hiện yêu cầu của chiến lược toàn quốc đối với tỉnh, trong trường hợp này, một số mặt phát triển nào đó của khu vực ( tỉnh hay vùng) nhằm thực hiện chiến lược toàn quốc. Chiến lược phát triển ngành: là tổng hợp sự phân tích, đánh giá và lựa chọn về các căn cứ, các quan điểm, các mục tiêu phát triển ngành trong khoảng một thời gian dài và những chính sách thể chế cơ bản để thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành. Tuy nhiên chiến lược phát triển ngành phải phục tùng chiến lược cấp quốc gia. Mặt khác chiến lược cấp ngành còn chịu bổ trợ của chiến lược cấp tỉnh, cấp chức năng. Chiến lược chức năng: bao gồm nhiều loại chiến lược như: chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến lược phát triển tài chính tiền tệ, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển đầu tư, chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chiến lược về thu nhập và tiêu dùng dân cư, chiến lược phát triển sự nghiệp văn hoá xã hội... 1.3. Đặc điểm chủ yếu của chiến lược Qua những điều nêu ở trên có thể nhận thấy có ba đặc điểm chủ yếu của chiến lược phát triển của một công ty là: - Cho một tầm nhìn dài hạn nói chung là từ 10 năm trở lên, chứ không phải là những mục tiêu cụ thể, giải pháp ngắn hạn. - Làm cơ sở cho những hoạch định (kế hoạch,chương trình,dự án) phát triển toàn diện, cụ thể trong tầm trung hạn và ngắn hạn. - Mang tính khách quan có căn cứ khoa học chứ không chỉ dựa vào mong muốn chủ quan của người trong cuộc. Nói tóm lại, chiến lược phát triển của một công ty được hiểu như một bản luận cứ có sơ sở khoa học xác định mục tiêu và đường hướng phát triển cơ bản của công ty trong khoảng thời gian 10 năm hoặc dài hơn, là căn cứ để hoạch định các chính sách và kế hoạch phát triển. Chiến lược xác định tầm nhìn của một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực hiện. Chiến lược là cơ sở cho xây dựng quy hoạch và các kế hoạch phát triển trung hạn và ngắn hạn. Trong quy trình kế hoạch hoá, chiến lược được coi như một định hướng của kế hoạch dài hạn. 2. Nội dung chủ yếu của một chiến lược phát triển Qua thực tế nghiên cứu và theo quan niệm của số đông các chuyên gia, chiến lược gia cho thấy nội dung cơ bản của chiến lược là tổ hợp của các yếu tố sau: 2.1.Các căn cứ của chiến lược - Trước hết đó là những kinh nghiệm lịch sử trong quá trình phát triển xã hội, trong quá trình phát triển công ty nhất là khoảng thời gian thực hiện chiến lược 10 năm liền kề với thời kỳ chiến lược mới. Đồng thời cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ cùng loại cũng như kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là những nước có điều kiện tương tự như chúng ta để xác định xem công ty hiện đang đứng trước cơ hội khó khăn, thách thức gì. - Thứ hai chúng ta phải xác định được điểm xuất phát của quá trình kinh doanh tức là đánh giá thực trạng thời điểm mở đầu chiến lược, trả lời các câu hỏi : công ty đang ở giai đoạn nào và trình độ nào trong tiến trình phát triển và trong sự so sánh quốc tế. - Đánh giá dự báo các nguồn lực, lợi thế và môi trường phát triển trong thời kỳ chiến lược bao gồm các yếu tố như trình độ lao động, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn tài chính... -- Đánh giá và dự báo bối cảnh trong nước, các điều kiện tác động bên ngoài, khả năng mở rộng sự hợp tác, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ. Từ các điều kiện nêu trên làm rõ các thuận lợi, thời cơ, khó khăn, thách thức đối với sự phát triển trong thời gian tới. Việc đánh giá đúng mức thực trạng nền kinh tế, thực trạng của công ty có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó không những cho phép xác định đúng đắn đích tối đa cần đạt được mà còn tạo lập căn cứ để định rõ có bao nhiêu cách đi tới đích và cách nào là tối ưu, hiệu quả nhất. Việc đánh giá thực trạng của công ty sai lệch có thể gây nên sự sai lệch trong việc xác định đích cần đạt tới qua thời kỳ chiến lược theo hai khuynh hướng: + Một là đánh giá quá thấp thực trạng đạt được của công ty sẽ gây nên những lãng phí to lớn cho nền kinh tế và vô hình làm chậm tiến trình đi lên của xã hội. Điều quan trọng khi nhận thức thực trạng ở mức thấp sẽ kéo theo sự nhận thức các qui luật nội tại của nền kinh tế một cách sai lệch, trong thực tế diễn ra theo hướng khác. Do đó công ty phát triển có thể theo đường vòng, lãng phí nguồn lực làm chạm quá trình phát triển. + Hai là đánh giá quá cao thực trạng phát triển: trong trường hợp này là người lập chiến lược ngộ nhận về trình độ cao hơn mức thực tế đạt được, dẫn đến những lạc quan không đáng có trong cách nhìn, trong tư tưởng và lập luận. Hậu quả tất yếu của khuynh hướng là xây dựng mục tiêu quá cao mà nền kinh tế không thể đạt tới, tính khả thi của chiến lược không có. Trong nhiều trường hợp, khi chiến lược không được thực hiện thành công sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng: công ty khủng hoảng, niềm tin của quần chúng bị giảm sút, tình hình công ty diễn ra phức tạp, mất ổn định. Trên thực tế cần phải tránh cả hai khuynh hướng đó. Thực trạng phát triển của công ty bao gồm: Tốc độ tăng trưởng của công ty. Mức độ đóng góp của công ty vào GDP của nền kinh tế quốc dân. Các dịch vụ mà công ty cung cấp. Khả năng khai thác trên thị trường. Khả năng cạnh tranh trên thị trường. Xem xét khả năng đầu tư phát triển trong tương lai. 2.2. Các quan điểm cơ bản của chiến lược ( hệ quan điểm) Các quan điểm này vừa có ý nghĩa chỉ đạo xây dựng chiến lược vừa có những tư tưởng và linh hồn mà trong từng phần nội dung của chiến lược phải thể hiện và quán triệt. Hệ thống quan điểm thể hiện những nét khái quát, đặc trưng nhất và có tính nguyên tắc về mô hình và con đường phát triển của công ty hướng tới mục tiêu lâu dài. Quan điểm cơ bản là bộ khung, là hành lang cho việc xác định các mục tiêu của công ty cùng những giải pháp lớn. Các quan điểm cơ bản hình thành nên một hệ quan điểm. Hệ quan điểm phát triển thể hiện rõ mô hình phát triển cũng như cách thức để đạt được mục tiêu định hướng trong một thời kỳ nhất định, ở mỗi thời kỳ chiến lựơc khác nhau, hệ quan điểm cũng có những thay đổi nhất định cho phù hợp với tình hình và điều kiện mới. Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo của chiến lược bao trùm nhất là do mục đích sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty và mang một đặc trưng nổi bật là chủ thể doanh nghiệp nhà nước. 2.3. Hệ thống mục tiêu chiến lược Đây là các mục tiêu gắn liền việc giải quyết các vấn đề cơ bản của công ty với các vấn đề xã hội như góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu, xoá đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách về Bưu chính- viễn thông với các nước trên thế giới... Những mục tiêu này phải thể hiện một cách tập trung những biến đổi quan trọng nhất về chất, những mốc phải đạt tới trên con đường phát triển của công ty. Những mục tiêu tổng quát của chiến lược phải chứa đựng nhiều mục tiêu cụ thể như đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên, đạt doanh thu tăng gấp bao nhiêu lần so với các năm trước, những dịch vụ mới nào cần đưa vào khai thác, nâng cao chất lượng phục vụ ra sao...Ngoài ra phải có mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng... 2.4.Định hướng và các giải pháp chiến lược Nội dung này bao gồm giải pháp về cơ chế hoạt động của công ty, tức là những chính sách và thể chế quản lý để đạt được mục tiêu đã đề ra. Đây là những giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra động lực,huy động khai thác triệt để các nguồn lực trong và ngoài công ty. Không có các giải pháp này thì xem như chiến lược chỉ đơn thuần là những ý tưởng nguyện vọng, không mang tính khả thi. Các giải pháp chính là thể hiện tính đột phá của chiến lược nhằm vào những khâu khó khăn phức tạp. Chính sách và biện pháp bao gồm nhiều loại như: - Đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý - Các giải pháp về vốn, định hướng khai thác, huy động vốn, chính sách đối ngoại... - Các chính sách về nguồn nhân lực, đào tạo, thu nhập, bảo trợ xã hội và bảo trợ sức khoẻ. - Các chính sách về tổ chức bộ máy và cán bộ. - Chính sách về việc khai thác và sử dụng các dịch vụ mới. II/ Vai trò của việc xây dựng chiến lược phát triển 1/ Cơ sở để xây dựng chiến lược Để chiến lược thật sự mới mẻ, sáng tạo, đột phá, thiết thực, linh hoạt mềm dẻo thì từ hoạch định đến hành động không còn tách rời, phân cách, cần căn cứ và xuất phát từ những yếu tố chủ yếu sau đây: - Trước tiên chiến lược phát triển của công ty phải dựa vào chiến lược phát triển chung của toàn ngành Bưu chính - Viễn thông. Từ đó đặt ra những mục tiêu cụ thể riêng cho mình để hoàn thành mục tiêu chung đó. - Từ thực tiễn cuộc sống và phát triển của công ty, nhận ra những vấn đề đang nổi bật và gay gắt đồng thời thực tiễn cũng chứa đựng những mô hình, kinh nghiệm cho phép giải quyết những vấn đề đó đặc biệt cần lắng nghe những cảm nhận, mong muốn của khách hàng. - Từ sự phát triển chung của ngành Bưu chính trong khu vực và trên thế giới, nhận rõ những thành qủa văn minh của nhân loại, những xu thế tiến hoávà phát triển, những thách thức và cơ hội, những nguồn lực vật chất và tinh thần...Tất cả những cái đó đều tác động vào sự tồn tại và phát triển của công ty. - Từ tiềm năng dồi dào về con người, về cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng phát triển của công ty. Một chiến lược phát triển được coi là sản phẩm trí tuệ của toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty phải đảm bảo được xây dựng dựa vào những cơ sở trên. Và nếu được như vậy thì đây là một chiến lược phát triển mang lại hiệu quả thực sự như công ty mong muốn. 2/ Tại sao phải xây dựng chiến lựơc Thứ nhất chiến lược là phương tiện cung cấp cho chúng ta một tầm nhìn, khuôn khổ tổng quát cho việc thiết lập các quan hệ sản xuất kinh doanh một cách chủ động có hiệu quả.Từ đó có những kế hoạch và bước đi cụ thể để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Thứ hai cần phải kể đến của chiến lược là : quá trình phát triển của mỗi công ty đều có những đặc thù khác nhau. Đây không phải là quá trình tự phát mà là một quá trình có định hướng trong một tầm nhìn bao quát, lâu dài để hướng tới mục tiêu đã chọn.Việc xây dựng chiến lược phát triển là một bước không thể thiếu.Trong nền kinh tế quốc dân có ba ngành kinh tế chính: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại: + Đối với ngành công nghiệp, vai trò của nó ngày càng tăng trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển công nghiệp, ở những giai đoạn cụ thể vai trò của các phân ngành có khác nhau. Vì vậy cần có chiến lượcphát triển, chiến lược cơ cấu sao cho đảm bảo phát triển hiệu quả cao, bền vững. Đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra yêu cầu phát triển ngành công nghiệp với tốc độ cao hơn nhằm đáp ứng các yêu cầu cho tất cả các ngành khác phát triển. + Đối với ngành nông nghiệp: nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa to lớn trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và đó cũng là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Vì vậy chiến lược phát triển ngành nông nghiệp là định hướng đi của ngành theo hướng đa dạng hóa sảnphẩm nông nghiệp và đưa công nghiệp vào ứng dụng sản xuất nông nghiệp để từng bước phát triển nông nghiêp theo hướng hiện đại hoá. + Đối với ngành dịch vụ thương mại: chiến lược phát triển ngành cũng đi theo hướng chung là xác định điểm xuất phát( thực trạng của ngành) từ đó tìm ra ưu nhược điểm trong phát triển ngành để đưa ra những quan điểm phát triển của ngành trong tương lai có nghĩa là xác định con đường đi của ngành. Từ quan điểm phát triển để đưa ra mục tiêu phát triển của ngành hay là cái đích cần đạt tới. Cuối cùng là biện pháp và chính sách để thực hiện mục tiêu đó. Thứ ba, trong quá trình phát triển nói chung chiến lược cần thiết cho việc huy động và phối hợp một cách tốt nhất các nguồn lực để đạt hiệu qủa cao nhất. Thứ tư, cơ chế thị trường có những hạn chế nhất là mặt định hướng mục tiêu và bảo đảm cân đối giữa mục tiêu công ty và mục tiều xã hội nên các công ty không thể lấy thị trường làm căn cứ ra các quyết định cho mục tiêu và phương hướng phát triển lâu dài. Để khắc phục những hạn chế đó, các công ty phải xác định mục tiêu, con đường phát triển mong muốn và tạo ra môi trường và các điều kiện tương ứng để thực hiện, tức là hoạch định chiến lược. Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm "chiến lược" lại được chuyển nhanh từ quân sự, chính trị sang kinh tế xã hội. Trong thực tế phát triển, một đơn vị kinh doanh luôn luôn có những yêu cầu cấp bách nảy sinh và đòi hỏi phải có cách giải quyết toàn diện. Chiến lược ra đời để thoả mãn những yêu cầu đó. III. Vai trò Ngành Bưu chính và phát hành báo chí trong đời sống kinh tế xã hội Bưu chính là một trong những ngành kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân và xã hội, là công cụ phục vụ Đảng, nhà nước và chính quyền, nhân dân từ trung ương đến địa phương. Bưu chính một mặt đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ Bưu chính mang tính công ích, mặt khác phải hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế. Bưu chính có vai trò tác động đến sản xuất kinh doanh trên nhiều phương diện, là phương tiện trao đổi, cung cấp thông tin trong quá trình sản xuất, kinh doanh và điều hành quản lý. Có vai trò tác động mạnh mẽ đến qúa trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế xã hội và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện cần thiết trong khai thác và phát triển thị trường trong nước, mở rộng thị trường nước ngoài. Thuộc kết cấu hạ tầng xã hội, thông tin Bưu chính là môi trường, tiền đề cho sự phát triển văn hoá xã hội, kinh tế trong nước và quốc tế. Thông tin Bưu chính là cầu nối giao lưu tình cảm góp phần nâng cao và cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân và phát triển thông tin giữa các dân tộc, đạt mục đích cao cả của sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội và kinh tế. Là công cụ chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng các cấp chính quyền, thông tin Bưu chính có vai trò quan trọng trong việc góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, sự lãnh đạo của Đảng, điều hành quản lý nhà nước, cung cấp các phương tiện thông tin trong các tình huống khẩn cấp về thiên tai, địch hoạ, phòng chống bệnh dịch, bảo vệ mùa màng... Thông tin Bưu chính là một trong những nguồn lực của sự phát triển, góp phần vào hợp tác quốc tế, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Khi đời sống xã hội đang được quốc tế hoá thì vai trò của thông tin Bưu chính ngày càng trở nên quan trọng, nó tạo điều kiện mở ra quan hệ, hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần đảm bảo thành công trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Ngày nay sự phát triển của Bưu chính đã trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển của một đất nước cả về mặt xã hội và kinh tế, đặc biệt là về mặt xã hội. Do vậy mục tiêu phát triển Bưu chính của Đảng và Nhà nước đặt ra yêu cầu chủ quan phải phát triển Bưu điện nói chung và Bưu chính nói riêng đi trước một bước và đến năm 2010 đạt trình đọ Bưu chính phát triển phù hợp với nền kinh tế của một nước công nghiệp. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nêu rõ :" tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội ( giáo dục, y tế, khoa học, văn hóa thông tin, thể thao...) và phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân". Chủ trương này được cụ thể hoá tại chỉ thị 59- CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chấp hành chỉ thị, tổng cục Bưu điện xây dựng chiến lược phát triển Bưu chính đến 2010 và định hướng đến năm 2020 nằm trong định hướng chung, đồng bộ với sự phát triển của nến kinh tế xã hội làm cơ sở, định hướng cho việc xây dựng và phát triển nhanh, bền vững Bưu chính Việt nam hiện phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong tương lai, bước vào thời kỳ xã hội hoá thông tin với sự phát triển nhanh của kỹ thuật Điện tử- Viễn thông- Tin học sẽ có sự thay thế hoặc kết hợp các dịch vụ Bưu chính với các dịch vụ Viễn thông nhưng Bưu chính luôn tồn tại và phát triển mạnh trên cơ sở những thành tựu khoa học và công nghệ mới. IV. Kinh nghiệm của một số đối thủ cạnh tranh và quan điểm của công ty 1. Kinh nghiệm của một số đối thủ cạnh tranh Thị trường Bưu chính - PHBC Hà Nội hiện nay có rất nhiều đơn vị cùng hoạt động trong lĩnh vực Bưu chính và._. PHBC, do đó đã diễn ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Ngoài công ty Bưu chính -PHBC Hà Nội, trung tâm chuyển phát nhanh trực thuộc Bưu điện TP Hà Nội còn có sự tham gia của công ty cổ phần dịch vụ Sài Gòn ( Saigon POST), Vietel, các hãng chuyển phát nhanh nước ngoài như Fedex, DHL..., các đơn vị tham gia các dịch vụ chuyển tiền như các ngân hàng...Bên cạnh đó, trên lĩnh vực PHBC hiện nay ngoài việc PHBC của Bưu điện thành phố thì hầu hết các toà soạn đều song phát với chỉ tiêu thời gian và tỉ lệ phần trăm hoa hồng chi cho các đại lý có ưu thế hơn hẳn so với Bưu điện. Ngoài ra một lực lượng kinh doanh PHBC không nhỏ là các tư nhân hiện đang chiếm ưu thế lớn trong lĩnh vực bán lẻ báo chí trên khắp thị trường Hà nội. Trong phạm vi chuyên đề này em chỉ xin được đưa ra hai trường hợp tiêu biểu nhất minh chứng cho sự cạnh tranh hiện đang rất sôi động trên lĩnh vực này: đó là công ty điện tử viễn thông quân đội và công ty Bưu chính Sài Gòn. 1.1. Công ty điện tử viễn thông quân đội ( Vietel) * Lĩnh vực hoạt động của Vietel: - Tổ chức xây dựng, quản lý vận hành, khai thác mạng lưới và cung cấp các dịch vụ viễn thông, tin học, bưu chính trong phạm vi toàn quốc và quốc tế. -Sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh vật tư, thiết bị chuyên ngành bưu chính, viễn thông và các phần mềm tin học. - Cho thuê kênh liên lạc, truyền số liệu trong nước và quốc tế. - Nhận thực hiện các dịch vụ như Bưu phẩm, bưu kiện, EMS trong nước và quốc tế. Do áp dụng các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực viễn thông tin học, kết hợp với mạng viễn thông sẵn có của tổng công ty Bưu chính- viễn thông nên Vietel đã đạt được những lợi thế có thể kể đến như cung cấp dịch vụ với giá rẻ ( dịch vụ điện thoại đường dài 178 ), chiếm được thị phần tương đối lớn trong lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ viễn thông. Ngoài ra Vietel có cơ cấu tổ chức bộ máy linh hoạt tận dụng được nguồn nhân lực có trình độ trong cũng như ngoài quân đội( từ các đơn vị thuộc ngành Bưu điện chuyển sang ) nên đã đạt được những hiệu quả kinh doanh nhất định. Nhưng Vietel cũng gặp phải khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị. Đó là việc hiện nay hầu hết các kênh liên lạc của Vietel đều vẫn phải đi thuê của tổng công ty Bưu chính - Viễn thông nên doanh thu của các dịch vụ mà công ty cung cấp vẫn còn thấp( phải trả khoản tiền thuê cáp cho tổng công ty Bưu chính viễn thông). Hơn nữa do mới thành lập, thời gian hoạt động chưa lâu, kinh nghiệm kinh doanh còn ít nên khả năng cạnh tranh còn thấp. Nhưng Vietel thật sự có tiềm năng và là một đối thủ có ảnh hưởng lớn đến thị trường bưu chính hiện nay.1.2.Công ty Bưu chính Sài gòn( Saigon POST) * Lĩnh vực hoạt động : - Sài gòn POST hoạt động mạnh trong lĩnh vực Bưu chính như nhận chuyển phát trư chuyển tiền, điện chuyển tiền, bưu phẩm, bưu kiện, EMS trong nước và quốc tế. - Công ty còn tham gia cung cấp một số dịch vụ viễn thông như các hình thức sử dụng điện thoại đường dài trong nước và quốc tế, điện thoại di động,Fax... Tuy mới tham gia thị trường Bưu chính nhưng Saigon POST đã nhanh chóng thích ứng với điều kiện cạnh tranh,đã tìm cách khắc phục những điểm yếu của các công ty khác và phát huy lợi thế của mình. Điểm nổi bật trong quá trình kinh doanh của công ty là việc chú trọng trong lĩnh vực chăm sóc khách hàng, tiếp thị và cơ chế khuyến mại. Các hình thức tặng quà của công ty rất đa dạng, hấp dẫn và thực sự có hiệu quả. Được như vậy là do Saigon POST có qui trình khai thác hợp lý,có đội ngũ cán bộ công nhân viên lành nghề, hết lòng với công việc, có khoa học kỹ thuật trợ giúp. Công ty luôn đảm bảo các dịch vụ đến với khách hàng đúng thời gian và địa điểm. Tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng các dịch vụ nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả. Bên cạnh những lợi thế trên thì hiện nay Saigon POST cũng có những mặt hạn chế như việc phải thuê kênh liên lạc, đường dẫn của tổng công ty Bưu chính - viễn thông Việt nam đã làm giảm khả năng kinh doanh,cạnh tranh của công ty. Và đối với riêng Saigon POST thì tổng công ty Bưu chính viễn thông vẫn là một cái bóng khổng lồ không dễ vượt qua. Từ sự phân tích hoạt động của những đối thủ trên cho thấy họ thực sự có khả năng phát triển trên thị trường hiện nay bằng cách tận dụng những điểm chưa đạt được của công ty Bưu chính-PHBC Hà nội trong quan hệ với khách hàng như thái độ của nhân viên phục vụ, các chính sách khuyến mại, quà tặng, luôn đảm bảo phục vụ đúng thời gian, đúng địa điểm. Tuy nhiên, do tích luỹ ban đầu chưa nhiều, việc thuê kênh liên lạc, đường dẫn của tổng công ty Bưu chính-Viễn thông Việt nam đã làm cho doanh thu của các công ty này giảm đáng kể. Qua đó ban lãnh đạo công ty đã nhận thấy rằng cần phải có những thay đổi để có thể đứng vững và phát triển. Do lợi thế có uy tín từ nhiều năm nay, do cơ sở vật chất đã được xây dựng khá vững vàng, đội ngũ cán bộ công nhân viên lành nghề, công ty Bưu chính hoàn toàn có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Tuy nhiên, nhìn từ những khía cạnh đạt được của các đối thủ cạnh tranh thì công ty nên có những chính sách mới về phục vụ khách hàng, về mở rộng các dịch vụ và đưa công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất để công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội thực sự là một công ty của nhân dân, hoạt động vì nhân dân. 2. Quan điểm cạnh tranh của công ty Công ty Bưu chính có chủ trương cạnh tranh lành mạnh dựa trên cơ sở đã tạo dựng được uy tín với khách hàng từ nhiều năm nay. Đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng việc thực hiện các dịch vụ mới, áp dụng công nghệ tiên tiến vào tất cả các mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Khắc phục những mặt hạn chế của các đối thủ và phát huy lợi thế của mình. Với phương châm phục vụ: " Khách hàng luôn luôn đúng ", công ty đã, đang và sẽ khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong hoạt động của Bưu điện Hà Nội nói riêng. Chương II: thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Bưu chính và phát hành báo chí Hà nội từ năm 1996-2000 và chiến lược phát triển của công ty đến năm 2010. I. Giới thiệu sơ lược về công ty Bưu chính và phát hành báo chí Hà Nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội Ngày 1-4-1987, Bưu điện thành phố Hà Nội ra quyết định số 168-QĐ/TCCB-LĐTL thành lập công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội trực thuộc Bưu điện thành phố Hà Nội. 15 năm qua với nhiệm vụ phục vụ khách hàng các dịch vụ, nghiệp vụ Bưu đuện trên địa bàn nội thành thủ đô Hà Nội, công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội là nhịp cầu chuyển đưa tình cảm của nhân dân thủ đô và cả nước. Trong mọi hoàn cảnh, công ty luôn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh của giai cấp công nhân, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ do cấp trên giao. Thành lập khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế hoạt động gồm nhiều thành phần kinh tế, dưới sự chỉ đạo của nhà nước, cơ chế khoán theo định mức được đưa vào tất cả các đơn vị, cũng như bao doanh nghiệp khác, công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn: trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên không đồng đều, lao động hết sức thủ công, thái độ phục vụ của cán bộ công nhân viên chưa đáp ứng kịp với nhu cầu mới. Tuy nhiên cũng chính cơ chế thị trường đã tạo ra cho công ty nhiều cơ hội để phát triển hơn. Từ năm 1987- 1993, Công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội có nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh và phục vụ các nhu cầu của nhân dân về các dịch vụ Bưu chính - viễn thông, phát hành báo chí trên địa bàn Hà Nội. Với chủ trương đúng đắn của ban giám đốc về đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, tạo mọi thuận lợi cho khách hàng, công ty đã đạt được những bước tiến mới. Mô hình tổ chức được sắp xếp lại, điều hoà nhân lực, bố trí dây chuyền sản xuất, đưa tin học vào quản lý...công ty đã dần chiếm được tình cảm tốt đẹp của nhân dân thủ đô, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao. Từ năm 1994- 1999, đây là giai đoạn thực hiện nghị quyết đại hội Đảng VIII. Công ty đã vận dụng tốt 4 quan điểm của ngành, các định hướng và sự chỉ đạo của Đảng uỷ Bưu điện Hà Nội, luôn bám sát nhiệm vụ trọng tâm để đưa nội dung, mục tiêu của các đợt thi đua nhằm đẩy mạnh SX- KD và phục vụ khách hàng ngày càng hiệu quả hơn. Công ty đã giao kế hoạch sản xuất kinh doanh đến từng cá nhân, tổ, bưu cục, giáo dục ý thức kinh doanh đến từng cán bộ công nhân viên, đôn đốc và theo dõi kế hoạch thực hiện hàng tháng ở các đơn vị...Củng cố lại bộ máy tổ chức, tăng cường công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng, triển khai công tác chống tham nhũng, buôn lậu... Trong thời kỳ này, công ty đã phát triển được 38 bưu cục, 15 kiốt, 9 điểm tựa, 8 bưu tá xã, lắp đặt 45 tủ thư tại các khu tập thể nhà cao tầng theo qui trình phát thư báo 7 quận nội thành. Phát triển thêm nhiều dịch vụ mới đi đôi với tăng cường biện pháp quản lý, giáo dục ý thức kinh doanh, thích ứng với nền kinh tế thị trường. Với mạng lưới bưu chính rộng khắp, công ty đã thực hiện được mục tiêu đưa dịch vụ bưu điện đến gần người sử dụng. Chất lượng và ý thức kinh doanh thường xuyên được coi trọng và ngày càng nâng cao đã tạo ra sự chuyển biến tốt ở tất cả các khâu trong dây chuyền sản xuất bưu chính và phát hành báo chí. Đặc biệt từ năm 99 đến nay, công ty đã mạnh dạn tổ chức khoán doanh thu, sản lượng đến tổ, bưu cục và người lao động nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động, sửa chữa các bưu cục, phòng làm việc khang trang, ngăn nắp, đầu tư trang thiết bị hiện đạiđể người lao động làm việc có hiệu qủa với năng suất và chất lượng cao. Trong vài năm trở lại đây, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng uỷ và giám đốc công ty đã nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của ngành thông tin liên lạc thủ đô, tổ chức tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng các qui chế, qui định trong công việc, đoàn kết nội bộ, bí mật công văn thư tín... Bên cạnh đó, công ty rất quan tâm đến phong trào đền ơn đáp nghĩa, " uống nước nhớ nguồn", lá lành đùm lá rách, ủng hộ nhân dân vùng bị bão lụt thiên tai... Tranh thủ và thực hiện sự lãnh đạo của bưu điện thành phố Hà Nội, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các đơn vị; có sự đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo và nội bộ để phát huy sức mạnh của tổ chức; chăm lo quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên... chính là bài học về ăn nên làm ra, phát triển vững chắc có uy tín với xã hội đã được ban lãnh đạo công ty đúc kết một cách thận trọng và khiêm tốn. 2. Cơ cấu tổ chức và đặc điểm đội ngũ lao động của công ty Bưu chính và PHBC Hà nội. 2.1. Cơ cấu tổ chức Công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội nên vẫn do Bưu điện Hà Nội điều hành và quản lý. Tuy nhiên , về cơ bản công ty có tổ chức như sau: Ban giám đốc phó giám đốc phó giám đốc Phòng tổ chức Phòng tài chính Phòng kế hoạch Phòng quảnlý hành chính kế toán kinh doanh nghiệp vụ Bưu cục Bưu cục Bưu điện Bưu điện Bưu điện Bưu điện Bưu điện Bưu điện Bưu cục Đội GDTT GDQT QHK QHBT QTX QĐĐ QTH QBĐ PHBC xe Các đại lý và bưu cục Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty được xây dựng theo mô hình trực tuyến. 1. Giám đốc công ty là đại diện pháp nhân của đơn vị, chịu trách nhiệm trước giám đốc Bưu điện Hà nội và trước pháp luật về quản lý và điều hành hoạt động của đơn vị. Giám đốc là người có quyền quản lý và điều hành cao nhất trong công ty. 2. Phó giám đốc giữ chức năng tham mưu cho giám đốc đồng thời là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của đơn vị theo phân công của giám đốc. Chịu trách nhiệm trước giám đốc về pháp luật, về nhiệm vụ được phân công. 3. Kế toán trưởng là người giúp giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê, hạch toán kinh tế của đơn vị, có các quyền và nhiệm vụ theo qui định pháp luật. 4. Các phòng ban chuyên môn và các chuyên viên giúp việc giám đốc trong việc quản lý và điều hành quản lý công việc chuyên môn, chịu trách nhiệm trước giám đốc về nội dung công việc được giao. 5. Các đơn vị trực thuộc công ty gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị hành chính. Các đơn vị này trực thuộc hoạt động chuyên ngành trên, các lĩnh vực chuyên môn cụ thể và chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi trước công ty. - Các đơn vị sản xuất có cấp trưởng phụ trách, có kế toán, có thể có cấp phó giúp việc phụ trách một hoặc một số nghiệp vụ chuyên môn do cấp trưởng chuyên môn. - Các đơn vị hành chính do cấp trưởng phụ trách( có thể có cấp phó) giúp giám đốc công ty chỉ đạo toàn diện các mặt sản xuất kinh doanh, chất lượng nghiệp vụ và các hoạt động khác. - Các đơn vị trực thuộc được quyền chủ động tổ chức, quản lý, hoạt động sử dụng có hiệu quả với các nguồn lực được công ty giao. Có trách nhiệm mở đầy đủ các sổ sách theo dõi nghiệp vụ, theo dõi công tác kế toán thống kê, tài chính tại đơn vị mình. Chịu sự kiểm tra của công ty, của Bưu điện Hà Nội và các cơ quan có thẩm quyền. Có trách nhiệm báo cáo đầy đủ cho công ty về kết quả hoạt động kinh doanh, phục vụ và hoạt động tài chính của đơn vị. 2.2. Đặc điểm đội ngũ lao động Bảng 1: Lao động của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội năm 2001 Chỉ tiêu Tổng Số lượng( người) Tỷ lệ phần trăm 1912 100 Phân theo giới tính -Nam - Nữ 796 41,6 1116 58,4 Phân theo hợp đồng lao động - Hợp đồng dài hạn -Hợp đồng ngắn hạn 1787 93,5 125 6,5 Theo trình độ LĐ - Đại học, cao đẳng 360 18,8 - Trung cấp 188 9,8 - Sơ cấp 1363 71,4 3. Các loại hình dịch vụ của công ty 3.1. Các dịch vụ truyền thống Bao gồm dịch vụ bưu phẩm, bưu kiện trong nước và quốc tế. Dịch vụ chuyển tiền gồm có thư chuyển tiền, điện chuyển tiền trong nước và trả ngân phiếu quốc tế. Dịch vụ phát hành báo chí. * Bưu phẩm -Bưu phẩm thường: + Thư, bưu thiếp, gói thư tối đa 2 kg. + ấn phẩm ( sách báo, tài liệu) tối đa 2 kg. + Học phẩm người mù tối đa 7 kg. + Gói nhỏ ( hàng hoá, quà tặng...) tối đa 2 kg. ( Đối với bưu phẩm quốc tế khối lượng trên thay đổi tuỳ theo mỗi nước đến) - Bưu phẩm ghi số: là dịch vụ dùng cho các loại bưu phẩm thường cần được đảm bảo, được mang một số hiệu riêng và được ghi chép, theo dõi suốt trong quá trình nhận chuyển, khai thác và khi phát lấy chữ ký của người nhận. Với mạng lưới phục vụ rộng khắp khách hàng có thể gửi bưu phẩm ở bất kỳ tại một bưu cục nào để chuyển đến bất cứ địa phương nào trong cả nước. Đối tượng phục vụ rộng rãi: các cá nhân, đơn vị, cơ quan, tổ chức đều có thể sử dụng dịch vụ này. * Bưu kiện Bưu kiện là các loại vật phẩm, hàng hóa không có tính thông tin riêng và hiện thời, được gửi qua bưu điện để chuyển phát đến người nhận theo một qui định riêng biệt. Đối với dịch vụ Bưu kiện trong nước thì đối tượng khách hàng là các tiểu thương chuyển gửi hàng hoá mang tính chất thương mại, khách hàng còn sử dụng dịch để gửi quà biếu hoặc các đồ dùng cần thiết khác. Dịch vụ Bưu kiện quốc tế phần lớn khách hàng gửi quà là quà biếu và một số cơ quan trao đổi, giới thiệu mẫu hàng trong giao dịch thương mại. Từ khi có dịch vụ EMS thì các cơ quan trước đây thường sử dụng dịch vụ bưu kiện quốc tế nay chuyển sang EMS để đảm bảo tính thời gian và qui luật cạnh tranh của thị trường. * Dịch vụ chuyển tiền Thư chuyển tiền và điện chuyển tiền : với ưu thế nổi bật là phục vụ chuyển tiền từ số tiền rất nhỏ đến số tiền lớn đi tất cả các địa phương trong cả nước đáp ứng được nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân. Ngoài ra còn phục vụ chuyển tiền miễn cước đến các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các vùng bị thiên tai,lũ lụt. Dịch vụ trả tiền ngân phiếu quốc tế; Bưu điện Hà Nội chỉ thực hiện chiều đến đối với 9 nước nên sản lượng phụ thuộc vào nước phát hành ngân phiếu. Dịch vụ chuyển tiền chủ yếu phục vụ các đối tượng khách hàng là tư nhân( quà biếu, gia đình gửi tiền cho con là sinh viên các trường đại học và trung học chuyên nghiệp). Ngoài ra là các toà soạn báo gửi tiền với số lượng không lớn để giao dịch, thanh toán.Còn lại là các tổ chức từ thiện và cơ quan sử dụng dịch vụ này để chuyển tiền giúp đỡ nạn nhânở các vùng bị thiên tai lũ lụt, hội chữ thập đỏ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng. * Dịch vụ phát hành báo chí Là việc bưu điện nhận đặt mua dài hạn hoặc bán lẻ các loại tạp chí được phép lưu hành trong nước hay nhập khẩu và phát theo yêu cầu người đọc. Hay nói cách khác: đó là sự chuyển dịch báo chí từ nhà xuất bản đến tay người đọc. Dịch vụ phát hành báo chí vừa mang tính kinh doanh vừa mang tính phục vụ. - Mua dài hạn: thời gian mua báo liên tục tối thiểu 1 tháng và được phát tại địa chỉ( khách hàng trả tiền trước nhận báo sau). - Mua báo lẻ: báo chí được bán lẻ tại các bưu cục,khách hàng chọn lựa báo theo nhu cầu và trả tiền tại thời điểm mua báo. Ngoài ra báo chí bán lẻ còn được kinh doanh thông qua các đại lý tư nhân ký hợp đồng với bưu điệnvà được hưởng thù lao hoa hồng theo số tiền bán được. Trong những năm qua công ty Bưu chính và PHBC đã tích cực phấn đấu để nâng cao sản lượng chất lượng dịch vụ, thực hiện nhiều biện pháp vận động, tuyên truyền, quảng cáo với phương châm báp chí đi tìm bạn đọc, tổ chức tốt nhận đặt mua tại bưu điện, nhận đặt mua tại địa chỉ và mở rộng mạng lưới bán lẻ,tổ chức phát báo sớm cho độc giả. Sau khi nhà nước ban hành luật báo chí đã cho pháp các toà soạn trực tiếp phát hành báo chí, ngành bưu điện không còn độc quyền trong lĩnh vực PHBC, thị phần của công ty đang bị thu hẹp lạivà cạnh tranh gay gắt. Hiện nay ngoài Bưu điện còn có rất nhiều các tổ chức, cá nhân cùng tham gia công tác PHBC. 3.2. Các dịch vụ mới Dịch vụ chuyển phát nhanh EMS, chuyển tiền nhanh, điện hoa, bưu phẩm không địa chỉ, bưu chính uỷ thác và dịch vụ tiết kiệm bưu điện. * Dịch vụ EMS Bưu phẩm chuyển phát nhanh trong nước và ngoài nước là loại bưu phẩm được nhận gửi, chuyển,phát riêng theo chỉ tiêu thời gian được công bố trước. Dịch vụ chuyển phát nhanh EMS tại công ty đã phát triển và mở rộng mạng lưới phục vụ tại khắp các tỉnh thành trên toàn quốc. * Dịch vụ điện hoa Phục vụ nhu cầu chuyển hoa kèm theo tặng phẩm hoặc tiền mặt để chúc mừng hay chia buồn với phương thức phát trang trọng và lịch sự( đây là loại hình dịch vụ lai ghép giữa bưu chính và viễn thông). Dịch vụ điện hoa ra đời vào thời điểm kinh tế xã hội cũng như đáp ứng được nhu cầu phục vụ đời sống tinh thần phong phú của người dân. * Dịch vụ chuyển tiền nhanh Dịch vụ chuyển tiền nhanh ( dịch vụ lai ghép giữa Bưu chính và Viễn thông) ra đời và đáp ứng kịp thời nhu cầu lưu chuyển tiền tệ trong xã hội cũng như đáp ứng chủ trương đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của ngành. Với ưu điểm nổi bật là chuyển tiền nhanh chóng với chỉ tiêu thời gian công bố trước kết hợp với việc áp dụng công nghệ viễn thông tin học, đây thật sự là một địa chỉ đáng tin cậy đối với khách hàng. * Dịch vụ Bưu phẩm không địa chỉ Là loại hình dịch vụ mới, đối tượng khách hàng là các nhà sản xuất,các doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo sản phẩm của mình dưới hình thức ấn phẩm gửi qua bưu điện. Trên bưu phẩm người gửi không phải ghi địa chỉ nhận, Bưu điện sẽ chuyển phát đến các đối tượng liên quan đến nội dung của bưu phẩm do người gửi yêu cầu. * Dịch vụ bưu chính uỷ thác Là dịch vụ mới nhằm phục vụ nhu cầu chuyển gửi các loại vật phẩm hàng hoá có khối lượng, kích thước lớn mà nghiệp vụ Bưu phẩm, bưu kiện truyền thống chưa đáp ứng được. Đối tượng phục vụ của dịch vụ Bưu chính uỷ thác phần lớn là các nhà sản xuất thương mại...có nhu cầu chuyển gửi vật phẩm, hàng hoá từ trên 31,5 kg đến vài trăm kg mỗi lần gửi. * Dịch vụ tiết kiệm bưu điện ( dịch vụ bưu chính tài chính ) Tiết kiệm bưu điện là hình thức huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong các tàng lớp dân cư để bổ sung nguồn vốn quỹ đầu tư phát triển cho các dự án theo chủ trương của chính phủ và theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. 3.3. Các dịch vụ viễn thông tại các điểm công cộng 3.3.1. Điện thoại cố định Đối tượng của loại hình dịch vụ này là những khách hàng không có phương tiện thông tin cá nhân hoặc đang đi trên đường thì dịch vụ điện thoại tại các bưu cục sẽ đáp ứng được ngay nhu cầu thông tin của khách hàng đó. Hiện nay công ty có 85 điểm bưu cục và 150 đại lý bưu điện trên phạm vi nội thành có cung cấp dịch vụ điện thoại trong nước và quốc tế. Cước dịch vụ đàm thoại tại bưu cục bao gồm cước thông tin và cước phục vụ tại bưu cục ( nếu có). 3.3.2. Điện thoại dùng thẻ Điện thoại thẻ Việt Nam là một hình thức gọi trả trước, được thực hiện tại các trạm điện thoại công cộn nhờ các thẻ vi mạch do tổng công ty bưu chính viễn thông Việt nam phát hành. Để tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng dịch vụ này, tại mọi điểm bưu cục và đại lý của công ty BC-PHBC Hà Nội đều có bán thẻ Card phone với các mệnh giá 30.000đ, 50.000đ, 100.000đ.Việc tính cước thông tin được thực hiện theo hình thức khấu trừ giá trị trên thẻ. 3.3.3. Dịch vụ 108 Đây là một dịch vụ của công ty nhằm giải đáp nhu cầu thông tin qua điện thoại về kinh tế - văn hoá - xã hội - thể thao.Đối với những khách hàng có nhu cầu gặp gỡ các chuyên gia tư vấn trong các lĩnh vực y tế -tâm lý tình cảm - tin học- hướng nghiệp- pháp luật chỉ cần quay 1088 để nối máy với lĩnh vực cần tư vấn. 3.3.4. Dịch vụ điện thoại di động Đây là một phương thức thông tin hiệu quả và tiện lợi hiện đang được nhiều khách hàng quan tâm. Thông qua mạng dịch vụ điện thoại di đoọng, khách hàng có thể nhận được thông tin đi và đến từ tất cả các mạng trên địa bàn 61 tỉnh/ thành phố toàn quốc.Hiện nay có 2 mạng điện thoại di động là Vinaphone và mobiphone. Để sử dụng mảng dịch vụ này, khách hàng có thể trả tiền trước hoặc trả tiền sau bằng các Vinakit và Vinacard với các mệnh giá từ 200.000đ đến 500.000đ tại tất cả các điểm giao dịch của công ty. Ngoài những dịch vụ chính trên thì công ty còn thực hiện nhiều loại hình dịch vụ khác cũng đem laị doanh thu không nhỏ như dịch vụ nhắn tin, dịch vụ telex, dịch vụ Fax, dịch vụ điện báo... 4. Các hoạt động khác của công ty bưu chính và phát hành báo chí Hà Nội Không chỉ tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu qủa kinh doanh mà ban lãnh đạo công ty còn rất chú trọng tới vấn đề con người, coi con người là nền tảng của sự phát triển. Cùng với suy nghĩ đúng đắn đó là hàng loạt các chính sách về việc phát huy quyền làm chủ của ngươì lao động, bảo vệ người lao động và quản lý người lao động. Công ty thực hiện đầy đủ các hình thức bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ công nhân viên. Khi gặp các trường hợp ốm đau, bệnh tật hay những sự cố tai nạn, rủi ro, công ty luôn cố gắng giải quyết các thủ tục sao cho cán bộ công nhân viên có thể nhận được quyền lợi của mình một cách nhanh nhất.Bên cạnh đó an toàn của người lao động là vấn đề mà ban lãnh đạo công ty luôn đặt lên hàng đầu. Những qui định, những nguyên tắc về an toàn trong sản xuất bắt buộc 100% cán bộ công nhân viên phải thực hiện không những đã góp phần làm giảm thiệt hại về người và của mà còn làm tăng năng suất lao động, việc sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả hơn. Hàng năm vào những dịp hè hoặc lễ tết, công ty thường tổ chức cho cán bộ công nhân viên những kỳ nghỉ lý thú như ở Sầm Sơn, bãi cháy... hay đơn giản là những danh lam thắng cảnh trong và ngoài Hà nội để sau những giờ làm việc căng thẳng, cán bộ công nhân viên có được những giây phút hoàn toàn thư giãn. chăm sóc đến đời sống của người lao động là việc làm thường xuyên của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội.Mục đích là người lao động được tạo điều kiện hơn nữa trong làm việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày, và đây cũng là một trong những bí quyết thành công của công ty. II. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty BC- PHBC Hà nội 1. Sự cần thiết của việc phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Bưu chính- PHBC Hà Nội 1.1. Khái quát về môi trường sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty Bưu chính và Phát hành báo chí Hà Nội Với mục tiêu chung của ngành Bưu điện phát triển Bưu chính Việt Nam đến năm 2010 đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực với một mạng lưới phát triển toàn diện đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Đảm bảo việc cung cấp dịch vụ rộng khắp với tiêu chuẩn chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực viễn thông, điện tử tin học và tự động hoá. Bưu chính trở thành doanh nghiệp độc lập, hoạt động linh hoạt, đảm bảo tốt phục vụ công ích, thích ứng với thị trường và hoạt động kinh doanh có lãi trên cơ sở hệ thống hoàn chỉnh các văn bản pháp qui về bưu chính. Công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội nên dịch vụ của công ty được xác định là đơn vị sản xuất vật chất đặc biệt thuộc kết cấu hạ tầng. Bao gồm các dịch vụ Bưu chính, PHBC, Viễn thông vừa phục vụ cho việc điêu hành quản lý của nhà nước nói chung và Hà Nội nói riêng, vừa trực tiếp tham gia vào sản xuất với tư cách là yếu tố đầu vào quan trọng tạo ra sản phẩm xã hội trên địa bàn thủ đô cũng như trong cả nước. Bên cạnh đó, Hà Nội là trung tâm chính trị văn hoá, khoa học kỹ thuật của cả nước, là nơi tập trung các cơ quan ngoại giao và các tổ chức quốc tế có quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị với Việt Nam. Ngoài ra Hà Nội còn là điểm du lịch phong phú, hấp dẫn đối với khách trong và ngoài nước. Hiện nay, kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế Hà Nội nói riêng đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong những năm qua có một phần đóng góp không nhỏ của ngành bưu điện nói chung và công ty Bưu chính -PHBC Hà nội nói riêng. Lợi nhuận đem lại cho công ty không những để phục vụ cho tái sản xuất mở rộng mạng lưới kinh doanh bưu chính, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế xã hội trên địa bàn thủ đô mà còn mang lại lợi ích kinh tế cho các ngành kinh tế xã hội khác thông qua việc nắm bắt được thông tin nhanh chính xác, kịp thời. Hà Nội có 7 quận, 5 huyện với tổng diện tích 927,39 km2 và dân số gần3 triệu người. Trong đó có 7 quận nội thành gồm: Hoàn kiếm, Ba đình, Hai Bà Trưng, Đống đa, Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy có diện tích: 82,78 km2, 5 huyện ngoại thành : Sóc sơn, Đông anh, Gia lâm, Thanh trì, Từ liêm có diện tích 844,61km2. Hà Nội thực sự là thị trường đầy tiềm năng, điều kiện để phát triển công nghiệp, nông nghiệp và các dịch vụ khác, do đó nhu cầu sử dụng thông tin bưu chính ngày một tăng. Cùng với dịch vụ Viễn thông, dịch vụ Bưu chính ngày nay giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội với tư cách là phương tiện liên lạc phổ thông và kinh tế nhất thông qua việc phát thư, công văn, tài liệu, báo chí hàng hoá, tiền mặt từ người gửi đến người nhận chỉ trong một thơì gian nhất định. Hiện nay bên cạnh những thuận lợi, bưu chính Hà nội cũng phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt và phức tạp giữa các đơn vị trong và ngoài ngành nên việc nhận định hoạt động của mình để khẳng định vị thế là hết sức cần thiết. 1.2. Mục đích của việc phân tích các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Sản phẩm của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội là kết quả của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận, sản phẩm của công ty bao gồm cả sản phẩm hoàn chỉnh và sản phẩm công đoạn ( đi, qua, đến ), vì vậy sản phẩm của công ty rất đa dạng về số lượng và chủng loại. Với đặc điểm của công ty là ngành sản xuất dịch vụ, quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản xuất mang tính dây chuyền. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín của đơn vị khách hàng, tiết kiệm chi phí cho sản xuất kinh doanh và có ý nghĩa thiết thực đối với người tiêu dùng và xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt kết quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh với chi phí ít nhất. Về định lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh phải được thể hiện ở trong mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi, có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa các chi phí sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải được biểu hiện bằng chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là mục tiêu số 1 nó chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao, càng có điều kiện mở mang và phát triển đầu tư mua sắm tài sản cố định, nâng cao đời sống người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả SXKD thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, dùng các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính qui luật và xu hướng phát triểncủa các dịch vụ Bưu chính. Thông qua việc phân tích tổng thể các chỉ tiêu kết quả kinh doanh như số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, doanh thu, chi phí, lợi nhuận dưới tác động của các nhân tố ảnh hưởng. Các chỉ tiêu kết quả kinh doanh được phân tích trong mối liên hệ với các chỉ tiêu về điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh như lao động, vốn, tài sản, vật tư, vật liệu, xác định được nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của các quá trình kinh và mối liên hệ giữa kết quả kinh doanh với các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Nhận biết được nguyên nhân ảnh hưởng đến qui mô sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu qủa trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 1996-2000 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngành bưu điện nói chung và công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Với phương châm tận dụng tối đa năng lực mạng lưới hiện có, đổi mới công nghệ,không ngừng phát triển mạng lưới Bưu chính với nhiều loại hình dịch vụ, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thông tin xã hội, mở rộng sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, công ty Bưu chính- PHBC Hà Nội đã không ngừng mở rộng diện phục vụ, đưa các dịch vụ Bưu chính đến gần người tiêu dùng bằng phương pháp tăng số lượng các bưu cục nhằm rút ngắn bán kính phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng các nhu cầu thông tin của khách hàng. 2.1. Doanh thu các dịch vụ của công ty thời kỳ 1996-2000 Trong những năm gần đây, ngoài việc phát triển các dịch vụ truyền thống như Bưu phẩm, bưu kiện, thư chuyển tiền, điện thoại công cộng...Công ty đã không ngừng đổi mới đưa các dịch vụ Bưu chính mới, chất lượng cao đi vào hoạt động như c._.HBC Hà Nội nói riêng, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần tăng khả năng sản xuất của mạng Bưu chính, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho đội ngũ lao động và mở rộng qui mô sản xuất, cải tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm bưu chính, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển mạng lưới bưu chính cho ngân sách nhà nước. Qua phân tích ở trên, chúng ta càng thấy rõ hơn sự cần thiết của việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhất là trong quá tình hình đất nước ta hiện nay nguồn lực cho phát triển còn yếu kém. Điều đó đòi hỏi cán bộ lãnh đạo các ngành nói chung và công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội nói riêng phải có phương thức hợp lý trong huy động và sử dụng vốn. 2.2.Phương thức huy động vốn Do đầu tư phát triển lớn từ nay đến năm 2010 cho nên chúng ta dựa chủ yếu vào việc đi vay, đầu tư từ vốn ngân sách chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vì vậy cần huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước mới đáp ứng được. Phần vốn đầu tư có vai trò khá quan trọng đó là phần vốn đầu tư huy động từ nước ngoài. Hiện nay công ty Bưu chính và PHBC là công ty trực thuộc Bưu Điện thành phố Hà Nội nên vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vẫn phải thông qua Bưu Điện Hà Nội. Bên cạnh đó có thể thực hiện những chính sách khác để đồng thời thu hút nguồn vốn này như: - Tiếp tục và phát triển hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với các đối tác có công nghệ tiên tiến, có năng lực quản lý giỏi và lựa chọn thời hạn hợp tác kinh doanh thích hợp cho từng bộ phận, đảm bảo đôi bên cùng có lợi. - Cân đối vay thương mại ở các hình thức: + Tín dụng người bán. + Tín dụng xuất khẩu. + Vay ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài tại VN và ngân hàng nước ngoài. - Vay hỗn hợp các nguồn vốn. - Thực hiện việc lựa chọn tư vấn tài chính( trong nước và quốc tế). - Huy động Việt kiều yêu nước góp vốn vay. - Nguồn ngoại tệ do kinh doanh của công ty để lại. - Triển khai phương thức thuê hoặc mua thiết bị của các công ty trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn thứ hai góp phần quyết định sự tồn tại của công ty là nguồn vốn trong nước. Bằng cách tranh thủ ngân sách của chính phủ cho việc phát hành các dịch vụ bưu chính, bằng cách tăng khấu hao cơ bản để tăng vốn công ty tự bổ sung, huy động các tổ chức kinh tế các cá nhân trong nước có nguồn vốn nhàn rỗi cùng liên doanh góp lãi chia cổ phần. Bên cạnh đó có thể cùng toàn ngành vay trung hạn các tổ chức ngân hàng trong nước, tổng công ty và các đơn vị trực thuộc, phát hành tín phiếu trong và ngoài ngành, huy động vốn góp của người sử dụng dịch vụ Bưu chính để phát triển....công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội có thể có trong tay một nguồn vốn đáng kể hỗ trợ cho sự phát triển của công ty nói chung và của Bưu điện Hà nội nói riêng. * Biện pháp sử dụng nguồn vốn, đầu tư có hiệu quả: *1. Sử dụng vốn để nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty - Tăng cường chất lượng mạng lưới và dịch vụ Bưu chính để cung cấp cho khách hàng các dịch vụ bưu chính tin cậy, an toàn và hiệu quả là mục tiêu hàng đầu của công ty Bưu chính- PHBC Hà Nội. - Đối với lĩnh vực bán lẻ cần hợp lý hoá các bưu cục, khảo sát tích cực các cơ hội tăng trưởng để mở rộng bán hàng góp phần làm tăng nguồn thu cho Bưu chính. Việc triển khai chương trình tự động hoá bưu cục sẽ cải tiến thời gian giải đáp khiếu nại của khách hàng về bưu gửi và cập nhật dữ liệu nhanh chóng và chính xác hơn. Điều này cũng tạo khả năngcung cấp hàng loạt dịch vụ đại lý. - Hiện nay bên cạnh sự cạnh tranh của các đơn vị còn có sự cạnh tranh của các phương tiện truyền tin khác như điện thoại, FAX, E-Mail,...làm số lượng thư từ bưu phẩm truyền thống có nguy cơ giảm, bên cạnh đó, chất lượng mạng phục vụ bưu chính - PHBC chưa cao. Các dịch vụ cung cấp tại các điểm phục vụ chủ yếu là các dịch vụ đơn giản, các trang thiêt bị đã rất lạc hậu. Mạng lưới khai thác bưu chính hiện vẫn mang nặng khai thác thủ công. Vì những lý do trên, để phát triển, công ty cần phải có sự đầu tư mạnh vào các trang thiết bị hiện đại với công nghệ tiên tiến phục vụ khâu khai thác bưu chính để tạo được hình ảnh, ấn tượng lòng tin đối với khách hàng: +Tiếp tục đầu tư cho mạng lưới bưu cục cấp II, III và các điểm Bưu điện Văn hoá xã đến năm 2010 được vi tính hóa, có cân điện tử. + Xây dựng kế hoạch tổng thể đầu tư phát triển mạng tin học Bưu chính từ nay đến năm 2010 phục vụ cho việc quản lý và kinh doanh các dịch vụ. + Trong 3 năm tới, phấn đấu vi tính hoá hầu hết các khâu quản lý và sản xuất, đối với các bưu cục mở các dịch vụ chủ yếu như EMS, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm Bưu điện...Để các dịch vụ thực sự đạt kết qủa cao đủ sức cạnh tranh với các đối tác khác. + Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng đối với các dự án về công nghệ khai thác chia chọn hiện đại đã được duyệt để sớm đưa các công trình khai thác chia chọn tự động phục vụ đến tận bưu cục cấp I, II. + Đầu tư xây dựng và triển khai hệ thống mã bưu chính mới. *2. Vốn đầu tư bổ sung phương tiện vận chuyển: - Đầu tư bổ sung phương tiện vận chuỷển ô tô cho mạng đưa thư, sao cho đến năm 2010 nâng cao mức độ chuyên ngành hoá đường thư. Đối với mạng đưa thư báo ở xã nên vận dụng cơ chế cho vay vốn mua xe máy, xe đạp... trả góp sao cho đến năm 2010 có 100% mạng phát thư báo ở các xã được chuyên ngành hoá. - Chuyên dùng hoá vận chuyển bưu chính bằng công-ten-nơ. - Chuyên ngành hoá 100% phương tiện vận chuyển mạng đường thư cấp 2, mô tô hoá việc phát thư báo ở thành phố. - Thuê các chuyến bay riêng vận chuyển bưu chính. - Đến năm 2005 hoàn tất việc cơ giới hoá vận chuyển bưu chính tới tất cả các bưu cục. Việc đầu tư cho các hoạt động bưu chính - PHBC của công ty phải đảm bảo: phát triển mạng lưới và dịch vụ đủ để thực hiện nghĩa vụ chính trị xã hội của công ty, đầu tư có chọn lọc vào việc phát triển các dịch vụ có hiệu quả kinh tế cao, ưu tiên đầu tư cho công nghệ cao. Chi phí đầu tư thấp, giá thành các loại dịch vụ hợp lý, điạ điểm, công nghệ phù hợp, doanh thu cao để đảm bảo thu hồi vốn nhanh và hiệu quả là mục tiêu mà ban lãnh đạo công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội đang ngày đêm tâm huyết. Muốn được như vậy, phải lựa chọn phương án đầu tư tối ưu nhất trên cơ sở phân tích những yếu tố chính của hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được giá thành sản phẩm và chi phí đầu tư thấp nhất. Kèm theo đó, kết quả của việc nghiên cứu khả thi là đưa ra một dự án đầu tư với năng lực sản xuất xác định và xác định rõ chi phí đầu tư, giá thành và doanh thu. Trong nghiên cứu khả thi cần chú ý đến các điều kiện sản xuất cụ thể của thị trường địa phương và các yếu tố sản xuất sẵn có để áp dụng công nghệ thích hợp nhằm cung cấp cơ sở về mặt kỹ thuật, thương mại và kinh tế cho một quyết định đầu tư.` 3. Giải pháp về việc phát triển các dịch vụ mới - Bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tem thư, bưu phẩm, bưu kiện, để đa dạng hoá và có thể đem lại sự tiện dụng cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng, mở rộng thị trường và đem lại nguồn thu cho công ty nói riêng và Bưu điện Hà Nội nói chung, chúng ta phải chú trọng đến việc phát triển các dịch vụ mới. - Bên cạnh các dịch vụ giá trị gia tăng đem lại nguồn thu lớn, cần phải có sự chú trọng đến các dịch vụ có chất lượng cao như EMS, PTN(phát chuyển nhanh), CTN( chuyển tiền nhanh)... đồng thời đưa ra cơ chế trích thưởng động viên khách hàng và thực hiện các biện pháp linh hoạt tuỳ vào tình hình thực tế của đơn vị. Để tận dụng những ưu thế vốn có của công ty Bưu chính -PHBC Hà nội( đội ngũ bưu tá thông thạo địa bàn, phương tiện vận chuyển sẵn có...) cũng như đi cùng với xu thế chung của các đơn vị khác trong cả nước, trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần phải nghĩ đến phương án thương mại điện tử, mua bán giao hàng tại địa chỉ, theo yêu cầu của khách hàng, quà tặng bưu chính.Dưới đây là bảng miêu tả sự đóng góp lợi nhuận của các hình thức dịch vụ vào quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Cao giới hạn lợi nhuận cao Đóng góp lợi nhuận ems, ptn Giới hạn lợi nhuận thấp Chuyển tiền, CTN Dịch vụ lai ghép bưu kiện Thư, bưu phẩm. - Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàngchúng ta cần dự kiến phương án cung cấp dịch vụ mua hàng tại một điểm. - Xu hướng phát triển của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng đang tiến đến một xã hội không sử dụng tiền mặt, vì vậy chúng ta cần quan tâm chăm sóc dịch vụ tiết kiệm Bưu điện đặc biệt là dịch vụ tài khoản cá nhân vừa mới ra đời. Ngoài ra việc lắp đặt các máy PAM có chức năng chấp nhận thẻ tín dụng của ngân hàng cũng là điều cần thiết trong tương lai. - Với dịch vụ lai ghép E- POST chúng ta có thể kết hợp truyền số liệu bằng đường điện tử với hệ thống phân phát cơ học của bưu chính. Như vậy nhận chỉ tiêu thời gian chuyển, phát bưu phẩm không địa chỉ, thư quảng cáo sẽ được rút ngắn góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. - Ngoài ra việc phát triển các dịch vụ đại lý như thu tiền phạt, thuế, tiền điện, tiền nước, trả lương hưu, thủ tục đăng ký, bán bảo hiểm ô tô, xe máy cũng góp phần đáng kể cho doanh thu bưu chính của công ty. 4. Giải pháp về đào tạo và quản lý nguồn nhân lực của công ty 4.1. Sự cần thiết của công tác quản lý và đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực được coi là một nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Để mang lại lợi ích kinh tế thì cần phải có vốn, vốn được biều hiện dưới nhiều dạng khác nhau: vốn lưu động, vốn tài chính tiền tệ, vốn tài sản... trong đó vốn nhân lực là một trong các loại vốn quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế. Vốn nhân lực là nguồn lực về con người song không phải bất cứ con người nào cũng có thể trở thành nhân lực. Bởi lẽ cũng giống như các nguồn khác để có thể đưa lại lợi ích kinh tế thì bản thân nó phải có giá trị( ví dụ : giá trị đồng tiền, giá trị tài sản cố định, tài sản lưu động...) yếu tố con người muốn trở thành vốn nhân lực cũng phải có giá trị, chính là giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động có giá trị cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ phát triển lành nghề của nhân lực. Trình độ lành nghề là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất, thể hiện chất lượng nguồn nhân lực có một trình độ lành nghề nhất định. Nói một cách khác, để người lao động có thể trở thành vốn nhân lực không thể có con đường nào khác ngoài công tác đào tạo nghề cho họ. Nguồn nhân lực được xem xét dựa trên 2 yếu tố đó là: số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển của ngành kinh tế. Một yếu tố nữa cần xét đến là chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Vì vậy để công nghiệp chất lượng nguồn nhân lực của công ty Bưu chính và PHBC Hà nội chúng ta phải có giải pháp quản lý và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp, bố trí điều kiện lào động tốt, tăng thu nhập, để nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty thúc đẩy công ty phát triển. Kết quả của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ của ngành. Tạo điều kiện cho ngành tiến tới áp dụng công nghệ mới ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ tiên tiến thúc đẩy tăng trưởng và phát triển ngành bưu chính. Vì vậy các nhà quản lý phải hết sức quan tâm tới công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Mặt khác trong điều kiện nền kinh tế mở, sản xuất ngày càng phát triển, cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nhiều chuyên môn nghiệp vụ cũ thay đổi, chuyên môn mới ra đời, sự cạnh tranh gay gắt về các dịch vụ tiên tiến trong lĩnh vực bưu chính đòi hỏi đội ngũ nhân lực ngành bưu chính phải có chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của sản xuất, của xu thế phát triển. Chính vì thế việc đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực là cần thiết, phải có những giải pháp khác nhau và cơ cấu đào tạo đội ngũ lao động của ngành phù hợp đem lại hiệu quả. Đặc điểm của ngành bưu chính nói chung là có lao động thủ công chiếm tỷ trọng khá lớn nên trình độ lao động nói chung chưa cao, do đó năng suất lao động rất thấp. Vì vậy việc thường xuyên rà soát lại lao động từng chức danh tại các đơn vị sản xuất trong từng điểm nhất định là việc làm thường xuyên của công ty 4.2. Giải pháp về đào tạo và quản lý nguồn nhân lực của công ty * Nhân lực và thu nhập: Đối với đội ngũ quản lý và khai thác mạng bưu chính ở các bưu cục vẫn nên dùng hình thức tuyển dụng và ký hợp đồng lao động, chịu sự điều chỉnh của luật lao động. Lực lượng này là lực lượng nòng cốt của mạng doanh thu khai thác Bưu chính. Thu nhập của họ được thực hiện theo qui chế trả lương của đơn vị cơ sở. Đối với đội ngũ làm việc tại điểm bưu cục văn hoá xã thuê phát thư báo ở xã nên thống nhất áp dụng phương thức đại lý và chịu sự điều chỉnh bởi luật thương mại và luật dân sự không chịu sự điêù chỉnh của luật lao động. Do vậy không nên dùng hình thức tuyển dụng lao động mà dùng hình thức lựa chọn để ký hợp đồng đại lý. Thu nhập của họ là khoản thù lao mà họ được hưởng do đã bỏ hao phí để thực hiện một khâu trong qúa trình trong dây chuyền cung cấp dịch vụ Bưu chính. Thù lao nên dùng hai hình thức thuê khoán theo nhiệm vụ cố định và hoa hồng dựa trên doanh thu cước đối với người làm tại các đại lý và các bưu cục văn hoá xã hoặc trên sản lượng dịch vụ đối với người phát thư báo. Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp, đại lý bưu điện có thu nhập doanh nghiệp từ 1800 000 trở lên phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thực chất thu nhập ở đây chỉ là phần thu của đại lý từ phía bưu điện còn phần chi của đại lý do hoạt động chưa được tính đến. Do đó đề nghị tổng cục thuế hướng dẫn thực hiện việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp đôí với đại lý bưu điện phải là phần thu đã trừ đi chi phí của đại lý. * Mục tiêu bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực: - Đối với đội ngũ quản lý : có trình độ đại học và trên đại học về quản lý mạng lưới dịch vụ và có kiến thức quản lý kinh tế ở cấp tỉnh, thành phố để có thể kiểm tra hướng dẫn mạng lưới doanh thác trong phạm vi đơn vị quản lý. - Đối với công nhân và nhân viên giao dịch tại Bưu cục: có đủ kiến thức về kỹ thuật, nghiệp vụ bưu chính và nghiệp vụ tiếp thị bán hàng. Ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ của mình họ còn có thể thay thế người khác khi đi vắng, có thể hướng dẫn kiểm tra thực hiện qui trình vi phạm đối với người làm việc ở các cấp thấp hơn. - Đối với nhân viên đại lý: có đủ kiến thức về kỹ thuật nghiệp vụ bưu chính và nghiệp vụ tiếp thị bán hàng. * Kế hoạch bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực Để tạo điều kiện cho đội ngũ quản lý, công nhân và nhân viên giao dịch có đủ trình độ để đảm nhận công tác Bưu chính cần có hệ thống các cấp học từ công nhân, trung cấp, đại học và trên đại học cho quản lý kinh tế, kỹ thuật nghiệp vụ và công tác nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu phát triển quản lý kinh doanh các dịch vụ bưu chính, phát hành báo chí, kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cần: - Tổ chức mời chuyên gia của các nước thực hiện các dịch vụ về tư vấn, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh Bưu chính ở VN. - Cử cán bộ bưu chính đi đào tạo, nghiên cứu học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. - Mạng bưu chính cần được bổ sung, đào tạo mới, bổ túc nghiệp vụ kịp thời đủ số lượng và chất lượng trong vận hành khai thác và quản lý mạng lưới hiện đại có hiệu quả. - Mạng bưu chính cần có một đội ngũ quản lý kinh tế có hiểu biết về tài chính doanh nghiệp, chính sách giá cả, ngoại ngữ bằng cách đào tạo bổ sung kiến thức từ nhiều hướng( tại chức, trao đổi thực tập sinh, khoá học ngắn hạn) - Đào tạo lực lượng cán bộ nghiệp vụ Bưu chính từ các cán bộ có trình độ đại học các ngành kinh tế, ngoại ngữ, luật. - Phối hợp với các trung tâm đào tạo và các trường công nhân nâng cao chất lượng, bổ sung kiến thức Bưu chính, sửa đổi giáo trình để đào tạo cán bộ công nhân viên và nhân viên đại lý, nhân viên phát thư báo hiểu sâu nghiệp vụ có thực tế phong phú và yêu nghề. - Mở rộng và chuyên sâu nghiệp vụ để phát hiện bất hợp lý và đề xuất cải tiến, qua các đề tài nghiên cứu phối hợp với các trung tâm đào tạo và các trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật khác. * Điều kiện để thực hiện công tác bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực Trong qúa trình thực hiện định hướng phát triển công ty Bưu chính - PHBC đến năm 2010 công tác đào tạo cần tập trung các vấn đề sau: - Học viện bưu chính viễn thông kết hợp nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ có trình độ cao, chú trọng đào tạo cán bộ bưu chính. - Tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên của các tổ chức đào tạo bưu chính. Luân chuyển cán bộ từ cơ quan quản lý và các cơ sở sản xuất về các trường và ngược lại. Tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho cán bộ quản lý và giáo viên của các trường. Tổ chức đưa đi đào tạo nước ngoài đôí với cán bộ, giáo viên trẻ có triển vọng phát triển. - Chú trọng công tác nghiên cứu, tổ chức biên soạn đổi mới giáo trình phục vụ cho việc dạy và học đạt kết quả cao sau mỗi khoá đaò tạo. - Thực hiện đào tạo nâng cấp, cập nhật kiến thức cho cán bộ quản lý và khai thác bưu chính của các cơ quan quản lý và các cơ sở sản xuất tại các tổ chức đào tạo bưu chính trong nước và nước ngoài. - Tổ chức thực hiện nhiều loại hình đào tạo như đào tạo liên thông, đào tạo từ xa, đào tạo nhiều cấp trình độ và chú trọng đào tạo cán bộ trên đại học và chuyên gia đầu ngành bưu chính. - Xây dựng cơ chế khuyến khích việc dạy tốt và học tốt đôí với giáo viên và học sinh ở lĩnh vực đào tạo bưu chính. 5. Giải pháp về cơ chế định giá và cước phí các dịch vụ bưu chính 5.1. ý nghĩa của việc định giá và cước phí Giá cả luôn mang một ý nghĩa chung là lợi ích kinh tế được xác định bằng tiền đối với doanh nghiệp thì gía cả là trực tiếp tạo ra doanh thu và lợi nhuận thực tế. Còn đối với người mua, giá hàng hoá luôn được coi là chỉ số đầu tiên để họ đánh giá phần "được" và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng hàng hóa. Vì vậy những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức tạp nhất mà bất cứ một công ty nào cũng phải đối mặt khi soạn thảo. Giá là công cụ mà công ty sử dụng để đạt mục tiêu của mình như: đem lại doanh thu và lợi nhuận tối đa, đạt thị phần lớn để gặt hái lợi nhuận hoặc lấy giá cả để gây ảnh hưởng tới sự cảm nhận của khách hàng khẳng định chất lượng sản phẩm của mình. Mặt khác, trong trao đổi giá cả là kết quả thoả thuận giữa hai bên mua và bán. Khách hàng thường là người có tiếng nói cuối cùng quyết định mức giá thực hiện. Vì vậy trước khi định giá người làm công tác này cần phải nắm được sự tác động giữa giá cả đến nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Thêm vào đó giá cả còn chịu sự tác động của cạnh tranh và thị trường. Vì vậy khi định giá sản phẩm của mình cán bộ lãnh đạo phải đặt công ty trong thế tương quan về cạnh tranh để điều chỉnh giá so với đối thủ cho hợp lý để vẫn có thể trung thành với mục tiêu của công ty mà vẫn giữ được khách hàng. Qua phân tích ở trên chúng ta thấy giá cả là một biến số phức tạp và đầy mâu thuẫn vì vậy công tác định giá là hết sức cần thiết, là một nhân tố ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của công ty. 5.2. Cơ chế định giá và cước phí các dịch vụ bưu chính Để thực hiện mục tiêu tách bưu chính với viễn thông và tiến hành kinh doanh có lãi thì việc xác định rõ hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh là hết sức cần thiết. Tổng cục bưu điện và công ty cần xác định đúng giá thành từng loại dịch vụ bưu chính và từng công đoạn. Trên cơ sở đó thực hiện việc hạch toán đối với từng dịch vụ, từng công đoạn ở từng đơn vị tham gia vào quá trình sản xuất bưu chính. - Những loại dịch vụ hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường mà tổ chức hoặc cá nhân khác cũng có thể kinh doanh cạnh tranh thì công ty bưu chính và PHBC Hà Nội được quyền ban hành giá cước và chịu mức nộp thuế theo chính sách hiện hành. Những loại hình dịch vụ này cần chuyển sang quan điểm thương mại chính là tạo cho bưu chính những quyển tự chủ nhất định trong việc phát triển các dịch vụ theo nhu cầu thị trường, định giá các dịch vụ không nằm trong các dịch vụ phục vụ bắt buộc, mở các dịch vụ mới chất lượng cao cho một nhóm khách hàng và xác định chất lượng, giá dịch vụ không bắt buộc cho các vùng khác nhau. Nói cách khác là tăng quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm, tăng định hướng thị trường và khách hàng. - Những loại dịch vụ phục vụ công ích do chính phủ ban hành giá cước. Công ty phải bù lỗ để phát triển dân trí, góp phần giữ vững an ninh quốc phòng. Chính phủ có chính sách trợ giá và thuế đối với các loại dịch vụ này như đối với những doanh nghiệp có đặc thù sản xuất kinh doanh tương tự. - Nghiên cứu cải tiến hệ thống kế toán thống kê bưu chính và xây dựng các cơ chế phân chia cước, phân bổ chi phí nhằm xác định rõ và đầy đủ doanh thu chi phí hoạt động kinh doanh và phục vụ để tiến tới việc hạch toán riêng đối với bưu chính. - Cải tiến cơ chế giao kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của tổng công ty, trong đó cần xác định rõ các chỉ tiêu kế hoạch của riêng bưu chính đặc biệt là chỉ tiêu doanh thu để thúc đẩy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị cơ sở và đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội. - Bưu chính sẽ đứng vững trên thị trường bằng việc đổi mới tổ chức và chuyển sang hạch toán tự chịu trách nhiệm về hệ quả kinh doanh, bưu chính sẽ có khả năng thích nghi nhanh hơn với các thay đổi của thị trường. - Đề nghị chính phủ điều chỉnh cước thư, đồng thời thực hiện việc rà soát và điều chỉnh hệ thống cước các dịch vụ bưu chính khác. - Xây dựng cước phát hành báo chí theo khối lượng tờ, tạp chí, cự ly, phạm vi phát hành, thời gian chuyển phát, số lượng phát hành đảm bảo đủ bù đắp chi phí và tiến tới có lãi. - Xây dựng cơ chế về giá tem chơi phù hợp với thông lệ quốc tế, linh hoạt và đáp ứng thị trường. 6. Giải pháp về định hướng khách hàng và marketting Nhu cầu cốt yếu trong lĩnh vực kinh doanh Bưu chính - PHBC của công ty trong tương lai là phải phát triển một định hướng marketting tiên tiến. Bước khởi đầu cần phải làm là thành lập một đơn vị marketting độc lập do các chuyên gia đảm trách. Chức năng của đơn vị này gồm: - Phân tích thị trường để xác định và dự đoán nhu cầu của khách hàng. - Kiểm tra các hoạt động và chiến lược của các đối thủ cạnh tranh. - Chuẩn bị các kế hoạch marketting và các chiến lược hướng tới khách hàng. - Xác định đặc điểm của khách hàng( phân loại thị trường) - Thiết kế các dịch vụ và sản phẩm mới nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng thay đổi của khách hàng. - Dự đoán khả năng chấp nhận của thị trường đối với các sản phẩm và dịch vụ tiềm năng mới. - Quảng cáo và quan hệ với khách hàng. - Phát triển chỉ tiêu chất lượng dịch vụ và các chỉ số hài lòng của khách hàng. - Báo cáo các kết quả nghiên cứu và đo lường kết quả kinh doanh trong nội bộ tổ chức với bên ngoài( việc đo lường các chỉ số hoạt động kinh doanh nên do các công ty độc lập thực hiện để xác định gía trị thực của qui trình) - Chuẩn bị cơ cấu tổ chức khung để giao lưu giữa người quản lý và các khách hàng. - Đánh giá và kiểm tra hiệu quả thông tin về marketting và quảng cáo. III. Một số kiến nghị 1. Đối với nhà nước -Xem xét và sớm ban hành luật bưu chính làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý nhà nước và các hoạt động bưu chính trên toàn quốc nói chung và ở thành phố Hà nội nói riêng. - Hoàn thiện và ban hành cơ chế đảm bảo việc kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực Bưu chính và PHBC. - Có chính sách đầu tư thoả đáng, ưu tiên giải quyết cho công ty bưu chính và PHBC Hà nội những địa điểm thuận lợi để xây dựng các bưu cục phù hợp với mục đích kinh doanh. 2. Đối với tổng công ty Bưu chính - Viễn thông VN - Đề nghị phân định rõ hoạt động kinh doanh để có chính sách ưu đãi về tài chính, thuế, các khoản trích nộp đối với các dịch vụ Bưu chính - PHBC. - Khi qui mô độc quyền ngày càng thu hẹp và cạnh tranh ngày càng lan rộng ra trong các lĩnh vực dịch vụ truyền thống thì Bưu chính ngày càng bị thiệt hại nhiều hơn do sự cứng nhắc của giá cả. Trong khi đó, có cạnh tranh thì giá cước áp dụng cho từng khách hàng lại tuỳ thuộc linh hoạt vào mức độ lợi nhuận mà khách hàng đó có thể mang lại cho bưu chính, như thế sẽ dễ thu hút được lượng khách hàng và doanh thu lớn. Do đó cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ giá cước, xây dựng giá cước trên cơ sở giá thành và có chính sách giá cước hợp lý, mức khuyến mại dịch vụ Bưu chính - PHBC cần thực hiện thống nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị thành viên trong tổng công ty nhằm thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ bưu chính, cạnh tranh có hiệu quả với các tổ chức kinh doanh dịch vụ khác. - Xây dựng thể lệ PHBC cho phù hợp với tình hình mới để từ đó ban hành qui trình khai thác nghiệp vụ PHBC. - Ngoài ra cần ban hành hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ, mạng lưới... tiến tới đưa hệ thống ISO vào qui trình quản lý chất lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. - Nghiên cứu xây dựng mạng tin học thống nhất quản lý các dịch vụ bưu chính để phục vụ cho công tác sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Nghiên cứu cải tiến cơ chế, phương thức kinh doanh PHBC để chấm dứt tình trạng bù lỗ như hiện nay. Kết luận chung Công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội có vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và sự phát triển của xã hội, nó tồn tại và phát triển theo quan hệ biện chứng cùng với sự phát triển của đất nước trong sự nghiệp hiện đại hoá và công nghiệp hoá. Phát triển và hiện đại hoá bưu chính là nhiệm vụ và trách nhiệm của ngành Bưu chính góp phần vào sự phát triển xã hội và kinh tế của đất nước. Những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tin học mới ứng dụng trong công tác quản lý và quá trình khai thác quản lý và quá trình khai thác, sản xuất kinh doanh lĩnh vực bưu chính cũng nâng cao một cách tương ứng hiệu quả kinh doanh và chất lượng phục vụ của các dịch vụ Bưu chính- PHBC. Càng đáng quí hơn là từ kỹ thuật công nghệ tiên tiến người ta đã tìm ra và tiếp tục phát triển sự hoà nhập giữa Bưu chính truyền thống và các phương thức thông tin hiện đại. Từ phát hiện này và thực tế kinh doanh Bưu chính - PHBC, một khái niệm bưu chính hoàn toàn mới có thể sẽ được thực hiện và đem lại cho công tác kinh doanh dịch vụ của công ty Bưu chính và PHBC Hà nội một động lực và hy vọng mới. Thực tế tính đa dạng của nhu cầu thông tin nói chung và thông tin bưu chính nói riêng của thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá của cả nước cần được nhấn mạnh. Chính những nhu cầu có tính đa dạng cộng thêm sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ của lĩnh vực bưu chính là đảm bảo cho bưu chính tồn tại mãi mãi. Mặt khác những áp dụng khoa học kỹ thuật mới của các lĩnh vực, các ngành có liên quan khác ngoài ngành bưu chính cũng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ Bưu chính - PHBC. Cùng bắt nhịp với sự tăng trưởng của nền kinh tế khu vực cũng như trên thế giới, những kỹ thuật công nghệ mới tiên tiến trong lĩnh vực Bưu chính sẽ phát huy tác dụng quan trọng trong nhiều lĩnh vực như vận tải, tiền tệ, thương mại, quảng cáo... Sự phát triển của các dịch vụ của công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội trong tương lai phải bám vào nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội nói chung và Hà Nội nói riêng, phát huy ưu thế của lĩnh vực bưu chính và phải áp dụng được các thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Tất cả những điều đó phụ thuộc vào căn cứ hoạch định chiến lược của ngành, của công ty, của lãnh đạo Bưu điện Hà Nội, phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn, các trang thiết bị, cơ sở vật chất hạ tầng vào nguồn lực con người mà nền tảng của nguồn lực đó là tri thức. Lĩnh vực Bưu chính phải được coi là một trong những lĩnh vực của nền kinh tế tri thức, do đó việc nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ công nhân viên chức tham gia sản xuất kinh doanh bưu chính của công ty Bưu chính - PHBC Hà Nội là việc làm phải được quán triệt thường xuyên và liên tục. Bằng lý thuyết học được tại trường, bằng quá trình thực tập tại công ty Bưu chính - PHBC Hà nội em xin mạnh dạn đề cập đến vấn đề :" một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển công ty Bưu chính-PHBC Hà Nội đến năm 2010". Để hoàn thành luận văn này em vô cùng cảm ơn toàn thể thầy cô giáo trong khoa đặc biệt là sự gíup đỡ của thầy giáo, thạc sĩ Lê Quang Cảnh và các cô chú, anh chị cán bộ công tác tại phòng Kế hoạch kinh doanh thuộc công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội đã không quản ngại bận rộn, vất vả giúp đỡ em trong thời gian qua. Chuyên đề này đề cập đến phương hướng phát triển của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội và một số giải pháp cơ bản để thực hiện phương hướng đó nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô trong khoa và các cô chú cán bộ công tác tại công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội để bản luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tài liệu tham khảo 1. Chiến lược phát triển ngành bưu chính từ năm 2001-2010 - Tổng công ty bưu chính viễn thông ( 2001 ) 2. Báo Bưu điện Việt Nam số 6,7,8,9,10 - Cơ quan tổng cục Bưu điện ( 2001- 2002 ) - Nhà xuất bản BĐ 3. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đén năm 2010 và tầm nhìn 2020. -Viện chiến lược phát triển ( 2001 ) - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 4. Giáo trình chiến lược kinh doanh của khoa kinh tế phát triển- trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội ( 1999 ) - Nhà XB Thống kê 5. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Bưu chính và PHBC Hà Nội - Công ty Bưu chính- PHBC Hà Nội( 1996-2000 ) 6. Tài liệu về hiệu quả kinh doanh và phương hướng phát triển các dịch vụ Bưu chính- PHBC của Bưu điện Hà Nội. -www.vnpost.dgpt.gov.vn ( 2002 ) 7. Tài liệu về những doanh nghiệp là điểm sáng của thủ đô Hà Nội. - Nhà xuất bản lao động ( 2001 ) Phụ lục BC-PHBC: Bưu chính và phát hành báo chí. EMS : Dịch vụ chuyển phát nhanh. TCT : Thư chuyển tiền. ĐCT : Điện chuyển tiền. CTN : Chuyển tiền nhanh. IP : Hình thức đàm thoại đường dài trong nước và quốc tế qua Internet protocol. Ghise : Các dịch vụ công cộng của công ty. Data Post : Dịch vụ lai ghép giữa bưu chính và viễn thông. PAM : Máy đổi tiền tự động. PTN : Dịch vụ phát trong ngày Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29673.doc
Tài liệu liên quan